Friday, December 15, 2017

Những câu hỏi đảng

 




Những câu hỏi đảng Cộng Sản Việt Nam phải trả lời trước lịch sử dân tộc -- Dù rằng đang cố gắng đàn áp, tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của dân tộc Việt Nam và đang sửa soạn trốn chạy để khỏi chịu trách nhiệm về những việc làm sai trái của mình, đảng Cộng Sản Việt Nam sớm muộn gì cũng phải trả lời sòng phẳng các câu hỏi lịch sử sau đây:

  • Trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, tại sao đảng Cộng Sản Việt Nam phải cấu kết với Pháp giết hại đảng viên, tín đồ của các chính đảng và lực lượng dân tộc khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài?
  • Trong khi thi hành Hiệp Định Genève 1954, tại sao binh lính cộng sản bắn vào những người dân rời bỏ miền Bắc đi vào miền Nam tìm tự do?
  • Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải đấu tố tịch thu tài sản và giết hại gần 200 ngàn người dân khá giả vô tội ở miền Bắc gây khổ đau tang tóc cho hàng triệu thân nhân?
  • Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam gây chết chóc cho hàng triệu con dân nước Việt, trong khi nhân dân miền Nam sống trong cảnh tự do, êm ấm, hạnh phúc hơn người dân miền Bắc?
  • Cuộc chiến Nam Bắc có thể giải quyết bằng thương lượng hòa bình mà tại sao đảng cộng sản Việt Nam lại chọn con đưng chiến tranh cho nhân dân hai miền phải đắm chìm trong cảnh huynh đệ tương tàn?
  • Trong khi thi hành hiệp định Genève 1954, hàng triệu người dân miền Bắcđã bỏ chạy vào miền Nam lánh nạn là một chỉ dấu hùng hồn cho thấy lòng dân nước Việt không chấp nhận chế độ Cộng Sản vô thần. Tại sao đảng cộng sản Việt Nam với khẩu hiệu "Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân" lại không tự giải tán, ngừng họat động vĩnh viễn chế độ Cộng Sản theo ý muốn của người dân?
  • Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải chôn sống hơn ba ngàn thường dân vô tội kể cả đàn bà và trẻ em ở Huế trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân?
  • Tại sao cộng sản Việt Nam không tuân hành Hiệp Định Paris 1973 mà họ đã ký kết để chấm dứt chiến tranh bằng giải pháp xây dựng hòa bình?
  • Tại sao với những lời tuyên bố khoan hồng, kêu gọi đoàn kết dân tộc, đảng cộng sản Việt Nam lại bỏ tù, giết hại hàng trăm ngàn quân cán chính của miền Nam Việt Nam sau cuộc cưỡng chiếm 1975?
  • Tại sao đảng cộng sản Việt Nam cướp đoạt tài sản những người dân khá giả của miền Nam sau cuộc cưỡng chiếm 1975?
  • Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải bắn giết, bắt bớ, cướp đoạt tài sản của những người dân trốn chạy tị nạn cộng sản sau năm 1975?
  • Sau năm 1975, hơn hai triệu con dân nước Việt trốn chạy lánh nạn Cộng Sản. Một lần nữa, đó là một chỉ dấu hùng hồn cho thấy lòng dân Việt Nam không chấp nhận chế độ Cộng Sản, tại sao đảng CSVN không ngừng hoạt động theo ý muốn của người dân?
  • Tại sao sau 25 năm đất nước sống trong cảnh thanh bình, đảng cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục đàn áp người dân Việt Nam bằng bạo lực, không chấp nhận tự do sinh hoạt đảng phái, tự do bầu cử để người dân Việt Nam có sự lựa chọn người lãnh đạo đất nước?
  • Tại sao trong bối cảnh thế giới, nhân loại đang xây dựng thành công các thể chế tự do, dân chủ, tôn trọng người dân, thì đảng CSVN lại tiếp tục xây dựng xây dựng một thể chế độc tài, tham nhũng như các triều đại dã man thời Trung cổ?
  • Tại sao đảng CSVN liên tiếp thất bại trong công cuộc xây dựng đất nước và có quá nhiều đảng viên ngu dốt, tham nhũng, thoái hóa, lại không chịu từ bỏ độc quyền cai trị đất nước để người dân Việt Nam tự do lựa chọn người có tài, có phẩm hạnh tốt vào chánh quyền?
  • Tại sao các nước Cộng Sản trên thế giới liên tiếp sụp đổ, phô bày những tội ác dã man, hại dân, hại nước thì đảng CSVN vẫn tiếp tục đi theo con đường tội lỗi, đi ngược lại nguyện vọng tự do, dân chủ của người dân?

    Vietnam History




 




https://lh3.googleusercontent.com/tXJkPFdaqOzmo86bkrITzYTJliXddQVOuXBmY8VpHRiUx-h9zY17X3_w9hk0NgIk1UzQaYFCbxyYa_VKMag2_C2ir6NWw9d9uJjrwg=w1-h5-rw-no

 

Những câu hỏi đảng
<p align="center">&nbsp;</p>
<table wmode="transparent" align="center" border="0" cellpadding="4" cellspacing="0" width="598">
<tbody>
<tr>
<td>
<fieldset style="border: 6px double gold;border-radius: 20px 20px 20px 20px;background: none repeat scroll 0% 0% rgb(0, 0, 0);">
<center>
<br>
<table wmode="transparent" background="https://lh3.googleusercontent.com/tXJkPFdaqOzmo86bkrITzYTJliXddQVOuXBmY8VpHRiUx-h9zY17X3_w9hk0NgIk1UzQaYFCbxyYa_VKMag2_C2ir6NWw9d9uJjrwg=w1-h5-rw-no " border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="95%">
<tbody>
<tr>
<td>
<br>
<br>
<div style="Text-align:justify;margin:8pt 10pt 0pt;line-height:28pt;">
<font size="5">
<font style="font-family: Arial;color:#FFB2E6;">
<b>
Những câu hỏi đảng Cộng Sản Việt Nam phải trả lời trước lịch sử dân tộc -- Dù rằng đang cố gắng đàn áp, tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của dân tộc Việt Nam và đang sửa soạn trốn chạy để khỏi chịu trách nhiệm về những việc làm sai trái của mình, đảng Cộng Sản Việt Nam sớm muộn gì cũng phải trả lời sòng phẳng các câu hỏi lịch sử sau đây:
</b>
</font>
</font>
<p></p>
<ul>
<font size="5">
<font style="font-family: Arial;color:wheat;">
<li>Trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, tại sao đảng Cộng Sản Việt Nam phải cấu kết với Pháp giết hại đảng viên, tín đồ của các chính đảng và lực lượng dân tộc khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài? </li>
<li>
Trong khi thi hành Hiệp Định Genève 1954, tại sao binh lính cộng sản bắn vào những người dân rời bỏ miền Bắc đi vào miền Nam tìm tự do
?</li>
<li>
Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải đấu tố tịch thu tài sản và giết hại gần 200 ngàn người dân khá giả vô tội ở miền Bắc gây khổ đau tang tóc cho hàng triệu thân nhân?
</li>
<li>
Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam gây chết chóc cho hàng triệu con dân nước Việt, trong khi nhân dân miền Nam sống trong cảnh tự do, êm ấm, hạnh phúc hơn người dân miền Bắc?
</li>
<li>Cuộc chiến Nam Bắc có thể giải quyết bằng thương lượng hòa bình mà tại sao đảng cộng sản Việt Nam lại chọn con đưng chiến tranh cho nhân dân hai miền phải đắm chìm trong cảnh huynh đệ tương tàn? </li> <li>Trong khi thi hành hiệp định Genève 1954, hàng triệu người dân miền Bắcđã bỏ chạy vào miền Nam lánh nạn là một chỉ dấu hùng hồn cho thấy lòng dân nước Việt không chấp nhận chế độ Cộng Sản vô thần. Tại sao đảng cộng sản Việt Nam với khẩu hiệu "Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân" lại không tự giải tán, ngừng họat động vĩnh viễn chế độ Cộng Sản theo ý muốn của người dân? </li>
<li>Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải chôn sống hơn ba ngàn thường dân vô tội kể cả đàn bà và trẻ em ở Huế trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân? </li> <li>Tại sao cộng sản Việt Nam không tuân hành Hiệp Định Paris 1973 mà họ đã ký kết để chấm dứt chiến tranh bằng giải pháp xây dựng hòa bình? </li>
<li>Tại sao với những lời tuyên bố khoan hồng, kêu gọi đoàn kết dân tộc, đảng cộng sản Việt Nam lại bỏ tù, giết hại hàng trăm ngàn quân cán chính của miền Nam Việt Nam sau cuộc cưỡng chiếm 1975?
</li> <li>Tại sao đảng cộng sản Việt Nam cướp đoạt tài sản những người dân khá giả của miền Nam sau cuộc cưỡng chiếm 1975? </li> <li>Tại sao đảng cộng sản Việt Nam phải bắn giết, bắt bớ, cướp đoạt tài sản của những người dân trốn chạy tị nạn cộng sản sau năm 1975? </li>
<li>Sau năm 1975, hơn hai triệu con dân nước Việt trốn chạy lánh nạn Cộng Sản. Một lần nữa, đó là một chỉ dấu hùng hồn cho thấy lòng dân Việt Nam không chấp nhận chế độ Cộng Sản, tại sao đảng CSVN không ngừng hoạt động theo ý muốn của người dân? </li>
<li>
Tại sao sau 25 năm đất nước sống trong cảnh thanh bình, đảng cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục đàn áp người dân Việt Nam bằng bạo lực, không chấp nhận tự do sinh hoạt đảng phái, tự do bầu cử để người dân Việt Nam có sự lựa chọn người lãnh đạo đất nước? </li>
<li>
Tại sao trong bối cảnh thế giới, nhân loại đang xây dựng thành công các thể chế tự do, dân chủ, tôn trọng người dân, thì đảng CSVN lại tiếp tục xây dựng xây dựng một thể chế độc tài, tham nhũng như các triều đại dã man thời Trung cổ? </li> <li>Tại sao đảng CSVN liên tiếp thất bại trong công cuộc xây dựng đất nước và có quá nhiều đảng viên ngu dốt, tham nhũng, thoái hóa, lại không chịu từ bỏ độc quyền cai trị đất nước để người dân Việt Nam tự do lựa chọn người có tài, có phẩm hạnh tốt vào chánh quyền? </li>
<li> Tại sao các nước Cộng Sản trên thế giới liên tiếp sụp đổ, phô bày những tội ác dã man, hại dân, hại nước thì đảng CSVN vẫn tiếp tục đi theo con đường tội lỗi, đi ngược lại nguyện vọng tự do, dân chủ của người dân? <br><br> <a href="http://www.vietlist.us/SUB_VietHistory/VNHistory_14.shtml" rel="nofollow"><font style="font-family:Cambria;color:oldlace;" size="5";
"><b>
Vietnam History
</b>
</font>
</a>
</li><br></ul> <center><embed id="single1" name="single1" type="application/x-shockwave-flash" src="https://www.voanews.com/MediaAssets2/player/jw/player.swf" bgcolor="#ffffff" allowfullscreen="true" flashvars="file= http://www.lyhuong.info/web/data/2011/thauthanh/bd/ChienTranhVietNam_GioiTre.mp3&autostart=false &backcolor=#800040&amp;amp;amp;amp;frontcolor=#FFFFFF" allowscriptaccess="never" height="24" width="300"> </center> <br><br></font></font></div> <p></p></td> </tr> </tbody>
</table>
</center>
<br>
</fieldset>
</td>
</tr>
</tbody>
</table>
<p align="center">&nbsp;</p>
<br>
<br>
<img src="https://lh3.googleusercontent.com/tXJkPFdaqOzmo86bkrITzYTJliXddQVOuXBmY8VpHRiUx-h9zY17X3_w9hk0NgIk1UzQaYFCbxyYa_VKMag2_C2ir6NWw9d9uJjrwg=w1-h5-rw-no" width="100" height="100"><br>https://lh3.googleusercontent.com/tXJkPFdaqOzmo86bkrITzYTJliXddQVOuXBmY8VpHRiUx-h9zY17X3_w9hk0NgIk1UzQaYFCbxyYa_VKMag2_C2ir6NWw9d9uJjrwg=w1-h5-rw-no
<br><br><br><br>
<p align="center">&nbsp;</p>



*

 







BÀN VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ROCKEFELLER FOUNDATION





“Re-Constructing
Identity and Place
The Vietnamese Diaspora”

Do William Joiner Center
Thuộc trường Đại Học Massachusetts Boston thực hiện

Nguyễn Hữu Luyện


Dùng một số tác phẩm văn học xuất bản tại hải ngoại, William Joiner Center (WJC) thuộc University of Massachusetts Boston (UMB) thực hiện một chương trình nghiên cứu toàn diện về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản nhằm mục đích "tạo ra sự hòa hợp giữa người tỵ nạn Cộng sản và chế độ Cộng sản tại Việt Nam ngàch nay".

I. Giới thiệu chương trình:
Chương trình nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản do WJC/UMB đặt tên là "ReConstructing Indentity and Place in the Vietnamese Diaspora và cũng do WJC/UMB dịch ra tiếng Việt là Diễn Trình (Tái) Xây Dựng Diện Mạo Và Quê Hương Của Người Việt Ở Nước Ngoài".

Theo tập tài liệu Rockefeller Foundation Humanities Fellowship - UMass Boston Program Plan (Grant Proposal) và nói một cách đại cương, chương trình này sẽ viết những vấn đề sau đây:

1. Khảo sát việc xây dựng và diễn giải lịch sử Việt Nam. Ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử như cuộc chiến tranh chống Pháp, tù cải tạo sau 1975, Vùng Kinh Tế Mới, và vượt biên đối với Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản trong vấn đề tái xây dựng nét đặc thù của mì cải.

2. Khảo sát nền văn học, ngôn ngữ, văn hóa và vai trò của nhà văn, nghệ sĩ, đặc biệt là những tiếng nói đang nổi lên của nền văn học hải ngoại trong vấn đề tái xây dựng nơi cư trú, gia đình và những đặc trưng của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản.

3. Khảo sát về những tác động của chính sách đổi mới, khuynh hướng thiên về nền kinh tế thị trường của nhà nước Cộng Sản Việt Nam đối với cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản.

