Tuesday, December 26, 2017

~~

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

 

background-image:-webkit-linear-gradient(left, skyblue 5%, ivory 24%); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify;" style="line-height:32pt" * <p align="center">&nbsp;</p> <table border="0" cellpadding="15" cellspacing="10" width="115% px;"> <tbody><tr valign="top"> <td style="background-color: white; border-color:#f0e1ff; border-style: solid; border-width: 3px; text-align: justify;heigh-line="32pt"><br><br> <font style="font-size: 34pt; text-shadow:pink 4px 2px 2px"><span style="color: darkmagenta;"><span style="border-bottom: 3px dotted hotpink;"> <b>Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt</b></span></span></font><br> <hr align="left" color="deepskyblue" size="3" width="85%"> <br><br> <div class="author"><span style="font-size: medium;"><span style="color: darkmagenta;"><i></i></span></span></div> <br> <font style="font-size: 30pt;" style="align="justify"><div class="text"><span style="font-size: xx-large;"><span style="color: darkmagenta;"> Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học <i>“Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt”</i> của tác giả Dũng Vũ<sup><b>2</b></sup> thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên<sup><b>3</b></sup> sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt. <br><br> Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam. <br><br> Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,<sup><b>4</b></sup> một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”. <br><br> Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả. <br><br> Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra. <br><br> Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.) <br><br> Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia. <br><br> Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy. <br><br> Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa. <br><br> <b> Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.</b><br><br> Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau: <br><br> <b>Quy tắc 1. </b>Với những chữ chỉ có một nguyên âm, <i>“thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” </i> (trích nguyên văn). <br><br> <b>Quy tắc 2. </b> Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư <i>“thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...” </i><br><br> <b>Quy tắc 3. </b>Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm <i>“thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”</i> <br><br> <b>Quy tắc 4. </b>Với những chữ <i>“kết thúc bằng <b>oa, oe, uy,</b> dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”</i> <br><br> <b>Quy tắc 5. </b>những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm <i>“khác với <b>oa, oe, uy,</b> thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...” </i> <br><br> Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”. <br><br> <b>Áp đặt võ đoán</b><br><br> Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương. <br><br> giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật <b>dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm</b> mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả. <br><br> Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một <b>qui ước</b> xưa nay chứ <b>chưa bao giờ là qui luật</b> tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu. <br><br> Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục. <br><br> <b>Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.</b><br><br> Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: <i>“Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”</i><br><br> Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm <b>|i|</b> của mẫu tự <b>“y”</b> trong chữ <b>“táy máy”</b> ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”. <br><br> Trường hợp <b>“tai tái”</b> thì mặc dù âm <b>|i|</b> phát ra không rõ ràng như âm <b>[a]</b> đi trước nó nhưng <b>|i|</b> này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp <b>“ai”</b> là một <b>nguyên âm ghép</b> (còn gọi là <b>“nhị trùng âm”</b>). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi. <br><br> Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: <i>“Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.”</i> Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.” <br><br> Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của <b>“đào”</b> quả thực nửa <b>[o]</b> nửa <b>|u|</b> nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự <b>“u”</b> của <b>“đau”</b> thì vang rõ ràng âm <b>|u|</b>, chỉ có âm <b>[a]</b> phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”. <br><br> <b>Nói thêm cho rõ</b><br><br> Nếu để ý ai cũng thấy ngay <b>“ă”</b> chẳng qua chỉ là <b>[a]</b> ngắn, <b>“â”</b> chẳng qua chỉ là <b>[ơ]</b> ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,<sup><b>5</b></sup> thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới <span style="border-bottom: 1px dotted teal;">dấu trăng</span> cho chữ <b>ă</b> để chỉ âm ngắn của <b>[a]</b>; và đặt <span style="border-bottom: 1px dotted teal;">dấu mũ</span> trên đầu <b>“a”</b> thành <b>“â”</b> làm âm ngắn của <b>[ơ]</b>, không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”. <br><br> Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng <b>“i”</b> và <b>“y”</b> đều mang <span style="border-bottom: 1px dotted teal;">âm nguyên |i|</span>; và rằng <b>“y</b>” làm nguyên âm trước nó <span style="border-bottom: 1px dotted orange;">ngắn lại</span>, còn <b>“i”</b> thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết. <br><br> Trường hợp của <b>“uy”</b> cũng thế. Vì <b>“u”</b> bị <b>“y”</b> làm <span style="border-bottom: 1px dotted orange;">ngắn lại</span> nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|. <br><br> <b>“U”</b> đi sau cũng làm <b>“a”</b> <span style="border-bottom: 1px dotted teal;">ngắn lại</span>. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng. <br><br> Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong <i> “Việt Nam Chính Tả Tự Vị”</i> in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|. <br><br> Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.<sup><b>6</b></sup> Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt: <br><br> Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy. <br><br> Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu. <br><br> <b>Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm</b><br><br> Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:<sup><b>7</b></sup> âm [C] được phát rất cứng trong chữ này. <br><br> Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!! <br><br> Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu? <br><br> Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do <b>qui ước</b> cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc? <br><br> Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận. <br><br> Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”. <br><br> Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy. <br><br> Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta. <br><br> <b>Ưu tiên 1:</b> dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, <span style="color: blue;">đất, nổi, nhiều,</span> thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng... <br><br> <b>Ưu tiên 2:</b> vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát... <br><br> <b>Ưu tiên 3:</b> vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy... <br><br> <span style="border-bottom: 4px dotted hotpink;"> <b><i>Chú ý:</i></b></span> đương nhiên phụ-âm-ghép <b>“qu”</b> và <b>“gi”</b> không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên: <br><br> <span style="color: darkturquoise; font-size: 14pt;">♦</span> quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt... <br><br> <span style="color: darkturquoise; font-size: 14pt;">♦</span> giả, gié, gió, giặt giũ. <br><br> Nhưng khi <b>“g”</b> đi trước <b>“i”</b> nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với <b>“i”</b> (khi này <b>“g”</b> có cùng cách phát âm với <b>“gi”</b>) thì theo các ưu tiên trên: <br><br> <span style="color: darkturquoise; font-size: 14pt;">♦</span> gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.<sup><b>8</b> </sup> <br><br> Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa. <br><br> Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa. <br><br> Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,<sup><b>9</b></sup> của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà. <br><br> <b>Hồng Đức</b><br> 30/10/07 <br> </span></span></font></div><br> <hr align="left" color="hotpink" size="1" width="33%"><span style="font-size: medium;"><span style="color: darkmagenta;"> <sup><b>1</b></sup> <a href="http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm" rel="nofollow">http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm</a><br> <sup><b>2</b></sup>Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (<a href="http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx" rel="nofollow">http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx</a>) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;amp;rb=06" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;rb=06</a><br> <sup><b>3</b></sup> Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;amp;rb=07" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;rb=07</a><br> <sup><b>4</b></sup> Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội. <br> <sup><b>5</b></sup> Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết. <br> <sup><b>6</b></sup> Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”. <br> <sup><b>7</b></sup> Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o. <br> <sup><b>8</b></sup> Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6<sup>th</sup> ’07) <br> <sup><b>9</b></sup> Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu. <br><br><br></span></span></td></tr></tbody></table><p align="center">&nbsp;</p> <p align="center">&nbsp;</p>

 

.......................................

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt


Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

========================

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt


Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

<p align="center">&nbsp;</p> background-image:-webkit-linear-gradient(left, skyblue 5%, ivory 24%); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify;" style="line-height:32pt" * <p align="center">&nbsp;</p> <div style="background-color: powderblue; border-color: steelblue; border-style: dotted; border-width: 3px; text-align: center;"> <table border="0" cellpadding="20" cellspacing="22" width="115% px;"> <tbody><tr valign="top"> <td style="background-image:-webkit-linear-gradient(left, skyblue 5%, azure 24%, white); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify; line-height:30pt"><br><br> <font style="font-size: 34pt; text-shadow:deepskyblue 4px 2px 2px"><span style="color: navy;"><span style="border-bottom: 3px dotted steelblue;"> <b>Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt</b></span></span></font><br> <hr align="left" color="deepskyblue" size="3" width="85%"> <br> <div class="author"> <span style="color: darkmagenta;font-size: medium;"><i></i></span></div> <font style="font-size: 30pt;" style="align="justify"><span style="font-size: xx-large;color: navy;"> Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học <i>“Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt”</i> của tác giả Dũng Vũ<sup><b>2</b></sup> thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên<sup><b>3</b></sup> sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt. <br><br> Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,<sup><b>9</b></sup> của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà. <br><br> <b>Hồng Đức</b><br> 30/10/07 <br> </span></font><br> <hr align="left" color="steelblue" size="1" width="33%"><div style="color: midnightblue;font-size:large; line-height:25pt"><sup><b>1</b></sup> <a href="http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm" rel="nofollow">http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm</a><br> <sup><b>2</b></sup>Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (<a href="http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx" rel="nofollow">http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx</a>) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;rb=06" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;rb=06</a><br> <sup><b>3</b></sup> Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;amp;rb=07" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;rb=07</a><br> <sup><b>4</b></sup> Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội. <br> <sup><b>5</b></sup> Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết. <br> <sup><b>6</b></sup> Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”. <br> <sup><b>7</b></sup> Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o. <br> <sup><b>8</b></sup> Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6<sup>th</sup> ’07) <br> <sup><b>9</b></sup> Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu. <br><br><br></div></td></tr></tbody></table> </div>
<p align="center">&nbsp;</p>
========================
<p align="center">&nbsp;</p>
<div style="background-color: powderblue; border-color: steelblue; border-style: dotted; border-width: 3px; text-align: center;"> <table border="0" cellpadding="20" cellspacing="22" width="115% px;"> <tbody><tr valign="top"> <td style="background-image:-webkit-linear-gradient(right, skyblue 5%, azure 24%, white); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify; line-height:30pt"><br><br> <font style="font-size: 34pt; text-shadow:deepskyblue 4px 2px 2px"><span style="color: navy;"><span style="border-bottom: 3px dotted steelblue;"> <b>Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt</b></span></span></font><br> <hr align="left" color="deepskyblue" size="3" width="85%"> <br> <div class="author"> <span style="color: darkmagenta;font-size: medium;"><i></i></span></div> <font style="font-size: 30pt;" style="align="justify"><span style="font-size: xx-large;color: navy;"> Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học <i>“Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt”</i> của tác giả Dũng Vũ<sup><b>2</b></sup> thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên<sup><b>3</b></sup> sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt. <br><br> Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,<sup><b>9</b></sup> của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà. <br><br> <b>Hồng Đức</b><br> 30/10/07 <br> </span></font><br> <hr align="left" color="steelblue" size="1" width="33%"> <div style="color: midnightblue;font-size:large; line-height:25pt"><sup><b>1</b></sup> <a href="http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm" rel="nofollow">http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm</a><br> <sup><b>2</b></sup>Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (<a href="http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx" rel="nofollow">http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx</a>) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;rb=06" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&amp;rb=06</a><br> <sup><b>3</b></sup> Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;amp;rb=07" rel="nofollow">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&amp;rb=07</a><br> <sup><b>4</b></sup> Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội. <br> <sup><b>5</b></sup> Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết. <br> <sup><b>6</b></sup> Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”. <br> <sup><b>7</b></sup> Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o. <br> <sup><b>8</b></sup> Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6<sup>th</sup> ’07) <br> <sup><b>9</b></sup> Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu. <br><br><br>
</div>
</td></tr></tbody></table> </div><p align="center">&nbsp;</p>
*

 

background-image:-webkit-linear-gradient(left, skyblue 5%, ivory 24%); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify;" style="line-height:32pt" *

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

0000000000000000000000000 *

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

 

^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^ *

 



Không ảnh trên đường mòn hcm




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

 

000000000000000000000000000000000000000

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

 

background-image:-webkit-linear-gradient(left, skyblue 5%, ivory 24%); border-color:deepskyblue; border-style: solid; border-width:2px; text-align: justify;" style="line-height:32pt" ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ *

 



Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt




Trên trang web của Trung Tâm Tự Điển Học “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì Dũng Vũ thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng như có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt.

Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lương bằng các phương pháp khoa học như Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đưa ra vài suy nghĩ về văn hóa và người làm văn hóa Việt Nam.

Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Tự Điển Học,4 một trung tâm của nhà nước và đảng Cộng Sàn Việt Nam, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng như giới trí thức trong nước. Chắc chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”.

Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lương là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đưa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một người khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả.

Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhưng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, cốt yếu cũng chỉ để trình bày các ý kiến của ông (Cao Xuân Hạo) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trước ở miền Bắc đã được học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông (Cao Xuân Hạo)làm ra.

Và điều quan trọng nhất là chưa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xướng một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sư” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lương. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin được trình bày sau.)

Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thường cho là khỏi phải bàn -- vì xưa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tưởng tượng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng như máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là được rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia.

Thế mà không đơn giản như các cụ tưởng, sau lưng các cụ người ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải được sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y như là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã được đề ra bởi cơ quan thẩm quyền sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhưng không phải vậy.

Được đăng trên một trang web như thế, nó sẽ làm người đọc tưởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hương giàu đẹp”, một đất nước “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hướng dẫn người dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hương đó. Nhưng hình như cái cơ quan đó chưa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chưa hề hoạt động. Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa.

Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”.

Bản qui tắc của Vũ Xuân Lương có vẻ rất đơn giản chỉ với bốn trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chưa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm năm qui tắc, xin tóm lược như sau:

Quy tắc 1. Với những chữ chỉ có một nguyên âm, “thì d ấu thanh được đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không được kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn).

Quy tắc 2. Với những chữ có nguyên âm mang dấu phụ (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) như Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƯƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, chiền chiện, cuội, cừu, duệ, duềnh, giội, giường, ngoằng, quyệt, ruỗng, rượu, siết, suyển, tuẫn tiết, tiến triển...”

Quy tắc 3. Với những chữ có hai nguyên âm và kết thúc bằng phụ âm “thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm chót. Vd: choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...”

Quy tắc 4. Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh được đặt vào con chữ nguyên âm chót. Ví dụ: hoạ, hoè, huỷ, loà xoà, loé, suý, thuỷ...”

Quy tắc 5. những chữ kết thúc bằng hai hay ba nguyên âm “khác với oa, oe, uy, thì dấu thanh được đặt vào nguyên âm áp chót. Vd: bài, bảy, chĩa, chịu, của, đào hào, giúi, hoại, mía, ngoáy, ngoáo, quạu, quẹo, ngoẻo, chịu, chĩa...”

Ngoài qui tắc số 4 thì bốn qui tắc kia đưa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xưa nay của cha anh chúng ta trước khi những “người con ưu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dưới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trước. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thường không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”.

