Friday, December 15, 2017

 

Đánh Dấu Tiếng Việt Trước 1975 Và Sau 1975

 



Đ
á
n
h

D

u

T
i
ế
n
g

V
i

t

T
r
ư

c

1
9
7
5

V
à

S
a
u

1
9
7
5






Cách bỏ dấu truyền thống: “hóa, xòe, khỏe, súy, thủy, Thụy Sĩ, ủy mị...”

Sau 1975 Việt cộng cho thay đổi để khác đi của VNCH chứ không cần đúng hay sai, hay hoặc dở gì. Họ muốn phá tất cả những gì của VNCH và trước đó. Cách đánh dấu của Việt cộng:
hoá , xoè , khoẻ , suý , thuỷ , Thuỵ Sĩ, uỷ mị ...”


Thí dụ:
- Việt Nam Cộng Hoà là sai.
mà phải viết:
- Việt Nam Cộng Hòa.
Thuỷ Quân Lục Chiến là sai,
mà phải là
- Thủy Quân Lục Chiến.

Hãy trở lại truyền thống, không thể chơi ngông, làm ngu như Vẹm được.



 

**

 





    Tử sĩ hay Liệt sĩ?   




Tử sĩ và Liệt sĩ là những chữ đều được miền Nam dùng nhưng với hai nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Tử sĩ là người chiến sĩ chết vì Tổ quốc (vị quốc vong thân) nói chung, như chết trận, chết trong lúc thi hành nhiệm vụ bình thường như mọi người trong lúc chiến tranh.

Liệt sĩ là người chiến sĩ chết vì Tổ Quốc một cách oanh liệt rất đặc biệt nổi bật mà không phải ai cũng làm được.

Những người đánh trận chết hoặc bị giặc sát hại, cái chết mình không biết trước chắc chắn thì gọi chung là Tử Sĩ.

(Những) người vì một mục đích, một nhiệm vụ cao cả, quyết liều thân cho Tổ quốc sinh tồn, dám làm chuyện mà nhiều người không dám làm, biết chắc chắn mình sẽ chết, việc làm vô cùng oanh liệt thì gọi là Liệt sĩ. Thí dụ như Lê Lai đã chịu chết để cứu Lê Lợi, chúa (vua) và cứu luôn cả dân tộc.

Việt cộng dùng chữ "liệt sĩ" để chỉ người chết trận là sai, phải dùng chữ "tử sĩ" mới đúng. Như chiêu hồn tử sĩ, hay chiêu hồn các tử sĩ chứ ít ai nói chiêu hồn các liệt sĩ, vì rất hi hữu mới có một liệt sĩ.



 

*

 




    Chữ "Từ"


    Chữ "từ" đưọc dùng rộng rãi bây giờ không có trong tiếng Việt nguyên thủy. Ta không dùng chữ một cách cộc lốc và bừa bãi như vậy.

    Trong ngôn ngữ thuần túy Việt Nam thì khi chữ TỪ đứng một mình thì chỉ có nghĩa là:

    1. Tên gọi của một loại khoai: khoai từ.

    2. Chức vị của một người đàn ông đứng tuổi giữ việc lo nhang đèn, chăm sóc cho một ngôi miễu: ông từ.

    3. Trong văn phạm từ là giới từ.

    Ngoài ra tất cả chữ "từ" phải đi với một chữ khác, như: danh từ, tĩnh từ, động từ, từ ngữ, từ tốn, từ từ, từ đâu, từ đầu v. v... vì chữ "TỪ" là tiếng Hán-Việt nên phải đi theo với chữ khác, chứ không đúng một mình, và ta phải theo đúng quy luật của nó.

    Chữ TỪ trong Hán-Việt có nghĩa là: Chữ.
    Ngày trước, khi chưa bị thay đổi chính thể cộng sản trong nam, không ai dùng chữ "TỪ" để thay thế cho chữ "CHỮ" bao giờ.
    Thí dụ: Một quyển tự điển ở miền Nam trước 75 sẽ ghi: Bao gồm 100, 150 .v. v... ngàn "chữ" chứ không phải 100... "từ".