II. Nhận xét về nghĩa của chữ và mạch văn (semantics & contextual meanings) trong đề tài “ReConstructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora".

1."Diaspora" lấy từ chữ Hy lạp, có nghĩa là rải rác, phân tán. Chữ Jewish Diaspora được dùng lần đầu tiên vào năm 586 trước Công Nguyên để chỉ người Do Thái bị đày ải lên thành Babylonia. Trong suốt chiều dài lịch sử của Do Thái, cho tới sau thế chiến thứ hai, được trở về lập quốc, chữ Diaspora chỉ người Do Thái sống bên ngoài lãnh thổ Palestine và bây giờ là Israel (Theo Encarta ® 97 Encyclopedia). Diaspora còn có nghĩa là một nhóm người sống rải rác bên ngoài lãnh thổ của mình (World Book History). Tập tài liệu "UMass Boston Program Plan" định nghĩa "Diaspora" khác với "Immigration" vì "Diasporra" là những người bị lịch sử ngược đãi, có lòng mong đợi ngày hồi hương, và không gì có thể thay thế được sự ngự trị của quê hương củ trong tâm hồn họ.

(ReConstructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora, p 4). Hoàn cảnh chính trị của người Do Thái ngày xưa và của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản ngày nay không khác nhau. Do đó, chữ "Vietnamese Diaspora" contextually và semantically phải dịch là "cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản" vì trên 99% người Việt sống ở nước ngoài ngày nay là người tỵ nạn Cộng sản. Hoa kỳ cũng như toàn bộ các quốc gia khác của thế giới tự do, sau sự kiện tháng tư 1975, đã đón nhận người Việt Nam vào quốc gia của họ dưới danh nghĩa "tỵ nạn chánh trị hay là 1. “Diaspora” lấy sản".

Nếu dịch như UMass Boston là "người Việt sống ở nước ngoài", người đọc có thể hiểu là những công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam đang sống ở nước ngoài, và vào cuối thế kỷ 20, không hề có cuộc ra đi ồ ạt và vĩ đại nhất trong lịch sử tỵ nạn và đấu tranh của nhân loại. Như vậy là chương trình đã đi ra ngoài mục đích tài trợ của Rockefeller Foundation - nghiên cứu về nền văn học của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, một nền văn học rất đa dạng và hoàn toàn khác biệt với nền văn học trong nước. Văn học hải ngoại thực chất là văn học VNCH sau hơn một phần tư thế kỷ tiếp xúc trực tiếp với nền văn học phương Tây, và đã có những biến trạng quan trọng cần được nghiên cứu: đó là mục đích của Rockefeller Foundation khi đứng ra bảo trợ chương trình này.

Cách diễn dịch hoàn toàn sai trái của UMass Boston không thể nào chấp nhận được về mặt dịch thuật, chưa nói tới mặt chá? người Việt

Di sản văn hóa của miền Nam Việt Nam đã được những người tỵ nạn mang ra hải ngoại sau sự kiện lịch sử 1975. Đảng Cộng sản đã thực hiện thống nhất vể chánh trị và quân sự, nhưng về mặt văn học thì các văn hóa phẩm kể cả âm nhạc của miền nam đã bị gom lại và đốt hết. Việt cộng dùng pháp luật để trừng phạt những ai còn lưu dụng các tác phẩm văn học, âm nhạc của VNCH. Hát nhạc vàng là nhạc của VNCH bị ghép tội "văn hóa đồi trụy" và bị đưa đi tập trung cải tạo. Bài này sẽ trình bày và dẫn chứng WJC/UMB nhìn nền văn học Việt Nam hải ngoại dưới góc độ nào? Và đã đặt nền tảng cho việc thực hiện chương trình nghiên cứu này dưới nhãn quan sát nào?

2. Identity and Place là hai terminologies dùng trong ngành "Nhân Văn Humanities". Nếu hiểu hai chữ này theo nghĩa thông thường của tự điển thì sẽ không dịch được cái nghĩa mà nó bao hàm trong khuôn khổ của chương trình nghiên cứu. Vì Việt Nam, từ thời VNCH cho tới nay, chưa có Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ nên những chữ này rất khó để có sự đồng nhất về cách dịch giữa chúng ta. Trong giai đoạn gần đây, kể từ khi chúng ta phản đối WJC/UMB, đã thấy xuất hiện trên báo chí và "network" nhiều cách dịch khác nhau, mặc dù cách dẫn giải có thể không khác nhiều. Chữ "identity" đã được dịch là "căn cước", "bản sắc", "bản chất", "đặc tính", và trường UMass Boston dùng chữ rất táo bạo là "diện mạo". Chữ "place" được dịch là "nơi cư trú", "nơi sinh sống", "mảnh đất tạm dung", "vị trí", và UMass Boston thì dịch táo bạo hơn là "quê hương". Bài viết này trình bày về ý nghĩa mà "identity" và "place" bao hàm trong khuôn khổ của khoa nhân văn, và được dùng trong chương trình nghiên cứu nà “network”

"Identity" trong cuốn Dreams in the Shadow, Mandy Thomas (Tiến Sĩ Nhân Chủng Học) có bàn về "identity" như “Identity” trong cuốn “Dreams in the Shadow”,

· Identity liên quan tới sự biểu hiện của bản thân, và những định nghĩa về bản thân được gắn liền với không gian (trong khái niệm về thời gian và không gian của sự việc).
· Identity là một quá trình xây dựng và thực hành của bản thân. Các quá trình này không bao giờ hoàn tất và hình thành trong phạm vi của sự biểu hiện.
· Bản chất của Identity là hay thay đổi.

Qua ba khái niệm trên, chữ Identity có thể dịch ra là "đặc trưng", "đặc thù" vì "Identity" chỉ biểu hiện nét đặc biệt nào đó và luôn luôn thay đổi theo điều kiện của không gian. Mỗi người đều có rất nhiều "identities": "identity về học vấn", "identity về nghề nghiệp", "identity về giới tính: bisexuality; homosexuality; heterosexuality" v. v.

Trong một buổi hội thảo về "identity", một cô người Mỹ có chồng là người Na Uy kể một câu chuyện về American identity của cô như sau: trong một khu shopping sang trọng của thủ đô Na Uy, không khí thật là yên tĩnh và trang nghiêm, cô chợt thấy một nhóm du khách người Mỹ rất trẻ, vừa đi vừa đùa giỡn, xô đẩy nhau ồn ào lớn tiếng có vẻ như coi thường người chung quanh. Cô thấy nhiều người nhìn nhóm thanh niên Mỹ đó với con mắt khó chịu. Cô chợt thấy hổ thẹn và cầu xin sao cho những người chung quanh cô sẽ không một ai biết rằng cô là người Mỹ.

Vài ngày sau, khi thăm viếng Viện Vật Lý Na Uy, tại đây đang có một chương trình nghiên cứu do Mỹ bảo trợ. Khi đi vào sảnh đường, cô thấy lá cờ Mỹ được đặt ở một vị trí trang nghiêm trong phòng. Cô thấy rất tự hào rằng mình là người Mỹ, và cô thầm ước mong rằng mọi người sẽ biết cô là người Mỹ. Cô rất sung sướng với cái American identity của cô.

Theo đó thì "Identity" lệ thuộc và thay đổi theo không gian. Do đó, "identity" không thể là bản chất, đặc tính, hay bản sắc và cũng không thể là diện mạo như UMass Boston đã dịch. Diên mạo không thể thay đổi, trong khi đó thì "identity" thay đổi.

"Place:" Theo Mandy Thomas thì sự xây dựng lại đặc trưng của mình sau khi nhập cư có một ý nghĩa quan trọng về không gian, bởi vì người nhập cư [di dân và tỵ nạn] luôn luôn có cảm tưởng bị lạc lõng cho nên họ cố gắng tạo cho mình một cảm giác thoải mái trong cái "place" mới của mình như ở quê nhà. Đây chính là quá trình hội nhập vào nền văn hóa mới (acculturation hay là adaptation), trong đó người nhập cư đã mặc nhiên xây dựng lại identity của mình. Qua nhận định này, chữ "place" chỉ nơi mà người tỵ nạn cư trú. Nếu gặp không khí chánh trị, kinh tế và xã hội thích hợp với sự mong đợi, thì người tỵ nạn sẽ có cảm giác ấm cúng như ở quê cũ.

Một thí dụ khác liên quan đến place: xét “Place”: Theo "identity Thomas thì sự xây dựng" thì khi còn ở trong nước (place: Việt Nam) là phục tùng chồng, lo việc nội trợ, săn sóc con cái, ít hoặc không tham dự công việc xã hội. Khi "place: Việt Nam" thay đổi thành "place: Hoa Kỳ" thì "identity của phụ nữ Việt Nam" là bình đẳng với chồng trong việc phân công trách nhiệm gia đình, ra ngoài làm việc có income/lợi tức như chồng, tham dự công việc xã hội nhiều hơn là khi còn ở Việt Nam. Sự việc này nhấn mạnh thêm rằng "place" bao hàm nghĩa "nơi cư trú hội.".

III. Tuyển nghiên cứu viên:

Chương trình kéo dài ba năm. Năm thứ nhất đặt nền tảng nghiên cứu cho hai năm còn lại (UMass Boston Program Plan, p.2) và chọn bốn học giả để nghiên cứu. Hai từ Hà Nội tới là Ông Hoàng Ngọc Hiến, nguyên là Giám Đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du Hà Nội, trường này của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Người thứ hai là Ông Nguyễn Huệ Chi, nguyên là chủ nhiệm Ban Nghiên Cứu và Lý Luận Văn Học thuộc Viện Văn Học Việt Nam tại Hà Nội. Người thứ ba là cô Michele Janette, tiến sĩ Mỹ da trắng, khoảng ngoài 30 tuổi. Người thứ tư là cô Carolin Kiều Linh, người Mỹ gốc Việt, theo gia đình di tản sang Mỹ năm 1975, lúc đó mới có bốn tuổi. Hai cô này viết những vấn đề không quan trọng. Riêng hai học giả Việt cộng thì WJC công bố là sẽ viết những vấn đề sau đây:

"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu văn phong, chủ đề và các nguồn sáng tác hải ngoại, với sự chú trọng đặc biệt vào tình yêu và sự gắn bó với tổ quốc [Việt Nam].
Ông Nguyễn Huệ Chi sẽ thu thập và phân tích các tác phẩm phê bình về văn hóa cổ của Việt Nam - sự nối tiếp, thay đổi và biến thái trong môi trường hải ngoại". (Thông cáo báo chí của WJC/UMB ngày “Ông Hoàng Ngọc Hiến"

Vì cả Hoàng Ngọc Hiến lẫn Nguyễn Huệ Chi đều không am hiểu gì về nền văn học và đời sống hải ngoại nên đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng khi chọn các tác phẩm để nghiên cứu. Hai học giả này không hề phân biệt được tác phẩm nào là tiêu biểu cho tuyệt đại đa số người Việt tỵ nạn, tác phẩm nào chỉ thể hiện quan điểm của một thiểu số không đáng kể, hoặc chỉ là những tiếng nói lẻ loi mà không tiêu biểu cho một khuynh hướng nào ở hải ngoại hết. Sự nhầm lẫn vì không có một chút hiểu biết nào về đời sống thực tế của người Việt hải ngoại đã dẫn đến cách mô tả cực kỳ thê thảm khi Hoàng Ngọc Hiến viết về thế hệ trẻ hải ngoại với lời nhận xét của ông ta xen lẫn vào phần trích dẫn như sau:

"Trong bài thơ Nguyễn Bính của Nguyễn Bá Chung [Giám Đốc chương trình nghiên cứu], hai câu thơ:
"Nửa đời mới biết công danh hão,
Giày cỏ, gươm cùn đến trắng tay."
Có thể hiểu với ý nghĩa thời sự là tác giả mượn thân phận của nhà thơ giang hồ họ Nguyễn để cảm khái tâm trạng vỡ mộng của mình và những chàng trai cùng thế hệ hiện đương long đong nơi đất khách quê người. (Việt Báo Online Mục Lục Lưu Trữ “Trong.

Chỉ cần nêu lên một điểm: Nếu tuổi trẻ hải ngoại mà như vậy, thì lấy đâu ra tiền mà gửi về Việt Nam mỗi năm hàng hai, ba tỷ đô la! Hậu quả của sự lựa chọn nghiên cứu viên một cách "bừa bãi" của WJC/UMB đã dẫn đến kết quả tai hại, chỉ vì người nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản lại là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản nên mới có nhầm lẫn giống như một người mù, sờ tai con voi rồi mô tả "con voi giống cái quạt". Đoạn trích dưới đây chứng minh rõ ràng Hoàng Ngọc Hiến không hiểu gì về Người Việt hải ngoại đã chọn bừa bãi” của WJC/UMB đã

Trong truyện Tật Nguyền của Nguyễn Ý Thuần (16), sau 5 năm ở Mỹ, nhân vật xưng tôi có cảm tưởng chung về trạng thái nhân thế trong cộng đồng người Việt ở Mỹ như sau: Năm năng vật lộn với đủ thứ nghề và lang thang trên những vùng đất xa lạ, tôi đâm ra ngán ngẩm sau khi tiếp xúc với một số cộng đồng tỵ nạn. Hầu hết đều khoác lên người một thứ gì đó - như lớp quần áo giấy - để sống. để khỏi khuất lẫn vào đám đông. Bằng quá khứ cũng có, bằng chức vụ hay bằng cấp. Nhưng tựu trung chỉ nằm trong vòng thỏa mãn tự ái cá nhân hay khỏa lấp mặc cảm. Nói cho cùng, tôi vẫn gặp một số người sống bằng cả tấm lòng. Ở thiểu số này, ranh giới giữa suy nghĩ riêng tư và cuộc sống ở đây hoàn toàn cách biệt. Họ âm thầm thực hiện hoài bảo. Như những đốm lửa lạc loài trong đểm văn minh quá mức. Với họ - những đốm lửa nhỏ nhoi đó - điểm ra đi là nơi trở về (Đọc Văn Học Hải Ngoại của Hoàng Ngọc Hiến do Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu và đăng trên Việt Báo Online Mục Lục Lưi trở 7/31/2001).

