Saturday, December 2, 2017

 





Nước Tầu và Việt Nam

Người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chúa Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!

Trước hết, nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập” nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu. Các "vân đất” chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong.

Những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc.

Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm.

Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách di dân là:

1- Một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu. Họ dùng số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nền kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương.

2- Di dân còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng dòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay, cho nên chúng tôi nói: Trên 90% người Hoa Nam đi di dân từ thời nhà Minh.

3- Dù bất cứ ông vua nào khi "thống nhất" đất nước Tàu họ đều nghĩ ra phương thức hay phương pháp đồng hóa người Bách Việt và tìm cách xâm lăng Việt Nam..

4- Những cuộc chiến về văn hóa rất thâm độc nữa. Cuộc chiến tranh văn hóa lâu dài này khiến đa số người Việt chúng ta mắc phải một thứ bệnh: Bệnh này do sự cai trị lâu dài trải qua hàng ngàn năm của người Tàu đối với đất nước, dân tộc Việt Nam Họ đem cái "Hán Nho" của người Tàu vào Việt Nam và họ đã làm đảo lộn nếp sống, xã hội Việt Nam.

Có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thần thánh hơn nhiều và siêu linh hơn nhiều, một cuộc chiến tranh mà trong chúng ta ít biết hay nói đến - "chiến tranh siêu linh" - chuyện Cao Biền trong cuộc chiến tranh trấn yểm linh địa Việt Nam. Cuộc chiến tranh về trấn yểm giữa người Tàu đối với Việt Nam là cuộc chiến tranh hiển hiện từ ngàn xưa đã xảy ra và ngày hôm nay vẫn tiếp tục xảy ra. Cao Biền đã trấn yểm ở dòng sông Tô Lịch, đó là khoảng năm 865 trước đời nhà Đường và sau đời nhà Đường họ cũng vẫn tiếp tục như thế. Các học giả Việt Nam những người tinh thông về địa lý phong thủy như: Lưu Chi, Thiền Sư Định Không, Đinh Hương, Thiền Sư Thông Thiện v. v… họ là những người Việt Nam (Bách Việt) biết trước vụ Cao Biền qua Việt Nam, biết trước vụ Cao Biền sẽ trấn yểm các nơi linh địa, cũng như các Long Mạch trên đất Việt. Riêng La Quý An (852-936), ông là một người kiệt xuất và tinh thông về khoa địa lý phong thủy, La Quý An là học trò của Thiền Sư Thông Thiện, ông có thừa tài để phá các thế trấn yểm của Cao Biền. La Quý An mất với tuổi ngoài 80, ông đã để lại cả một gia sản đồ sộ về khoa phong thủy và địa lý, nhân văn cho đời sau. Vậy những môn học bí truyền này có còn lưu truyền hay tồn tại đến ngày hôm nay chăng? Chỉ những hậu thế và những ai có "duyên" mới có thể lãnh hội được đầy đủ những tinh hoa của tiền nhân.

Khi nhà Minh thống nhất Trung Quốc, thì Hoàng Phúc làm quân sư của nhà Minh (Hoàng Phúc sau này đã bị Vua Lê Lợi bắt sống, sau được trả về Tàu).

Trong cùng thời của Hoàng Phúc thì Việt Nam chúng ta lại xuất hiện những anh hùng tài ba như: Thiền Sư Không Đạo, Đức Vua Lê Lợi, hay thầy dạy của Nguyễn Văn An. Nguyễn An hay Nguyễn Văn An bị bắt đem về Tàu năm 11 tuổi, nhưng ông đã tinh thông về khoa thiên văn, phong thủy, địa lý. Năm 17 tuổi ông đã giúp nhà Minh xây dựng thành Bắc Kinh còn tồn tại đến ngày hôm nay. Thành Bắc Kinh được xây một phần lớn cũng có sự phác họa của Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn là một người tinh thông về khoa tướng số, phong thủy, dịch lý nên ông hiểu rằng sau khi giúp Chu Nguyên Chương thống nhất nước Trung Hoa, thì họ Chu sẽ tiêu diệt các công thần để trừ hậu họa. Sau này quả đúng như ông đã dự đoán và sau này duy chỉ có một mình họ Lưu trốn thoát (vì tinh thông dịch lý và tướng số nên Lưu Bá Ôn đã trốn thoát. Điều này cũng tương tự như Cụ Lý Đông A năm xưa, khi bị Cộng Sản bao vây ở Nga My và Hòa Bình, ông và một số đồng chí cũng đã trốn thoát) còn tất cả các công thần khác đều bị Chu Nguyên Chương giết sạch (có thể vì thấy thần đồng Nguyễn Văn An thông minh nên có lẽ họ Lưu cũng đã "góp sức" với Nguyễn Văn An để trấn yểm thành Bắc Kinh để trả thù nhà Minh?). Nguyễn Văn An đã khôn ngoan nghe lời thầy Việt Nam dặn và ông đã trấn yểm một số linh huyệt của nước Tàu, đồng thời ông đã phá được thế phong thủy trong thành Bắc Kinh. Khi Hoàng Phúc sang Việt Nam đã mang theo cuốn sách địa lý, phong thủy của Cao Biền. “Cuốn Cao Biền Kiểu Tự Tấu Thư" là một tấm bản đồ chi chít ghi rõ địa hình địa vật, nhân văn, kể cả những loài thảo mộc của nước ta).

Mỗi một thời người Tàu mạnh lên dù về mặt trí tuệ hay về mặt quân sự thì đều có những người Việt Nam tài giỏi đáp ứng hoặc trước, hoặc sau. Những người Việt tài ba này đều có sức mạnh về mặt trí tuệ, hoặc về mặt quân sự như lịch sử đã dẫn chứng.

- Thời nhà Đường có Cao Biền thì nước Nam có Thầy Định Không.

- Đến thời nhà Minh có Hoàng Phúc (người rất am tường về Dịch Lý, phong thủy. Hoàng Phúc cũng học các sách của Cao Biền trong việc trấn yểm Việt Nam), thì nước Nam có Sư Đạo Không, anh hùng áo vải Lê Lợi và Lê Lợi am tường nhiều binh thư, trong đó có khoa địa lý và phong thủy.

- Cho đến thời nhà Mạc chúng ta có Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Đến thời Lê - Trịnh chúng ta có tiến sĩ Hòa Chính Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao mà dân gian quen gọi ông là Ông Trạng Tả Ao.