Áp đặt võ đoán

Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trường hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” như qui tắc số 4 của Vũ Xuân Lương.

giải thích cho sự “cải cách” này, tác giả Vũ Xuân Lương đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải như vậy. (Mặc dù chưa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, người” chẳng hạn. Hoặc có người khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhưng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, người đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả.

Trong thực tế phát âm, khi gặp một chữ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” như Vũ Xuân Lương dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều này bằng cách đọc to vài chữ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanh-phải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xưa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói như vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ư lư ơ lưa ngờ Lương huyền Lường”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ư lư ơ lưa huyền lừa ngờ Lường” đâu.

Nhưng vì “dấu phải được đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp chữ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những người đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhưng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa được rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ như vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục.

Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ.

Tính năng của hai mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm được tác giả của qui tắc giải thích: “Với chữ I, cũng tương tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như: tai tái, cày cấy, táy máy...”

Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi được phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các chữ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm |i| của mẫu tự “y” trong chữ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt ngủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trường hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận được. Nhưng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chưa hề nghe ai nói hay đọc hai chữ “táy máy”.

Trường hợp “tai tái” thì mặc dù âm |i| phát ra không rõ ràng như âm [a] đi trước nó nhưng |i| này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên được phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi.

Tương tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” ở cuối chữ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trường hợp như đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại như sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” được dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết như trong các trường hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì được gọi là các bán phụ âm.”

Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” được viết hai kiểu khác nhau nhưng lại được phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chưa đúng hẳn. Nhưng vẫn không thể bảo rằng tác giả đã nghe kỹ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa |u| nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” -- vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhưng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm |u|, chỉ có âm [a] phía trước là cụt ngủn giống trường hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai như trường hợp “y” cuối của “táy máy”.

Nói thêm cho rõ

Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn,5 thế nên những người tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng cho chữ ă để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” như vầy: “ôê”.

Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i”“y” đều mang âm nguyên |i|; và rằng “y” làm nguyên âm trước nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm |i| cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết.

Trường hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên |i|.

“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ được phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” được phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng.

Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là được, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhưng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sư Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trước “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trường hợp này vẫn là âm nguyên |i|.

Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm người Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết.6 Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tưởng rằng xóa mù chữ cả nước đến nơi. Nhưng cho đến khoảng những năm '90 thì có chuyện cười ra nước mắt:

Số là có một giáo sư Hán học người Việt nọ được đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông được đưa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sư này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những người đọc được chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trước, chỉ còn đám trẻ được đi học nhưng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy.

Thấy ông giáo sư người Việt ung dung đứng trước cổng một ngôi chùa, thưởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ khắc trên tường trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ như bắt được vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những người Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp người hầu hạ, để ông ngoại quốc này được tự nhiên và thân thiện đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sư nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp được bao nhiêu người có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhưng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lường. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho người xem lưng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu.

Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm

Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” được phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trường hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lương cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhưng tất cả mọi người Việt Nam (trừ hai ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lương và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề được phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]:7 âm [C] được phát rất cứng trong chữ này.

Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì người Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một người Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tưởng tượng được “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cười tủm; và khi xướng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oa-xinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm |s| thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều người đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều người (như Vũ Xuân Lương) sẽ suy ngược ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!!

Theo Vũ Xuân Lương, không được đánh dấu thanh trên chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ được đặt ở đâu?

Vì cố gắng đưa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để giải thich mọi trường hợp nên Vũ Xuân Lương đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ước thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhưng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc?

Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tương tự, áp dụng cứng ngắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không được. Ngữ âm học là một môn khoa học liên quan tới hình thức phát âm nhưng chính tả lại thuộc lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ước, phần nhiều dựa trên thói quen của người sử dụng. Nhưng vì chính tả lại ảnh hưởng ngược đến cách phát âm của người dùng nó nên các qui ước đưa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi người có thể chấp nhận.

Vì thế cho đến nay mặc dầu đa số người Hà Nội nói “Em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”.

Những nhược điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sư” ở phần tước hiệu của ông nên được để vào trong ngoặc kép là vì vậy.

Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả Vũ Xuân Lương lại là bốn qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhưng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trường hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tưởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên được ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta.

Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ư) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có hai mẫu tự mang dấu âm (ươ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): người, lượt, cưỡi, tưởng...

Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát...

Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...

Chú ý: đương nhiên phụ-âm-ghép “qu”“gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thường theo các ưu tiên trên:

quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt...

giả, gié, gió, giặt giũ.

Nhưng khi “g” đi trước “i” nguyên âm hoặc trước nguyên-âm-ghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ưu tiên trên:

gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng như không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”.8

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải vận dụng trí óc nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (như những người làm tin học vẫn tưởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhưng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải được đặt ở đâu nữa.

Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng của chữ,9 của những người làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đưa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-gích” (hợp lý) để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là sự kiêu ngạo, muốn được xã hội vinh danh là những người có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nước nhà.

Hồng Đức
30/10/07


1 http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm
2 Tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhưng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06
3 Bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07
4 Địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội.
5 Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thường khác. Ví dụ chữ “but” được phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhưng một ký tự nhỏ xíu như thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết.
6 Đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.
7 Ký hiệu C ngược dùng để phiên âm o.
8 Nhưng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhược điểm thường có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07)
9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở Việt Nam, ai đã từng làm nghề giáo trong nước vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thư tay gửi người yêu.


 

 

 

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet-truoc-va-sau-1975_12.html

 

 

 





Không Ảnh Trên Đường Mòn HCM


Quenbee-1

Nếu giải đoán không ảnh hình trên đây (trang 276, Vol-1 “The New Legion) là hình chụp từ trên cao do phi cơ trinh sát U-2 hay Woodo F-101E chụp thì cho rằng: Một đại đội quân Bắc Việt với đầy đủ trang bị súng đạn, đang băng qua con Sông cạn Xepon. Nhưng với hình chụp trên trực thăng H.34, đang bay cạ càng bánh xe trên ngọn cây thì rõ ràng đây là toán Dân-công khuân vác những tạc đạn đại bác phòng không, từ tuyến đường cuối cùng của đoàn xe Molotova cho đến các đỉnh cao đặt súng. Họ đang ngụy trang bằng những nhánh lá cây, kể cả cây gậy để mò mẩm qua sông cũng ngụy trang để nguyên cành lá.

Cảnh một chiếc trực thăng H.34 bất chợt lướt qua, phi công do phản xạ tăng tốc lực cho mau qua khỏi vùng nguy hiểm, còn người buộc dây nịt an-toàn đang tòn-teng nơi cánh cửa trực thăng như Th/sĩ Duncan và Chuẩn Úy Huỳnh Thuận Nhả LLÐB (sau qua Không Quân lên Trung Tá và chết khi lệnh bỏ Pleiku) thì tha hồ mà bóp chụp hình lia lịa không dứt. Còn người Cơ-phi ở không Chuẩn Úy Nguyễn Văn Mai thì làm gì trong cảnh tao-ngộ nầy! Một cái quơ-ngoắt tay chào đón “vô thức” qua hành động lịch sự phản xạ tự nhiên của người chiến sĩ Không Quân hào hoa dù nơi chiến trận. Nếu họ có súng sẳn trên tay, họ có kịp bắn lên không? Tôi xin trả lời chắc chắn với đọc giả: “Là không kịp rồi!”

Thời tiết vùng núi sáng nào cũng như ngày nào, khí lạnh toát ra từ đá núi, cây rừng còn đọng lại hơi sương, thỉnh thoảng vài cơn gió biển thổi vào đem hơi ấm cần thiết cho dân miền sơn cước. Vài cụm mây ngàn bỏ núi bay xa, nơi đây lá rừng lung-lay xào xạt, trên bầu trời xanh thẳm điểm vài sợi mây vảy cá Cirrus nằm bất động, báo hiệu một ngày dài với trời nắng đẹp.

Thượng đế như chìu lòng cảm thông cho sự lo âu của phi hành đoàn Biệt-kích Delta sẽ dấn sâu vào vùng lửa đạn với những phi vụ âm thầm không danh xưng trong bóng tối.
Trên bãi cỏ, hai chiếc trực thăng CH-34 lù lù nằm im lìm trên đó, ướt đẫm hơi sương như hai con kình-ngư vừa trườn lên bờ phơi nắng.

Cơ-phi Mai đang hì hục, hấp tấp dang tay đẩy liên tục cần bôm xăng từ các thùng phuy chuyền qua trực thăng. Mồ hôi Mai nhuể nhoải ướt đẩm chiếc áo Bà ba đen, nhưng không phải là bác nông dân cày bừa mà là người hùng cày sâu nơi vùng lửa đạn. Mai dang tay lau bớt mồ hôi tuôn trên trán và dụi nhẹ vào đôi mắt đang cay.
Tôi đang bước nhanh đến Mai:

- “Anh Mai! Anh nghỉ tay một chút cho khỏe, để Tôi bơm cho… khi nào khỏe hẳn anh giúp Tôi kiểm soát mứt độ dầu, xăng, nhớt thủy điều và các cơ phận xoay chuyển o.kay!

- “Mình chỉ bơm chiếc của mình mà thôi, để Huệ và Khôi bay ra Quảng Trị đổ xăng cho đỡ khỏi phải dùng xăng ở đây; Một công hai việc vừa để dành xăng ở đây mà cũng vừa an toàn hơn phải lấy trong thùng phuy lâu ngày đọng nước trong đó”.

- “Chút nữa anh bôm nhớ chừa cặn lóng ở dưới đáy thùng, và kiểm soát lại coi xăng đã hết hạn chưa… vì xăng để lâu trong thùng phuy sẽ bay mất nhiệt lượng octane, sẽ nguy hiểm khi mình dùng sức máy tối đa… Chút nữa đây lên trực thăng, anh nhớ nhắc Thượng-sĩ Donald-Duncan xiết dây nịt an toàn cho chắc, vì trước khi mình vào chụp hình ở Bộ chỉ huy Tiền Phương Ðoàn 559. Tôi phải thử trước một động tác “8-chậm,” phi công Mỹ gọi là “Lazy-8,” có nghĩa là bay quẹo chữ I thay vì chữ U, nói cách khác đó là phương thức bay ngược 180 độ nhưng ở đây dùng khoảng cách Ðứng chớ không thể dùng khoảng cách Ngang. Làm như vậy không đụng vào vách núi dựng đứng nơi đó và tránh bay qua vùng mà hai Tiểu Đoàn phòng không Bắc Việt luôn luôn sẳn sàng nhả đạn… Anh nhớ Tôi sẽ đâm đầu xuống tăng tốc lực tối đa, xong sẽ cất mũi trực thăng chổng ngược thẳng đứng lên trời, đợi khi nào tốc lực xuống đến 25 hải-lý sẽ đạp phối-hợp nhẹ nhàng chân phải cho trực thăng từ từ hạ mũi xuống, rồi uyển chuyển phối hợp động tác tay lái đem phi cơ lên thăng bằng; như vậy là mình đang trở lại 180 độ trên trục mà mình đả bay qua… biết đâu Lính bắc Việt thấy cảnh ngoạn mục nầy nên người anh em thù địch sẽ vổ tay mà quên bắn mình... Anh tin như vậy không?

Mai hiểu được ý nghĩa bông đùa của Tôi khi phải giáp mặt với sự hiểm nguy, hắn nhanh nhẹn trả lời cho tôi yên tâm:

- “Anh lo việc lớn đi, còn việc nhỏ để tôi lo… tôi đã kiểm rất kỹ rồi anh yên chí, ống hút của cần bơm xăng không đụng đáy thùng mà cách gần tới hai tất an toàn lận”.

- “Anh Mai! Những chuyến bay có anh bên cạnh tôi rất yên tâm, vì chuyến bay nầy rất muôn phần nguy hiểm Tôi cảm thấy phải cho anh biết để chuẩn bị ứng phó”.

Trong Không Quân ngành trực thăng, chúng tôi xem nhau như anh em ruột thịt, người nào cũng là quan trọng cần thiết như nhau không thể thiếu được; sự thật chúng tôi là những chiến sĩ anh hùng không tên tuổi. Các phi vụ thường được giữ tuyệt đối bí mật, âm thầm chiến đấu trong bóng tối hay trong dông bảo để tạo sự bất ngờ, vào những đêm trời không trăng sao, thời tiết càng xấu càng tốt, địa hình càng khắc nghiệt càng tăng thêm yếu tố bất ngờ, rồi càng tăng thêm sự kín đáo khi thả Toán nơi chốn rừng già hoang-dã. Những phi vụ cảm-tử như vậy mà ngay người chiến hửu Không quân cùng binh chủng cũng không ai biết được, ngoài Sở Liên Lạc, Nha Kỹ Thuật và Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt.

Nghe đến danh từ Queen-Bee, Delta-Alpha-1, 2, các phi công sừng sỏ xuất sắc nhứt của Không Lực Hoa Kỳ và U.S. Army Aviation cũng phải chào thua bái phục. Ðâu cần phải thâm niên quân vụ, đâu cần phải mang trên ngực cánh “hoa tiêu lãnh đạo” có vòng nguyệt quế và tinh cầu dẫn độ. Những phi công mới ra trường đã đi vào huyền thoại lịch sử chiến tranh Việt Nam ngang hàng với các bậc đàn anh của họ.

Trong hỏa tuyến xung vào vùng trời lửa đạn, làm gì có sự phân biệt cấp bực giữa chiến sĩ với nhau, chỉ có lòng can đảm, sự hy sinh cho chiến hữu mới là những trang “chiến-sử” để đời của người Lính trận. Ðó mới chính là gia tài trang trọng và cao quý nhứt mà người chiến sĩ quân lực VNCH ít khi phải đem rao hàng giữa chợ đời.

Thông thường những chuyến bay nguy hiểm tôi thường bay một mình, không có cơ-phi. Tôi rất tiết kiệm, tránh né tối đa sự thương vong vô ích có thể xảy ra cho đồng đội; nhưng đặc biệt hôm nay tôi phải chấp nhận loại đạn AK hơn loại súng phòng không hoặc hỏa tiễn cầm-tay SA-7.