Đối với chúng ta thì đây chỉ là những mẩu chuyện nói năng lãm nhảm, nhưng những thế hệ sau, khi cần nghiên cứu về chúng ta, sẽ vào các thư viện nghiên cứu và các văn khố để sao lục và dùng những tài liệu NGUYÊN THỦY (PRIMARY SOURCES) như thế này để viết lại và khuếch tán hơn nữa để nói về chúng ta thì quý vị nghĩ sao? Con cháu của chúng ta sẽ nghĩ gì về cha ông chúng? Sẽ nghĩ gì khi biết rằng chúng đả được sinh ra bởi những hạng người như chúng ta (theo cách mô tả của Hoàng Ngọc Hiến như mẩu chuyện trên)? Thật ra không ai trách Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi, người phải chịu trách nhiệm về những sai trái này là WJC/UMB, cơ quan đã mời hai học giả Việt cộng để viết về người tỵ nạn Cộng sản là một đề tài mà họ hoàn toàn không có một sự hiểu biết nào hết.

Sự khờ dại và ngây ngô của Nguyễn Huệ Chi còn buồn thảm hơn nữa. Ông Chi được WJC chỉ định nghiên cứu về cổ văn hải ngoại. Vậy mà Ông Chi cũng nhảy vào giới văn học hiện đại để thực hiện chủ trương hòa hợp văn học mà Hà Nội và WJC đã cấu kết với nhau từ khi viết kế hoạch đề nghị xin ngân khoản của Rockefeller Foundation. Đây là đoạn trích của bài viết của Nguyễn Huệ Chi đăng trong tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác - mộttác giả có sách xuất bản tại Việt Nam.

...thì đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên tiếng hợp lưu để cùng với dòng văn học đổi mới từ trong nước hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài trong sự cảm thông giữa những người cầm bút (Văn Học, số 184, thán tiếng "hợp lưu" để...

Trước khi sang Mỹ, Hoàng Ngọc Hiến đã thận trọng dùng quyền lực của Đảng và nhà nước, dạy các thế hệ cầm bút phải viết những gì và viết như thế nào để duy trì nền tảng triết học duy vật và thực hiện lời dạy của "Hồ Chủ Tịch". Ông Hiến đã xuất bản cuốn sách nhan đề: "VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN" dày 277 trang, do nhà xuất bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1999, liền trước khi sang Mỹ để nghiên cứu về nền văn học hải ngoại. Ra hải ngoại thì hai học giả "cò mồi" này lại lớn tiếng kêu gọi hải ngoại hòa hợp với nền văn học đổi mới ở trong nước. Học giả cộng sản cũng không thoát khỏi bản chất lừa bịp của chế độ. Ba đoạn trích sau đây chứng minh hai học giả này là ai và họ đã lừa bịp trắng trợn như thế nà thực

1. Cứ như Hồ chủ tịch trình bày về mục đích viết của mình thì mục tiêu của người nghệ sĩ cách mạng trước hết phải hướng về sự cải tạo cách mạng xã hội, mục tiêu đó phải trở thành nguyện vọng thiết tha, ham muốn tột bậc của người nghệ sĩ (Văn Học và Học Văn nguyện vọng thiết)

2. Văn học là sự phản ảnh thực tế. Tìm hiểu quan điểm tiếp cận thực tế của Hồ chủ tịch có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan điểm tiếp cận văn học của người. (Văn Học và Học Văn, trang 11)

3. Văn học xã hội lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở triết học (Văn Học và Học Văn, trang 13)

Như vậy mà Kevin đã trả lời phỏng vấn của báo The Boston Globe ngày 26-10-2000, rằng nếu họ [Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi] là những học giả trực tiếp với đường lối của đảng, thì Kevin đã không mời họ. Như vậy Kevin không hiểu gì về Hoàng Ngọc Hiến hay là Kevin cố tình lường gạt dư luận? Thái độ của WJC/UMB đối với việc thực hiện chương trình nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản như thế nào, chọn ai để viết chương trình này, đã bộc lộ rõ ràng trong đoạn trích dưới đây.

... trong toàn bộ tập "Grant Proposal", không hề có một chữ nào nói tới việc dự tính mời các nhà văn và bộ tập “Gran

"Trong suốt ba năm[của chương trình Rockefeller] chúng tôi chủ trương kết hợp càng nhiều càng tốt, các chương trình đang thực hiện với các nhà văn và các học giã từ Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm kiếm các phương tiện thích hợp để xuất bản và phổ biến những bài viết, những phản ảnh của các học giả này trên báo chí, và các phương tiện điện tử ở khắp nơi" Trong suốt ba năm[của chương trình

Một hành động rất "ngộ nghĩnh" một cách trái thường là trong tập "UMass Boston Program Plan" WJC/UMB mời Ngụy Ngữ từ Hà nội sang Mỹ và giới thiệu Ngụy Ngữ là tiêu biểu của QLVNCH. Trên thực tế thì Ngụy Ngữ là một chuẩn úy thuộc QLVNCH đã đào ngũ theo Cộng sản và đang phục vụ trong guồng máy tuyên truyền của Hà Nội. Khi WJC/UMB mời đại tá Lê Lựu, một nhà văn "lỗi lạc" (nguyên văn) của quân đội Cộng sản sang Mỹ, và WJC/UMB muốn có một nhà văn của QLVNCH cùng hiện diện với Lê Lựu nên đã gắn danh hiệu QLVNCH cho Ngụy Ngữ, để cùng hiện diện với Lê Lựu cho có đủ màu sắc của cả hai miền Nam và Bắc. Đoạn trích dưới đây vạch rõ thái độ rất "hài hức" rất quái dị

Trung tâm (WJC) đã bảo trợ cho việc trao đổi các nhà văn, nghệ sĩ, học giả và giáo giới của Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1987, khi đó còn ít cơ quan lưu tâm tới Việt Nam - với cuộc thăm viếng lịch sử của Lê Lựu, [nhà văn quân đội Cộng sản cấp đại tá] và Ngụy Ngữ [chuẩn úy QLVNCH, dào ngũ theo CS], hai nhà văn quân đội lỗi lạc của miền Bắc và miền Nam, thuộc Quân Đội Nhân Dân và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... (UMass Boston Program Plan, p. 7)

Đây rõ ràng là WJC/UMB đang làm trò "qủy thuật" chứ không phải là nghiên cứu đại học (Academic research)! Tại sao WJC/UMB không mời một nhà văn quân đội thực sự là quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đang sống tại Hoa Kỳ và đang kêu gọi WJC cho giới viết văn hải ngoại được tham gia hội luận quốc tế hàng năm do WJC tổ chức với tư cách là hậu quả chiến tranh Việt Nam, vì WJC/UMB chỉ mời có CSVN mà thôi. Một mặt, WJC làm ngơ trước lời kêu gọi của giới viết văn hải ngoại thuộc QLVNCH, mặt khác WJC đem Cộng sản từ Hà Nội qua và giới thiệu là nhà văn quân đội thuộc QLVNCH! Thật không còn có một trò lừa bịp nào trắng trợn hơn hành động này qủy thuật chứ

Còn một vấn đề quan trọng trong chương trình này chưa được nêu ra, nhưng vì khuôn khổ của một bài viết trong tạp chí không thể dài hơn được nữa.
Nghiên cứu về việc làm của WJC/UMB mà chưa xét tới phần "Tiểu Luận về Khái niệm về chương trình Học Bổng Nhân Văn của Rockefeller Foundation" của WJC/UMB thì chưa thấy được nền tảng triết lý của chương trình này như thế nào. Do đó chưa thấy được những âm mưu đen tối của WJC/UMB khi dự trù xin ngân khoản để thực hiện chương trình nghiên cứu này nhằm mục đích xóa sạch tội ác chánh trị của Việt cộng trước sự phán xét của lịch sử.

MẶT TRÁI CỦA CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NHÂN VĂN ROCKEFELLER

Rockefeller Foundation tài trợ $250,000 cho UMass Boston để thực hiện một chương trình nghiên cứu mang tên: "Tái Xây Dựng Đặc Trưng và Nơi Cư Trú của Người Việt Tỵ Nạn Trên Khắp Thế Giới". Chương trình kéo dài ba năm và năm thứ nhất sẽ đặt nền tảng cho sự triển khai của hai năm còn lại. (UMass Boston Program Plan, trang 2) vì vậy năm thứ nhất có tầm quan trọng trọng hơn và có ý nghĩa quyết định cho toàn bộ chương trình, và đã được thực hiện xong bởi hai học giả của đảng Cộng sản là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi. Hiến nguyên là giám đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du Hà Nội. Khác với chúng ta ở đây, những nhà văn có uy tín ở Việt Nam phải là những người xuất thân ở trường này vì đây là trường Đảng. Nguyễn Huệ Chi là chủ nhiệm Ban nghiên cứu và lý luận văn học của Viện Văn Học Việt Nam tại Hà Nội. Tiến sĩ Kevin Bowen khẳng định rằng chỉ có một mình Hiến là đảng viên thôi. Chúng ta không thể nào thẩm tra được lời nói này. Tuy nhiên, đây là một kinh nghiệm về thủ đoạn của Việt Cộng. Trước đây, tại hội nghị Paris năm 1972, khi báo chí Pháp hỏi bà Nguyễn Thị Bình về Đảng Tịch, hay nói nôm na là bà có phải là đảng viên đảng cộng sản không, thì bà Bình thề sống thề chết rằng bà không phải là đảng viên, và bà còn đưa ra nhiều lý luận để đảm bảo lời đã nói. Nhưng mới đây, khoảng hai, ba năm trước, báo chí ở trong nước và cả các hệ thống thông tin khác cũng đều loan báo là bà Nguyễn Thị Bình đã được trao tặng huy chương cao nhất nhân dịp kỷ niệm 40 năm tuổi đảng của bà. Nguyễn Huệ Chi ngồi ở ghế CHỦ NHIỆM ỦY BAN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN VĂN HỌC là vị trí chủ chốt của guồng máy khống chế tư tưởng của cả nước mà lại không phải là đảng viên thì thật là buồn cười.

Đem hai viên chức cao cấp trong guồng máy tuyên truyền của nhà nước cộng sản Việt Nam sang Mỹ để MÔ TẢ người Việt tỵ nạn cộng sản là một nghịch lý chưa từng thấy trong lịch sử văn học của thế giới. Bản thông cáo báo chí của WJC/UMass Boston đề ngày 15-4-2000 đã xác định:

"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn phong, chủ đề, các nguồn viết văn hải ngoại với sự chú trọng đặc biệt vào lòng yêu nước và sự gắn bó với tổ quốc [Việt Nam] của ngư “Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn phong,"

Đã hơn một năm qua, đồng bào ta đã liên tục đấu tranh để bảo vệ phẩm giá của cộng đồng người Việt tỵ nạn. Chúng ta cương quyết không cho WJC/UMass Boston thực hiện mưu đồ đen tối của họ. Tài liệu do UMass Boston viết để xin ngân khoản của Rockefeller Foundation cho thấy rằng Hà Nội đã trực tiếp chi phối chương trình nghiên cứu này từ khi còn trong trứng nước. Đoạn trích sau đây nói rõ vấn đề này:

Mới đây các học giả ở Việt Nam cũng bắt đầu chú ý tới cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Ngoài việc đánh giá tiềm lực kinh tế trong nước - do bởi ưu tiên tối hậu dành cho việc tái thiết đất nước bị chiến tranh tàn phá, và vì lập trường chống đối chính phủ một cách gay gắt của nhiều người tỵ nạn sống trong cộng đồng hải ngoại. Nhưng tình hình đang thay đổi... (Re-constructing identity and Place in the Vietnamese diaspora, p.4)

Bọn cộng sản Hà Nội nhận định rằng tinh thần chống Cộng của đồng bào hải ngoại đang thay đổi có lợi cho bọn chúng, nên chúng đã cấu kết với WJC/UMass Boston để dựng lên cái gọi là HÒA HỢP giữa người tỵ nạn cộng sản với cộng sản Hà Nội. Đoạn trích sau đây để lộ âm mưu của chúng:

...đồng thời cũng nối những nhịp cầu nhận thức và tập quán với ngành Việt Nam Học [của UMass Boston] nhằm thiếp lập những hinh thức linh hoạt để giải thích những thựctế phức tạp trong nhiều mối quan hệ tình cảm của người Việt lưu vong và tạo ra những khả năng hòa hợp không những giữa người Việt lưu vong và tổ quốc của họ, mà còn.... (Re-Constructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora, trang 4).

Tập tài liệu xin ngân khoản được viết bởi một nhóm tiến sĩ của trường UMass Boston, nhưng thật tình không ai có thể hiểu tại sao họ lại có thể nặn ra một kế hoạch để phản lại sự hiểu biết căn bản và tối thiểu về việc nghiên cứu văn học. Những ai đã từng biết sơ qua về việc nghiên cứu đều hiểu rằng: Nghiên cứu là tìm ra sự thật nhằm trả lời câu hỏi được đặt ra cho chương trình nghiên cứu. Ở đây câu hỏi là:


"ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI TỴ NẠN".

Nhưng UMass Boston KHÔNG TRẢ LỜI CÂU HỎI MÀ LẠI "TẠO RA NHỮNG KHẢ NĂNG HÒA HỢP", một khi đã cố tạo ra một cái gì đó trong quá trình nghiên cứu thì chương trình này không còn mang tính chất nghiên cứu nữa. Đây hiển nhiên là UMass Boston đang âm mưu thực hiện một kế hoạch HÒA HỢP của Cộng sản Hà Nội.

Mở một chương trình nghiên cứu về cộng đồng tỵ nạn Cộng sản, UMass Boston chỉ nói tới việc mời các học giả cộng sản từ Việt Nam, mà không có một lời nào về học giả tỵ nạn cộng sản. Như vậy làm sao chương trình này có thể phản ảnh trung thực về đời sống của cộng đồng người Việt tỵ nạn? Đoạn trích sau đây để lộ âm mưu của UMass Boston:

"Trong suốt ba năm [của chương trình Rockefeller nghiên cứu về người Việt lưu vong], chúng tôi chủ trương kết hợp càng nhiều càng tốt, các chương trình đang thực hiện với các nhà văn và các học giả từ Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm kiếm các phương tiện thích hợp để xuất bản và phổ biến những bài viết, những phản ảnh của các học giả này trên báo chí, và các phương tiện điện tử ở khắp nơ “Trong" suốt ba năm [của chương trình]

Khi nguồn tin về vụ WJC được phát giác, các tổ chức Cộng Đồng tại khắp nơi, các đoàn thể và rất nhiều cá nhân, trong đó có nhiều người Mỹ đã gửi kháng thư ồ ạt về Rockefeller Foundation (nơi cung cấp tiền cho chương trình nghiên cứu này), viện trưởng viện đại học UMass Boston và WJC.