Đây không phải là vấn đề lý số vớ vẩn, nhưng đây là khoa Huyền Học. Khoa Huyền Học này chứng tỏ cho thấy:

- Mỗi thời người Tàu mạnh về mặt trí tuệ, họ đều muốn sang để trấn yểm các long mạch Việt Nam, thì thế nào họ cũng gặp một số đối thủ người Việt có trình độ cao hơn, có như vậy người Việt mới phá được những thế trấn yểm thâm độc của Tàu tại Việt Nam. Ngoài việc đánh nhau với Tàu trên mặt Huyền Học, chúng ta còn đụng với Tàu về mặt quân sự qua những cuộc chiến tranh nơi chiến trường được thể hiện trong bốn bài học lịch sử mà người Việt Nam chúng ta đều đã nằm lòng mà chúng tôi đã có dịp nói qua trong bài "Cuộc Quật Khởi Của Toàn Dân Việt".

Cao Biền đã trấn yểm khi xây thành Đại La đồng thời phá cái thể phong thủy của nước Việt Nam trên sông Tô Lịch. Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La, viện cớ là thấy rồng bay lên cho nên ông đổi tên từ Đại La ra thành Thăng Long (Thăng Long có nghĩa là Rồng bay lên, như vậy vua Lý Thái Tổ biết chắc chắn rằng mình đã phá được các thế trấn yểm của Cao Biền năm xưa, nên cái lưới "Đại La” đã không còn linh nghiệm để có thể nhốt được con Rồng Việt nay đã bay lên "Thăng Long”).

Trong thực tế, Lý Khánh Vân và Lý Khánh Đản đã giúp Lý Công Uẩn phá hết các thế trấn yểm của Cao Biền trong thành Đại La. Những gì Cao Biền trấn yểm trên 13 thế kỷ thì cách đây chưa đầy một năm đã hoàn toàn bị phá hủy. Bị phá hủy ra sao? Xin thưa: Nơi dòng sông Tô Lịch bao quanh Hà Nội cách đây gần một năm đã nổi lên một lần ba cái xác người mà năm xưa Cao Biền đã cho chôn dưới dòng sông (do những đồng tiền cổ lấy được trong miệng từ các xác người này, người ta mới khẳng định là chính Cao Biền đã dùng các xác chết này để trấn yểm long mạch trên sông Tô Lịch). Một thời gian sau đó lại nổi lên thêm bảy xác nữa. Sự kiện này cho thấy: "Thế trấn yểm của Cao Biền ở 13 thế kỷ trước tại dòng sông Tô Lịch đã hoàn toàn bị phá hỏng".

Điều thứ hai chúng ta cần lưu ý là khi thành Thăng Long cổ xây cất từ thời nhà Lý mới đây vừa được khai quật, thì theo luật trấn yểm khi ánh sáng mặt trời chiếu vào sẽ làm mất đi âm khí, thì hiệu quả của thế trấn yểm do Cao Biền đặt trước đây đã bị Tán (nghĩa là bị phá tan).

Lăng Hồ Chí Minh hiện nay nằm ngay Soái Kỳ của Nhà Lý ngày xưa, điều này chứng tỏ rằng: "Các tay phong thủy và địa lý người Tàu đã giúp cho Cộng Sản Hà Nội một lần nữa trấn yểm lại Thành Thăng Long như Cao Biền đã làm ngày xưa, nhưng phúc cho dân tộc Việt Nam, là kinh đô Thăng Long đã hiện ra, như vậy thế trấn yểm của người Tàu cũng thật sự đã bị phá tan". Cho nên lần phát biểu trước đây, tôi có nói về chuyện lăng Hồ Chí Minh là "lăng trấn yểm” Tàu đã dùng những phương cách khác nhau và mượn ông "thầy bói" nào đó xúi cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ yểm xác Hồ Chí Minh tại đó (lăng Ba Đình).

Việc ướp xác này là hình thức trấn yểm mới của bọn Tàu đối với Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã đi Nga để yêu cầu Nga giúp Hà Nội bảo vệ xác chết của Hồ Chí Minh. Điều đó có nghĩa là: Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục làm công việc phản dân hại nước là dùng xác chết Hồ Chí Minh trấn yểm nơi linh thiêng của dân tộc ngay tại Soái Kỳ của Triều Lý ngày xưa.

Nhưng Hà Nội phải hiểu rằng "phúc đức” của họ đã không còn, nên cho dù họ có cố gắng dùng xác chết của Hồ Chí Minh trấn yểm ngay tại Thăng Long thì cũng vô hiệu quả. Đó là điều chúng ta phải thấy. hình thức chiến tranh đặc thù của Á Châu, nó chỉ xảy ra giữa người Tàu và người Việt, nhưng không xảy ra giữa người Tàu và người Nhật, hay người Tàu với người Triều Tiên. Cho nên tôi mới phán quyết lý do tại sao người Tàu mỗi một khi thống nhất đều phải đánh Việt Nam là vậy.

Nhà máy thủy điện Sơn La, vì vùng đó được coi là con mắt trái của Việt Nam. Khi xây nhà máy Sơn La thì Tàu có ý đồ thâm độc muốn đục thủng con mắt trái đó. Như vậy, nước Việt Nam bị mù một con mắt. Nếu con mắt phải là Hà Nội (Thăng Long) mở ra, thì con mắt trái lại bị mù. Đó là sự thật để cho mọi người Việt Nam chúng ta nhìn thấy sự thâm độc trong từng đường lối chi tiết của người Tàu đối với Việt Nam. Cuộc chiến tranh trấn yểm này là cuộc chiến tranh rất quan trọng chúng ta cần lưu ý. Cho nên chúng ta đi đến kết luận: Hà Nội là tay sai của Bắc Kinh, điều này không ngoa.

Thời Bát Quốc Liên Minh chống nhà Thanh, Từ Hi Thái Hậu có cho gom tất cả sách vở Trung Hoa lại để viết thành hai bộ sử ký, hai bộ sách này ghi lại tất cả lịch sử từ thiên văn, địa lý, phong thủy, chính trị, quân sự, tình báo, gián điệp v. v… cho đến cây kim sợi chỉ của nước Tàu từ xa xưa cho đến nay. Bà Từ Hi Thái Hậu đem một trong hai bộ sử ký nói trên tặng lại cho Hoa Kỳ. Tôi nghĩ rằng trong thời gian đó, người Mỹ không đủ sức để nghiên cứu đến sự thâm sâu trong nền văn minh Đông Phương. Bởi vì nền văn minh La Mã (Rome) kéo dài đến ngày nay là nền văn minh thiên về vật chất. Và cho dù về mặt tinh thần họ cao đi nữa, nhưng họ không nắm vững được cái tinh túy thật sự của văn minh Phương Đông; mà văn minh Phương Đông trong đó chính là văn minh Bách Việt.