Vì Tôi biết phải giỡn mặt với hai Tiểu Đoàn phòng không của cộng sản bắc Việt bảo vệ Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559; vùng mật khu vô cùng huyền bí, phía SOG Mỹ cho là vùng kiên cố “Oscar-8.” Tôi sẽ bay theo kiểu Cá lia-thia lách mình tránh né dưới rặng đá bén nhọn của san-hô, chôm chổm dựng đứng. Bổng dưng tôi nhớ lại những lời Ni ân-cần dặn dò: “Khi đi bay Anh nhớ đừng bao giờ quên đeo chiếc Từng ảnh thánh giá nầy… Chúa Mẹ sẽ bao che cho anh suốt chuyến bay được an-lành, nhớ hỉ... nhớ hỉ!

Nàng muốn tôi luôn luôn bám giữ niềm tin như vậy, nhưng tôi lại cứ bình thường; “Thôi thì cứ nghe theo nàng, không có lợi thì thôi chớ cũng chẳng có gì gọi là hại cả!”

Tôi sẽ bay cùng với Hảo, anh bay rất vững nhưng ít chịu liều mạng, không giống như Khôi và Huệ, hai hiện tượng nầy thôi khỏi nói, “Ðúng anh hùng tử chí hùng nào tử” do đó tôi cắt đặt hai anh túc trực cấp cứu khi Tôi chẳng may bị nạn. Ðúng “ngựa hay thường sanh chứng!”.

Riêng Huệ, anh đã làm cho Tôi và Thiếu Tá Thơm thuộc LLÐB phải bị Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Quân Khu-3 kêu lên chửi cho một trận nên thân: Tôi còn nhớ rõ ngày ấy vào một buổi chiều tối, khi tôi đi kiếm vài món gì nhét vào bao tử cho xong. Trên đường trở về khách sạn mà CIA mướn trọn hết cho Phi đội chúng tôi để bảo mật, thì được ông chủ khách sản chạy ra phân bua: Có ông Thiếu-úy của Ðại- Úy, tướng đi nghiêng nghiêng, gương mặt đỏ ngầu, tôi biết ngay là Huệ, xách súng và rủ các ông khác bao vây đồn quân cảnh ở ngả tư đàng kia. Tôi hối hả hỏi ông “Ông biết tại sao, lý do gì vậy”. Tại vì các ông ăn mặc và súng ống của Việt Cộng, nên cảnh sát đã phối hợp với quân cảnh ụp vào khách sạn xét hỏi, khi ông thiếu úy đi về thấy vậy, ông nổi điên chửi thề:

Năm 1949, Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục T. T. Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, bốn năm sau lại đề nghị 2 tỉ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình Báo OSS, do Ðiệp Viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-Pó giúp ông Hồ cả ngàn khẩu súng Carabin và Trung Liên Bar, cho Hạ Sĩ quan OSS huấn luyện Trung Đội võ trang tuyên truyền của Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng làm Trung Đội phó.

Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hủy dùm hàng tiêu dùng) để tạo thế cân bằng lực lượng của hai tay Con. Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa.

Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục xe nhà binh GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn khi MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.

Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoạch hòa đàm, thì quân Dù bị máy bay Mỹ thả bom nướng một Ðại Đội Dù tại bức tường thành, gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? Thả bom lầm là chuyện thường… Chiến tranh mà! (Theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông Quốc Lộ-I, ngoài biển tiến lên để Mỹ phối-hợp yểm trợ), và phải đúng thời điểm mặc cả tại Hòa Đàm Paris, mới được phép.

- “Ð.M. quân cảnh Mỹ mà thấy tụi nầy chở trên xe Jeep Delta cả chục người kể cả đàn bà con nít mà tụi nó không dám đụng đến mà quân cảnh Việt Nam là cái thá gì mà dám phiền nhiễu tụi nầy?”

Nói xong ông Thiếu Úy tập họp tất cả lại điều động bao vây Ðồn quân cảnh bảo Trung Úy Ðồn trưởng phải đích thân đi ra xin lỗi vì dám vào khách sạn của ông hạch hỏi lôi thôi; tôi có linh tính ngày mai thế nào cũng bị Tư Lệnh Vùng chửi bới.

Y như rằng, Tôi và Thiếu Tá Thơm bị Thiếu Tướng Viên kêu lên chửi cho một trận vuốt mặt không kịp:

– “Các anh đừng ỷ các anh là đơn vị cảm tử, ưu tú nhứt của quân lực VNCH rồi muốn làm gì thì làm à, càng giỏi mà đừng kiêu binh thì người dân mới kính phục quân đội… Trung úy trưởng đồn thông cảm sự hy sinh của các anh, chớ người khác họ lấy xe tăng cán đè lên các anh nát đầu dẹp lép, các anh hiểu chưa? Ăn mặc đồ Việt Cộng mà dám vây đồn quân cảnh, các anh liều thật… súng AK-50 của các anh thì làm được gì với xe tăng?”.

Tôi về lại khách sạn gặp Huệ, tôi cũng chẳng nói tiếng nào, có phải con người mà hằng đêm bay phi vụ đùa giỡn với tử thần đã đem lại một tinh thần bất ổn, căng thẳng vì giao động mạnh? Thế nhưng Huệ sửa lại tư thế càng kính trọng và nể phục tôi hơn, Tôi có thể hiểu được qua nét mặt của Huệ.

Còn Khôi, con người cứ lầm lầm lì lì khó hiểu. Thì giờ anh bỏ ra nhiều nhứt là mài dao trên một miếng đá mài tí hon. Thật là một hiện tượng kỳ quái; đêm đó tôi còn nhớ, Vũng Tàu một thành phố kết hợp nhiều binh chủng nhứt, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Người Nhái, Biệt Kích Lôi Hổ, Biệt Ðộng quân… Tôi đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cao của một quán Kiosque ở Bãi Trước, thì nghe tiếng súng nổ khắp nơi, mọi người đều nằm rạp xuống đất để tránh đạn, nhìn qua nhìn lại chỉ có một mình tôi thản nhiên ngồi uống rượu. Vì tôi biết chắc chắn họ chỉ bắn lên trời thôi chớ chẳng có gì phải sợ, sau một hồi nổ súng, các binh chủng khác đều rút lui chỉ còn lại lác đác vài anh Biệt Kích gan lì ở lại lâm le khẩu súng. Tôi nhìn ra thấy Trung sĩ Ðức, hắn vừa được tôi bóc ra trong chiến khu D tuần trước; Tôi trừng mắt quát lớn (không biết sao hồi đó tôi dữ quá).

– “Ðức… Ð. M đi về ngay!”

Hắn riu-ríu đi về nhưng vẫn chu miệng lên trời la lớn:

- “Ð.M. không có ông thầy tao kêu về… thì chết mẹ tụi bây hết!”

Một lát sau, không khí Bãi Trước vẫn vui lại như không có chuyện gì xẩy ra trước đó.

Một người đàn bà trạc tuổi 40 mươi, mặt mày phấn son tươm tất đi ra chào hỏi như muốn làm thân:

- “Em thấy Ðại Úy anh hùng quá chẳng sợ súng đạn là gì… cứ ngồi uống tỉnh bơ”.

- “Có gì đâu mà sợ… họ bắn dọa lên trời thôi chớ có gì đâu mà sợ”.

- “Em đề nghị Ðại Úy chuyện nầy nghe”

- “Ðâu chị nói thử”.

- “Tụi em ước ao Ðại Úy đỡ đầu cho quán của tụi em, chúng em sẽ biết điều với Ðại Úy… có như vậy quán tụi em sẽ không bị phá phách… nghe Ðại Úy”.

Tôi cảm thấy khó chịu và tội nghiệp cho người dân trong thời buổi chiến tranh:

- “Thôi đi… Tụi tôi ở đây có vài tuần xong chiến trận Bình Giả chúng tôi sẽ đi chỗ khác… Chị coi bao nhiêu tiền tôi trả, tôi phải về khuya rồi”.

- “Không có bao nhiêu thôi để em xin mời đại úy”.

Tôi bèn đặt tấm giấy bạc lên bàn, cẩn thận giằn ly rượu lên trên rồi ra về một mạch.

Vừa nằm xuống chưa kịp chợp mắt, đã có ai gõ cửa rầm rầm nơi phòng mình, vừa mở cửa đã thấy Trung Úy Ðỗ Cao Luận, Ðại Đội Trưởng Biệt-Kích Dù, mặt đỏ kè có lẽ uống quá nhiều rượu.

Tôi nghe tiếng nói không chững chạc qua hơi rượu:

- “Anh Vinh! Tôi muốn đấu súng với anh!”

- “Luận… ê… bộ hôm nay Bồ có chuyện buồn”.

Hắn gật gù trả lời:

- “Không có gì buồn mà chỉ có rửa hận thôi! Anh có đàn em mà không biết dạy-dỗ… mũi dại thì lái phải chịu đòn… có thế thôi”.

Tôi điên tiết lên nhưng phải vuốt cơn giận xuống.

- “Chuyện đâu còn có đó… không lẽ trong chiến trận mình đã hy sinh cho nhau mà bây giờ vì một người đàn bà mà mình phải hy sinh sanh mạng thật nhục quá… Tôi vẫn biết giữa anh và tôi, ai cũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng mình phải dành cái chết nơi xứng đáng.”

- “Thôi anh về ngủ đi… sáng mai tôi sẽ khuyên Khôi vụ nầy… anh yên chí tôi biết tánh nó” Luận bước lùi xiễng niểng, nặng nề lảo đảo ra xe để lại mùi hơi rượu nồng nặc.

Tôi không thể nào chộp mắt lại:

- “Tại sao có việc nầy… lỗi bởi do ai?”

T. Lan là vợ Bé của một cựu Tổng Bộ Trưởng quyền thế, đã có liên hệ tình ái với Luận, chàng Trung- úy rất đẹp trai phải nói nhứt nhì trong quân đội, còn Khôi… so ra còn xấu hơn mình, tình yêu gì mà khó hiểu quá? Mà cũng thiệt kỳ quái, chiều nầy đi vào phi trường để bay thám sát LZ, xe Jeep thiếu gì, nhưng kẹt nổi ai cũng muốn leo lên chiếc xe Cortina Trắng mui trần của T. Lan để vào phi trường; gót giày nhà binh nện lên làm trầy trụa cả lớp sơn trắng.

Chính tôi đã hỏi nàng:

- “Sao cô không để các anh tự lái xe đi… như vầy thì nát xe hết”.

T. Lan nhoẻn miệng cười:

- “Em dự định trầy sơn em sẽ sơn màu đỏ cho nó ngầu và hợp thời trang hơn!”

- Thôi mình ráng dỗ giấc ngủ, ngày mai tính sau.

Nhưng lại nghĩ mong lung tới Trung-sĩ Ðức, vừa rồi nếu mình không cứu hắn từ trong lòng địch từ Chiến khu D ra thì sức mấy đang hang tiết vịt mà nó chịu nghe lời mình trở về Trại. Nghĩ cho kỹ Toán hắn hên và thật may, mới thả chiều hôm qua thì sáng hôm nay lại được bóc về liền.

Hắn kể chuyện mà bắt tức cười:

- “Chiến thuật ngụy-âm” Chúng tôi thả Toán của Tùng và Nhựt bằng phương cách tạo nhiểu loạn âm thanh; Trên thế đất bằng phẳng rừng cây cao dầy đặt bạt ngàn như Chiến khu D, hoặc rừng cao-su bát ngát như Bình Giả; Tâm lý ở vùng rừng núi người ta thường chuẩn bị cho một đêm dài trước khi trời sắp xụp tối.

Trưa ngày hôm đó, hai Toán-trưởng, hai Phi-công trưởng và hai sĩ quan Việt Mỹ đặc trách hành quân, Thiếu tá Tất và Thiếu tá da màu Thompson. Chúng tôi được một chiếc phi cơ của quân đội Úc “Otter” chở đi thám sát bãi đáp, Tôi đề nghị phi công của chiếc Otter bay cao ngang qua vùng hành quân lấy trục thẳng từ Ðông sang Tây và khi trở về đáp lại Vũng Tàu, tránh tuyệt đối không bay trở lại trên vùng đó, làm như vậy để khỏi bị sự chú ý của địch.
Chỉ còn vài phút nữa là bay ngang vùng phải chọn bãi đáp cho tối nay. Bốn nhân vật quan trọng nhứt trong phi vụ thám sát nầy là hai cặp, Nhựt và Khôi, Tùng và Tôi. Chỉ duy có vài phút trôi qua nhanh chóng, mổi cặp tự bàn thảo với nhau trong việc chọn bãi đáp, nhưng phần nhiều phi công quyết định; Toán trưởng chỉ có việc ghi chấm bãi đáp theo ý định của phi công.

Chúng tôi thường chọn một bãi Chính và một bãi Phụ; Trên bản đồ có khoanh vùng thám sát cho từng Toán trách nhiệm. Thời gian bay ngang qua bải đáp quá nhanh, bốn đứa chúng tôi, ai mặt mày cũng đỏ kè vì phải vận dụng trí óc quá nhiều căng thẳng thần kinh; Tôi nhìn qua Khôi và Nhựt thì họ cũng vừa trỏ ngón tay Cái lên báo hiệu okay.

Thế là từ giờ phút nầy trở đi bãi đáp như một nhân tình không thể xóa mờ trong tâm trí chúng tôi; Thiếu tá Thompson có hỏi tôi hai tọa độ bãi đáp nhưng tôi do-dự, làm sao tin ai được, Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ tuyệt đối bí mật cho Toán, cho nên Tôi thối thoát:

- “Tối nay Tôi sẽ cho Thiếu-tá biết ngay lúc về đáp vì có thể giờ chót đáp vào bãi phụ thứ hai”.

Ánh nắng ban chiều còn lảng vảng dưới trời Tây như muốn nhắn nhủ loài người thôi dừng lại sự chém giết lẫn nhau vì tất cả rồi đây sẽ chôn vùi vào bóng tối âm ti. Ba chiếc trực thăng tuần tự nổ máy giữa gốc phi trường nhưng không át nổi tiếng động-cơ gầm thét khi lên xuống; Tôi cất cánh trước rồi Huệ và Khôi sau cùng; Huệ bay chiếc thứ hai không có chở Toán mà chỉ để cấp cứu khi có chiếc nào bị nạn và cũng để đánh lạc hướng đối phương. Phi cơ đang bay đội hình nấc thang, chút nữa đây giữa đám cây cao dầy dặt; Lính Bắc Việt chỉ nghe một đoàn trực thăng bay ngang qua như mọi ngày, không biết từ phương hướng nào tới, âm thanh nhiểu loạn, lẫn lộn lớn dần rồi vụt một cái ào lướt qua, âm thanh tiếp tục nhỏ dần dần đến khi không còn âm vang. Làm sao Lính Bắc Việt biết được chỉ có vài giây, một chiếc vừa thả Toán cách đó không xa!