Trong giai đoạn này có hai sự kiện đáng chú ý là:

1/ Cuộc họp giữa phái đoàn đại biểu của Cộng Đồng Việt Nam tại Massachusetts và WJC vào ngày 14-8-2000 nhằm đề nghị WJC phổ biến chương trình của họ để các

học giả, nhà văn Việt Nam tại Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới có thể tham dự, vì chương trình nghiên cứu về cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mà lại đem Cộng sản từ Việt Nam qua để viết thì không thể chấp nhận được. Nhưng cuộc họp đã thất bại vì thái độ ngoan cố và ngạo mạn của WJC/UMass Boston.

2/ Cộng Đồng Người Việt tại Massachusetts đã tổ chức một cuộc biểu tình vào ngày 26-10-2000 gồm khoảng 300 đồng bào tham dự. Báo chí Mỹ, đài truyền hình Boston, và Fox News đã loan tin này. Nhưng chẳng những WJC tiếp tục làm ngơ mà còn cho một người Việt Nam mang danh nghĩa tỵ nạn và đang làm việc cho WJC viết những bài biện bạch đưa lên mạng lưới với những lời lẽ láo xược.

Trước tình cảnh quá đáng đó, một nhóm gồm 12 người là các ông:

1. Ông Bùi Diễm, nguyên Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trước 1975

2. Ông Nguyễn Tú, ký giả đã từng viết cho tờ Chính Luận tại Saigon

3. Cô Theresa Vương Ý Như, Tiến Sĩ, Giáo Sư Đại Học tại Philadelphia

4. Ông Nguyễn Đạt Thịnh, nhà văn quân đội, nguyên trung tá QLVNCH

5. Ông Lê Phước Sang, Tiến Sĩ, nguyên Thượng Nghị Sĩ và Viện Trưởng Viện Đại Học Hòa Hảo tại An Giang

6. Ông Nguyễn Tường Bá, Luật Sư, nguyên Tổng thư Ký Luật Sư Đoàn của VNCH trước 1975

7. Ông Trần Minh Xuân, nguyên giáo sư Đại học tại Việt Nam

8. Nhà văn Phan Nhật Nam, nguyên sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù

9. Ông Lê Thanh Quang, chủ nhiệm nhật báo Thời Mới tại Philadelphia

10. Ông Nguyễn Thanh Liêm, tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên.

11. Ông Nguyễn Văn Chức, nguyên Luật Sư Tòa Thương Thẩm Saigon, nguyên Chủ tịch Ủy Ban Tư Pháp Định chế Thượng Viện VNCH, nguyên Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

12. Ông Nguyễn Hữu Luyện, nguyên là sinh viên Cao Học tại UMass Boston đã đứng đơn dùng tố quyền tập thể (class action) để khởi tố WJC/UMass Boston, và tới nay thì đơn khởi tố đã lên tới tòa thượng thẩm của tiểu bang Massachusetts.

Khi Việt cộng kêu gọi hòa hợp là lúc chúng đang muốn cho người quốc gia đút đầu vào cái thòng lọng của chúng. Cộng sản Hà Nội đang âm mưu tạo ra một hình thức HÒA HỢP VĂN HỌC để hậu thế nghĩ rằng không có vấn đề tỵ nạn cộng sản ở thế kỷ 20, để rửa sạch tội ác của chúng trước sự phán xét của lịch sử. Trước 1975, Việt cộng kêu gọi HÒA HỢP DÂN TỘC để làm suy yếu tinh thần chống cộng của người dân miền Nam. Nhưng sau 1975, chính những người đã buông súng để mong HÒA HỢP đã bị Việt cộng đưa vào nhà tù từ 10 tới 20 năm.

Chính Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi đang đóng vai trò HAI MẶT TRÁI NGƯỢC NHAU. Ở trong nước thì hai người này dùng quyền lực của Đảng và nhà nước để thúc ép giới việt văn duy trì triết lý DUY VẬT BIỆN CHỨNG, và viết theo lời dạy của "Hồ chủ tịch". Nhưng khi ra hải ngoại thì rêu rao về cái gọi là nền văn học đổi mới, và kêu gọi nền văn học của người Việt tỵ nạn cộng sản HÒA HỢP với cái gọi là văn học dân tộc của chúng. Một khi đã hòa hợp với bọn cộng sản Hà Nội rồi thì còn đâu là tư cách tỵ nạn cộng sản của đồng bào ta nữa? Như vậy chúng ta lấy gì để giải thích cho con cháu chúng ta hiểu vì sao chúng lại sinh ra trên mảnh đất này? Lấy gì để giải thích về nguyên nhân của sự ra đi trong muôn ngàn đau đớn, hiểm nghèo và thống khổ của ba triệu người Việt sau này theo

Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản cương quyết ngăn chặn bàn tay tội ác của WJC/UMass Boston bởi vì hòa hợp với cộng sản Hà Nội có nghĩa là phản bội hơn nửa triệu sinh linh đã chết trên biển cả, phản bội hàng chục ngàn thường dân đã chết trong cuộc thảm sát tết Mậu thân, và các cuộc thảm sát trên nhìn từ điểm đầu thế kỷ XXI (3-34) của Nguyễn Huệ Chi. Đoạn trích sau đây cho thấy ông Nguyễn Huệ Chi đã thủ vai trò như WJC/UMass Boston đã nêu lên trong UMass Boston Plan là tạo khả năng HÒA HỢP giữa văn học quốc nội và văn học hải ngoại như thế nào

... thì đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên tiếng "hợp lưu" để cùng với dòng văn học đổi mới từ trong nước "hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài trong sự cảm thông giữa những người cầm bút" (Văn tiếng? hợp lưu? để cùng

TÓM LƯỢC VỤ KIỆN WJC/UMASS BOSTON

Thủ tục "hành chánh" của vụ án WJC/UMass Boston đã xong, có nghĩa là MCAD đã kết thúc giai
đoạn điều tra. MCAD (Massachusetts Commission Against Discrimination) là chữ viết tắt của HỘI ĐỒNG BÀI TRỪ KỲ THỊ của tiểu bang Massachusetts.
HỘI ĐỒNG XÁC NHẬN KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ KỲ THỊ trong vụ án này. Tuy gọi là điềutra, nhưng sự thật thThủ hội đồng chỉ căn cứ vào lời khai của hai bên nguyên và bị để ra quyết định mà không hề điều tra để xác định xem lời khai là thực hay gian. Chúng ta đã có đủ chứng cớ về lời khai gian của WJC/ UMass Boston. Theo luật thì chỉ sau khi Hội Đồng tuyên bố quyết định, thì bên nguyên đơn mới được phép đệ đơn khởi tố vào tòa án. Luật sư Keane nói rằng quyết định của MCAD hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới sự xét xử của tòa án. Nhưng theo thủ tục tố tụng, thì những vụ án nào liên quan tới vấn đề kỳ thị thì phải qua Hội Đồng này.

Ngày 28-09-2001, Luật sư James P. Keane & Alice J. Klein đã đưa vụ án này ra trước Tòa Thượng Thẩm (Superior Court) của tiểu bang Massachusetts. Đồng thời cũng đệ đơn lên Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp của tiểu bang Massachusetts để xin mở cuộc điều tra về hành động vi phạm luật pháp của WJC/ UMass Boston. Nội dung đơn xin mở cuộc điều tra như sau:

Đầu năm 2000, WJC/UMass Boston bổ nhiệm hai người Cộng sản vào chương trình nghiên cứu do Rockefeller Foundation tài trợ. Sự bổ nhiệm n ày là một vi phạm rõ ràng vào Luật của tiểu bang Massachusetts, chương 264, đoạn 20. Đính kèm đây là một bài của báo Far Eastern Economic Review, số ra ngày 30 tháng 9, 2000, trong đó Kevin Bowen, Giám đốc WJC nhìn nhận rằng một trong 2 người đã bổ nhiệm là đảng viên đảng Cộng sản. Bộ luật của tiểu bang Massachusetts đã xác định rõ ràng rằng đảng Cộng sản đã được công bố là một tổ chức có tính cách lật đổ và gây bạo loạn, do đó cấm gia nhập đảng (membership prohibited) và cấm thuê mướn các đảng viên (appointment to employment prohibited) chiếu th eo bộ luật M.G.L. a. ch. 264, sec.16 A, 17, 19 et al.

Trong đơn xin điều tra về hành vi phạm pháp của WJC/UMass Boston, Luật sư Keane có đưa ra một bằng chứng về tư cách đảng viên đảng Cộng sản của Hoàng Ngọc Hiến. Bằng chứng này là 3 đoạn trích dẫn lấy từ cuốn sách VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN của Hoàng Ngọc Hiến, xuất bản năm 1999, ngay trước khi ông được WJC/UMass Boston mời sang Mỹ để viết về cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Ông Hiến nguyên là Giám Đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội. Đó là trường của Đảng.

Về phía các luật sư của chúng ta thì tôi nhận thấy rõ là từ sau ngày Đại Hội Yểm Trợ Vụ Kiện WJC/UMass Boston, vào ngày 26-8-2001 tại Boston, cả ba vị luật sư đang phụ trách vụ án này đều tỏ ra rất phấn khởi. Trong cuộc họp báo tại văn phòng của Luật Sư Keane, các báo chí, truyền hình và radio từ các tiểu bang về đông đến nỗi chỉ có một nửa đứng trong phòng họp, còn một nửa phải đứng ngoài, và có cả tờ The Boston Globe là tờ báo lớn nhất của tiểu bang Massachusetts cũng tới dự. Sau buổi họp báo đó thì văn phòng này mới thấy rõ là họ đang biện hộ cho cả ba triệu người tỵ nạn.

Khi chuyển vụ án này ra tòa thượng thẩm, tôi có nói với Luật Sư Keane rằng nếu ông thấy cần thiết, ông hãy mời những luật sư nào nổi tiếng nhất nước Mỹ để phụ giúp ông. Chúng tôi có ba triệu người tỵ nạn cộng sản, không một ai trong chúng tôi lại có thể ngồi yên để cho bọn Việt cộng mượn tay một trường đại học lớn, mượn danh nghĩa một Foundation để dùng công trình nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế này để làm nhục chúng tôi. Chúng tôi không thể để con cháu chúng tôi nhìn hình ảnh của cha ông chúng qua những nét bút của bọn Việt cộng. Ba triệu người tỵ nạn cộng sản, mỗi người chỉ bỏ ra $1 là chúng tôi có thừa tiền để đưa vụ kiện này tới bất cứ nơi nào, bất cứ cấp nào vì tuy gặp khó khăn vì thế lực của trường UMass Boston rất mạnh tại tiểu bang Massachusetts, nhưng chúng tôi cũng vẫn tin tưởng vào luật pháp Hoa Kỳ. Luật Sư Keane trả lời tôi rằng ông không cần bất cứ một ai khác.

Khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi xét xử, thì Luật Sư Keane cho biết trong vòng một năm. Tôi nhấn mạnh (insist) rằng thời gian là một yếu tố hoàn toàn bất lợi cho cộng đồng người Việt. Chúng tôi đã bị ghìm ở trong Hội Đồng bài trừ kỳ thị mất một năm rồi. Còn hai năm nửa, nếu chương trình nghiên cứu của UMass Boston làm xong, và khi họ đã công bố và cho xuất bản rồi thì dù có án lệnh của tòa án cũng không thâu hồi lại được. Như vậy trong lúc chờ đợi xét xử, chúng ta có đủ bằng chứng về sự gian lận và phạm pháp của trường UMass Boston rồi thì có thể xin án lệnh đình chỉ việc nghiên cứu để chờ phán quyết của tòa án được không?

Luật sư Keane trả lời rằng chỉ khi nào ra trước tòa, sau khi đã trình bày rõ mọi vấn đề thì mới xin tòa đình chỉ chương trình để đợi án lệnh thì mới được. Chưa có phiên xử thì không thể làm gì được hết. Tôi nhấn mạnh vào thời gian chờ xét xử để nhờ Luật Sư Keane SPEED UP ngày xử bằng tất cả những biện pháp chuyên môn mà ông có thể làm được. Luật Sư Keane hứa sẽ thúc đẩy việc xét xử trong vòng sáu tháng, và khuyên tôi không nên nóng nảy quá, để ông ấy lo, và nhờ tôi nói lại với đồng bào là ông ấy rất thông cảm với cộng đồng người Việt vì ngày xưa ông ấy đã sang Việt Nam chiến đấu rồi...





 

==================

 

 






BÀN VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ROCKEFELLER FOUNDATION






“Re-Constructing - Identity and Place - in the Vietnamese Diaspora”



Do William Joiner Center
Thuộc trường Đại Học Massachusetts Boston thực hiện

Nguyễn Hữu Luyện


Dùng một số tác phẩm văn học xuất bản tại hải ngoại, William Joiner Center (WJC) thuộc University of Massachusetts Boston (UMB) thực hiện một chương trình nghiên cứu toàn diện về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản nhằm mục đích "tạo ra sự hòa hợp giữa người tỵ nạn Cộng sản và chế độ Cộng sản tại Việt Nam ngàch nay".

I. Giới thiệu chương trình:
Chương trình nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản do WJC/UMB đặt tên là "ReConstructing Indentity and Place in the Vietnamese Diaspora và cũng do WJC/UMB dịch ra tiếng Việt là Diễn Trình (Tái) Xây Dựng Diện Mạo Và Quê Hương Của Người Việt Ở Nước Ngoài".

Theo tập tài liệu Rockefeller Foundation Humanities Fellowship - UMass Boston Program Plan (Grant Proposal) và nói một cách đại cương, chương trình này sẽ viết những vấn đề sau đây:

1. Khảo sát việc xây dựng và diễn giải lịch sử Việt Nam. Ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử như cuộc chiến tranh chống Pháp, tù cải tạo sau 1975, Vùng Kinh Tế Mới, và vượt biên đối với Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản trong vấn đề tái xây dựng nét đặc thù của mì cải.