Cho đến khi các Cụ Mỹ và các Cụ Việt Nam do thời thế xoay vần, đã gặp nhau và các tài liệu đó được đem ra xem xét mổ xẻ đến nơi đến chốn. Khi mổ xẻ đến nơi đến chốn thì những kế sách được mang ra áp dụng. Kế sách được gài như sau: Ai cũng biết rằng khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949, thì việc đầu tiên là Mao nghĩ đến là việc xâm lăng chung quanh (thí dụ chiếm Tây Tạng). Khi phương Tây giúp cho Tàu phát triển lên, thì lẽ đương nhiên người Tàu sẽ có tham vọng bành trướng bá quyền. Họ sẽ không từ bỏ mục tiêu tối hậu giống như lời nguyền - không thể bỏ được - của người Tàu đó là phải xâm lăng nước Việt Nam. Cho nên khi biết mục tiêu đầu tiên của họ Mao là xâm lăng Việt Nam, thì "người khác" họ cũng tương kế tựu kế và trấn yểm lại địa lý nước Tàu. Đứng về mặt phong thủy mà nói, thì khi người Tàu xây đập Tam Khẩu và cho xây một loạt đập nước trên thượng nguồn sông Cửu Long cùng vùng Lạng Sơn, thì điều này đã làm thay đổi phong thủy của nước Trung Hoa một cách rất tai hại. Tàu khi họ chận sông Dương Tử thì họ đã phá cái phong thủy của nước Tàu rồi. Khi họ xây dựng những đập trên thượng nguồn sông Cửu Long, tức là thêm một lần nữa họ đã phá phong thủy nước Tàu.

Nhưng cái đó chưa hay bằng chuyện nước Trung Hoa trúng thầu tổ chức thế vận hội Olympic năm 2008 tới đây. Các Cụ Mỹ - Việt đã bàn thảo tới việc "để” cho Tàu được trúng thầu tổ chức thế vận hội. Việc Tàu đang xây thế vận hội Olympic là một lần nữa làm cho họ tự phá phong thủy (linh địa) của thành Bắc Kinh (tương tự như Nguyễn Văn An đã nghe lời Thầy Việt Nam dặn là phải phá cho được cái thế phong thủy của nước Tàu cách đây 600 năm, cái khác là năm xưa chính Nguyễn Văn An tự vẽ kiểu xây và ngầm trấn yểm thành Bắc Kinh do sự đồng ý của Lưu Bá Ôn, còn bây giờ thì các Cụ Mỹ- Việt tạo điều kiện cho Tàu trúng thầu Olympic 2008 để cho giới lãnh đạo Tàu xây các công trình Olympic vào năm 2008 để Tàu vô tình phá phong Thủy của nước Tàu).

Cuộc "chiến tranh trấn yểm" về phong thủy và địa lý này là cuộc chiến tranh phải xử dụng rất nhiều mưu kế, mà những người biết xử dụng mưu kế này, có thể nói họ là những thánh nhân mới có thể áp dụng một cách hoàn hảo như vậy ("trời sinh Du sao còn sinh Lượng" là vậy). Vì quá tham lam người Tàu đã tự phá mình, khi thế phong thủy này bị phá thì nước Tàu không thể thống nhất được trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi có thể xác định! Lưu Bá Ôn là quân sư cho Chu Nguyên Chương đời nhà Minh, tức Minh Thái Tổ. Khi Lưu Bá Ôn và Chu Nguyên Chương thống nhất Trung Hoa để thành lập nhà Minh, Lưu Bá Ôn đã cho quật mồ Khổng Minh và Lưu Bá Ôn tìm thấy một cái hộp "cẩm nang"chứa đựng những câu sấm do Khổng Minh viết. Trong cẩm nang này có một đoạn viết về “nước Trung Hoa như sau:

“Trung Hoa sau này sẽ do một người tên là Lưu Bá Ôn thống nhất". Tức là:* - Thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn.

Sau đó Lưu Bá Ôn viết ra bộ "Trung Quốc Nhị Thiên Niên Dự Ngôn" (nghĩa là những điều đoán trước cho nước Trung Quốc sau thế kỷ 2000). Bộ sách này được coi là một "mật thư" của Trung Quốc chỉ dành cho những người nằm trong giới lãnh đạo cao cấp nước Trung Hoa được quyền xem mà thôi. Trong bộ sách này nói rõ là kể từ năm 2000 trở đi Trung Quốc bị chiến tranh, ly tán và tan vỡ, cũng từ năm 2000 thì dân Nam (Việt Nam) sẽ trở thành quốc gia hùng mạnh. Chính Lưu Bá Ôn đã ghi rõ trong bộ sách nói trên và khuyên người Tàu, khuyên giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là nên giao hảo với Việt Nam.

Nhưng giao hảo với Việt Nam nào? Chắc chắn không phải là Việt Nam dưới chế độ Việt cộng hiện nay. trong bộ sách này, Lưu Bá Ôn đã nói rõ là: Trung Quốc sẽ bị Bách Việt vây đánh và rồi cuối cùng nước Tàu sẽ đi đến tan rã. Cho nên những dữ kiện này thuộc về mật thư mà chính các giới lãnh đạo người Tàu ở trung cấp cũng không được quyền biết đến.

Một cuộc chiến tranh rất cao, mà ta tạm gọi là cuộc "chiến tranh siêu hình". Một cuộc đụng độ về trí tuệ giữa hai phía: Một bên là người Tàu Hán tộc phương Bắc, một bên là Bách Việt phương Nam.

Tôi không đi sâu trong việc phân giải vì các sấm truyền Việt Nam đã có nói rồi. Tôi biết một điều là Trung Quốc đã phạm quá nhiều sai lầm không thể sửa chữa được. Trong khi những cơ hội cho Việt Nam tiến lên lại đang rất gần kề và rất sáng lạn.