- “Hai, Ba sẵn sàng… mình xuống thấp 100 bộ, hãy giữ cao độ nầy, mổi chiếc cách nhau 7 giây okay?”.

Tôi xuống thấp… bải đáp trước mặt, làm động tác đứng khựng nhịp nhàng tay-lái… không được rồi, chúng gài chông cao năm thước để chống trực thăng đầy lố-nhố trên trãng tranh của bãi đáp, Tôi cất cánh lại tiến về bãi đáp dự phòng, vừa lúc nầy thì chiếc thứ Ba của Khôi vừa lướt qua; Tôi bám theo sau hắn giữ khoảng cách 7 giây. Bây giờ tới phiên Khôi thả tôi giữ khoảng cách sau hắn; Khôi đang giảm sức máy, đầu phi cơ ngốc lên, chuẩn bị đáp; Tôi giữ nguyên tốc độ vượt qua trên đầu hắn, chưa được 7 giây thì Khôi đang nối đuôi sau lưng tôi. Giờ tới phiên Tôi thả, bãi đáp trước mặt hơi nhỏ khó khăn hơn; Tôi nhẹ nhàng giảm tốc lực máy, đáp xuống… một, hai rồi năm giây Toán phóng xuống quá nhanh; Tôi cất cánh nối đuôi theo chiếc trước của Huệ, bay thẳng một mạch không đỗi hướng về lại căn cứ. Cuộc thâm nhập thật hoàn hảo!

Ðúng 10 giờ sáng hôm sau, Toán của Trung úy Tùng cho biết đã bắt được một tù binh xin được bóc về gấp, gần chỗ bãi đáp hôm qua bị gài nhiều chong chống trực thăng. Lời nhắn của Toán trưởng, nên bay từ hướng Bắc xuống, từ nơi có nhiều cây cao dầy đặt nhưng rất an toàn, không nên lấy hướng từ Xóm sình, Bầu-Cạn, Bầu Phụng trở lên sẽ bay qua đầu một trung đoàn trừ của Bắc Việt chốt ở đó, Toán chỉ trãi báo hiệu bằng tấm vải nhựa màu vàng cam khi nghe tiếng trực thăng, tuyệt đối không đốt khói màu. Trung sĩ Ðức là người lập công đầu; Hắn mừng rỡ vừa nhảy xuống phi cơ, bu lô bu loa trong niềm tự hào, hắn kể cho phi hành đoàn nghe:

- “Tôi nghe ở đàng xa có tiếng chân người bước vội, tôi núp ngay xuống bụi rậm dầy nhứt ở bên cạnh lối mòn. Tim tôi đập thình thịch, súng luồm luồm ở vị thế sẵn sàng nhả đạn, tuy tôi được lịnh tránh tối đa không được nhã đạn. Tiếng lá xào xạt mỗi lúc một gần, tôi nghĩ thằng Việt Cộng nầy chắc chắn nó không biết có tụi tôi ở nơi đây, nên nó vừa đi vừa thản nhiên hút gió. Khi nó vừa qua mặt tôi thì nó đi vào một bụi cỏ gần đó; Tôi ngó qua thấy nó không cách tôi xa lắm và đang cởi quần; Tôi nghĩ nó đi Ể. Tôi liền tiến tới ngay sau lưng nó la hét to lên, cốt cũng để báo động cho Toán biết luôn.

- “Dơ tay lên… Ð.M. dơ tay lên!”

Tôi thấy nó chẳng chút gì sợ hải mà thản nhiên trả lời:

- “Ð. Một… đây, Ð. một đây!”

Tôi tức giận thét lớn:

- “Ð.M… Ð Một cũng phải dơ tay lên.”

Lúc nầy Hắn mới sợ hãi quay lại nhìn tôi một lát rồi mới chịu dơ tay lên mà không kịp kéo quần, Ð.M. thúi quá! Tôi xong tới trói tréo tay hắn lại bằng chiếc còng dã chiến Nilông thì cũng vừa lúc Trung úy Tùng chạy đến, chúng tôi kéo hắn chạy trối chết ra bãi đáp… Tôi không hiểu ám số Ð-Một là cái con mẹ gì?

Nằm trong phòng ngủ hạng sang có máy đều hòa mà Tôi không tài nào ngủ được, tôi nhảy xuống giường chơi thêm một chai beer nữa họa may dỗ được giấc ngủ rồi ngày mai còn phải gặp Khôi để giải quyết chuyện tình cảm lăng-nhăng giữa đồng đội cùng sống chết có nhau. Thật tình yêu phức tạp khó hiểu quá! Ðẹp trai không chịu mà chịu xấu trai mới nên nông nổi, ngày mai Tôi sẽ phải giải quyết sao đây!

Mặt trời đã lên cao nhưng Tôi vẩn còn ngủ vùi như khúc gỗ, bổng có tiếng gõ cửa dồn dập; tôi nhảy ra khỏi giường như chiếc lò xo ra mở cửa; Khôi xuất hiện vui vẻ mời tôi đi ăn sáng.

– “Tôi định gặp anh thì anh đã đến.”

Khôi dồn dả hỏi tôi:

– “Có chuyện gì quan trọng không đại-ca?”

- “Ối, cũng chẳng có gì là quan trọng, anh đồng ý tính mạng của anh em mình mới quan trọng.”

Khôi cướp lời:

- “Khỏi nói đúng là như vậy.”

Chúng tôi lái xe Jeep ra Bải Sau ăn sáng, trên đường đi tôi không nhắc nhở gì chuyện tối qua Trung Úy Ðổ Cao Luận đòi đấu súng với tôi.

- “Bửa nay hai anh em mình đi thi tài bắn súng, ai thua thì trả ăn sáng?”

Khôi dẩy nẩy:

- “Tôi hứa bao anh ăn sáng rồi mà… vả lại tôi làm sao bắn giỏi bằng đại-ca?”

Chúng tôi vào một cái quán xa nhứt và cũng vắng vẽ nhứt; Sau khi ăn uống no nê, tôi từ từ nói:

- “À Khôi nè, đừng nói tôi hay tò mò… Anh làm quen với cô T. Lan được bao lâu”

- “Cũng không lâu lắm… mới được vài ngày đây thôi”

- “Anh đừng nghĩ tôi tò mò, chỗ anh em mình sống chết có nhau… vì thế cuộc sống của chúng mình có những mấu chốt dính dấp chặc chẻ như ruột thịt… anh đồng ý điều đó.”

- “Chắc chắn dĩ nhiên là vậy!”

- “Anh có biết T. Lan là người yêu của Luận, Ðại đội trưởng Biệt Kích Dù?”

- “Biết chớ, nhưng T. Lan đâu phải vợ của thằng Luận”

- “Ðành rằng như vậy nhưng giữa T. Lan và Luận anh quý người nào hơn?”

- “Tôi quý cả hai, Luận là chiến hữu cùng sống chết có nhau nhưng T. Lan là người yêu, dầu mới quen nhau nhưng tôi không thể bỏ nàng được”.

- “Một bên là tình bạn cố hữu lâu đời và một bên là tình yêu mới chớm nở, chả lẽ chuyện nầy anh không thể giải quyết được sao?”

- “Anh Vinh à, mặc-dù anh lớn tuổi và là cấp chỉ huy của tôi, nhưng anh làm sao hiểu được khi yêu con tim nó có lý lẽ riêng của nó!”.

- “Khôi à… tôi rất hiểu điều đó, nhưng đây mình bỏ qua cấp bực mà chỉ lấy tình chiến hửu cao quý để đối xử với nhau, tôi thấy nó trọn tình vỉnh cửu, dù sao mình cũng tự hào là người trai anh hùng của thế hệ; Tôi nghĩ Khôi con người tài ba mà chẳng lẽ chỉ có một T. Lan trong cuộc đời mình, ngoài xã hội thiếu chi người đã đẹp mà nết na chung thủy… hay là anh chịu khuất phục không đủ bản lãnh hay tài ba để tìm một người đẹp hơn T. Lan?

- “Ðúng, anh là cấp chỉ huy tài ba không những trong nghề nghiệp mà còn thầy đời về tâm lý, anh đã khơi đúng lòng tự trọng của thằng Khôi nầy… Bây giờ trở đi tôi xin hứa với anh, mối liên hệ giữa T. Lan và tôi sẽ chấm dứt từ đây”.

Ðể cho không khí bớt căng thẳng tôi cà-rởn nói đùa như có lời khích bác:

- “Nếu mình o - mèo dở ẹt không kiếm nổi cô nào khác thì tội gì mà nhả ra… phải không!”

Anh Vinh à! Đây là lần cuối, thôi đừng nhắc nhở chuyện đó nữa, anh nói đúng: “Mình không thể bỏ anh em, bạn bè chiến hửu cùng sống chết có nhau!

Bây giờ nghĩ đến hai hiện tượng Khôi và Huệ túc trực cấp cứu, tôi vô cùng yên tâm, vừa suy tư đến đây thì cũng vừa lúc Khôi và Huệ đến tôi; Huệ có cầm trên tay cho tôi một ca-nhôm càfê đen.
Hắn nói:

- “Trong thời gian nghiên cứu bản đồ, anh uống chút cho tỉnh!”

Tôi, Hảo, Huệ và Khôi, bốn đứa ngồi cho hỏ trên bải cỏ. Tôi chậm chạp thuyết trình:

- “Dự trù Tôi sẽ cất cánh lúc 10 giờ, hai anh cất cánh sau tôi một chút bay thẳng về Ðà Nẳng, nhớ giữ tần số UHF… VHF… F.M… thỉnh thoảng các anh gọi tôi hoặc ngược lại, Hảo sẽ gọi các anh” Xuống Ðà-Nẳng các anh đổ xăng vẩn luôn luôn giữ ba tần số nầy có gì khẫn cấp thì gọi Okay..? Khi cất cánh lại nhớ bay về hướng Quảng Ngãi, khi bay xuống gần đến Benhét tôi sẽ trở về Quảng Ngải đổ xăng và gặp các anh ở đó. Chúng ta sẽ gặp người đẹp Quảng Ngải, Cô Mầu bán kẹo Gương, nhìn nàng rửa con mắt cho thỏa chí rồi lên nhà hàng Thế giới Tửu gia dùng cơm.

À còn quên một chuyện rất quan trọng, ngay sau khi cất cánh, các anh đừng vội bay một lèo về Ðà Nẵng mà bay vòng vòng ở Sông Mỹ Chánh, vì Tôi sẽ không bay chụp ảnh từ biên giới Lào Việt dọc xuống miền Nam, trọng điểm từ đỉnh núi đá vôi Coroc xuống lần theo Sông Xe-pon mà bay thẳng một mạch đến sào-huyệt Tiền phương Ðoàn 559 trước, vì rằng Tôi không muốn chúng sẳn sàng chào đón, nếu mình ló dạng nơi nào khác trước đó thì chúng sẽ báo động ngay. Mình sẽ bị lảnh đủ vì nơi đó là vùng tử địa, núi non chôm chổm, vách đá đứng sựng, nơi hai Tiểu Đoàn pháo phòng không bảo vệ chặc chẽ, phi cơ khu trục chiến thuật rớt quanh đó rất nhiều, mới vừa rồi một gunship AC-130E bị bắn rớt phi hành đoàn coi như tan xác, vì theo ROE cho nay co Sam- enveloped… Các anh có gì để hỏi? Okay chúng ta chuẩn bị cất cánh”

LLDB Huỳnh Thuận Nhã xuất hiện trong bộ đồ ngụy trang da-beo lốm đốm và Thượng Sĩ Donald Duncan trong bộ đồ rằng-ri TQLC, trên bộ đồ ngụy trang nầy chằng chịt nhiều thứ máy chụp hình, phim ảnh, dây súng đạn đủ thứ.
Người Mỹ ỷ vào sự lớn xác nên họ mang rất nhiều thứ lỉnh kỉnh trên mình, như ống nhòm, gun flare, bản đồ thậm chí còn có kiến mát nữa.
Tất cả đều được điều động ngồi gọn lên phần trước của Trực thăng, Cơ-phi Mai đang tháo hai khúc gổ chèn bánh xe quăng vội một bên, rồi nhảy phóc lên sàn tàu, dơ ngón tay Cái ám hiệu sẳn sàng nhưng không quên nhe hàm răng ngó lên cười để cũng cố sự can đảm. Mọi người đều hiểu được đây là chuyến bay định mệnh, đúng nghĩa vào sanh ra tử!

Tôi vừa làm thử một thao tác “Lazy-8” rất ngoạn mục nhưng không biết tới đó, vách núi chập chùng chận cao trước mặt mình có làm được đẹp như vậy không, hay là quá căng thẳng thần kinh cùng sự mệt mỏi, rồi không làm được thì chết mẹ cả lủ năm mạng người. Sào-huyệt Ðoàn 559 (Oscar-Eight) cách Khe Sanh 25 dậm về phía Ðông-Nam, nơi đây tôi phải bay sạt trên ngọn cây không phải vì sợ Radar theo dỏi mà sợ chúng biết tụi tôi mon men tới, chúng sẽ vui vẻ chuẩn bị chào mừng bằng những tiếng pháo phòng không đủ loại.

Tôi cứ bám hướng 155 độ, bay sạt trên ngọn cây, dợn sóng lên xuống theo địa hình lồi lỏm của thế đất. Xa xa là tiền đồn Satram của ngày xa xưa nay bỏ ngỏ như một đồn ma hoang vắng, đã bị bỏ hoang từ thời Ðệ-I Cộng Hòa; Trước mặt là dảy núi Tam Bôi, ánh nắng ban mai chói chang đang tỏa xuống cạnh sườn Ðông của thung lủng với vách núi đá sừng sửng dựng đứng, lác đác đó đây trên điểm cao, những ổ phòng không lúc nào cũng sẳn sàng nhã đạn. Dưới đó có một con suối lớn ngoằn ngèo chảy ngược nhưng lại xuôi về Ðông Nam, tiếp nối thung lủng ALuôi, Ashau như tấm thảm xanh bằng phẳng trải dài bát ngát với cỏ rạ sình lầy.