2. Khảo sát nền văn học, ngôn ngữ, văn hóa và vai trò của nhà văn, nghệ sĩ, đặc biệt là những tiếng nói đang nổi lên của nền văn học hải ngoại trong vấn đề tái xây dựng nơi cư trú, gia đình và những đặc trưng của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản.

3. Khảo sát về những tác động của chính sách đổi mới, khuynh hướng thiên về nền kinh tế thị trường của nhà nước Cộng Sản Việt Nam đối với cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản.

II. Nhận xét về nghĩa của chữ và mạch văn (semantics & contextual meanings) trong đề tài “ReConstructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora".

1."Diaspora" lấy từ chữ Hy lạp, có nghĩa là rải rác, phân tán. Chữ Jewish Diaspora được dùng lần đầu tiên vào năm 586 trước Công Nguyên để chỉ người Do Thái bị đày ải lên thành Babylonia. Trong suốt chiều dài lịch sử của Do Thái, cho tới sau thế chiến thứ hai, được trở về lập quốc, chữ Diaspora chỉ người Do Thái sống bên ngoài lãnh thổ Palestine và bây giờ là Israel (Theo Encarta ® 97 Encyclopedia). Diaspora còn có nghĩa là một nhóm người sống rải rác bên ngoài lãnh thổ của mình (World Book History). Tập tài liệu "UMass Boston Program Plan" định nghĩa "Diaspora" khác với "Immigration" vì "Diasporra" là những người bị lịch sử ngược đãi, có lòng mong đợi ngày hồi hương, và không gì có thể thay thế được sự ngự trị của quê hương củ trong tâm hồn họ.

(ReConstructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora, p 4). Hoàn cảnh chính trị của người Do Thái ngày xưa và của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản ngày nay không khác nhau. Do đó, chữ "Vietnamese Diaspora" contextually và semantically phải dịch là "cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản" vì trên 99% người Việt sống ở nước ngoài ngày nay là người tỵ nạn Cộng sản. Hoa kỳ cũng như toàn bộ các quốc gia khác của thế giới tự do, sau sự kiện tháng tư 1975, đã đón nhận người Việt Nam vào quốc gia của họ dưới danh nghĩa "tỵ nạn chánh trị hay là 1. “Diaspora” lấy sản".

Nếu dịch như UMass Boston là "người Việt sống ở nước ngoài", người đọc có thể hiểu là những công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam đang sống ở nước ngoài, và vào cuối thế kỷ 20, không hề có cuộc ra đi ồ ạt và vĩ đại nhất trong lịch sử tỵ nạn và đấu tranh của nhân loại. Như vậy là chương trình đã đi ra ngoài mục đích tài trợ của Rockefeller Foundation - nghiên cứu về nền văn học của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, một nền văn học rất đa dạng và hoàn toàn khác biệt với nền văn học trong nước. Văn học hải ngoại thực chất là văn học VNCH sau hơn một phần tư thế kỷ tiếp xúc trực tiếp với nền văn học phương Tây, và đã có những biến trạng quan trọng cần được nghiên cứu: đó là mục đích của Rockefeller Foundation khi đứng ra bảo trợ chương trình này.

Cách diễn dịch hoàn toàn sai trái của UMass Boston không thể nào chấp nhận được về mặt dịch thuật, chưa nói tới mặt chá? người Việt

Di sản văn hóa của miền Nam Việt Nam đã được những người tỵ nạn mang ra hải ngoại sau sự kiện lịch sử 1975. Đảng Cộng sản đã thực hiện thống nhất vể chánh trị và quân sự, nhưng về mặt văn học thì các văn hóa phẩm kể cả âm nhạc của miền nam đã bị gom lại và đốt hết. Việt cộng dùng pháp luật để trừng phạt những ai còn lưu dụng các tác phẩm văn học, âm nhạc của VNCH. Hát nhạc vàng là nhạc của VNCH bị ghép tội "văn hóa đồi trụy" và bị đưa đi tập trung cải tạo. Bài này sẽ trình bày và dẫn chứng WJC/UMB nhìn nền văn học Việt Nam hải ngoại dưới góc độ nào? Và đã đặt nền tảng cho việc thực hiện chương trình nghiên cứu này dưới nhãn quan sát nào?

2. Identity and Place là hai terminologies dùng trong ngành "Nhân Văn Humanities". Nếu hiểu hai chữ này theo nghĩa thông thường của tự điển thì sẽ không dịch được cái nghĩa mà nó bao hàm trong khuôn khổ của chương trình nghiên cứu. Vì Việt Nam, từ thời VNCH cho tới nay, chưa có Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ nên những chữ này rất khó để có sự đồng nhất về cách dịch giữa chúng ta. Trong giai đoạn gần đây, kể từ khi chúng ta phản đối WJC/UMB, đã thấy xuất hiện trên báo chí và "network" nhiều cách dịch khác nhau, mặc dù cách dẫn giải có thể không khác nhiều. Chữ "identity" đã được dịch là "căn cước", "bản sắc", "bản chất", "đặc tính", và trường UMass Boston dùng chữ rất táo bạo là "diện mạo". Chữ "place" được dịch là "nơi cư trú", "nơi sinh sống", "mảnh đất tạm dung", "vị trí", và UMass Boston thì dịch táo bạo hơn là "quê hương". Bài viết này trình bày về ý nghĩa mà "identity" và "place" bao hàm trong khuôn khổ của khoa nhân văn, và được dùng trong chương trình nghiên cứu nà “network”

"Identity" trong cuốn Dreams in the Shadow, Mandy Thomas (Tiến Sĩ Nhân Chủng Học) có bàn về "identity" như “Identity” trong cuốn “Dreams in the Shadow”,

· Identity liên quan tới sự biểu hiện của bản thân, và những định nghĩa về bản thân được gắn liền với không gian (trong khái niệm về thời gian và không gian của sự việc).
· Identity là một quá trình xây dựng và thực hành của bản thân. Các quá trình này không bao giờ hoàn tất và hình thành trong phạm vi của sự biểu hiện.
· Bản chất của Identity là hay thay đổi.

Qua ba khái niệm trên, chữ Identity có thể dịch ra là "đặc trưng", "đặc thù" vì "Identity" chỉ biểu hiện nét đặc biệt nào đó và luôn luôn thay đổi theo điều kiện của không gian. Mỗi người đều có rất nhiều "identities": "identity về học vấn", "identity về nghề nghiệp", "identity về giới tính: bisexuality; homosexuality; heterosexuality" v. v.

Trong một buổi hội thảo về "identity", một cô người Mỹ có chồng là người Na Uy kể một câu chuyện về American identity của cô như sau: trong một khu shopping sang trọng của thủ đô Na Uy, không khí thật là yên tĩnh và trang nghiêm, cô chợt thấy một nhóm du khách người Mỹ rất trẻ, vừa đi vừa đùa giỡn, xô đẩy nhau ồn ào lớn tiếng có vẻ như coi thường người chung quanh. Cô thấy nhiều người nhìn nhóm thanh niên Mỹ đó với con mắt khó chịu. Cô chợt thấy hổ thẹn và cầu xin sao cho những người chung quanh cô sẽ không một ai biết rằng cô là người Mỹ.

Vài ngày sau, khi thăm viếng Viện Vật Lý Na Uy, tại đây đang có một chương trình nghiên cứu do Mỹ bảo trợ. Khi đi vào sảnh đường, cô thấy lá cờ Mỹ được đặt ở một vị trí trang nghiêm trong phòng. Cô thấy rất tự hào rằng mình là người Mỹ, và cô thầm ước mong rằng mọi người sẽ biết cô là người Mỹ. Cô rất sung sướng với cái American identity của cô.

Theo đó thì "Identity" lệ thuộc và thay đổi theo không gian. Do đó, "identity" không thể là bản chất, đặc tính, hay bản sắc và cũng không thể là diện mạo như UMass Boston đã dịch. Diên mạo không thể thay đổi, trong khi đó thì "identity" thay đổi.

"Place:" Theo Mandy Thomas thì sự xây dựng lại đặc trưng của mình sau khi nhập cư có một ý nghĩa quan trọng về không gian, bởi vì người nhập cư [di dân và tỵ nạn] luôn luôn có cảm tưởng bị lạc lõng cho nên họ cố gắng tạo cho mình một cảm giác thoải mái trong cái "place" mới của mình như ở quê nhà. Đây chính là quá trình hội nhập vào nền văn hóa mới (acculturation hay là adaptation), trong đó người nhập cư đã mặc nhiên xây dựng lại identity của mình. Qua nhận định này, chữ "place" chỉ nơi mà người tỵ nạn cư trú. Nếu gặp không khí chánh trị, kinh tế và xã hội thích hợp với sự mong đợi, thì người tỵ nạn sẽ có cảm giác ấm cúng như ở quê cũ.

Một thí dụ khác liên quan đến place: xét “Place”: Theo "identity Thomas thì sự xây dựng" thì khi còn ở trong nước (place: Việt Nam) là phục tùng chồng, lo việc nội trợ, săn sóc con cái, ít hoặc không tham dự công việc xã hội. Khi "place: Việt Nam" thay đổi thành "place: Hoa Kỳ" thì "identity của phụ nữ Việt Nam" là bình đẳng với chồng trong việc phân công trách nhiệm gia đình, ra ngoài làm việc có income/lợi tức như chồng, tham dự công việc xã hội nhiều hơn là khi còn ở Việt Nam. Sự việc này nhấn mạnh thêm rằng "place" bao hàm nghĩa "nơi cư trú hội.".

III. Tuyển nghiên cứu viên:

Chương trình kéo dài ba năm. Năm thứ nhất đặt nền tảng nghiên cứu cho hai năm còn lại (UMass Boston Program Plan, p.2) và chọn bốn học giả để nghiên cứu. Hai từ Hà Nội tới là Ông Hoàng Ngọc Hiến, nguyên là Giám Đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du Hà Nội, trường này của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Người thứ hai là Ông Nguyễn Huệ Chi, nguyên là chủ nhiệm Ban Nghiên Cứu và Lý Luận Văn Học thuộc Viện Văn Học Việt Nam tại Hà Nội. Người thứ ba là cô Michele Janette, tiến sĩ Mỹ da trắng, khoảng ngoài 30 tuổi. Người thứ tư là cô Carolin Kiều Linh, người Mỹ gốc Việt, theo gia đình di tản sang Mỹ năm 1975, lúc đó mới có bốn tuổi. Hai cô này viết những vấn đề không quan trọng. Riêng hai học giả Việt cộng thì WJC công bố là sẽ viết những vấn đề sau đây:

"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu văn phong, chủ đề và các nguồn sáng tác hải ngoại, với sự chú trọng đặc biệt vào tình yêu và sự gắn bó với tổ quốc [Việt Nam].
Ông Nguyễn Huệ Chi sẽ thu thập và phân tích các tác phẩm phê bình về văn hóa cổ của Việt Nam - sự nối tiếp, thay đổi và biến thái trong môi trường hải ngoại". (Thông cáo báo chí của WJC/UMB ngày “Ông Hoàng Ngọc Hiến"

Vì cả Hoàng Ngọc Hiến lẫn Nguyễn Huệ Chi đều không am hiểu gì về nền văn học và đời sống hải ngoại nên đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng khi chọn các tác phẩm để nghiên cứu. Hai học giả này không hề phân biệt được tác phẩm nào là tiêu biểu cho tuyệt đại đa số người Việt tỵ nạn, tác phẩm nào chỉ thể hiện quan điểm của một thiểu số không đáng kể, hoặc chỉ là những tiếng nói lẻ loi mà không tiêu biểu cho một khuynh hướng nào ở hải ngoại hết. Sự nhầm lẫn vì không có một chút hiểu biết nào về đời sống thực tế của người Việt hải ngoại đã dẫn đến cách mô tả cực kỳ thê thảm khi Hoàng Ngọc Hiến viết về thế hệ trẻ hải ngoại với lời nhận xét của ông ta xen lẫn vào phần trích dẫn như sau:

"Trong bài thơ Nguyễn Bính của Nguyễn Bá Chung [Giám Đốc chương trình nghiên cứu], hai câu thơ:
"Nửa đời mới biết công danh hão,
Giày cỏ, gươm cùn đến trắng tay."
Có thể hiểu với ý nghĩa thời sự là tác giả mượn thân phận của nhà thơ giang hồ họ Nguyễn để cảm khái tâm trạng vỡ mộng của mình và những chàng trai cùng thế hệ hiện đương long đong nơi đất khách quê người. (Việt Báo Online Mục Lục Lưu Trữ “Trong.

Chỉ cần nêu lên một điểm: Nếu tuổi trẻ hải ngoại mà như vậy, thì lấy đâu ra tiền mà gửi về Việt Nam mỗi năm hàng hai, ba tỷ đô la! Hậu quả của sự lựa chọn nghiên cứu viên một cách "bừa bãi" của WJC/UMB đã dẫn đến kết quả tai hại, chỉ vì người nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản lại là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản nên mới có nhầm lẫn giống như một người mù, sờ tai con voi rồi mô tả "con voi giống cái quạt". Đoạn trích dưới đây chứng minh rõ ràng Hoàng Ngọc Hiến không hiểu gì về Người Việt hải ngoại đã chọn bừa bãi” của WJC/UMB đã

Trong truyện Tật Nguyền của Nguyễn Ý Thuần (16), sau 5 năm ở Mỹ, nhân vật xưng tôi có cảm tưởng chung về trạng thái nhân thế trong cộng đồng người Việt ở Mỹ như sau: Năm năng vật lộn với đủ thứ nghề và lang thang trên những vùng đất xa lạ, tôi đâm ra ngán ngẩm sau khi tiếp xúc với một số cộng đồng tỵ nạn. Hầu hết đều khoác lên người một thứ gì đó - như lớp quần áo giấy - để sống. để khỏi khuất lẫn vào đám đông. Bằng quá khứ cũng có, bằng chức vụ hay bằng cấp. Nhưng tựu trung chỉ nằm trong vòng thỏa mãn tự ái cá nhân hay khỏa lấp mặc cảm. Nói cho cùng, tôi vẫn gặp một số người sống bằng cả tấm lòng. Ở thiểu số này, ranh giới giữa suy nghĩ riêng tư và cuộc sống ở đây hoàn toàn cách biệt. Họ âm thầm thực hiện hoài bảo. Như những đốm lửa lạc loài trong đểm văn minh quá mức. Với họ - những đốm lửa nhỏ nhoi đó - điểm ra đi là nơi trở về (Đọc Văn Học Hải Ngoại của Hoàng Ngọc Hiến do Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu và đăng trên Việt Báo Online Mục Lục Lưi trở 7/31/2001).