Bây giờ chúng ta cần phải trở lại vấn đề tình hình hiện nay. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Hoa Kỳ đã chuyển Bộ Tư Lệnh Chỉ Huy một lộ quân từ tiểu bang Washington (Hoa Kỳ) đến phía Nam của Tokyo (Nhật Bản). Biến động tại Miến Ðiện vừa qua đã làm cho giới lãnh đạo Bắc Kinh âu lo và hơn ai hết Trung Cộng hiểu rất rõ là: Nếu Hoa Kỳ có thể Pre-emptive (đánh phủ đầu) nước khác, thì Hoa Kỳ cũng có thể đánh phủ đầu nước Tàu nếu cần thiết và nếu Hoa Kỳ hành động thì Trung Quốc cũng phải có khả năng để Pre-emptive Hoa Kỳ (nhưng Tàu không có khả năng Pre-emtive Hoa Kỳ), hoặc là Trung Cộng có thể bất ngờ tấn công một vùng nào đó ở Á Châu, mà Trung Cộng nghĩ rằng họ có thế mạnh nhất. Ðã nhiều lần trên làn sóng này chúng tôi đã có trình bày cùng quý vị là: "Mặt trận chính vẫn là Đông Dương, mà Việt Nam vẫn là điểm chiến lược chính của Tàu để họ có thể ra tay”. Và ngày hôm nay, ai cũng hiểu rằng cán bộ tình báo Trung Cộng đã có mặt tại Việt Nam với một con số không nhỏ.

Các nguồn tin cho biết con số cán bộ tình báo người Tàu ở Việt Nam hiện tại đã lên đến một triệu người hay ít nhất cũng trên 500 ngàn. Một nguồn tin đáng tin cậy khác cũng cho biết rằng Trung Cộng đã tập trung khoảng 20 triệu người dọc theo biên giới Việt-Hoa, con số 20 triệu người này là bọn du thủ du thực (thành phần bất hảo) và bịnh hoạn đang được giam giữ trong các nhà tù khắp nơi bên Trung Quốc.

Họ được lệnh di chuyển về các vùng phía Nam Trung Quốc để chuẩn bị tràn sang Việt Nam khi tình hình biến động (rõ ràng là người Tàu đang áp dụng kế sách của nhà Minh ngày xưa khi xâm chiếm Việt Nam, họ đang xử dụng đám “Dân Binh” để đồng hóa và pha loãng dòng máu người Việt với người Tàu. Trung Cộng đang âm thầm xâm lăng, đồng hóa và diệt chủng dân tộc Việt Nam một cách có hệ thống.

1- Điều trước tiên chúng đánh nước Việt Nam bằng cách trấn yểm các linh địa trên đất Việt, phá phong thủy của nước Việt.

2- Điều thứ hai chúng dùng loại vũ khí sinh học và hóa học để giết người dân Việt Nam vô tội. Người Tàu xử dụng các loại hóa chất hay vũ khí sinh học như: Tẩm hóa chất độc vào các loại thực phẩm, ngũ cốc, thức uống một cách rất khôn khéo, để che mắt thế giới. Gần đây trong một bản báo cáo của một số bệnh viện Hoa Kỳ, nơi có đông người Việt sinh sống thì: Ða số các người Việt từ Việt Nam trở sang Hoa Kỳ hay một số người Việt từ Việt Nam sang đây sinh sống trong một thời gian gần trở lại đây, thì có 75% những người này đều mang mầm bệnh “viêm gan" hay đang mang trong người một loại bệnh lạ. Điều này người Mỹ họ biết rất rõ, nhưng họ vẫn im lặng để nghiên cứu tìm xem những chứng bịnh lạ này xuất xứ từ đâu. Với nền khoa học kỹ thuật tân tiến và tinh vi của họ, chỉ trong một thời gian ngắn, thì họ đã tìm ra nguyên nhân và chưa đầy vài tháng sau họ đã có loại thuốc trị giải. Một lý do khác tại sao Mỹ nghiên cứu các chứng bệnh lạ này là để họ tìm cách đối phó những trường hợp cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam dùng cộng đồng người Việt và Tàu ở Mỹ để phá hoại đời sống, dân sinh của xã hội Hoa Kỳ.

==============================================

*La ve Con Cọp có phẩm chất thượng hạng.*

Không phải La ve Con Cọp có -"chất lượng"- tốt. // hay La ve Con Cọp -có "chất lượng"- hoặc -"kém chất lượng"-.

Cách đặt câu: La ve Con Cọp có *phẩm chất* thượng hạng, vì vậy nên số lượng bán ra có giới hạn. (Tôi học tiếng Việt bỏ tiếng Vẹm)

=================================

*Nói Dóc Chuyện La Ve (La Dze)*

https://aihuubienhoa.com/a2286/noi-doc-chuyen-la-ve-la-dze-phan-van-song

Đã từ lâu rồi anh chị em bạn bè khi gặp tôi, sau khi biết tôi đã từng làm việc tại hãng BGI, Sài Gòn, tức là hãng Brasseries, Glacières d’Indochine, công ty chủ nhà máy nấu La De ở Chợ Lớn, cạnh sân vận động Cộng Hòa, đều yêu cầu tôi phải viết về La De.

Câu chuyện thường được mọi người nhớ về La De, thường hỏi tôi là, chuyện chai La De lớn đặc biệt gọi là La De Trái Thơm. Theo lời đồn, trong mỗi thùng sáu chai chỉ có một chai Trái Thơm, giá đặc biệt và cũng là quà tặng đặc biệt mỗi khi có khách quý. Ai đã được uống La De Trái Thơm đều khen là ngon đặc biệt, và khen ngon hơn chai La De thường. Thiệt tình mà nói là La De Trái Thơm, La De thường, La De Quân Tiếp Vụ cũng là một thứ, vô chai có hình trái thơm thì nó Trái Thơm, vô chai thường thì nó là La De thường, gặp chai Quân Tiếp Vụ thì nó biến thành La De Quân Tiếp Vụ. Hãng BGI lúc ấy chỉ có nấu hai loại La De thôi:

1) La De thường, vào chai lớn (dung tích 66) thường gọi La De Con Cọp vì chai có cái đầu con cọp màu vàng và để nhãn hiệu Bière Larue, và blank.

2) La De 33, nấu thơm hơn, độ rượu nhiều hơn, vị uống đậm đà hơn, vô chai nhỏ (dung tích 33), tên thường gọi là Bia Băm Ba, nhãn hiệu là Bière 33 Export.