    Người Việt ngày trước cũng không ai biết đến cái "cụm từ" bao giờ.
    Các danh từ gồm hai chữ hoặc hơn vẫn là danh từ, hay danh từ kép, thí dụ: cái tên "Chxhcnvn" trứ danh của Việt cộng vẫn chỉ là một "danh từ riêng" cho tên gọi, mặc dù nó có dài lòng thòng.

    Còn lại các trường hợp khác thì cũng không gọi là "nhóm chữ", mà chỉ giản dị gọi là CÂU vì - câu là tập hợp của một số chữ để mang một ý nghĩa nào đó.

    Thí dụ: Câu nói, câu viết, câu văn... v. v...
    Việt cộng thay thế chữ “chữ” là chữ “từ”. là sai vì chữ 'từ' không bao giờ đi lẻ loi một mình và không có ý nghĩa gì cả, mà nó phải đi chung từ hai chữ mới có ý nghĩa. Thí dụ:

    - làm từ từ
    - từ đâu
    - từ ngữ
    - từ chuyện nầy sang chuyện khác...
    - từ khi, từ khi nào...
    - trở lại từ đầu .v. v...

    Nguồn:
    http://www.quehuongngaymai.com/forums/forumdisplay.php?f=75


 

****

 




Tên Người và Địa Danh

Tên người, danh từ riêng hay tên của một địa danh không đem ra dịch, vì như thế thì vừa ngốc nghếch, vừa lẩm cẩm, thí dụ: Moscow mà dịch là Mát Cơ Va thì nghe thật kỳ quặc.

Nếu là tên mới có của một quốc gia hay địa danh mới có, thì ta nên dùng bản tiếng Anh của tên đó kèm thêm phiên âm bằng tiếng Việt cho lần đầu tiên. Bản tiếng Việt thường dùng thì vẫn dùng nhưng kèm theo bản tiếng Anh:

Sau đây là tên của những địa danh, danh từ riêng và tên người:

- Ngũ Giác Đài (The Pentagon)
- Tòa Bạch Ốc (The White House)
- Mạc Tư Khoa (Moscow)
- Do Thái (Israel)
- Bắc Kinh (Beijing)
- Thụy Điển (Sweden)
- Sông Cửu Long (Mekong River)
- Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan)
- Á Căn Đình (Argentina)
- Ba Tây (Brazil)
- Ba Lan (Poland)
- Mễ Tây Cơ (Mexico)
- Ba Tư (Iran)
- Hy Lạp (Greece)
- Chí Lợi (Chile)
- Ai Cập (Egypt)
- Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
- Na Uy (Norway)
- Phần Lan (Finland)
- Hòa Lan (The Netherlands)
- Nam Dương (Indonesia)
- Tân Gia Ba (Singapore)
- Bỉ (Belgium)
- Lục Xâm Bảo (Luxembourg)
- Ái Nhĩ Lan (Ireland)
- Tô Cách Lan (Scotsland)
- Bồ Đào Nha (Portugal)
- Spain (Tây Ban Nha)
- Hung Gia Lợi (Hungary)
- Bảo Gia Lợi (Bulgaria)
- Địa Trung Hải (The Mediterranean Sea)
- A Lịch Sơn (Alexander)
- Hốt Tất Liệt (Kublai Khan)
- Tây Tạng (Tibet)
- Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya)
- Vạn Lý Trường Thành (The Great Wall)
- Thượng Hải (Shanghai)
- Mãn Châu (Manchuria)
- Quảng Đông (Canton)
- Miến Điện (Burma, Myamar)
- Ngưỡng Quang (Rangoon)
- Tân Tây Lan (New Zealand)
- Đài Bắc (Taipei)
- Đế Thiên Đế Thích (Angkor Wat)
- Biển Hồ (Tonle Sap)
- Vạn Tượng (Vientiane)
- Nam Vang (Phnom Penh)




 

 





Chữ Của vẹm...



Trong khi cộng sản có khuynh hướng Việt hóa các chữ Hán Việt (Lính thủy đánh bộ, tàu sân bay, xe bọc thép...), thì cũng chính họ lại có khuynh hướng sính dùng chữ Hán Việt trong khi các chữ Việt thuần túy nghe êm tai hơn.