Đối với chúng ta thì đây chỉ là những mẩu chuyện nói năng lãm nhảm, nhưng những thế hệ sau, khi cần nghiên cứu về chúng ta, sẽ vào các thư viện nghiên cứu và các văn khố để sao lục và dùng những tài liệu NGUYÊN THỦY (PRIMARY SOURCES) như thế này để viết lại và khuếch tán hơn nữa để nói về chúng ta thì quý vị nghĩ sao? Con cháu của chúng ta sẽ nghĩ gì về cha ông chúng? Sẽ nghĩ gì khi biết rằng chúng đả được sinh ra bởi những hạng người như chúng ta (theo cách mô tả của Hoàng Ngọc Hiến như mẩu chuyện trên)? Thật ra không ai trách Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi, người phải chịu trách nhiệm về những sai trái này là WJC/UMB, cơ quan đã mời hai học giả Việt cộng để viết về người tỵ nạn Cộng sản là một đề tài mà họ hoàn toàn không có một sự hiểu biết nào hết.

Sự khờ dại và ngây ngô của Nguyễn Huệ Chi còn buồn thảm hơn nữa. Ông Chi được WJC chỉ định nghiên cứu về cổ văn hải ngoại. Vậy mà Ông Chi cũng nhảy vào giới văn học hiện đại để thực hiện chủ trương hòa hợp văn học mà Hà Nội và WJC đã cấu kết với nhau từ khi viết kế hoạch đề nghị xin ngân khoản của Rockefeller Foundation. Đây là đoạn trích của bài viết của Nguyễn Huệ Chi đăng trong tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác - mộttác giả có sách xuất bản tại Việt Nam.

...thì đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên tiếng hợp lưu để cùng với dòng văn học đổi mới từ trong nước hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài trong sự cảm thông giữa những người cầm bút (Văn Học, số 184, thán tiếng "hợp lưu" để...

Trước khi sang Mỹ, Hoàng Ngọc Hiến đã thận trọng dùng quyền lực của Đảng và nhà nước, dạy các thế hệ cầm bút phải viết những gì và viết như thế nào để duy trì nền tảng triết học duy vật và thực hiện lời dạy của "Hồ Chủ Tịch". Ông Hiến đã xuất bản cuốn sách nhan đề: "VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN" dày 277 trang, do nhà xuất bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1999, liền trước khi sang Mỹ để nghiên cứu về nền văn học hải ngoại. Ra hải ngoại thì hai học giả "cò mồi" này lại lớn tiếng kêu gọi hải ngoại hòa hợp với nền văn học đổi mới ở trong nước. Học giả cộng sản cũng không thoát khỏi bản chất lừa bịp của chế độ. Ba đoạn trích sau đây chứng minh hai học giả này là ai và họ đã lừa bịp trắng trợn như thế nà thực

1. Cứ như Hồ chủ tịch trình bày về mục đích viết của mình thì mục tiêu của người nghệ sĩ cách mạng trước hết phải hướng về sự cải tạo cách mạng xã hội, mục tiêu đó phải trở thành nguyện vọng thiết tha, ham muốn tột bậc của người nghệ sĩ (Văn Học và Học Văn nguyện vọng thiết)

2. Văn học là sự phản ảnh thực tế. Tìm hiểu quan điểm tiếp cận thực tế của Hồ chủ tịch có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan điểm tiếp cận văn học của người. (Văn Học và Học Văn, trang 11)

3. Văn học xã hội lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở triết học (Văn Học và Học Văn, trang 13)

Như vậy mà Kevin đã trả lời phỏng vấn của báo The Boston Globe ngày 26-10-2000, rằng nếu họ [Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi] là những học giả trực tiếp với đường lối của đảng, thì Kevin đã không mời họ. Như vậy Kevin không hiểu gì về Hoàng Ngọc Hiến hay là Kevin cố tình lường gạt dư luận? Thái độ của WJC/UMB đối với việc thực hiện chương trình nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản như thế nào, chọn ai để viết chương trình này, đã bộc lộ rõ ràng trong đoạn trích dưới đây.

... trong toàn bộ tập "Grant Proposal", không hề có một chữ nào nói tới việc dự tính mời các nhà văn và bộ tập “Gran

"Trong suốt ba năm[của chương trình Rockefeller] chúng tôi chủ trương kết hợp càng nhiều càng tốt, các chương trình đang thực hiện với các nhà văn và các học giã từ Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm kiếm các phương tiện thích hợp để xuất bản và phổ biến những bài viết, những phản ảnh của các học giả này trên báo chí, và các phương tiện điện tử ở khắp nơi" Trong suốt ba năm[của chương trình

Một hành động rất "ngộ nghĩnh" một cách trái thường là trong tập "UMass Boston Program Plan" WJC/UMB mời Ngụy Ngữ từ Hà nội sang Mỹ và giới thiệu Ngụy Ngữ là tiêu biểu của QLVNCH. Trên thực tế thì Ngụy Ngữ là một chuẩn úy thuộc QLVNCH đã đào ngũ theo Cộng sản và đang phục vụ trong guồng máy tuyên truyền của Hà Nội. Khi WJC/UMB mời đại tá Lê Lựu, một nhà văn "lỗi lạc" (nguyên văn) của quân đội Cộng sản sang Mỹ, và WJC/UMB muốn có một nhà văn của QLVNCH cùng hiện diện với Lê Lựu nên đã gắn danh hiệu QLVNCH cho Ngụy Ngữ, để cùng hiện diện với Lê Lựu cho có đủ màu sắc của cả hai miền Nam và Bắc. Đoạn trích dưới đây vạch rõ thái độ rất "hài hức" rất quái dị

Trung tâm (WJC) đã bảo trợ cho việc trao đổi các nhà văn, nghệ sĩ, học giả và giáo giới của Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1987, khi đó còn ít cơ quan lưu tâm tới Việt Nam - với cuộc thăm viếng lịch sử của Lê Lựu, [nhà văn quân đội Cộng sản cấp đại tá] và Ngụy Ngữ [chuẩn úy QLVNCH, dào ngũ theo CS], hai nhà văn quân đội lỗi lạc của miền Bắc và miền Nam, thuộc Quân Đội Nhân Dân và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... (UMass Boston Program Plan, p. 7)

Đây rõ ràng là WJC/UMB đang làm trò "qủy thuật" chứ không phải là nghiên cứu đại học (Academic research)! Tại sao WJC/UMB không mời một nhà văn quân đội thực sự là quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đang sống tại Hoa Kỳ và đang kêu gọi WJC cho giới viết văn hải ngoại được tham gia hội luận quốc tế hàng năm do WJC tổ chức với tư cách là hậu quả chiến tranh Việt Nam, vì WJC/UMB chỉ mời có CSVN mà thôi. Một mặt, WJC làm ngơ trước lời kêu gọi của giới viết văn hải ngoại thuộc QLVNCH, mặt khác WJC đem Cộng sản từ Hà Nội qua và giới thiệu là nhà văn quân đội thuộc QLVNCH! Thật không còn có một trò lừa bịp nào trắng trợn hơn hành động này qủy thuật chứ

Còn một vấn đề quan trọng trong chương trình này chưa được nêu ra, nhưng vì khuôn khổ của một bài viết trong tạp chí không thể dài hơn được nữa.
Nghiên cứu về việc làm của WJC/UMB mà chưa xét tới phần "Tiểu Luận về Khái niệm về chương trình Học Bổng Nhân Văn của Rockefeller Foundation" của WJC/UMB thì chưa thấy được nền tảng triết lý của chương trình này như thế nào. Do đó chưa thấy được những âm mưu đen tối của WJC/UMB khi dự trù xin ngân khoản để thực hiện chương trình nghiên cứu này nhằm mục đích xóa sạch tội ác chánh trị của Việt cộng trước sự phán xét của lịch sử.

MẶT TRÁI CỦA CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NHÂN VĂN ROCKEFELLER

Rockefeller Foundation tài trợ $250,000 cho UMass Boston để thực hiện một chương trình nghiên cứu mang tên: "Tái Xây Dựng Đặc Trưng và Nơi Cư Trú của Người Việt Tỵ Nạn Trên Khắp Thế Giới". Chương trình kéo dài ba năm và năm thứ nhất sẽ đặt nền tảng cho sự triển khai của hai năm còn lại. (UMass Boston Program Plan, trang 2) vì vậy năm thứ nhất có tầm quan trọng trọng hơn và có ý nghĩa quyết định cho toàn bộ chương trình, và đã được thực hiện xong bởi hai học giả của đảng Cộng sản là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi. Hiến nguyên là giám đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du Hà Nội. Khác với chúng ta ở đây, những nhà văn có uy tín ở Việt Nam phải là những người xuất thân ở trường này vì đây là trường Đảng. Nguyễn Huệ Chi là chủ nhiệm Ban nghiên cứu và lý luận văn học của Viện Văn Học Việt Nam tại Hà Nội. Tiến sĩ Kevin Bowen khẳng định rằng chỉ có một mình Hiến là đảng viên thôi. Chúng ta không thể nào thẩm tra được lời nói này. Tuy nhiên, đây là một kinh nghiệm về thủ đoạn của Việt Cộng. Trước đây, tại hội nghị Paris năm 1972, khi báo chí Pháp hỏi bà Nguyễn Thị Bình về Đảng Tịch, hay nói nôm na là bà có phải là đảng viên đảng cộng sản không, thì bà Bình thề sống thề chết rằng bà không phải là đảng viên, và bà còn đưa ra nhiều lý luận để đảm bảo lời đã nói. Nhưng mới đây, khoảng hai, ba năm trước, báo chí ở trong nước và cả các hệ thống thông tin khác cũng đều loan báo là bà Nguyễn Thị Bình đã được trao tặng huy chương cao nhất nhân dịp kỷ niệm 40 năm tuổi đảng của bà. Nguyễn Huệ Chi ngồi ở ghế CHỦ NHIỆM ỦY BAN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN VĂN HỌC là vị trí chủ chốt của guồng máy khống chế tư tưởng của cả nước mà lại không phải là đảng viên thì thật là buồn cười.

Đem hai viên chức cao cấp trong guồng máy tuyên truyền của nhà nước cộng sản Việt Nam sang Mỹ để MÔ TẢ người Việt tỵ nạn cộng sản là một nghịch lý chưa từng thấy trong lịch sử văn học của thế giới. Bản thông cáo báo chí của WJC/UMass Boston đề ngày 15-4-2000 đã xác định:

"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn phong, chủ đề, các nguồn viết văn hải ngoại với sự chú trọng đặc biệt vào lòng yêu nước và sự gắn bó với tổ quốc [Việt Nam] của ngư “Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn phong,"

Đã hơn một năm qua, đồng bào ta đã liên tục đấu tranh để bảo vệ phẩm giá của cộng đồng người Việt tỵ nạn. Chúng ta cương quyết không cho WJC/UMass Boston thực hiện mưu đồ đen tối của họ. Tài liệu do UMass Boston viết để xin ngân khoản của Rockefeller Foundation cho thấy rằng Hà Nội đã trực tiếp chi phối chương trình nghiên cứu này từ khi còn trong trứng nước. Đoạn trích sau đây nói rõ vấn đề này:

Mới đây các học giả ở Việt Nam cũng bắt đầu chú ý tới cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Ngoài việc đánh giá tiềm lực kinh tế trong nước - do bởi ưu tiên tối hậu dành cho việc tái thiết đất nước bị chiến tranh tàn phá, và vì lập trường chống đối chính phủ một cách gay gắt của nhiều người tỵ nạn sống trong cộng đồng hải ngoại. Nhưng tình hình đang thay đổi... (Re-constructing identity and Place in the Vietnamese diaspora, p.4)

Bọn cộng sản Hà Nội nhận định rằng tinh thần chống Cộng của đồng bào hải ngoại đang thay đổi có lợi cho bọn chúng, nên chúng đã cấu kết với WJC/UMass Boston để dựng lên cái gọi là HÒA HỢP giữa người tỵ nạn cộng sản với cộng sản Hà Nội. Đoạn trích sau đây để lộ âm mưu của chúng:

...đồng thời cũng nối những nhịp cầu nhận thức và tập quán với ngành Việt Nam Học [của UMass Boston] nhằm thiếp lập những hinh thức linh hoạt để giải thích những thựctế phức tạp trong nhiều mối quan hệ tình cảm của người Việt lưu vong và tạo ra những khả năng hòa hợp không những giữa người Việt lưu vong và tổ quốc của họ, mà còn.... (Re-Constructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora, trang 4).

Tập tài liệu xin ngân khoản được viết bởi một nhóm tiến sĩ của trường UMass Boston, nhưng thật tình không ai có thể hiểu tại sao họ lại có thể nặn ra một kế hoạch để phản lại sự hiểu biết căn bản và tối thiểu về việc nghiên cứu văn học. Những ai đã từng biết sơ qua về việc nghiên cứu đều hiểu rằng: Nghiên cứu là tìm ra sự thật nhằm trả lời câu hỏi được đặt ra cho chương trình nghiên cứu. Ở đây câu hỏi là:


"ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI TỴ NẠN".

Nhưng UMass Boston KHÔNG TRẢ LỜI CÂU HỎI MÀ LẠI "TẠO RA NHỮNG KHẢ NĂNG HÒA HỢP", một khi đã cố tạo ra một cái gì đó trong quá trình nghiên cứu thì chương trình này không còn mang tính chất nghiên cứu nữa. Đây hiển nhiên là UMass Boston đang âm mưu thực hiện một kế hoạch HÒA HỢP của Cộng sản Hà Nội.