Vậy mà có người khen, chê... cho La De Trái thơm là ngon nhứt, xong đến La De Con Cọp và hạng chót là La De Quân Tiếp Vụ (QTV) dỡ nhứt vì là cho quân đội uống. Chẳng qua là cái mã ở ngoài cả. Thế mới biết ở đời chỉ trọng cái bề ngoài. Quý vị nghĩ coi nấu hai loại Bia đã tóe phở, hộc xì dầu hơi đâu, BGI đâu có quởn nấu ba bốn loại còn vô chai vô cộ, đổi kíp đổi người. Phức tạp lắm! Nội cách đổ võ chai cho hạp với rượu cũng đủ hao tiền. Nhưng cắt nghĩa hổng ai tin. Ông Cụ Bà Cụ tui, hể khi tui đến nhà chơi, chẳng may lấy La De Quân Tiếp Vụ uống, vì ổng có hàng QTV do mấy chú em tui đem về, thì bà bảo: “Nhà hết La De để mẹ đưa tiền chú Thanh, chú Thanh là anh tài xế phục vụ ông cụ đi mua La De về cho con uống chứ uống chi đồ QTV dỡ lắm, để các em của con lính tráng nó uống, nó quen rồi.”. Tôi có trả lời cắt nghĩa cho bà hiểu là chỉ có một thứ bả không tin. Thiệt “Bụt nhà hổng thiên”!

*Câu chuyện La De Trái thơm*. Lúc ấy là năm 1973, tôi làm chánh sở Tiếp Thị (Chef du Service Marketing), coi luôn phần quảng cáo. Để hà tiện tiền làm nhãn ở Pháp, tôi sử dụng văn phòng quảng cáo của hãng, tôi nghĩ anh họa sĩ văn phòng quảng cáo (chuyên vẽ những fond cho các xe của hãng rồi các anh thợ sơn đồ chép lại) đủ tài nghệ chép lại cái nhãn đặt ở Pháp. Và tôi nhờ anh họa sĩ vẽ lại cái nhãn. Trên nhãn cái đầu con cọp vàng ở giữa hai bên có hai tràng hoa houblons, là loại hoa dùng để thêm cái vị nhẫn đắng vào bia. Nấu bia ngon dỡ là do cái tài thêm ít hoa houblon, cũng như gia vị ngũ vị hương trong nghề bếp núc Việt Nam ta vậy.

Nhãn vẽ xong đại khái cũng tạm ổn, vì anh họa sĩ nhà chưa bao giờ nhìn thấy hoa houblon, nên đinh ninh thấy hoa houblon giống trái thơm, cho là Trái Thơm, và vẽ giống trái thơm. Các ông giám đốc Tây cũng ba chớp ba nháng, kể cả anh chánh sở trách nhiệm là tui, cũng thế.

Vì thiệt tình mà nói thì có ông nội nào thấy hoa houblon tươi đâu? Biết là houblon nhưng chỉ nhìn thấy hoa dưới dạng khô. Còn các anh kỹ sư nhà máy, các anh nấu rượu (brasseurs – đây là một cái nghề riêng) dân La De thiệt, thì ở nhà máy. Bọn quyết định là dân văn phòng, dân làm Marketing quyết định mọi việc, bổn phận các anh kỹ sư là sản xuất, chỉ sao làm đúng vậy thôi. Quý vị thấy không, không phải chỉ có trong quân đội mới có cảnh lính văn phòng và lính chiến trường. Nhãn ô kê, gởi đi làm décalques đưa qua công ty Thủy tinh Việt Nam, (Khánh Hội) dán vào chai: 100 ngàn chai mới.

Khi đưa vào nhà máy Chợ Lớn, các lão kỹ sư cười vỡ bụng, “hoa houblon sao giống trái thơm thế nầy”. Nhưng đã nói các quan văn phóng là chánh mà, nên quyết định, cứ trộn chai mới vào với đám chai cũ, lẫn lộn chả ai biết gì đâu, người ta uống La De có ai thèm nhìn nhãn đâu. Chẳng lẽ vất bỏ 100 ngàn chai hay sao? Vài ông giám đốc còn thày lay dạy đời “Dân Việt Nam không biết uống bia, uống quá lạnh, nhiều khi còn để đông đặc lại (bia đặc), còn thêm nước đá, ngon lành gì, vì vậy trái thơm hay hoa houblon có ai biết chi mô mà ngại ngùng, a – lê! Ta cứ thế mà làm”. Chàng chánh sở biết thân, im miệng thin thít, ngậm miệng ăn tiền, phải bảo vệ danh dự anh họa sĩ nhà và danh phong Marketing, dù sao cũng… quê rồi.

Nhưng không ai lường được cái tài doanh nhơn của người Hoa, của con buôn. Các chú Chệt nhà mình ở hãng (rất nhiều nhơn viên người Việt gốc Hoa, buôn bán ở Sàigòn phải biết “cỏn Tung Hỏa”, chẳng những biết nói “Quảng Đông Ngữ” mà cũng phải vài tiếng “Tiều châu ngữ” nữa cũng phải “Kít tèo” hay “Mai xín xắn bù chằn ếch” cho giống người ta, nói tóm lại, con buôn giới thương mại phần đông là người gốc Hoa nếu không nói là một số rất đông. Thế là tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn gần, hãng La De vừa sản xuất được một thứ La De hảo hạng, La De trái thơm, một thùng chỉ một chai, để tặng các bạn hàng thứ thiệt, thứ ngon lành, thứ chịu chơi.

Cái luật may rủi, tình cờ, thì khi ra chai và vào thùng thì bao giờ Trái Thơm cũng có mặt ở mỗi ngày sản xuất, mấy tay cao thủ bán hàng của hãng cứ thế mà sắp cho mỗi thùng một chai, rất là điệu nghệ, và tuyên truyền nguyên tắc của hãng mỗi thùng một chai. Nhưng khi đi giao hàng (bán sỉ) quý vị ấy tự nhiên đề nghị với các bạn hàng biết điệu nghệ thì có thể thêm hai hoẵc ba, thậm chí cả thùng toàn La De trái thơm tùy theo nét điệu nghệ và chịu chơi của thân chủ, “phép vua thua lệ làng” mà lỵ, phép hãng đấy, nhưng thua nghề của chàng. Và cứ thế dòng sông thương mại trôi theo dòng điệu nghệ, ăn nhậu.