Còn vài phút nửa là chúng tôi sẽ đâm đầu vào ổ kiến lửa; Nó ở giữa lưng chừng của hai tiền đồn đả bỏ hoang từ lâu là Litôn và Tourout, cảm giác ngoại cãnh khác lạ trong tôi, bỗng dưng toát lên hai thái cực đối nghịch với nhau. Hồi còn là phi công quan sát, ở vị trí từ trên cao nhìn xuống, tôi thường chép miệng khen thầm “quê hương mình quả thật quá đẹp, núi non hùng vĩ bạt ngàn. Nhưng giờ đây ngoại cảnh trước mắt quá hải hùng, buộc chặc trong tằm mắt phải nhìn thật gần, thật sát, thật rõ được những gì đang đe dọa cho đất nước miền Nam.
Dưới đây, hoạt cảnh đổi thay nhộn nhịp đến kinh hoàng trên dọc tuyến đường Mòn Hồ Chí Minh, chi chít đường xá mới mọc, lối mòn tua tủa song song chạy về hướng Nam, biết bao là cầu mới dựng tạm bắt ngang. Những doanh trại, nhà kho nằm ẫn dật dưới lùm cây dọc theo con Suối, có nơi lá ngụy trang đã rụng rời phơi bày mái nốc lợp bằng “Tre-đan đập-dập” lộ thiên như thách thức, rẩy nương tạp nhạp lẩn lộn với đủ loại hoa màu, Sắn, Ngô, Khoai, Cải bẹ… để ngụy trang đánh lạc hướng sự chú ý của các phi cơ trinh sát không ảnh U-2 và RF-101 nhưng làm sao lừa được những cặp mắt cú-vọ của Nhã và Duncan qua những thước phim để đời.

Ai dám bảo đảm cho Cộng Sản Hà Nội thôn tính Miền Nam!

Không phải Liên Xô mà cũng không phải Trung Quốc mà là người bạn quý của chúng ta! Nếu phải nêu đích danh là W. A. Harriman, thủ lãnh đảng hội Skull and Bones thì quả là không sai – Một trò chơi chiến tranh chớ không phải là cuộc chiến tranh thực sự.

Nếu Hoa kỳ muốn làm tiêu tan ý đồ của Cộng Sản Bắc Việt, cứ mỗi tuần lể chỉ một lần thôi, thả vào nơi đường Xa lộ Harriman (Đường Mòn Hồ Chí Minh): Vì đã nhiều lần CSBV tuyên bố trước thế giới không có quân lính của họ ở nơi đó (đường mòn HCM), có nghĩa là chỉ có Khỉ và Vượn mà thôi.

Ðể phòng thủ tự vệ, Không-quân miền Nam chỉ thả một trái Bom CBU-55, và cứ một tuần một lần rồi dùng AC-130B bay dọc theo hành lang xa lộ dùng đại bác không giật 106ly loại đạn tầm nhiệt mà chơi. Không bao lâu chẳng còn chiếc xe máy nổ nào ở trên tuyến hành lang và chỉ còn lại một loại xe “cải tiến” (nói theo danh từ của Việt cộng, cho la Xe-thung) nhưng lại không có người hay trâu bò để kéo. Dĩ nhiên là tiêu tan ý đồ cưỡng chiếm Miền Nam bằng võ lực.

Phía Cộng Sản thường nói: Mỹ là tay sen đầm quốc tế, còn các nước khác cho Mỹ là cảnh sát thế giới. Riêng Tôi thì cho rằng, Mỹ là Chủ cái chia bài rất điệu nghệ, phát hiện tay Con nào thua quá nhưng muốn cầm chưn để chơi tiếp. Chủ Cái Mỹ bèn có hai cách: Một, lấy tiền của tay Con kia cho tay nầy ăn để chơi tiếp – Hai, Chủ Cái chơi đẹp - cho tất cả tay Con đều “hẩu-sực” rồi từ từ lùa hốt sau.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ vừa viện trợ cho Pháp (nhưng thực tâm Mỹ muốn nhờ Pháp tiêu thụ những thứ vất đi nầy, và chịu lệ thuộc cho quyền lợi của Mỹ).

Năm 1949, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục TT Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, 4 năm sau lại đề nghị 2 tỉ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình báo OSS, do Ðiệp Viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-pó giúp Cụ Hồ cả ngàn khẩu súng Carabin và Trung Liên Bar, cho Hạ Sĩ quan OSS huấn luyện Trung đội Vỏ trang tuyên truyền của Vỏ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dủng làm Trung đội phó.

Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa chẳng hạn như năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hủy dùm hàng tiêu dùng) để cân bằng lực lượng của hai tay Con, Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa.

Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục xe nhà binh GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.

Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoạch hòa đàm, thì quân Dù bị máy bay Mỹ thả bom nướng một Ðại Đội Dù tại bức tường thành, gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? Thả bom lầm là chuyện thường… Chiến tranh mà! (theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông Quốc Lộ-I, ngoài biển tiến lên để Mỹ phối-hợp yểm trợ), và phải đúng thời điểm mặc cả tại Hòa Đàm Paris, mới được phép.
Còn CSBV muốn Tổng Nổi Dậy chiếm Miền Nam 1972, nhưng chưa đúng thời điểm nên phải bị hy sinh 100.000 quân, khiến Tướng Giáp phải từ nhiệm.

Nhưng quyền hạn do lãnh đạo Mỹ chỉ định là Sư-đoàn TQLC tái chiếm Cổ thành. Báo hại trong buổi hợp tại Camp Evan khi TQLC được chỉ định chiếm Cổ thành, thì bị ngay sự phản ứng của Trung tướng Dư Quốc Ðống phẩn nộ ngay buổi hợp.

Tôi xin phát biểu nguyên văn:

- “Ð. M. Thằng nào ở Dù ra mà phản bội lại Dù thì đéo khá được”.

Có lẽ Tướng Ðống nghĩ rằng đây là phóng đồ hành quân do Tướng Trưởng quyết định. [Chúng ta cũng đừng nên nghĩ rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 là tiếng Việt nhưng Mỹ đã đặt tên qua sự cố vấn của CIA trước một tháng, 18/1/1971, do Richard Helms va Donald Rumsfeld] làm mất đi tình huynh đệ chi binh giữa các Tướng lãnh với nhau.

Tôi phải mở to mắt ra để nhìn về phía trước, bằng mọi giá phải khóa chặt tầm nhìn của súng phòng không Bắc Việt. Thông thường chúng điều chỉnh tầm tác xạ ở góc bắn bao quát lên trời chớ không bắn tầm ngang hoặc chỉa xuống dòng Suối của thung lủng; Ðây cũng là cách bay nhũi vào lửa đạn mà tôi đang nghĩ tới cách thoát thân. Tôi quyết định bay thẳng gốc với con đường mòn trước mặt giao tiếp với một con Suối lớn bắt nguồn từ giòng Sông Xê-Pon chảy ngược lên mạn Tây Bắc của Tỉnh lỵ Tchepone.

Bất chợt, như phản xạ, Tôi tự động chúi mũi tăng tốc độ tối đa để vượt qua tầm mắt của Toán người đang cố lội qua Suối; Họ đang cồng lưng vác vật gì nặng lắm! Có lẽ đạn phòng không? Mình mẩy ngụy trang đầy cành lá! Tại sao Họ không bắn chúng tôi mà lại vẩy tay chào mừng như đồng chí?

Tôi nghe trong nón bay, ở dưới buồng lái Mai nói nhắn lên:

- “Anh nghe thấy gì không?”

Tay chân đều kẹt đang lái, Tôi vừa ngậm micro vừa nói ú ớ:

- “Thấy lính Bắc Việt vẩy tay chào anh”

“Duncan và Nhã đang bận bấm liên tục chiếc máy hình, Tôi đâu có việc gì làm… mà không biết tại sao Tôi tự động vẩy tay, cho nên họ mới vẩy tay lại”.

Tôi hỏi gặn lại,

- “Tại sao họ không bắn mình”

Mai cười hô hố trả lời:

- “Có lẽ Toán dân công khuân vác, Họ đâu có mang súng, anh nào cũng ì-ạch xiểng niểng chống gậy qua Suối, dường như Họ mang cái khỉ gì trên lưng nặng lắm, qua Suối không vững… nếu như U-2 hoặc RF-101 mà chụp không ảnh… thì Họ cứ cho là một đại-đội hay trung-đội nào đó với đầy đủ súng ống đang băng qua Sông, chớ đâu có biết đây là Toán dân công khuân vác, có người chặt cả cành cây còn lá để ngụy trang, làm gậy chống chỏi qua Suối.
Những cái vẩy tay qua lại vô tâm hay lịch sự vô thức? Hay phản ứng tự nhiên? Không phải “tao-ngộ chiến”… trong giây lác ngở ngàng không dự đoán phải làm sao

Chúng tôi sắp lướt nhanh qua con đường đất đỏ trước mặt, lần nầy chắc Mai vẩy tay có ý thức, chớ ở không làm gì, vẩy tay ra cái điều là dân lịch sự hào hoa cũng nên lắm!

Quả thật ở ngay trên đường đất đỏ nầy có một chiếc xe ‘hũ-lô’ làm đường, kiểu có ống khói hồi lý-toét xa xưa, vài chục người bu quanh, hai tay cầm cái Rế cái Xọt, dường như đang hất đất đá xuống những lổ trủng làm đường. Làm sao biết được đàn ông hay đàn bà dưới những vành nón lá nhỏ hơn kiểu Miền Nam một chút. Chúng tôi đang nghĩ rằng họ sẽ ngước mặt lên khi nghe tiếng động cơ bay ngang; người ngước lên nhìn trước nhứt là ngay vào lúc Tôi đang bay ngang đầu họ, còn lại phần đông chưa kịp phản ứng; Những chiếc hình nầy của Duncan và Nhả sẽ tái xác định vào lúc nào thì tất cả đều biết chúng tôi bay ngang.

Ðã đến nơi tử địa rồi, Tôi đang căng thẳng thần kinh, hồi hộp mím môi ghìm tay lái. Bay lách qua, lách lại như con cá lia-thia ẩn hiện trong hóc đá san hô, cạnh sườn bên trái con Suối lớn, để tầm quan sát chụp ảnh được rỏ ràng hơn, bên phải tôi, trên cao vách đá, đã phát hiện ra ít sự hoạt động của người qua lại trên lối mòn, cỏ vẹt ra nằm rạt hai bên. Nhưng cảnh vật vẩn yên tịnh, có lẽ là Họ không ngờ rằng giờ nầy có chúng tôi đến thăm mà không hẹn trước; Trên vách đá cao hơn đã thấy có dấu vết phơi áo quần bộ đội, Tôi cảm thấy vững tâm vì các ổ phòng không đang chốt ở các cao điểm, hơn cao độ chúng tôi đang bay dọc theo dưới con Suối. Và dỉ nhiên tầm tác xạ của chúng không làm gì được để gây thiệt hại cho chúng tôi.

Thình lình, Tôi nghe khoảng cách sau đuôi hai tiếng nổ ầm ầm, Tôi nhũi mũi tăng tốc độ bay sát vào vách đá, nương vào các chướng ngại vật thiêng liêng để lẫn tránh. Rồi cũng phía sau đuôi tiềng AK nổ dòn tan như bắp rang. Tôi chẳng sợ sệt gì cả vì tầm đạn còn quá xa không thể nào đến đây được; Dường như chúng đã báo động, tôi đã nhìn thấy rỏ những vệt khói trắng từ bên kia Suối. Có lẽ B-40 hay 41 gì đó bắn qua nhưng đạn đạo không tới, nên rơi nổ giữa dưới lòng Suối; Thời gian bay qua Ðoàn 559 Tiền phương sao lâu quá mà khúc ẹo con Suối lại quá gắt, đôi khi lượn trái đôi khi lượn phải mà vách núi đá thì đứng sừng sựng như muốn chụp xuống trực thăng.

Bây giờ ở phía sau đuôi thì hình như không còn đe-dọa nữa, nhưng ác nghiệt thay những mảnh đạn súng cối tối tân nhứt thời đó của Liên Xô là Cối 120ly lại bóc lên trước mặt, có những cột khói nổ tung rải rát không biết đâu mà tránh. Chúng bắn từ những cao điểm ở trên chóp núi dọc theo dưới con Suối, nên luôn luôn chúng tôi phải lướt trên những cụm khói của hỏa pháo, mùi khói thuốc khét nghẹt đến muốn ngạt thở.

Trong phản ứng, Tôi dùng hết sức máy để qua khỏi vùng tử địa càng nhanh càng tốt, trực thăng thoáng nhanh có lúc muốn chui vào vách đá bên trái con Suối. Bay như thế nầy có thể tránh khỏi những mảnh đạn của súng cối phòng không, nhưng vô cùng nguy hiểm vì phải đòi hỏi tay nghề khá điêu luyện. Tôi đang thấy rõ hai vệt khói trắng đục bên phải, từ vách núi phía trên cánh quạt chính phụt xuống, Tôi lại cứ ngở rằng loại B-40 hay 41 gì đó; Nhưng khi chúng bay ngang tôi sức gió thật mãnh liệt và theo sau một vệt khói dài nơi sau đuôi. “Thôi chết rồi SA-7, 5, 3 gì đây” Trong nón bay Tôi vẩn nghe được tiếng gió rít, cảm nhận tốc lực và âm thanh thật hải hùng, rồi hai tiếng nổ kinh hoàng… ầm ầm trên thành đá bên trái của chúng tôi chừng 20 thước. Trực thăng bị ảnh hưởng luồng gió cực mạnh rùng mình đôi chút.

Con người thường khi gặp nguy hiểm hay quá thất vọng thường nghĩ đến Thượng đế. Lúc nầy tự nhiên Tôi nhớ đến lời Ni dặn,

- “Chúa Mẹ Maria ơi cứu con!” Tôi Amen loạn xạ!

Có lẽ hai trái hỏa tiễn SA-7 cầm tay nầy hay đạn pháo 85 ly, 75 ly gì đó. Nếu đạn 85 hay 75 ly thì làm gì có vệt khói mạnh thẳng bon ở sau trái đạn, mà đạn đạo làm gì đi xa thẳng đường như hỏa tiển; Nếu như ống thoát khói của H-34 ở bên phải thì mình đã bị nó hút vô rồi; vả lại khi bắn hỏa tiễn sẽ không có hiệu quả chính xác, trừ phi trái hoả tiển có đủ tốc lực và cao độ thì nó mới được chính xác nhũi vào mục tiêu. Cho nên chúng tôi đã thoát chết do hai đều may mắn kể trên: cao độ thấp và ống thoát khói ở ngoài tầm nhiệt phi đạo của hỏa tiễn.

Thôi qua khỏi rồi, đừng quan tâm gì nữa để trí não lo chuyện khác, trước mặt lại lập lại cảnh cũ, những cột khói súng cối lại cường độ nhiều hơn trước, nhưng thời gian và tâm trí đâu mà đoán ước lượng cỡ bao nhiêu cự ly; Thôi đành cứ bay sạt ngang cạnh vách đá chớ biết làm sao hiểu được ở đâu mà tránh. Ðạn tránh người chớ người làm sao tránh đạn!