Mở một chương trình nghiên cứu về cộng đồng tỵ nạn Cộng sản, UMass Boston chỉ nói tới việc mời các học giả cộng sản từ Việt Nam, mà không có một lời nào về học giả tỵ nạn cộng sản. Như vậy làm sao chương trình này có thể phản ảnh trung thực về đời sống của cộng đồng người Việt tỵ nạn? Đoạn trích sau đây để lộ âm mưu của UMass Boston:

"Trong suốt ba năm [của chương trình Rockefeller nghiên cứu về người Việt lưu vong], chúng tôi chủ trương kết hợp càng nhiều càng tốt, các chương trình đang thực hiện với các nhà văn và các học giả từ Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm kiếm các phương tiện thích hợp để xuất bản và phổ biến những bài viết, những phản ảnh của các học giả này trên báo chí, và các phương tiện điện tử ở khắp nơ “Trong" suốt ba năm [của chương trình]

Khi nguồn tin về vụ WJC được phát giác, các tổ chức Cộng Đồng tại khắp nơi, các đoàn thể và rất nhiều cá nhân, trong đó có nhiều người Mỹ đã gửi kháng thư ồ ạt về Rockefeller Foundation (nơi cung cấp tiền cho chương trình nghiên cứu này), viện trưởng viện đại học UMass Boston và WJC.

Trong giai đoạn này có hai sự kiện đáng chú ý là:

1/ Cuộc họp giữa phái đoàn đại biểu của Cộng Đồng Việt Nam tại Massachusetts và WJC vào ngày 14-8-2000 nhằm đề nghị WJC phổ biến chương trình của họ để các

học giả, nhà văn Việt Nam tại Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới có thể tham dự, vì chương trình nghiên cứu về cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mà lại đem Cộng sản từ Việt Nam qua để viết thì không thể chấp nhận được. Nhưng cuộc họp đã thất bại vì thái độ ngoan cố và ngạo mạn của WJC/UMass Boston.

2/ Cộng Đồng Người Việt tại Massachusetts đã tổ chức một cuộc biểu tình vào ngày 26-10-2000 gồm khoảng 300 đồng bào tham dự. Báo chí Mỹ, đài truyền hình Boston, và Fox News đã loan tin này. Nhưng chẳng những WJC tiếp tục làm ngơ mà còn cho một người Việt Nam mang danh nghĩa tỵ nạn và đang làm việc cho WJC viết những bài biện bạch đưa lên mạng lưới với những lời lẽ láo xược.

Trước tình cảnh quá đáng đó, một nhóm gồm 12 người là các ông:

1. Ông Bùi Diễm, nguyên Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trước 1975

2. Ông Nguyễn Tú, ký giả đã từng viết cho tờ Chính Luận tại Saigon

3. Cô Theresa Vương Ý Như, Tiến Sĩ, Giáo Sư Đại Học tại Philadelphia

4. Ông Nguyễn Đạt Thịnh, nhà văn quân đội, nguyên trung tá QLVNCH

5. Ông Lê Phước Sang, Tiến Sĩ, nguyên Thượng Nghị Sĩ và Viện Trưởng Viện Đại Học Hòa Hảo tại An Giang

6. Ông Nguyễn Tường Bá, Luật Sư, nguyên Tổng thư Ký Luật Sư Đoàn của VNCH trước 1975

7. Ông Trần Minh Xuân, nguyên giáo sư Đại học tại Việt Nam

8. Nhà văn Phan Nhật Nam, nguyên sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù

9. Ông Lê Thanh Quang, chủ nhiệm nhật báo Thời Mới tại Philadelphia

10. Ông Nguyễn Thanh Liêm, tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên.

11. Ông Nguyễn Văn Chức, nguyên Luật Sư Tòa Thương Thẩm Saigon, nguyên Chủ tịch Ủy Ban Tư Pháp Định chế Thượng Viện VNCH, nguyên Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

12. Ông Nguyễn Hữu Luyện, nguyên là sinh viên Cao Học tại UMass Boston đã đứng đơn dùng tố quyền tập thể (class action) để khởi tố WJC/UMass Boston, và tới nay thì đơn khởi tố đã lên tới tòa thượng thẩm của tiểu bang Massachusetts.

Khi Việt cộng kêu gọi hòa hợp là lúc chúng đang muốn cho người quốc gia đút đầu vào cái thòng lọng của chúng. Cộng sản Hà Nội đang âm mưu tạo ra một hình thức HÒA HỢP VĂN HỌC để hậu thế nghĩ rằng không có vấn đề tỵ nạn cộng sản ở thế kỷ 20, để rửa sạch tội ác của chúng trước sự phán xét của lịch sử. Trước 1975, Việt cộng kêu gọi HÒA HỢP DÂN TỘC để làm suy yếu tinh thần chống cộng của người dân miền Nam. Nhưng sau 1975, chính những người đã buông súng để mong HÒA HỢP đã bị Việt cộng đưa vào nhà tù từ 10 tới 20 năm.

Chính Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi đang đóng vai trò HAI MẶT TRÁI NGƯỢC NHAU. Ở trong nước thì hai người này dùng quyền lực của Đảng và nhà nước để thúc ép giới việt văn duy trì triết lý DUY VẬT BIỆN CHỨNG, và viết theo lời dạy của "Hồ chủ tịch". Nhưng khi ra hải ngoại thì rêu rao về cái gọi là nền văn học đổi mới, và kêu gọi nền văn học của người Việt tỵ nạn cộng sản HÒA HỢP với cái gọi là văn học dân tộc của chúng. Một khi đã hòa hợp với bọn cộng sản Hà Nội rồi thì còn đâu là tư cách tỵ nạn cộng sản của đồng bào ta nữa? Như vậy chúng ta lấy gì để giải thích cho con cháu chúng ta hiểu vì sao chúng lại sinh ra trên mảnh đất này? Lấy gì để giải thích về nguyên nhân của sự ra đi trong muôn ngàn đau đớn, hiểm nghèo và thống khổ của ba triệu người Việt sau này theo

Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản cương quyết ngăn chặn bàn tay tội ác của WJC/UMass Boston bởi vì hòa hợp với cộng sản Hà Nội có nghĩa là phản bội hơn nửa triệu sinh linh đã chết trên biển cả, phản bội hàng chục ngàn thường dân đã chết trong cuộc thảm sát tết Mậu thân, và các cuộc thảm sát trên nhìn từ điểm đầu thế kỷ XXI (3-34) của Nguyễn Huệ Chi. Đoạn trích sau đây cho thấy ông Nguyễn Huệ Chi đã thủ vai trò như WJC/UMass Boston đã nêu lên trong UMass Boston Plan là tạo khả năng HÒA HỢP giữa văn học quốc nội và văn học hải ngoại như thế nào

... thì đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên tiếng "hợp lưu" để cùng với dòng văn học đổi mới từ trong nước "hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài trong sự cảm thông giữa những người cầm bút" (Văn tiếng? hợp lưu? để cùng

TÓM LƯỢC VỤ KIỆN WJC/UMASS BOSTON

Thủ tục "hành chánh" của vụ án WJC/UMass Boston đã xong, có nghĩa là MCAD đã kết thúc giai
đoạn điều tra. MCAD (Massachusetts Commission Against Discrimination) là chữ viết tắt của HỘI ĐỒNG BÀI TRỪ KỲ THỊ của tiểu bang Massachusetts.
HỘI ĐỒNG XÁC NHẬN KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ KỲ THỊ trong vụ án này. Tuy gọi là điềutra, nhưng sự thật thThủ hội đồng chỉ căn cứ vào lời khai của hai bên nguyên và bị để ra quyết định mà không hề điều tra để xác định xem lời khai là thực hay gian. Chúng ta đã có đủ chứng cớ về lời khai gian của WJC/ UMass Boston. Theo luật thì chỉ sau khi Hội Đồng tuyên bố quyết định, thì bên nguyên đơn mới được phép đệ đơn khởi tố vào tòa án. Luật sư Keane nói rằng quyết định của MCAD hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới sự xét xử của tòa án. Nhưng theo thủ tục tố tụng, thì những vụ án nào liên quan tới vấn đề kỳ thị thì phải qua Hội Đồng này.

Ngày 28-09-2001, Luật sư James P. Keane & Alice J. Klein đã đưa vụ án này ra trước Tòa Thượng Thẩm (Superior Court) của tiểu bang Massachusetts. Đồng thời cũng đệ đơn lên Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp của tiểu bang Massachusetts để xin mở cuộc điều tra về hành động vi phạm luật pháp của WJC/ UMass Boston. Nội dung đơn xin mở cuộc điều tra như sau:

Đầu năm 2000, WJC/UMass Boston bổ nhiệm hai người Cộng sản vào chương trình nghiên cứu do Rockefeller Foundation tài trợ. Sự bổ nhiệm n ày là một vi phạm rõ ràng vào Luật của tiểu bang Massachusetts, chương 264, đoạn 20. Đính kèm đây là một bài của báo Far Eastern Economic Review, số ra ngày 30 tháng 9, 2000, trong đó Kevin Bowen, Giám đốc WJC nhìn nhận rằng một trong 2 người đã bổ nhiệm là đảng viên đảng Cộng sản. Bộ luật của tiểu bang Massachusetts đã xác định rõ ràng rằng đảng Cộng sản đã được công bố là một tổ chức có tính cách lật đổ và gây bạo loạn, do đó cấm gia nhập đảng (membership prohibited) và cấm thuê mướn các đảng viên (appointment to employment prohibited) chiếu th eo bộ luật M.G.L. a. ch. 264, sec.16 A, 17, 19 et al.

Trong đơn xin điều tra về hành vi phạm pháp của WJC/UMass Boston, Luật sư Keane có đưa ra một bằng chứng về tư cách đảng viên đảng Cộng sản của Hoàng Ngọc Hiến. Bằng chứng này là 3 đoạn trích dẫn lấy từ cuốn sách VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN của Hoàng Ngọc Hiến, xuất bản năm 1999, ngay trước khi ông được WJC/UMass Boston mời sang Mỹ để viết về cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Ông Hiến nguyên là Giám Đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội. Đó là trường của Đảng.

Về phía các luật sư của chúng ta thì tôi nhận thấy rõ là từ sau ngày Đại Hội Yểm Trợ Vụ Kiện WJC/UMass Boston, vào ngày 26-8-2001 tại Boston, cả ba vị luật sư đang phụ trách vụ án này đều tỏ ra rất phấn khởi. Trong cuộc họp báo tại văn phòng của Luật Sư Keane, các báo chí, truyền hình và radio từ các tiểu bang về đông đến nỗi chỉ có một nửa đứng trong phòng họp, còn một nửa phải đứng ngoài, và có cả tờ The Boston Globe là tờ báo lớn nhất của tiểu bang Massachusetts cũng tới dự. Sau buổi họp báo đó thì văn phòng này mới thấy rõ là họ đang biện hộ cho cả ba triệu người tỵ nạn.

Khi chuyển vụ án này ra tòa thượng thẩm, tôi có nói với Luật Sư Keane rằng nếu ông thấy cần thiết, ông hãy mời những luật sư nào nổi tiếng nhất nước Mỹ để phụ giúp ông. Chúng tôi có ba triệu người tỵ nạn cộng sản, không một ai trong chúng tôi lại có thể ngồi yên để cho bọn Việt cộng mượn tay một trường đại học lớn, mượn danh nghĩa một Foundation để dùng công trình nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế này để làm nhục chúng tôi. Chúng tôi không thể để con cháu chúng tôi nhìn hình ảnh của cha ông chúng qua những nét bút của bọn Việt cộng. Ba triệu người tỵ nạn cộng sản, mỗi người chỉ bỏ ra $1 là chúng tôi có thừa tiền để đưa vụ kiện này tới bất cứ nơi nào, bất cứ cấp nào vì tuy gặp khó khăn vì thế lực của trường UMass Boston rất mạnh tại tiểu bang Massachusetts, nhưng chúng tôi cũng vẫn tin tưởng vào luật pháp Hoa Kỳ. Luật Sư Keane trả lời tôi rằng ông không cần bất cứ một ai khác.

Khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi xét xử, thì Luật Sư Keane cho biết trong vòng một năm. Tôi nhấn mạnh (insist) rằng thời gian là một yếu tố hoàn toàn bất lợi cho cộng đồng người Việt. Chúng tôi đã bị ghìm ở trong Hội Đồng bài trừ kỳ thị mất một năm rồi. Còn hai năm nửa, nếu chương trình nghiên cứu của UMass Boston làm xong, và khi họ đã công bố và cho xuất bản rồi thì dù có án lệnh của tòa án cũng không thâu hồi lại được. Như vậy trong lúc chờ đợi xét xử, chúng ta có đủ bằng chứng về sự gian lận và phạm pháp của trường UMass Boston rồi thì có thể xin án lệnh đình chỉ việc nghiên cứu để chờ phán quyết của tòa án được không?

Luật sư Keane trả lời rằng chỉ khi nào ra trước tòa, sau khi đã trình bày rõ mọi vấn đề thì mới xin tòa đình chỉ chương trình để đợi án lệnh thì mới được. Chưa có phiên xử thì không thể làm gì được hết. Tôi nhấn mạnh vào thời gian chờ xét xử để nhờ Luật Sư Keane SPEED UP ngày xử bằng tất cả những biện pháp chuyên môn mà ông có thể làm được. Luật Sư Keane hứa sẽ thúc đẩy việc xét xử trong vòng sáu tháng, và khuyên tôi không nên nóng nảy quá, để ông ấy lo, và nhờ tôi nói lại với đồng bào là ông ấy rất thông cảm với cộng đồng người Việt vì ngày xưa ông ấy đã sang Việt Nam chiến đấu rồi...



 

 

 

 




Người Tù Kiệt Xuất - BIỆT KÍCH DÙ


Tác Giả: Phan Lạc Phúc

Tôi đã nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười biếng thì chỉ có một phần.

 Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quý vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn còn có chút âm hao để mà theo dõi. Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” - không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay.

Không được liên lạc với ai, coi như không còn hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, những anh em Biệt Kích Dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi như mình đã chết; nhảy xuống, tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, vì các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng ký hợp pháp ở một chính phủ nào.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, (thời tổng thống Ngô Đình Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan tình báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan tình báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lãnh tụ. “Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích...

Như mọi người đã biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đã bị rơi vào tình trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt.

Không ai biết rõ hay biết mà không ai dám nói ra, đã có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những gì? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như lòng người, đều vô tình như nhau. Nào ai còn nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai còn, ai mất?

o0o

Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.

Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mửi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.

Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đã trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.

Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh hôm nay”. Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được 5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.

Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đã có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng... đó là “về với đất”.

KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ

Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ còn có K3 - nơi giam tù hình sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đã rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu... Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.

Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây số mà hai ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái gì đã xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 ký quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống thì là tai họa. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm gì có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái chòi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đã khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đã muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ còn ở lại Sài Gòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.

Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nửi âu lo âm ĩ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con mình, thân nhân của mình phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho vợ con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình còn chưa chắc là của mình thì còn lo cho ai được nữa.

Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù thì ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong của họ, vì sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất là vì Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu còn chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió.

Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nhì đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này thì không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu gì, lại còn có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương. Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gử súc đem ra Thanh Hóa bán chui thì nhiều.

Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mửi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa thì có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà. Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả lòng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, vì anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.

Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.

Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có gì để mất, đã nói là làm”.

Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối...

GẶP NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ

Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà còn là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài Gòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí... cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ báo.

Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mõm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi... anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

Sở Bắc, Nha Kỹ Thuật
BTTM, QL VNCH

Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, vì anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... tôi chưa thua các anh.

Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. - Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”. Anh đã bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dã man nổi tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đã trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận.

Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chúng tôi chưa có chết. Còn ẩn lánh đâu đó... Lãnh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về...”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm.

Họ nói “được lệnh của đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh thì chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.

Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bã. Tự hào vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy, buồn bã vì nhìn lại bản thân, nhìn anh em xung quanh mình thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một nơi nương tựa tinh thần.

o0o

Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.

Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mửi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.

Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đã trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.

Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh hôm nay”. Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được 5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.

Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đã có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng... đó là “về với đất”.

VỀ TRẠI TÂN KỲ

Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù hình sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Võ Tr. lãnh tụ VNQĐD ở miền Trung, Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lãnh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.

Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ trên 50 người. Vì có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị.

Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Tòa án Quân sự, là giáo sư Trường Võ Bị Quốc Gia v.v... Ở đây thì đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu thì một là biện lý, một là đại đức, một là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đã trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.

Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm vì dù đã đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể mình hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.

Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện hình như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có lòng quý mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đòi hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi thì lại khổ đấy anh ạ”.

Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đã nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy hôi hám nên cực chẳng đã mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.

Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã cao anh lại còn đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bửng nhiên nhớ đến hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:

Ta van cát bụi trên đường,
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm thì cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt thì cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời... tương phản rõ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện:
— “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?” Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy.


Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhãn hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa.

Nó hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. - “Như vậy thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế”.

BẠN TÙ FULRO

Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức - Tây Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía... Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lý lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi.

Sự ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng lời nói. Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đã phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận võ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.

Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ “căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế củ khoai, đẫn mía... Anh em đội rau thì đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.

Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ.

Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữu ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chử đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chử khác.

Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đã đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chử cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng.

Anh này chạy bay đến chử anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you...” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngã chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.

Bửng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nã thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đã bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It's none of your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng gì. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi...”.

Sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... Tôi chưa thua các anh."

Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện “accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.

Sau khi những tấm hình của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữu mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đình?” Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói:

— “Thực tình tôi không nghĩ là vợ con tôi còn đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi tìm hộ... Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sài Gòn, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã chết.

Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi còn nghĩ đến tôi, còn chờ đợi tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban cho. Nhưng tôi đã nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con mình cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, mình là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm mình vào đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình, họ đọc thư, họ biết như vậy, thì mình không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy phục, thì làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là vì thế...”

ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI

Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đã xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đã nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không còn một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời.

Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây thì ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang rình mồi, những hốc tối mò làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đã có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng bình dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như mình để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.

Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đã cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn còn buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra hò hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi aỉ” - “Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây”.

Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật mình nhưng nhìn lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa... Người đứng trên cây, nhìn kỹ, cổ đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống.

Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục hò hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vã thổi còi ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em xì xào “Ai đấy nhỉ?” - “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng Bình, Quảng Trị” - “Đúng hắn rồi còn ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.

Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im vắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân Th. vẫn còn róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi ‘nghĩa vụ’ sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về.

Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậỵ..”

Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, hò hét. Nhưng tiếng chửi bới, hò hét thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: “Anh Th., có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”.

— “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. Hình như y đi tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi tìm đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.

Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện gì với nhau không rõ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và dìu anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lãnh Biệt Kích Dù đã nói những gì, đã làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

o0o

Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.

Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại Bình Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đã từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xã hội tù xoay chuyển vòng tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.

Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đã 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu các anh được biết tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui lòng cho tôi được biết.

Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện - (Khóa 4 Thủ Đức)
Sĩ Quan Sở Bắc, Nha Kỹ Thuật
BTTM, QL VNCH

Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm hình con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đã khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế thì mình đành phải chịu, thưa anh”.

Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ là anh đã tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đã nằm im trong cát bụi lãng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấỵ...


Phan Lạc Phúc


https://saigonecho.com/main/vanhoc/tuybut/34535-ngi-tu-kit-xut-bit-kich-du.html



 

Người Tù Kiệt Xuất - BIỆT KÍCH DÙ

Tác Giả: Phan Lạc Phúc

Tôi đã nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười biếng thì chỉ có một phần.

 Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quý vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn còn có chút âm hao để mà theo dõi. Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” - không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay.

Không được liên lạc với ai, coi như không còn hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, những anh em Biệt Kích Dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi như mình đã chết; nhảy xuống, tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, vì các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng ký hợp pháp ở một chính phủ nào.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, (thời tổng thống Ngô Đình Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan tình báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan tình báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lãnh tụ. “Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích...

Như mọi người đã biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đã bị rơi vào tình trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt.

Không ai biết rõ hay biết mà không ai dám nói ra, đã có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những gì? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như lòng người, đều vô tình như nhau. Nào ai còn nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai còn, ai mất?

o0o

Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.

Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mửi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.

Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đã trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.

Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh hôm nay”. Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được 5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.

Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đã có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng... đó là “về với đất”.

KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ

Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ còn có K3 - nơi giam tù hình sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đã rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu... Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.

Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây số mà hai ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái gì đã xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 ký quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống thì là tai họa. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm gì có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái chòi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đã khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đã muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ còn ở lại Sài Gòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.

Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nửi âu lo âm ĩ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con mình, thân nhân của mình phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho vợ con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình còn chưa chắc là của mình thì còn lo cho ai được nữa.

Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù thì ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong của họ, vì sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất là vì Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu còn chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió.

Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nhì đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này thì không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu gì, lại còn có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương. Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gử súc đem ra Thanh Hóa bán chui thì nhiều.

Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mửi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa thì có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà. Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả lòng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, vì anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.

Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.

Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có gì để mất, đã nói là làm”.

Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối...

GẶP NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ

Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà còn là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài Gòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí... cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ báo.

Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mõm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi... anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, vì anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... tôi chưa thua các anh.

Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. - Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”. Anh đã bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dã man nổi tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đã trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận.

Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chúng tôi chưa có chết. Còn ẩn lánh đâu đó... Lãnh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về...”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm.

Họ nói “được lệnh của đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh thì chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.

Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bã. Tự hào vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy, buồn bã vì nhìn lại bản thân, nhìn anh em xung quanh mình thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một nơi nương tựa tinh thần.

o0o

Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại K2 đã chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải trình diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ. Không ngờ đội văn nghệ “què” như vậy, Tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 - đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: “Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi được biết sau này sự hậu đãi ấy là do ý kiến của đại úy Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương trình, đội văn nghệ trình diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi về.

Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đã thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”.

Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao. Đi tù 5, 6 năm nay, mình là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xã hội, tại sao lại có người chào mình trân trọng như vậy. “Mes respects, mon colonel” đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nhìn thấy kiểu chào này đâu. Mình bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu còn gì mà “kính chào trung tá”.

Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện?” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: “Vâng thưa anh, tôi là Luyện”, “Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em mình gặp nhau là quý”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậỵ. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.

Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh còn ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đã lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đã có người lên tướng. Nhưng đối với người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?

Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm rãi nói nhỏ với tôi: “Có một ‘thằng em’ vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin anh cho ý kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ” là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài (radio).

Trong hàng ngũ cán bộ thì công an vốn là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ. Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. Vì vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên mình một cái đài “chạy được”.

Em giữ lại để đeo “ê-cút-tưa” vào nghe tin tức một mình. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với các nhà lãnh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị... Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đã chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi ‘trên không chằng, dưới không rễ’, không còn liên hệ gì với xã hội loài người.

Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng... không biết là mơ hay thật đây”. Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào “Làm sao mình tin được đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp “Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dõi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó lòng. Vả chăng thông tin của khối Xã Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ.

Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đã có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này thì mặt kia. Mình chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nhìn chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ý hay vô tình quên lãng. Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đã từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ” - “Đồng ý trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ còn nhớ đến đồng minh cũ, còn lưu ý đến số phận khốn khổ của chúng ta thì ông Reagan này là số 1.

Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết thì chúng ta còn vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù thì tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có thể được về...”. Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói một mình “Được về, được về, mà về đâu....”

Lời bình Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đã giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20 năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người.

Cùng thời gian đó chương trình “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đình cải tạo viên lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ còn lại trên 50 tù chính trị. Còn lại toàn là tù “đui, què, mẻ sứt” già yếu, bịnh tật... hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc số trên 50 người còn lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thể. Những người tù còn lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù còn lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.

VỀ TRẠI TÂN KỲ

Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù hình sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Võ Tr. lãnh tụ VNQĐD ở miền Trung, Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lãnh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.

Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ trên 50 người. Vì có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị.

Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Tòa án Quân sự, là giáo sư Trường Võ Bị Quốc Gia v.v... Ở đây thì đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu thì một là biện lý, một là đại đức, một là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đã trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.

Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm vì dù đã đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể mình hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.

Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện hình như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có lòng quý mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đòi hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi thì lại khổ đấy anh ạ”.

Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đã nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy hôi hám nên cực chẳng đã mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.

Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã cao anh lại còn đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bửng nhiên nhớ đến hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:

Ta van cát bụi trên đường,
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm thì cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt thì cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời... tương phản rõ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện:
— “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?” Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy.


Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhãn hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa.

Nó hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. - “Như vậy thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế”.

TẤM HÌNH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM

Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách đọc một vài chữ khó. Thì ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển Anh Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi: “Ông học Anh văn kiểu ấy thì bao giờ cho xong?” Luyện trả lời: “Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.

Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự học. Còn văn phạm còn cú pháp, còn cách đọc, cách nhấn... làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù rì bàn chuyện tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài Gòn có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. Vì nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu tìm học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đình gởi tới khá nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em đọc New Time với quan niệm “Nó nói gì, kệ cha nó - miễn là mình có tài liệu học Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người tìm đọc New Time kỹ nhất.

o0o

Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đã được gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đã được trên dưới nửa năm. Đã gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi “đông” hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều gì đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo cáo” hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà... Anh em là những người bị bỏ quên trong xã hội loài người.

Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về từ nửa năm trước đã họp nhau gửi quà cho những người còn ở lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện kể: Một số lớn anh em được về nhưng không còn liên lạc được với gia đình nữa. 20 năm qua gia đình xiêu tán không còn nhận được âm hao. Có anh thì vợ đã lấy chồng khác, đã an phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đã đóng thuyền, người trở về không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm gì nữa. Những anh em tìm lại được thân nhân, gia đình phải nói là rất hiếm.

Vì vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xã hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, mì, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v... những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đã không quên những người ở lại.



Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp lại ăn chung”. Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện thì không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện hỏi. Không biết gia đình của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về mình; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đã làm cho anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp thì các anh em Biệt Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đã âm thầm khẽ nói “được về, được về... mà về đâu?”

Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có còn gia đình, có còn người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức... đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lý. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đã có tin tức... tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho tình trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.

Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số hình ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa hình cho chúng tôi coi. Hình ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy trứơc bàn thờ khói hương nghi ngút.

Trên bàn thờ có tấm hình phóng lớn của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đã khuất. Tấm hình trên bàn thờ nhìn kỹ đâu phải ai xa lạ chính là hình Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: “Khi tôi đi con gái đầu lòng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đã lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đã chết”. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.

BẠN TÙ FULRO

Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức - Tây Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía... Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lý lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi.

Sự ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng lời nói. Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đã phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận võ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.

Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ “căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế củ khoai, đẫn mía... Anh em đội rau thì đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.

Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ.

Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữu ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chử đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chử khác.

Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đã đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chử cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng.

Anh này chạy bay đến chử anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you...” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngã chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.

Bửng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nã thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đã bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It's none of your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng gì. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi...”.

Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện “accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.

Sau khi những tấm hình của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữu mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đình?” Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói:

— “Thực tình tôi không nghĩ là vợ con tôi còn đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi tìm hộ... Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sài Gòn, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã chết.

Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi còn nghĩ đến tôi, còn chờ đợi tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban cho. Nhưng tôi đã nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con mình cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, mình là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm mình vào đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình, họ đọc thư, họ biết như vậy, thì mình không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy phục, thì làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là vì thế...”

ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI

Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đã xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đã nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không còn một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời.

Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây thì ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang rình mồi, những hốc tối mò làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đã có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng bình dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như mình để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.

Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đã cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn còn buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra hò hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi aỉ” - “Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây”.

Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật mình nhưng nhìn lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa... Người đứng trên cây, nhìn kỹ, cổ đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống.

Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục hò hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vã thổi còi ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em xì xào “Ai đấy nhỉ?” - “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng Bình, Quảng Trị” - “Đúng hắn rồi còn ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.

Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im vắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân Th. vẫn còn róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi ‘nghĩa vụ’ sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về.

Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậỵ..”

Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, hò hét. Nhưng tiếng chửi bới, hò hét thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: “Anh Th., có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”.

— “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. Hình như y đi tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi tìm đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.

Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện gì với nhau không rõ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và dìu anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lãnh Biệt Kích Dù đã nói những gì, đã làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

o0o

Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.

Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại Bình Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đã từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xã hội tù xoay chuyển vòng tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.

Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đã 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu các anh được biết tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui lòng cho tôi được biết.

Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm hình con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đã khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế thì mình đành phải chịu, thưa anh”.

Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ là anh đã tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đã nằm im trong cát bụi lãng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấỵ...


Phan Lạc Phúc


https://saigonecho.com/main/vanhoc/tuybut/34535-ngi-tu-kit-xut-bit-kich-du.html

Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. Sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... tôi chưa thua các anh.

No comments:

Post a Comment