Các bars, các quán nhậu cũng tùy điệu nghệ với các ông Thầy, ông Xếp, đàn anh… mà điệu nghệ giành chai La De Trái thơm cho người mình muốn nâng bi, ca tụng hay ca bài con cá. Cá nhơn tui đây, dân La De thứ thiệt, thế mà khi đi nhậu vẫn được bạn hàng và nhiều khi cả nhơn viên (cho biết khi cái dỏm trở thành huyền thoại thì cái dỏm trở thành cái thiệt) thương tình tặng một chai Trái Thơm. Nhưng mình cũng phải ngậm miệng khen ngon và cám ơn các cảm tình dành riêng ấy, và vì huyền thoại đã đến hồi quyết liệt, làm vỡ “mộng ban đầu”, e có thể “lãnh thẹo”.

Huyền thoại vẫn dai dẳng đến sau 30 tháng Tư, dân bộ đội, hay người “Hà Lội” cũng bị huyền thoại Trái Thơm. Nhiều tay nón cối dép râu, cũng chạy vào văn phòng ông giám đốc, (sau Tết 1975, tôi được bổ nhiệm làm Giám Đốc Thương Mại) làm quen, và xin ông Giám Đốc đặc biệt “tặng không” vài chai Trái Thơm, hoặc thưởng thức Bia Trái Thơm “cho biết”. Tội nghiệp, rất nhiều tay vượt Trường Sơn chỉ muốn uống Coca Cola “cho biết” (Tiếng Tây có thành ngữ “pour ne pas mourir idiot” – để khỏi chết ngu đần). Vì ta là quân chiến thắng nên chỉ xin thôi, và chỉ nhận quà cáp, của tặng, chứ không có mua bán gì cả.