Chúng tôi đang thấy một số rất đông người ở dưới Suối, dường như họ đang thản nhiên tắm giặc; Ô coi kìa! Họ đang tũa chạy lên bờ, một lát sau chúng tôi nghe tiếng AK như chưa bao giờ được nghe nhiều như vậy, nhưng chúng tôi cứ tỉnh-bơ vì quá xa sau ấy; Nhưng nếu mà đừng hồi hợp thì nghe tiếng AK dòn như pháo Tết, pháo nổ trước mũi Lân đang múa giao thừa. Nơi đây cảnh vật bắt đầu yên tỉnh, núi đá cao dần, tôi bớt sức máy giữ trong chế độ bay bình thường.

Tôi giựt mình thấy chân ngọn núi Tam Bôi dựng đứng như cánh cửa sắt khổng lồ chấn ngang chực ụp xuống chúng tôi – rán gò tay lái, Tôi bình tỉnh ấn nhanh mũi phi cơ lấy tốc lực, nhanh lần, nhanh hơn đến vận tốc tối đa… đũ tốc độ, kéo mũi phi cơ thẳng đứng, xung quanh toàn vách núi… thân thể mọi người dính chặc vào ghế lái, thân tàu, mặt dài thộn ra… mũi phi cơ ngóc lên thẳng gốc, cao cao dần, một màu xanh bầu trời trước mặt, không còn thấy đất mà chỉ có trời và không-gian… tốc độ giảm dần còn 25 hải lý; đạp nhẹ đều chân phải, mũi phi cơ lắt nhẹ, rồi từ từ đâm đầu xuống Suối… tốc độ nhanh dần đến bình phi. Chúng tôi đang vòng lại 180 độ trong chìu thẳng đứng chử I. Tôi nghe trong nón bay tiếng Mai phàn nàn

- “Anh ra khỏi vòng nguy hiểm một chút để chúng tôi nghỉ mệt, rồi vào lại sau!” Tôi hiểu được sức chịu đựng có hạn, nghĩ chỉ còn cách dựa vào đám rừng nguyên thủy dày đặt cây cao trước mặt bay qua đó cho anh em nghĩ mệt một chút.

- “Okay mọi người nằm đại xuống sàn tàu nghĩ 5 phút rồi tiếp tục!”

Lúc nầy Tôi mới có thời gian để hỏi Hảo:

- “Anh có liên lạc gì với Huệ chưa?”

- “Tụi nó ở không, rảnh quá cho nên cứ gọi hoài làm sốt cả ruột”

- “Thì anh cũng rảnh, nên trả lời cho Huệ yên tâm… liên lạc tốt chớ”

- “UHF và VHF thì rất tốt, duy có FM thì không nghe rõ”.

Nhìn tận mắt thung lủng với vách đá sừng sửng hiểm trở như vậy, quả thật đây là thánh địa khá vững chắc của Bộ chỉ huy tiền phương Ðoàn 559 mà phía Bắc Việt cho là Trung tâm đầu nảo lảnh đạo cuộc chiến miền Nam. Còn phía SOG thì đặt tên cho nó là “Oscar-Eight” – CIA với mục tiêu chiến lược họ gọi rằng:
“Mọi nơi miền Nam đều bị đụng trận nhưng chưa hoàn tất và chỉ để gây tiếng vang mà thôi” (Everything worked, but nothing worked enough) Vì thế nên mặc dù Miguez bị mổ ruột và thiêu sống, dù đây là một hành động vô cùng tàn ác trước sự chứng kiến của Toán SOG nhưng lệnh CIA buộc họ phải nhảy vào “Oscar-Eight”.

Giữa tháng Sáu năm 1967, lực lượng Hatcher Force được lệnh phải thâm nhập vào Trung Tâm đầu nảo Ðoàn 559 nầy, nó nằm vào khoảng 40 cây số phía tây-bắc thung lũng Ashau/ALuoi mà vừa rồi chúng tôi đã bay qua đó. Nơi đây đường xá cũng như sự hoạt động điều binh rất nhộn nhịp nối liền giữa Ðường 92 từ Lào qua 922 cùng nối liền 548 qua phần đất Việt Nam; Nơi đây ghi nhận số phi cơ đủ loại bị bắn rơi ngoài H-34 Queen Bee của Việt Nam là không hề hấn gì. Với lối bay khóa chặc các họng súng cũng như hóa giải sức thu-hút của hỏa tiễn cầm tay của Bắc Việt. Phi hành đoàn chúng tôi không ngạc nhiên gì về công sự phòng thủ kiên cố, những hầm trú ẩn nằm sâu trong hóc núi đá như những cánh cửa sắt có thừa sức chịu đựng của B-52, hai Tiểu Đoàn phòng không già kinh nghiệm, đang bảo vệ vùng trời của Tướng một sao Võ Bam trấn giữ tại đây. Ðây mới thật là Trung tâm kiểm soát và điều động hành quân trên trục Xa Lộ Harriman (Đường Mòn Hồ Chí Minh).

CIA mật báo cho biết, nơi đây là kho tiếp liệu lớn nhứt ngoài phạm-vi miền Bắc. Dĩ nhiên cái kiểu làm ăn của CIA là phải vào hang Cọp mới bắt được Cọp. Trung sĩ John Meyer trước đây đã vào một lần, ông cho đây là “ổ kiến Lửa” (the area was really hot. I mean, every team that went in there got the shit shot out of it).


Chỉ trước khi Toán Thám Sát SOG cho lệnh B-52 oanh tạc, máy dò tìm tình báo của họ phát giác từ nơi đây phát đi hàng ngày 2,300 công điện đi đến từ miền Bắc và song song với Lào. Do đó Tướng Westmoreland tin chắc có một tướng lãnh tư lệnh nơi đây. Dù rằng rừng nào Cọp nấy, nhưng Tướng Westmoreland rất hăng hái gởi Toán Thám Sát vào nơi đó định chuẩn, rồi đề nghị TT Johnson đưa quân đội Mỹ vào hành quân tiêu diệt. Hậu quả Westmoreland bị triệu hồi về trong im lặng.

Nơi đây chúng tôi kiếm một chỗ tương đối đáp được an-toàn không thể có, chỉ duy nhứt là bãi đáp ở trong lòng chảo sâu như cái chén, mà xung quanh đó chúng tôi cũng thừa hiểu rằng - chằng chịt những ổ phòng không lộ-thiên trên các sườn núi đá. Dưới chân núi là các hầm và hang động có thể chứa chấp từ cấp Tiểu Đoàn đến Trung Đoàn. Nhưng kết cuộc chúng tôi cũng lựa vào thời điểm mà những người ở vùng rừng núi thường chuẩn bị chổ ngủ cho một đêm dài trước đó.

Mặt trời tuy ngả về Tây ánh sáng vẩn còn le lói, chúng tôi cách bãi đáp chừng năm mười phút. Bổng dưng ở núi rừng bóng đêm chụp xuống một cách mau lẹ, là lúc đó tầm viễn kính thâu ngắn lại. Chúng tôi đã tìm được một hóc đá ở bên sườn xa về hướng Tây, tiếng động bị ngăn cản bằng một triền núi sau lưng chúng; Một cuộc ‘thâm-nhập’ coi như khá chu-toàn!

Sáng sớm hôm sau, thung lũng của cứ điểm chìm đắm dưới bức màn sương lờ mờ dưới con mắt của Toán SOG-Hatcher, B-52 sẽ thả đúng vào lúc 10 giờ sáng, gồm 9 chiếc, ba đợt, mỗi đợt ba chiếc với danh hiệu là “Arc-Light” cách nhau 5 phút. Hai toán viên người Mỹ là Thượng sĩ Billy Waugh và Covey từ cao điểm qua ống dòm: Gần 1000 trái bom loại nhỏ “mắt-Rắn” 250, 500, và lớn nhứt là 750 cân anh trải thảm trên thung lũng Ðoàn 559 Tiền phương. Hai người Mỹ đồng báo cáo ghi nhận có khoảng 50 tiếng nổ-phụ; Waugh vô cùng ngạc nhiên, ngay sau khi ngưng tiếng Bom nổ, Nó thấy lính Bắc Việt chạy ra từ những hang động dưới hóc đá và từ hầm đào sâu trong núi. Chúng ùa ra như ổ kiến lửa bị động, xô đẩy, lăn các thùng phuy xăng còn nguyên vẹn ra thật xa chỗ cháy.
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh:

- “Thật đồ chó đẻ, chúng ta thả Bom chẳng ăn-thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn, Tôi thấy họ đang dập tắt các đám cháy và di chuyển xăng dầu ra chỗ an toàn!”


Trục Ma Quỷ gọi chiến dịch này là “Tiếng Sấm Rền” là nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement). Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, chín chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đã ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Võ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó.
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh:
"Chúng ta thả Bom chẳng ăn thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn".


Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, chín chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đã ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Võ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó, chớ còn B-52 bay trên 30.000 bộ có nghe tiếng động gì đâu mà xuống hầm. Vì thế nên trục Ma Quỷ mới gọi là chiến dịch “Tiếng Sấm Rền” nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement). Ðổi lại, lấy thí dụ thành phố Ðà Nẵng chẳng hạn, vào một buổi chiều nào đó khi chiếc Tàu Bệnh-viện của Ðức Helgolan bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẵng chạy ra khơi thì y như rằng: Phi trường Ðà Nẵng bị pháo kích! Ở trong phi trường thì sáng hôm đó có máy phóng thanh cho quân đội Mỹ ở trong Main Compound biết trước vào giờ ăn sáng, thường thường họ cho biết giờ nào, bao nhiêu trái đạn sẽ rơi vào phi trường. Ðến khi trước giờ pháo kích 5 phút thì còi báo động nơi Main Compound hụ lên để nhắc nhở mấy thằng Cu Mỹ nào chẳng may ngủ sớm thì thức dậy mà chui xuống hầm, không thì toi mạng ngay.

Mục đích trò chơi nầy là để tiêu hủy các phi cơ tại chỗ vì chúng nhứt định sẽ không đem về Mỹ, nếu còn nhiều phi cơ trong việc chuyển tiếp qua Việt Nam Hóa chiến tranh phải tốn kém thêm, vì phải bổ sung quân số, tăng cường số đơn vị rất nhiều tốn kém. Cái đỉnh cao dự trù cộng sản bắc Việt pháo tiêu hủy càng nhiều càng tốt để sự chuyển tiếp các đơn vị tân lập sẽ thu gọn khi Mỹ rút về nước. [Ðiều nầy làm tôi nhớ lại, khi Việt cộng pháo vào phi trường Ðà-Nẵng, tôi phải di tản các trực thăng vào các bải đậu an toàn, xa các trực thăng đang bị cháy, thì người cố vấn, Thiếu Tá Waitt bảo tôi - 'không cần di tản', cháy chiếc nào, Không kỵ Mỹ sẽ giao cho chiếc khác ngay lập tức để đủ cấp số phi đoàn]

Những điều trên đây phải khen vợ Lính Không Quân chúng tôi, không am tường chính trị cũng như quân sự, nhưng cứ mổi buổi sáng vào lúc 8 giờ, mấy bà nghe léo nhéo tiếng Mỹ gì đó ở Main Compound, thì các bà thản nhiên đợi đến 5 giờ chiều ra bến cảng Chợ Hàn, Ðà Nẵng mà thấy chiến Tàu Bệnh viện biến dạng là các bà chạy một mạch về nhà kêu réo mấy ông chồng:

- “Tối nay Việt Cộng pháo kích, Tôi ẩm mấy đứa nhỏ ra phố trốn… còn Ông muốn chết thì cứ ở lại đây mà đợi Pháo!”

Quả thật đúng như vậy!

Tôi bay trở vào lại gặp ngay con đường đất đỏ thẳng bon trên thế đất bằng phẳng, nhưng cây to dầy dặt của một khu rừng già nguyên thủy chưa có người khai phá. Bay ôm sát bên trái con đường để Nhã và Duncan được dễ dàng xoay sở chụp hình những gì khả nghi hoặc khác lạ về hoạt động của địch. Con đường bắt đầu chui xuống thấp rồi mất dạng trong đám rừng quá dầy. Tôi không cách nào tìm ra nó, bay cao thêm một chút để tăng tầm quan sát, thêm mười phút nữa để mò tìm, nhưng hoàn toàn không thấy nó đâu mà chỉ thấy trùng trùng điệp điệp toàn rừng cây cao.

Theo chiến thuật đột kích chụp ảnh chốp nhoáng không cho phép tôi trên nguyên tắc bay ngược lại tìm nó mà vẫn tiếp tục bay. Tôi lấy qua trái 30 độ bay trong vòng 3 phút, rồi lấy qua phải 60 độ bay trong vòng 3 phút, rồi trở lại 60 độ qua trái… cứ như thế mà bay cho đến khi nào gặp con đường thì bay theo nó, tiếp tục phi vụ, nhưng tuyệt đối không được bay lên cao vòng tròn tìm kiếm con đường.

Những con mắt cú vọ lõ ra tìm kiếm, không bao lâu tất cả chúng tôi đã khám phá ra được không những một con đường mà 3, 4 con đường, giống 4 con rắn đỏ đang bò trườn song song lượn mình trên đám cỏ. Tất cả chúng đều xuôi xuống về Ðông-nam, Tôi chúi mũi xuống sạt ngọn cây, mắt nhắm vào con đường lớn nhứt vì nó gần với chướng ngại vật thiêng liêng là đám rừng già. Lúc nầy Nhã và Duncan với con mắt kinh nghiệm nên không tránh khỏi thần kinh đang giao động. Họ cũng biết rằng không còn con đường nào khác, tòn teng chắc nịt trong sợi nịt an toàn mà bấm nút.

Ðang suy nghĩ mông lung thì nghe sau đuôi tiếng AK nổ dòn tan như ran bắp. Chúng tôi nghe cũng quen rồi nên ước lượng không đáng ngại vì quá xa, vả lại Họ giựt mình nên bắn hoảng đấy thôi làm sao trúng được; Con đường trước mặt sắp sữa băng qua con suối lắp sắp nước. Nhìn kỹ con đường làm dấu bởi dây rừng song song hai bên nối qua tận bên kia bờ, để làm gì? Thỉnh thoảng mỗi đoạn còn cột một cái gì như miếng vải đỏ để làm điểm chuẩn, rải rác đều nhau qua tận bên kia bờ, dường như để làm dấu cho tài xế khi lái xe qua suối không bị xụp lổ.