Chúng tôi xin đưa ra vài thì dụ trong hàng trăm, hàng ngàn cách sử dụng sai trái của Việt Cộng.

Chắc quý vị còn nhớ các bảng hiệu “xưởng đẻ”, “nhà đái nam”, “cửa hàng thịt Thanh Niên” trong những năm sau 1975? Nghe mà tởm lợm, dựng tóc gáy.

Các chữ Hán Việt như “cự li” (khoảng cách = distance), “cách ly” (cô lập = isolate), “tiếp cận” (đến gần = approach) ngày trước chúng ta vẫn dùng; nhưng tùy theo từng trường hợp.

Cự li dùng trong quân sự, chữ thường là 'khoảng cách'.

Tiếp cận dùng trong toán học, chữ thường là 'tiếp xúc'.

— “Miền nam Việt Nam tiếp xúc với nền văn minh Tây phương”.

— “Tổng thống đã trực tiếp tiếp xúc với dân chúng ở vùng Cao Nguyên, thuộc thị xã Ban Mê Thuột...”.

Khi nói về những chuyện thông thường, người ta nói:

— “Khoảng cách giữa các xe...”.

— “Anh B. bị bạn bè cô lập....”.

— “Anh A. đến gần cô B.”

Nghe nhẹ nhàng dễ hiểu hơn nhiều.

Khi nói đến “chùm” (cluster, bunch), chúng ta hình dung đến chùm nho, chùm cau, chùm lông (hay túm lông), như người ta nói:

Một tập thơ.
Một xấp ảnh.
Một hợp ca (tam ca, tứ ca, hay đồng ca).

Thật là khó chấp nhận khi nghe hay đọc các chữ như: chùm thơ, chùm ảnh, tốp ca...

Chùm hay bó, hoặc cụm là những chữ cụ thể. Cụ thể là vật có thể sờ nắm lấy như: bong bóng, thì dùng chữ: chùm bong bóng.
Còn chữ "chùm thơ" là sai, vì thơ là chữ trừu tượng.
Chữ để chỉ triều tượng là chữ không thể nắm, sờ... cũng như dùng chữ "cụm chữ", chữ thuộc về phầ triều tượng, không thể nắm bắt hay đo, đong, đếm... nên không thể nói là 'cụm chữ', 'chùm thơ được, mà phải nói là "những bài thơ" và "câu (văn), câu (nói).

Chữ "cụm" dùng cho: "cụm mây" hay đám mây.
Thí dụ:
— Cụm mây tụ lại, báo hiệu thời tiết..".
— Cụm khói đang bốc lên được dẹp tắt."


Trong các bản tin do báo hải ngoại trích từ báo của Việt Cộng chúng tôi đã đọc:

— “Cái bánh chưng vĩ đại (được vào sách Kỷ Lục) này do bà Nguyễn Thị X. ‘thể hiện’”.

Ðúng ra, phải dùng chữ “thực hiện” hay đơn giản hơn dùng chữ “làm”, 'vĩ đại' thuộc về triều tượng (sự hy sinh cao cả và vĩ đại), bánh Chưng là chữ cụ thể, phải dùng chữ "khổng lồ" hoặc "to lớn, to tướng" khác thường... 'Thể hiện' có nghĩa là biểu lộ (express). Người ta nói “thể hiện sự ưu ái, thể hiện lòng ái quốc... Chính tự điển của Việt cộng cũng định nghĩa đúng thế.


— “Ca sĩ X ăn mặc 'ấn tượng'”. Ấn tượng là danh từ (impression). Phải nói cách ăn mặc của ca sĩ X. gây một ấn tượng tốt.

— Ðiểm nhấn: Trong cách ăn mặc, chiếc cà vạt là ‘điểm nhấn’. Ý tác giả muốn nói đến điểm nổi bật gây chú ý nhất (focus).

— Nổi cộm. Đề tài nổi cộm, vấn đề nổi cộm, Eo ôi! Tại sao không dùng chữ "nổi bật"?