*La De Quân Tiếp Vụ* Văn phòng BGI, Brasseries Glacières d’Indochine nằm trên đường Hai Bà Trưng cạnh hãng Nước Đá. Đấy là tên cúng cơm. Sau năm 1954, sau khi hết Indochine (ĐôngDương), BGI bèn biến chữ I thành Internationales (Quốc Tế). Mà Công Ty Brasseries Glacières Internationales thiệt sự internationales thứ thiệt. Một ông cựu Tổng Giám Đốc, ông Grandjean, con một cựu quan chức thuộc địa ở Hà Nội, còn cá nhơn ông lại là một cựu luật sư thuộc Luật Sư Đoàn Hà Nội, đã tả BGI bằng một câu xanh dờn, ví BGI như đế quốc của Đại Đế Charle Quint thời Phục Hưng ở Âu Châu “Mặt Trời không bao giờ lặn trên đất của hãng BGI”. Mà thiệt vậy, BGI có nhà máy nấu La De từ Tân Đảo (Nouvelle Calédonie) đến Guayane nằm cạnh Brazil, thì không đi vòng thế giới sao? Chưa kể ở Phi Châu, Đông Dương và thậm chí có mặt ở một nước Hồi giáo, Indonésia, nhà máy do tôi thương thuyết thành lập ở thành phố Médan trên đảo Sumatra (đây là một tư hào của cá nhơn tôi, thành tích bán rượu cho dân Hồi giáo). *Xuất xứ của hãng BGI* BGI phát xuất từ một nhà máy nước đá do một anh kỹ sư Công Nghiệp (Arts et Métiers – Paris) sĩ quan hàng hải, Victor Larue, giải ngũ tại Sài Gòn năm 1875 thành lập. Năm 1975, BGI cũng vừa đủ 100 tuổi. Về sau BGI cũng từ từ rút các cơ sở nhà máy, bán dần dần và nay không còn gì cả. Chỉ còn có mỗi Bia 33, chai nhỏ 33 phân khối. Tên bia 33 khai sanh tại Hà Nội năm 1949. Ngày hôm nay Bia 33 cũng tỵ nạn tại Đan Mạch (do Hãng Carlsberg – Đan Mạch sản xuất). Bia 33 vì sanh ở Hà Nội nên dân Sài Gòn vẫn gọi “Bia 33”, hay vắn tắt “Băm Ba”. Còn chai bia lớn gọi La De Con Cọp, hay La De lớn (vì dung tích 66 phân khối). Nói thì La De, nhưng viết LA VE, cũng vì một anh Tây ở hãng đã viết và cho in trên cuốn lịch phát hằng năm, màu vàng với con cọp nằm ngang màu đen và viết LA VE LARUE. Dân Tây hồi đó khi mới đến Sàigòn khi vào những quán ăn gặp cái lịch ấy thường đặt câu hỏi cái hãng nào mà “Rửa Đường, rửa Phố” như vậy, vì học đọc Lave (động từ Laver, rửa, to clean, to wash) la rue (rue là đường phố – street). Để tránh cái ngộ nhận ấy, cá nhơn tôi trưởng Marketing bèn đề nghị thay đổi cách gọi trên tấm lịch ấy. Cũng vì trong cùng thời gian ấy, đang có một chương trình sản xuất một loại Bia Màu, Bia màu Nâu (Bière Brune), nên tôi thưòng dùng chữ Bia hơn chữ La De, gọi Bia Đen, Bia Nâu, Bia Màu nó dễ nghe hơn, cho nên Tết năm 1975, cái lịch cố hữu màu vàng, con cọp đen được in lại với chữ BIA LARUE. Năm ấy, mất luôn chữ La De hay LA VE, ôi thôi đó cũng là cái điềm. Có một cái an ủi, là có những bạn hàng không bằng lòng chữ Bia, họ nói là, "ở dưới quê (guê) người hổng biết bia là gì nên phải giữ chữ La De". Tôi có cho in thêm 5,000 tấm La Ve Larue. Ôi thương làm sao cái tình “miệt Dườn” của “quê hương mình!”. Năm 1976, tôi không ra lịch ra liết gì cả. Chế độ phân phối mà làm gì có marketing. Tên Anh Victor Larue cha đẻ hãng BGI chỉ có ở Chai La De lớn thôi, phần còn lại không ai nói tới. Mà cũng nực cười - Ổng đẻ ra hãng Nước Đá, nhưng tên ổng lại đặt cho La De. Đó là vài mẫu chuyện của Hãng La De, Nuớc Ngọt, Nước Đá thời của mình. Nay tình cờ có một bài báo viết về La De hay Bia tôi xin phỏng dịch và viết lại hầu quý độc giả, gọi là quà tặng khi vào Mùa Hè. _*Hương Vị Nhẹ Nhàng của La De* Phỏng theo bài tra cứu của Laure Gasporotto (Tuần báo Express) ra ngày 25 tháng 6/2009. “Bịt mắt lại, một tay thợ nghề nấu Bia khi nếm không thể biết được bia nào là Bia hơi, và bia nào là Bia chai”. Đây là một lời thú tội của một tay nấu bia nhà nghề (Maître Brasseur) của hãng Kronenbourg, hãng bia nỗi tiếng ở nước Pháp. Ngày nay, Bia Hơi đang được thương mại đến tận gia đình. Những thùng bia hơi với những hệ thống bơm hơi đang được bình dân hóa đến tận gia đình. Không còn bắt buộc dắt nhau ra quán nhậu bia hơi, để thưởng thức các hương vị Bia Tươi, với cái bọt mềm dịu trong miệng, đưa tay chùi đôi mép vướng bọt. Ngày nay đem một thùng Bia Hơi và dụng cụ về nhà, rủ vài bạn bè về, tìm cái thú vui của hương vị, thưởng thức cả vị giác và cả thính giác nữa.. tiếng pxììì kéo dài khi bia xủi bọt… Đo cái bọt đang sủi, gạt cái bọt đang thừa… Cả một chương trình điệu nghệ như khi ta nâng niu ly rượu đỏ, cẩn thận xoay vòng, cẩn thẩn đưa lên mũi cho khứu giác tràn đầy mùi thơm, xong đưa vào miệng thử một miếng, súc miệng cho đầy vị giác, tìm những cảm xúc… Ly rượu ngọt ngào, thơm tho, đầy tất cả bầu trời thiên nhiên hương vị vùng Bordeaux hay vùng Bourgogne… Ôi tôi đã đi lạc vào động Thiên Thai của rượu đỏ rồi… Trở về La De vậy. Ngày nay với kỹ thuật mới, bia hơi bán trong thùng sắt có thể giữ được sáu tháng. Còn bia chai giữ được một năm. Chả bù vào những năm 1970 ở Sài Gòn chúng tôi chỉ bán Bia Hơi cho những quán nào bảo đảm bán hết thùng bia trong 24 giờ. Sau đó đỗi thùng mới, súc hệ thống hơi và vòi, mà phải để nhơn viên BGI làm, mới bảo đảm, vì chúng tôi, hãng BGI bảo đảm an toàn, vệ sanh, và dĩ nhiên hương vị của bia. Vì thế ở Sài Gòn lúc bấy giờ rất ít quán có Bia hơi. Quý bạn chắc còn nhớ quán bán Bia Bock ở Chợ cũ đường Hàm Nghi cạnh Ty Ngân Khố không? Chiều chiều ra đấy làm vài ly Bock, ăn một hai hột vịt lộn, hay Bò Bía là hết xẩy. Ở Pháp thi uống một ly demi (đọc là đờ mi), tưởng là nữa lít, thật sự chỉ có ¼ lít thôi, vì có 25 centi litres. Uống demi thường ăn một cái trứng gà luộc. Trên quầy nào ở Pháp đều có một cái giỏ trứng gà luộc, và một cái phầu bán đậu phụng rang muối. Đậu phụng rang muối nhậu với La De cũng hết xảy. Có hai trường phái ăn đậu phụng rang muối, trường phái ăn cả vỏ, vỏ đây là cái vỏ trong, da màu đỏ đó. Và trường phái bóc vỏ. Với tôi cái nào cũng ngon cả. Tất cả cái vị ấy trôn với cái nhẫn cái đắng của La De đều ngon cả. Cái nhứt của La De là chất tươi, (la fraîcheur). Chất tươi, chất mát, không phải là cái lạnh, Chất tươi là cái ta lựa chọn lúc ta thưởng thức. Nó có thề là tùy vào hàn thử biểu, ướp lạnh thế nào, để độ lạnh hạp vào khẩu vị của người uống, cũng tùy vào khí trời, nhiệt độ căn phòng ăn, quán uống. Tay Đầu Bếp nỗi tiếng Ba Sao Michelin Alain Passard của Nhà hàng Arpège, Paris giảng dạy: “Nhiệt độ của Bia khi bắt đầu uống rất quan trọng. Chúng ta nếu biết sử dụng nó đúng chúng ta có thể khai thác mọi khía cạnh khác nhau của Bia đối với những thức ăn khác nhau.”