Ấy chết! bên kia có chòi tranh, có anh bộ đội vừa trong chòi bước xuống nấc thang. Còn một anh nữa thì đang lom khom dưới suối; Họ không kịp ngó lên huống hồ gì mà kịp đi tìm súng để bắn. Chúng tôi lướt qua êm ái không nghe một phát súng chào mừng nào cả.

Photo

Trên Xa lộ Harriman (đường mòn HCM), chúng tôi đã bay qua hơn 100 cây số từ Vĩ tuyến 17 đến thung lũng Ashau, nơi đây SOG hành quân được thi hành một các bí mật để thám sát hoạt động mức độ thâm nhập của Hà Nội. Thung lũng nằm dọc như một bức tường thành cách bờ biển 60 cây số từ Phú Bài đổ dài lên gần Vĩ tuyến theo trục hướng Ðông-nam về Tây-bắc với chiều dài khoảng 40 cây số, song song biên giới Lào/Việt có thãm cỏ xanh bề ngang 3 cây số lau-sậy khắp nơi. Tuy rằng thung lũng bằng phẳng nhưng vô cùng nguy hiểm cho đủ loại phi cơ bay qua vùng nầy với bất cứ cao độ nào. Khi chúng tôi sẽ bay ngang đây, chúng tôi đều cảnh giác không biết bao nhiêu cặp mắt thù địch đang theo dõi và quyết tâm bắn hạ.

Dưới thềm cỏ của thung lũng nầy, hai phi trường Ma ALuối và AShau vừa phải bị hủy bỏ vì áp lực địch cũng như cùng số phận của Ba Căn Trại Ma trống vắng dật dờ dưới lớp mây Stratus phủ ngập lên đó vào những lúc tờ mờ sáng. Trong khi con đường lớn 548 được nối dài từ Lào bởi hương lộ 922. Bây giờ con đường lớn nầy được cải bổ với vận-tốc xe có thể lên đến 50 cây số một giờ là con đường chạy nhanh duy nhứt trên Xa lộ Harriman với một tốc lực đáng được khích lệ như trên.

Trên những điểm mà chúng tôi vừa bay qua vùng núi Tam-Bôi phía Tây bắc Ashau là những hang động núi đá bao la và cũng là thành trì kiên-cố chống đỡ B-52 một cách hiệu quả, như Tôi vừa mới nêu trên qua Toán Thám Sát SOG của Thượng sĩ Billy Waugh báo cáo.

10 ngày sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu, là ngày 18/2/1971, Sáu Toán thám sát SOG được thả xuống dọc theo đường 548, trên những cao điểm để quan sát đồng thời điều động phi cơ oanh kích yểm trợ cho trục tiến quân của quân lực VNCH qua cuộc hành quân Lam Sơn 719 rút lui trở lại đường tiến sát về phía biên giới Việt Nam.

Như khóa chận các đoàn quân tăng cường và tiếp liệu từ căn cứ 559 chuyển qua. Nhưng việc đó đã không xẩy ra, vì TT Thiệu không muốn quân lực VNCH vướng vào cái bẩy của trục Ma-Quỷ!

Thoạt tiên, Tướng Abrams muốn chuyển một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù xuống nơi đây với bốn Tiểu Đoàn tinh nhuệ của Lữ đoàn. Nhưng giờ chót Tướng Haig cho lệnh hủy bỏ thay vì đem vào 3,000 chiến binh của Sư Đoàn 101 thì thay vào đó bởi một số ít người gồm sáu toán Thám Sát để giảm bớt sự thiệt hại. Phía phản tình báo Mỹ qua Phạm Xuân Ẩn đã cho Tướng Giáp biết trước, nên Tướng Võ Bam liền thành lập 11 đại đội đặc trách về chống Biệt kích thám sát thâm nhập với một Toán Chó Săn chuyên nghiệp tại thung lũng nầy và các Tiểu Đoàn xung kích biệt lập sẵn sàng cơ động đến nơi để tiêu diệt tức khắc Toán Thám Sát.

Nhưng thung lũng Ashau vẫn được yên tịnh vì TT Thiệu dám ra lịnh cho Tướng Lãm thả một đơn vị nhỏ của Sư Ðoàn-1 xuống Tchepone, “đái một bãi rồi về”, ngay sau khi TT Thiệu phát hiện trên phóng đồ hành quân có tên bãi đáp với danh nhân minh tinh màn bạc như LOLO, (Lolobrigida) LIZ, (Liz Taylor) SOPHIA, (Sophialorren) HOPE, (Bob-Hope) cũng như trước đó vài tháng nữ tài tử Jane Fonda ăn nói bố láo với sinh viên Ðại Học Michigan, như là một khổ nhục kế hay chiến tranh Siêu Tình Báo.

Ðứng trên phương diện chiến lược của SCP, TT Thiệu cũng thừa hiểu Hoa Kỳ muốn bẻ gãy cái xương sống của Quân Lực VNCH qua tiêu diệt các Sư Ðoàn thiện chiến nhứt của VNCH như Sư Đoàn Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, Liên Ðoàn BÐQ… Các Tướng lãnh Mỹ như Westmoreland rất đau buồn vì SCP muốn cho quân lực VNCH không còn những sĩ quan ưu tú trung cấp để thay thế cho cuộc chiến.

Ðây cũng nằm trong ý đồ của trục Ma Quỷ biến vùng núi phía Tây dưới quyền kiểm soát của CSBV để năm sau 1972 chuyển qua mà SCP gọi là Easter Offensive, tấn công từ vùng núi (tây) ra vùng đông dân cư, (đông) tam trùng Phạm Xuân Ẩn, điệp-viên CSBV được nhiều huy chương do sự báo cáo chính xác, nhưng lần nầy quá hấp tấp suy diển cho cuộc cưỡng chiếm Miền Nam 1972 qua cuộc Tổng Công Kích, nổi dậy quá sớm, kết quả CSBV phải hy sinh 100.000 quân cho chiến dịch Hậu-vệ (Linebacker) Làm sao điệp viên Ẩn hiểu nổi thế chiến lược 20 thù địch (1975-1995) Eurasian trong Á-châu chiến lược.

Cưỡng chiếm miền Nam 1972 thì quá sớm mà làm sao Ẩn hiểu nổi giữa chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder và Linebacker khác nhau như thế nào?

Chúng tôi đang bay ngang một cánh rừng chồi, nằm bên trái con đường, “rừng chồi gì?” nương rẩy của lính bắc Việt đây mà! Những luống Khoai-lang lẫn lộn khoai mì nhánh lá xum xê phủ lấp lên trên ấy, thỉnh thoảng lại có vài cây bắp chêm-châm thêm trên luống, không ảnh làm sao phát hiện và giải đoán cho được! Chỉ có những chuyến bay kỳ quái trong “chiến-sử” Việt-Nam mới phát hiện được huyền thoại nầy. Giữa vườn bắp lại có hình nộm mặt đồ bộ-đội Cộng Sản. Chim rừng đói quá chúng đâu có sợ Việt cộng là gì!

Con đường đất đỏ nầy sắp sửa băng qua một con suối cạn, những hoạt cảnh khác hơn con suối trước một chút. Không có dây rừng làm dấu chuẩn, Họ lấp đá lên cao khỏi mặt nước, mà chả có chòi gác. Chúng tôi lướt qua quá nhanh trong yên tịnh, tôi nghĩ: Hồi nảy là “cầu chìm” bây giờ là “cầu nổi.” Nếu như trời mưa bão ngập nước, tài xế cứ việc chạy giữa những gút vải Ðỏ là an-toàn.

Chúng tôi bắt đầu bay vào thung lũng Aluối chạy dài tới Ashau rồi tới Atep. Thung lũng là một thãm xanh đồng cỏ, chiều ngang 2 cây số, chiều dài 40 cây số, nhưng tôi lại không dám bay giữa thung lũng dù bất cứ vận tốc hoặc bất cứ cao độ nào. Vì hai bên bìa đồi là lính bắc Việt đã thiết lập những ổ phòng không cố định chỉa về phía Ðông nơi các phi cơ thường hay xuất hiện từ hướng đó, tôi căn cứ vào địa lý cũng như quan điểm quân sự thì nổ lực phòng không của bắc Việt chỉ nhắm vào phi cơ chiến thuật oanh kích từ ngoài biển đi vào.

Photo:

Tuy không dữ dội như ở Căn Cứ Tiền phương, sào-huyệt Ðoàn 559, nhưng đây là vị thế rất bất lợi cho trực thăng vì thiếu các chướng ngại vật thiêng liêng như vách núi, đồi cây, sườn núi, rừng già, khe tránh hướng gió tránh âm thanh, không có những cụm mây Stratus thấp lè tè che khuất tầm quan sát của địch.

Nói tóm lại, hai cạnh đồi hai bên của thung lũng, lính bắc Việt chỉ có phối trí cố định súng phòng không ở bên sườn đồi phía Ðông để mở rộng tầm quan sát, làm sao đây! Chúng tôi đang bay về hướng Nam đến đỉnh núi Atep thuộc vùng Tà-Bạt, nhưng bắt buộc phải bay phía Tây của dãy đồi trọc đe dọa, làm sao để tránh tối đa trong tầm đạn phòng không, cánh cửa chính lại nằm ở bên phải mà phi vụ chính là bay chụp “không ảnh” thì làm sao?

Tôi thét lớn trong nón bay:

– “Ê Mai! Mở hai cánh cửa sổ bên trái… mau lên, tạm thời bảo Duncan và Nhả qua bên đó chụp… không thể ở bên nầy chụp… phải đổi chiến thuật vì địa hình thế đất thay đổi đột ngột”.

Phi cơ đang thoáng nhanh trên đồi trọc, bỗng thế đất tuột về hướng Tây quá gắt, không kịp phản ứng nhưng phải chúi mũi xuống thấp ôm sát sườn đồi. Gió đập mạnh phi cơ hụp xuống quá nhanh; Những cảnh hãi hùng đến kinh hoàng đang chui vào mắt chúng tôi. Có lúc bánh xe càng đáp như muốn đụng vào ổ phòng-không, những cột antène và lẫn lộn các cột bằng Tre với dây điện thoại nối dài chằng chịt trên đó. Tôi tin chắc cánh quạt đã vớt đi một vài cộc Tre cùng dây nhợ trên ấy không chừng? Ổ phòng không với hầm miệng Ếch màu đất còn đỏ tươi của đất núi đập vào ngay mắt chúng tôi, thậm chí còn thấy được anh bộ đội mặc áo thung chưa kịp nhìn lên; Hai nòng súng song song chỉa lên đen ngòm, nhưng tại sao chúng không ngụy trang bằng những sợi dây leo có lá như những chỗ khác mà chúng tôi đã bay qua? Tôi chắc rằng sẽ có những tấm hình chụp cách họng súng chưa đầy 20 thước, nhưng tiếc không có xạ thủ trên giàn súng. Rồi thì xa về phía đồi bên kia, giữa cảnh màu xanh của đồi trọc, rải rác biết bao nhiêu cái miệng Ếch màu đất đỏ đã trở nên màu bầm dập như gạch nung, nhiều đến nổi chúng tôi phải rùng mình.

Mong rằng các xạ thủ đừng nhìn thấy những người bạn không mời mà tới; tôi đoán chắc rằng gió biển thổi vào sẽ che lấp âm thanh máy nổ của chúng tôi xuôi sau hướng gió.

Bên trái, dưới thung lũng có nhiều đường mòn cũng hướng trục về Ðông-nam, màu đất của sình lầy không phải màu đất đỏ mà chúng tôi thường bay song song, nhưng lại tôi không dám bay sát gần đường mòn, vì không những hàng trăm mà hàng ngàn con mắt đang theo dõi, và sẽ bị bắn rụng ngay trên đó. “Can đãm nhưng phải có trí-tuệ” đó là câu nhựt tụng mà tôi thường đem ra dạy dỗ các phi công biệt kích; Bất chợt chúng tôi phát hiện hai chiếc xe Trâu, chiếc trước chiếc sau cách nhau vài thước vừa ló dạng sau đám rừng cỏ-lau cao hơn đầu người, làm sao biết chúng chở những gì trong đó vì đang ngụy trang đầy cành lá, đang đến cuối thung lũng Tà-Bạt. Thế đất cao dần, chỉ nhập lại thành một con đường lớn mà chiếc xe đầu đang vào. Tôi tăng tốc lực ôm sát đọt cây trở về bên trái con đường. Tôi báo cho Mai biết để thông báo cho Duncan, Nhã biết để trở lại vị thế bên cửa chính bên phải như thường lệ.

Con đường đang từ từ lên cao, Tôi sợ mất nên bám sát thật kỹ, lá rừng dầy đặt, cây cối mỗi lúc một cao dần; Con đường đất đỏ lúc ẩn lúc hiện chúng tôi càng dỏi mắt theo nó. Lại mất hút nữa rồi; Tôi bấn xúc-xích hỏi ba người ngồi dưới phụ giúp tìm nó ra giùm tôi. Tôi nghe trong nón bay, Hảo nói: “Nó bên trái nè!” Tôi nhìn qua Hảo thấy hắn chỉ ngón tay trái xuống dưới cánh cửa, quẹo gắt qua trái chụp nó ngay không nó sẽ mất. Chúng tôi đang bay lướt trên ngọn cây cách phía Tây Bạch Mả chừng khoảng chục cây số; Con đường đang hiện rõ ràng dưới ánh nắng chan chói của một vùng trống trải. Càng trống trải càng có nguy cơ bị trúng đạn, Tôi bay thật thấp như muốn đụng vào ngọn cây, với vận tốc tối đa, dĩ nhiên trên phi cơ ai ai cũng trống ngực đập thình thịch. Ở nơi đây mọc ra chi chích nhiều đường quá, có người kéo xe thùng mà Việt cộng gọi là xe cải tiến cho oai, không biết chở những gì trong đó. Tôi cố bám theo bên trái con đường lớn vì nó nằm gần rừng hơn. Nơi đây khá trống trải qua một cánh rừng chồi nên hiện rõ lộ ra song song với con đường như có ống cống nổi, chắc là ống dẩn dầu? Ồ, ở trước mặt có một làng nhà tranh to nhỏ đủ loại. Hình như trang trại hoặc nhà kho, hội trường, nhà hát chiếu phim; Ô! Họ đang chơi đấu bóng chuyền, tôi liền tăng thêm vận tốc mặc dù máy đã quay tối đa rồi. Họ ham vui nên không có chuyện gì xảy ra cho chúng tôi.


Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy. Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biển để làm gì? Sao chỗ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy!
Nơi đây toán Thám Sát Biệt Kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hỏa tiễn 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẵng, nhưng toán chỉ được lệnh chụp hình lãnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hỏa tiễn nầy thành quà tặng hãi hùng cho người dân Ðà Nẵng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai Miền, tai-họa từ đâu đến!


Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy, tiếp tục ôm sát bên trái như ôm một nhân tình, chẳng lẽ suốt đoạn đường đời? Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biển để làm gì!? Ðể che mưa vì sợ dột, hay để làm dấu cho chúng tôi khỏi bị bay lạc; Sao chỗ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy! Chúng đi đến chỗ chúng tôi vừa bay qua để xem đánh bóng chuyền!? Nơi đây toán Thám Sát Biệt Kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hỏa tiễn 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẵng, nhưng toán chỉ được lệnh chụp hình lãnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hỏa tiễn nầy thành quà tặng hãi hùng cho người dân Ðà Nẵng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai miền, tai-họa từ đâu đến!

Làm sao thế giới hiểu được đây là tấm bi thãm kịch “Eurasian Great Game” mà SCP Mỹ đã cho ra đời từ 1920 cho đến khi kết thúc cuộc chiến Việt Nam, sau 50 năm (2025) khi mà những thế hệ dính líu hai cuộc chiến tranh Việt Nam không còn nữa thì sử gia mới có đủ bằng chứng để dẫn-giải.

Lúc nầy là thời gian bức thiết nhứt, họ buộc phải kéo dài chiến tranh vì số quân Mỹ phải từ từ rút về theo đúng lịch trình để nâng đở các hảng hàng không không bị vỡ nợ và nó cũng là một quyền lợi cấp thiết nhứt cho chương trình CIP. Nhưng nuôi dưỡng đến chừng nào! bao lâu? Cũng tương đương thời gian người Pháp gây chiến; Trong khi quân đội Mỹ mở các cuộc hành quân: “Lùng và Diệt Địch” thì CIA nuôi dưỡng tìm mọi cách che chở bảo vệ địch. Và nhiệm vụ của họ cũng rất rõ rệt: Quân đội lo trau dồi học tập trận chiến, còn CIA chăm lo quyền lợi của Ðảng Công Ty WIB [War Industries Board]

Tôi đưa tay lái cho Hảo, cảm nhận nên ngồi thư giản thần kinh một lát.

– “Hảo… Anh lái đi… bay cách nào mà Duncan và Nhã chụp được tổng quát”

Theo kinh nghiệm dưới con mắt nhà nghề của Tôi, nơi nầy cũng chẳng có những gì để chụp… toàn rừng già, không có sự hoạt động của loài người, Hảo lại cẩn thận bay cao lên đôi chút, nhưng không sao. Nơi đây không có chỉ dấu một sự đe dọa nào, bỗng nhiên, một bầy chim Két xanh mỏ đỏ nghe tiếng động vọng tới, ù bốc bay lên từ những lùm cây cao rậm rạp, có tới cả trăm con. Không kịp né… vài chú đang bị cánh quạt chánh chém vào, máu me lông lá dính vào mặt kính của phòng lái; Bầy Két nầy mà xà xuống vườn Bắp thôi đừng hòng còn dính lại một hột.

- “Hảo ơi… Anh mang tội sát sanh rồi!”

Tôi thét lớn lên không ngoài mục đích để phổi tống ra những ám khí không trong lành mà nảy giờ đang ém nhẹm nơi đó, trong phòng lái qua khung cửa kính, tôi lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày, đã được dành sẳn trên túi áo nơi cánh tay, đôi mắt mơ màng ôn lại những câu thỏ thẽ của người đẹp Ni căn dặn phải làm như kinh nhựt tụng của mỗi chuyến bay. Không khác gì phi công làm “tiền-phi” đọc check list, nhưng có bao giờ tôi nhớ đâu. Như tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi nầy, tiếng cánh quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ đều đều xen lẩn với tiếng gió ve vuốt nơi cửa kính, thân tàu, đã giúp tôi trong khoảng khắc tạm quên bao khổ ải hiểm nghèo trong đời phi công biệt kích, cũng như những sự chú tâm rình rập của người anh em thù nghịch dưới đây. Chả trách gì có lúc thế nhân cứ thi vị hóa lối sống cũa những người như chúng tôi; Những nhà văn, nhà thơ, những nàng kiều nữ mộng mơ thường tả “mây” là những gì thơ mộng, huyền ảo, nhưng nếu là phi công biệt kích như chúng tôi: “mây” là bức tường thành bảo vệ chúng tôi che cặp mắt người xạ thủ phòng không nhưng chúng tôi cũng dựa vào mây trong những đêm về sáng để chấp nhận những yếu tố bất ngờ. Nhưng có ai hiểu cho chúng tôi đã phải hy sinh mạng sống 100% vì thời tiết, trong khi chúng tôi chưa bao giờ bị thiệt hại do súng đạn của người anh em thù địch.

Có chiếc H-34 đã chịu đựng đến 88 viên đạn AK mà vẩn lết về được nơi an-toàn và cứu sống cả một Toán thám sát. Sự thật mây đâu có phủ phàng mà là kinh hoàng cho chúng tôi! Nhưng đôi khi nó cũng cứu chúng tôi che những cặp mắt thù địch! Tuy nhiên cũng có dăm sự ganh tị nho nhỏ khá dể thương của các cánh chim bạn, sao không được tuyển vào kinh qua lẽ sống ngang dọc của phi hành đoàn Thần Phong-83!

Chúng tôi đang bay ngang bên phải là Bến-hiên, còn bên trái là Bến-Giang, xa về phía biên giới Lào Việt là tiền đồn Poste-6 chỉ cách biên giới vài cây số. Trước mặt là Aro và chệch qua trái là đồn Rô nó nằm ngay trên quốc lộ 14 do thực dân Pháp xây dựng từ khi chế độ thuộc địa được thành lập, nhằm mục đích khai thác các tài nguyên và khống chế các lực lượng nghĩa quân của phong trào Cần Vương ngày xưa. Ngày hôm nay chúng tôi đã có cơ duyên cũng như diểm phúc được bay ngang hai cái ‘nôi’ của Cách mạng Việt Nam. Cái đầu tiên ở phía Ðông Bắc ngọn núi Vôi Coroc, bên kia vĩ-tuyến 17 ngay đèo Lập-Cập, nơi mà Vua Hàm-Nghi mai phục chờ cơ hội lấy lại ngai vàng. Nơi đây cũng là địa điểm phân phối vàng và thuốc phiện từ Lào sang qua ngỏ Poste-6, Bến Giang, Thường Ðức, do những tay tứ chiến giang hồ trong giới trùm buôn lậu quốc tế.

Bây giờ, bắt đầu bay qua vùng đất đầy thử thách, đe dọa, tôi liền chụp tay lái đâm đầu mau xuống thấp theo bên trái con đường mòn ngoằn ngèo như con rắn Ðỏ-cam trườn qua đám cỏ Lau xanh.
Thế đất bắt đầu cao dần báo hiệu sắp đến vùng núi cao hiểm trở; những ngọn đồi thoai-thoai dợn sóng nằm ngang với những luống đất trồng những cây khoai mì, lá phủ xum xuê, lác đác vài cây Bắp vươn lên èo-uột không đủ cho loài Két liên-hoang vào buổi giao mùa. Ở giữa hai luống còn dặm thêm vài bụi cải bẹ xanh, đứng sừng sửng ở giữa lại một hình nộm với áo bộ đội để hù dọa bầy Két.

Kể ra thì người anh em bên kia chiến tuyến cũng có sáng kiến ngụy trang khá khéo léo vì trinh-sát cơ U-2 và RF-101 làm sao giải đoán không ảnh với hình tiệp với lá rừng nhưng duy không thể che cặp mắt soi mói của Duncan và Nhã. Nơi đây khá nhiều sinh hoạt của lính bắc Việt. Cây cầu Khỉ bắt ngang con suối nhỏ với lối mòn hiện rỏ nét biết bao sự qua lại trên đó, cỏ rạp rộng ngã qua hai bên lối mòn, bên kia Suối nhiều mái lá còn mới toanh mọc dọc theo dòng Suối với khoảng cách khá đều. Họ cũng rất tinh khôn không dám đụng đến phần đất của đồng bào Thượng. Rất dễ hiểu vì đồng bào Thượng thường ở chung với nhau trong một Sóc-Làng, nhà sàn cao hơn mặt đất chừng hai thước, nằm trên một chiều hình chữ I. Hoa màu người Thượng chỉ cần trồng một thứ như Bắp, Khoai. Họ không có trồng tạp nhạp để ngụy trang như lính bắc Việt, có nhiều trảng đất bỏ hoang vì đất hết mầu mở, nhưng họ sẽ trở lại trồng trong vài năm sau khi đất tái hấp thụ màu mở thiên nhiên, vì không có phân trồng nên họ phát rẫy, đợi bụi lá vàng khô lâu ngày, rồi lúc đó họ mới đốt để lấy phân tro-muối. Tro tàn lá mục là lớp phân duy nhứt rất cần thiết cho sự sinh tồn đối với họ.

Bắt đầu lại bay vào vùng nguy hiểm, trước mặt là cây rừng bị phá để khai hoang, hai bên đường nhà tranh mọc rải rác xen kẻ như vùng kinh tế mới, lại có xe trâu kéo, xe hủ-lô ống khói chần-dần như ống khói tàu, lại có vài chiếc xe Molotova dường như đang ngừng lại. Con đường đất đỏ bổng đổi qua màu đất sình, nhưng trở nên rộng rãi hơn, dường như đang băng qua vùng lầy lội.

– “À đây rồi...”

Bọn chúng chặt thân cây lót ngang đường nằm lúp xúp dưới lớp sình lầy và bên kia lưng chừng đồi xuất hiện nhiều chiếc Molotova đang từ từ lăn bánh. Vài chiếc đi đầu đang mất hút dưới những tàn cây rậm rạp; chúng tôi bay vèo qua nhanh quá, nên chẳng con ma nào chịu nhìn lên dung nhan tái mét của Nhã và Duncan đang tòn-teng nơi cửa bấm nút liên tục. Nếu lúc nầy chẳng may hết phim hay máy ảnh trục trặc thì thật là quá uổng, dịp may không thể có hai lần.
Trước mặt là vùng mật khu mà ngày xưa ba chiếc H-34 ngụy trang không bản số đã đáp ba đầu nguồn con Suối. Ba Toán Xung Kích (Killer Team) mưu toan bắt sống Tướng Nguyển Ðôn Tư lệnh vùng Khâm Ðức nầy; tôi không nhớ rõ vào năm nào nhưng chắc chắn là thời Ðệ-I Cộng Hòa của T. T. Diệm và Trung Tướng Trần Văn Ðôn, Bộ Tư Lệnh đóng tại Huế. “Làm sao bắt sống một cách dễ dàng Tướng Bắc Việt Nguyển Ðôn”.

Nhưng Ðại Úy Richardson, sỉ quan hành quân Delta Force bắt chúng tôi phải thi hành; Chắc cũng chỉ là thực tập như trực thăng Sikorsky CH-53 cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây 1970 – Tôi còn nhớ rõ, Ðại Úy Richardson bảo chúng tôi, ba chiếc cất cánh khi mặt trời chưa mọc, mỗi chiếc H-34 chở một Toán xung kích 10 người, trang bị tiểu liên xung kích của Tiệp Khắc và phóng lựu, đột kích chớp nhoáng chỉ trong vòng 5 phút ngay khi có tia nắng đầu tiên của mặt trời ló dạng, rồi rút về ngay. Khi đáp xuống sườn đồi thoai thoải nghiêng trái, tôi cũng chẳng cần vội vả cất cánh bay vòng vòng. Nhìn xuống bánh đáp càng bên phải, tôi phát hiện ra một ngôi mộ còn mới không hương khói, xung quanh trồng đủ loại hoa màu làm tôi bở ngở ngạc nhiên trong tằm mắt.
Bảy phút sau, các Toán đều trở về trực thăng, chúng tôi bay trở về hậu cứ. Chả thấy Toán nào báo cáo bắt được, Tướng Nguyễn Ðôn mà chỉ nghe Cơ-phi Vàng nói: “Chỉ tịch thu được một bộ đồ Tướng, một cái quần Jean và một mớ bao cao-su ngừa thai. “khó tin… ở trong rừng mà Tướng CSBV cũng ‘en-doi’ nữa sao?”.

Ðồn Chalang cách đây chừng hơn một cây số đường chim bay, hồi trước rừng già trùng điệp bây giờ quá quang đãng, đồn nằm ngay ngả ba con Suối nhỏ. Những khi trần mây chụp xuống thấp, phủ kín thung lũng, các vận tải cơ C-47 thả dù tiếp tế bó tay. Lại phải nhờ vào các chiếc quan sát cơ L-19 thả gạo như khu trục thả Bom, báo hại các quan sát viên nào yếu sức phải ói mửa tùm lum, vì không có cách nào để thả cho được chính xác, bằng cách chúi mủi phi cơ với gốc độ đáng kể, nhưng một bao như vậy chỉ được 8 kilô gạo để sống lay lất qua ngày chờ trời tốt lại. Xa hơn nữa là tiền đồn Dak-Prau, tiền đồn cao nhứt nằm trên chóp núi gần 4000 bộ, chệch về phía Tây nam một tí là ngọn núi cao nhứt của miền Nam Việt Nam, đó là đỉnh Ngọc Linh cao 6200 bộ. Nơi đây biết bao nhiều huyền thoại xảy ra có lúc được xem như là “Tam Giác Quỷ” của miền Nam hồi đó, không thua gì “Tam Giác Quỷ” của Ðại Tây dương, nhiều phi cơ Việt Nam và Hoa Kỳ đã rớt rải rác nơi đó như những cuộc lể tế thần nhưng không chiếc nào bị phòng không của địch hạ.

- “Hảo, Anh lái… mình về Quảng Ngãi ăn cơm… đói rồi!”.

Tôi đang lim-nhim đôi mắt trong giấc ngủ chập chờn cùng âm thanh đều đều thoảng mát.


219 longma

1. Không ảnh trên đường mòn hcm
http://hoiquanphidung.com/showthread.php?2813-Tr%E1%BB%B1c-Th%C4%83ng-bay-Low-level






 

No comments:

Post a Comment