— Bức xúc. Tiếng Việt có các chữ bứt rứt, ray rứt (worry) hoặc lo lắng. Chính trong tự điển Việt cộng cũng không có chữ 'bức xúc' này. Nhưng nhiều nhà hoạt động của người Việt hải ngoại vẫn cứ dùng chữ bức xúc một cách ngô nghê vô tội vạ.

— "Thống nhất ý kiến". Một vị bác sĩ đã có tuổi, sống hơn nửa đời mình ở miền Nam và có nhiều bài viết trên rất nhiều báo hải ngoại đã viết: sau khi hội ý, các bác sĩ đã thống nhất ý kiến. Tại sao không viết Sau khi bàn bạc, các bác sĩ đã cùng đồng ý?...

Những chữ do Việt cộng dùng để che giấu việc làm, ý đồ, hoặc đánh tráo chữ nghĩa, ý niệm, hoặc tư tưởng bất chính, vi hiến... của chúng như: Giải phóng, hòa hợp hòa giải, hiệp đồng, thống nhất, cách mạng, Mỹ Ngụy, bên thắng cuộc bên thua... Chúng ta phải phán đoán cho công bình và giành lại những chữ đúng đắn sự thật và đầy chính nghĩa về cho chúng ta, thí dụ như: Ngày 30 tháng tư là ngày Việt cộng cưỡng chiếm miền nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, thay vì nói theo Việt cộng là QLVNCH thua trận vì sự thật ta không thua mà bị bắt phải buông súng, đó là bức tử.

Chúng ta không gọi Việt cộng chúng là quân 'giải phóng', vì rành rành chúng cướp chính quyền vi phạm luật ngưng bắn, vi hiến xâm chiếm lãnh thổ của ta, ta không gọi ngày 30 tháng Tư là ngày "giải phóng hay thống nhất" được. Việt cộng ngụy biện là việc của chúng, vì chính Việt cộng ký chia đôi đất nước với Tàu và Pháp, Quốc Gia Việt Nam không ký. Đừng nói theo chúng, hãy công bình mà dùng chữ cho đúng sự thật.


Sự dùng sai, vay mượn chữ do Việt cộng sử dụng bừa bãi của những người viết, của báo chí hải ngoại do thiếu ý thức hay nhân lực đã vô tình đi sai chức năng cao quý vị hướng dẫn quần chúng của báo chí truyền thông. Ngày trước, báo giới Việt Nam Cộng Hòa rất thận trọng. Họ làm báo như một nghề chính thức. Vì thế, các báo Việt Nam có cả một tòa soạn, ban trị sự, ban biên tập, người sửa bài. Họ duyệt bài tương đối kỹ, vừa về quan điểm vừa về văn phạm, lỗi hỏi ngã. Và nhất là họ không làm việc cắt dán, cóp py bài vở từ báo khác. Ngày nay, báo chí tại hải ngoại nở rộ. Có báo chỉ cần một người, một máy điện toán là đủ tạo nên một tòa soạn, ban biên tập. Bài vở thì phần lớn cắt và dán từ các trang web mà không hề đọc lại thật kỹ. Chính vì sự đói bài vở này, mà những bài viết từ Việt cộng có cơ hội xâm nhập ồ ạt vào sinh hoạt truyền thông hải ngoại, làm một công cụ tuyên truyền không công cho Việt Cộng.

Nếu chịu khó làm công việc vạch lá tìm sâu thì chúng ta sẽ thấy đã có nhiều cây viết hải ngoại cũng có ít hoặc nhiều lần, xài chữ sai từ phía Việt cộng.


Ðỗ Văn Phúc

http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?t=136303



 

Bài trên, tựa đề được thay đổi, và cho vào vài chữ sai nhưng hay dùng, và chỉ lấy phần quan trọng trong toàn bài viết của tác giả. Xin nhấn đường nối để đọc toàn bài và bài gốc của tác giả.

 

đánh dấu

 

1

 


photo note pad2_zpsjkswnnfc.jpg

000
 photo b du_zps2yszt0lp.jpg

00
 photo i vagrave y_zpsaw0mt5wf.png

 

 photo i vagrave y_zpsgvg6m81b.jpg

 

SĨ và SỸ

Nếu theo con đường học hành, chữ đầu tiên thường gặp là sĩ số trên bảng đen để điểm danh.