. Một tay nghề có thể nói đến chất tươi của rượu đỏ hay trắng (vin) để nói đến cái chất thiên nhiên là đất nước nơi cây nho được trồng trọt (cũng như chất quê hương nơi con người) nói chất tươi của rượu là nói đến những vị của quê hương của những cây nho trồng trên ấy, nào là cát có chất đất sét không? Nào là sườn núi có đủ nắng không? Nào là có mùi mận, mùi táo không??? Khi ta nói miệt vườn, quê hương chùm khế ngọt, nó như vậy, uống ly rượu nho vùng Bordeaux ta uống cả quê hương bầu trới Bordeaux… La De cũng vậy. Tại sao ta không quên 33 Việt Nam, làm tại Sài Gòn, vì trong 33 có chất gạo, khi biến thành rượu nó là đế. Bia ở Pháp nó xài bắp. Bia nhiều vị tươi nhứt la bia mới (Bière primeur). La De mới khác với rượu Vin primeur là một bảo đảm vị tươi mát. Rượu đỏ cần thời gian để già, thêm tuổi, thêm tác cho chững chạc. La De cần cái tươi mát, vừa đủ tuổi là đẹp rồi. La De primeure hội đủ chất tươi mát, tất cả những vị thơm mát của đồng nội. Đừng lẫn lộn với Bia Tháng Ba (Bière de Mars) – La De Tháng Ba, đã cất ủ cả mùa Đông không còn cây đồng cỏ nội nữa. Bière de Noël, Bia No-ên, La De Giáng Sanh là một loại La De mới, vừa đủ tuổi, sung sức, đầy dủ những hương vị của đời. Ngoài cái tươi mát, để giải khát, La De còn có thể hạp khẩu theo các món ăn. Nếu rượu Vin đỏ hay trắng hay hường có thể có đến 6,000 chất vị khác nhau giúp đỡ chúng ta có muôn ngàn cách ráp đặt những cách thức thường thức món ăn và rượu. La De chỉ có phân nữa thôi. Ngày nay những tay lựa rượu nhà nghề ở những quán rượu và tiệm ăn (sommelier – đây là một cái nghề đặc biệt, những tiệm ăn lớn đều phải có những tay nhà nghề nầy) đều biết phân tách những mùi vị trong La De như những mùi lúa chín, mùi đường nấu (caramel), mùi hoa quả từ mùi chuối đến mùi mận, táo và hoa đào… chưa kể những cam những quýt, và cả mùi cỏ cháy._ *Bia Nâu với Chocolate* Bia Vàng với trái cây Ôi thôi muôn hình vạn trạng. Bài nghiên cứu tác giả đi vào chi tiết những món ăn đi chung với tên loại La De, viết cho độc giả Việt Nam mình sẽ bở ngỡ. Nhưng tôi cũng ráng đưa một thí dụ, một món gỏi tôm thịt tươi mát, uống với một nhụm La De mát lạnh, vị đậm đà, rót cho sủi bọt vừa phải, loại Heineken chẳng hạn. Còn nếu quý vị uống một Bud nhạt nhẽo, hay một Miller quý vị sẽ thấy chán phèo. Quý vị ăn phở; nhạt và nóng, uống La De không hạp, uống nước trà nóng ngon hơn…. Nhưng nói như vậy cái quan trọng khi quý vị ăn và uống cố gắng tìm những hương vị ẩn trong những các vị bề ngoài. Vì La De và Rượu có nhiều vị Tây nên nhiều món ta không hạp. Nóng quá, cay quá, nước mắm quá….. dưa chua chua quá… Nhưng ngày nay La De bắt đầu chiếm một địa vị trên bàn ăn, không còn là ly giải khát của những buổi chiều vàng đứng bóng nóng nực của mùa hè nữa. Đặc biệt là nhửng bửa ăn trưa, vì nhẹ nhàng và ít đô rượu hơn rượu đỏ. *La De muôn màu muôn vẻ* L’orge (hobbs), lúa mạch để nấu bia phải được rang (torréfier) như rang hột cà phê vậy; và độ rang và thời gian rang sẽ tô màu cho La De. - La De Vàng, hay Bia Vàng Bière Blonde. Màu Blonde, vàng ánh, trong vắt và bóng láng, Bia màu vàng là màu rất thường gặp ở nơi Bia. Nấu (brassée) với lúa mạch vàng nhạt, Bia Vàng có mặt ở mọi nơi trên cùng thế giới và là thường thường là những thương hiệu cột trụ, với tất cả những nhãn thương hiệu lớn. Bia Vàng thường là bia giải khát, uống trưa chiều tối. Ít độ rượu, thơm mát, với một vị chát đắng nhẫn nhẹ nhàng. Heineken, 33 export, Carlsberg, Kronenbourg là một vài ví dụ. Món Ăn hạp: khai vị chung chung, gỏi với tôm thịt, thịt gà, phó mát nhẹ lạt loại đầu bò. - La De Vàng Sẩm, Bia màu thau đồng: Bière Ambrée – Amber. Màu thau đồng đậm, nấu với lúa mạch được rang lâu hơn bia Vàng. Cũng là một bia giải khát, vị đậm hơn Bia Vàng. Ngày nay không được chuộng lắm, chỉ được phổ biến ở các xứ Anglô – Saxons thôi. Món Ăn hạp: Gan ngổng, thịt rừng, cá hong khói, pho mát có rau cần tây (persil), tráng miệng có chất caramel. Nói tóm lại những món gọi là có “mùi”. - La De Nâu, Bia Nâu: Bière Brune, lúa mạch được rang đến gần cháy. Bia có màu đi từ màu gạch cua đến đen tuyền. Vì vậy ta tìm trong bia những mùi rang cháy, mùi cà phê, mùi caramel, mùi cacao. Có những loại bia gọi là Vieilles Brunes, những Bà Già Nâu, được cất trong những thùng tô-nô bằng gỗ xưa. Mùi vị chua chua, đắng nhẫn đậm đà, vừa giải khát vừa để lại trong miệng một khẩu vị bất hủ. Thí dụ nỗi tiếng là Guiness. Món Ăn hạp: những món Á đông có vị mạnh, sò huyết, ốc trai, cá sống, tráng miệng có chất Chocolate – La De Trắng: Bia Trắng Bière Blanche. Bia trắng không nấu với toàn lúa mạch, thường được thêm lúa mì để làm trắng bia. Rất thơm vì có bỏ thêm ngò gai – Coriandre, và vỏ trái cây. Món Ăn hạp: đồ biển, cá hong khói hay cá nướng. Trái cây. Thử Nấu Bia Để nấu một lít bia, ta cần: Nước (95 %), 20 gr lúa mạch, 1gr hoa houblon (một chiếc hoa thôi) và bột nỗi (levure). 1/ Làm Mạch: Hãy ngâm lúa mạch (orge – hobbs) trong ba ngày. Xong nấu xào (brasser) trong nước nóng. Lấy lúa ra và để lúa lên mầm trong vòng tám ngày. Những mầm ấy mới cho ta nhửng chất enzymes, biến thành Mạch (Ta tạm gọi là Mạch Nha). Các tay nấu bia (Brasseurs) ít khi làm giai đoạn nầy. Ở Việt Nam trước có làm. Ngày nay các nhà nấu bia (Brasseries) mua Mạch Nha thẳng với các nhà bán Mạch Nha (Malteries). Các bạn muốn nấu bia nên mua thẳng Mạch để khỏi mắc công, vì giai đoạn lên mầm rất khó. 2/ Nấu xào: Nghiền Mạch và trộn với nước gọi là brassin, vì phải khuấy đều không cho lóng xuống. Đun nóng lên để chất amidon trong mạch biến thành đường nhờ những enzymes. Lọc kỹ. Đó là bả rượu (moût). 3/ Bỏ Hoa Houblon: Sau khi đun sôi Bả vào khoản nửa giờ, bỏ hoa houblon vào. 4/ Cất: Cất là để cho lên men (fermentation). Để nguôi, và bỏ bột nỗi vào. Đường sẽ biến thành Rượu. Để lóng xuống tám ngày. Nếu bia của quý vị lên men trong một nhiệt độ thấp thì bia ấy ít mùi thơm hơn khi lên men ở nhiệt độ cao hơn. Giữ tất cả trong nhiệt độ lạnh trong vài tuần lễ để tạo cái vị. 5/ Vào chai: Lọc bia cho vào chai để vứt bỏ chất men. 6/ Nếm thử: Đừng bao giờ quên, nếm thử sau mỗi quá trình, giống như anh nấu bia chuyên nghiệp (Maître Brasseur). Xin chúc quý vị cạn ly. Phan Văn Song / Nam Kỳ Lục Tỉnh

 

Photo:

 

No comments:

Post a Comment