Bước vào cửa ải đầu tiên gọi là sĩ tử, chịu khó phấn đấu sẽ thành thạc sĩ rồi lên tiến sĩ và tột đỉnh trong lãnh vực nghiên cứu là tiến sĩ khoa học.

Học thành tài mà đóng góp với đời bằng kiến thức thì xưa là sĩ phu, còn nay là nhân sĩ.

Người có học thường được gọi là kẻ sĩ. Được thế giới công nhận thì thành viện sĩ.

Nếu theo đường binh nghiệp bước đầu là chiến sĩ hay binh sĩ.

Tiếp tục phấn đấu sẽ thành hạ sĩ quan từ hạ sĩ lên trung sĩ rồi thượng sĩ. Chịu khó phấn đấu tiếp sẽ thành sĩ quan.

Đánh giặc dũng cảm thì được gọi là dũng sĩ. Chẳng may chết trận sẽ nằm trong số tử sĩ. Nếu hy sinh một cách vinh quang sẽ được phong là liệt sĩ.

Đi theo con đường chính trị thì bước đầu chỉ là tay chân trên bàn cờ thế sự gọi là sĩ tốt.

Tiếp theo thành kẻ nấp sau lưng bầy mưu tính kế gọi là mưu sĩ. Lên đến đỉnh trở thành nghị sĩ, cụ thể hơn là hạ nghị sĩ hoặc thượng nghị sĩ.

Còn theo ngành nghệ thuật thì người làm thơ gọi là thi sĩ, viết văn sẽ là văn sĩ (ưu ái phụ nữ nên có chữ nữ sĩ mà không có nam sĩ), người sáng tác nhạc gọi là nhạc sĩ còn hát (nhạc) thì được gọi là ca sĩ.

Chán đời xuất thế sẽ là ẩn sĩ, đi tu thì thành tu sĩ. Theo đạo của Lão tử sẽ là đạo sĩ còn theo các đạo khác sẽ thành giáo sĩ.

Khi sức khỏe hơn người gọi là lực sĩ, ra tay cứu giúp người bị nạn, hiếp đáp thì gọi là hiệp sĩ, còn chẳng may vào bệnh viện sẽ có các bác sĩy sĩ “phục vụ”.

Ta được các nha sĩ chăm sóc nhiều hơn, vì các bộ phận trên thân thể người ta chỉ có từ một đến hai cái và hoạt động rất bền, ngoại trừ răng có tới 32 cái x 2; do đó, phải thay hết một lượt răng sữa nên răng phải được chăm sóc luôn.

Người ta nên có sĩ diện, nhưng không lo học và làm mà chỉ nghĩ mình hay sẽ là “đại sĩ”.



 




  Bảo tồn tiếng Việt - không dùng chữ Việt Cộng


 

***************************************************

 

Đọc thêm



CHIÊU HỒI NGÔN TỪ
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chieu-hoi-ngon-tu.html

 



Nỗi Buồn Tiếng Việt Thời Cộng Sản
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/noi-buon-tieng-viet-thoi-cs12082015vi.html

 

 

Việt cộng và Chữ Việt sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/viet-cong-va-chu-viet-sau-1975.html

 

Chữ Nghĩa Việt Cộng
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

Tiếng Việt và Tiếng Vẹm
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/tieng-viet-va-tieng-vem-tieng-viet-va.html

 

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet-truoc-va-sau-1975_12.html

 

Tiếng Việt Trong Nước Hiện Nay Sai
https://caybut2.blogspot.com/2017/07/tieng-viet-trong-nuoc-hien-nay-sai.html

 

Có nên dùng ngôn ngữ của Việt Cộng?
https://caybut2.blogspot.com/2017/12/co-nen-dung-ngon-ngu-cua-vc.html

 

TIẾNG VIỆT CÙN
https://caybut2.blogspot.com/2017/12/tieng-viet-cun_15.html

 

*

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet.html

 

 

No comments:

Post a Comment