Saturday, December 2, 2017

1960 - so sánh tổng sản lượng của miền nam Việt Nam cây bút 3 SATURDAY, DECEMBER 2, 2017 1960 - so sánh tổng sản lượng của miền nam Việt Nam1960 - so sánh tổng sản lượng của miền nam VN, miền bắc VN, Nam Hàn và Trung cộng Lúc này Mỹ chưa đưa quân vào miền nam. 1965 quân đội Hoa Kỳ và đồng minh mới đem quân vào miền nam tham chiến vi cường độ du kích VC luồn theo đường mòn HCM xâm nhâm vào miền nam gia tăng.


 photo 1908293_800334336643714_663549150224856297_n.jpg












Hồi 1951, Việt cộng "đánh Mỹ", mà hồi đó có Mỹ nào tại Việt Nam? Sau khi phát động chiến tranh, Việt cộng đánh rát khắp vùng ven Sài Gòn, kéo dài ròng rã mãi đến 1965, thì quân đội Mỹ và đồng minh mới vào giúp, giống như quân đội đồng minh vào giúp Nam Hàn chống Bắc Hàn xâm lăng nam Hàn trước đó.

“Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền Diệm - Thiệu ác ôn".

 photo M-46-beyt-hatotchan-1.jpg

Pháo M-46 130 mm là loại lựu pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Liên Xô thiết kế và chế tạo vào thập niên 1950. NATO nhận được thông tin về loại vũ khí này vào năm 1954, nên đặt tên mã cho nó là M1954. Năm 1959, Trung Quốc được cấp phép chế tạo thứ vũ khí này và đặt tên là Kiểu 59-1. Chiều dài nòng pháo bằng 52 lần cỡ nòng (caliber) - dài lạ thường so với các loại pháo đương thời, pháo bắn rất xa, xấp xỉ 27,5 km đối với đạn thường.
Không có đại bác 130 ly vào VN bắn phá khắp nước TRƯỚC HÀNG CHỤC NĂM, thì làm gì có quân Mỹ vào.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1o_130mm_M46

Sài Gòn - Những hình ảnh thời 1960 - 1964

1954 chia đôi hai miền đất nước theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội, bên quốc gia Việt Nam không ký, nhưng đành chấp nhận sự yêu cầu từ phía công sản bắc Việt.

1954 tới năm 1964 trong 10 năm, miền nam xây dựng kinh tế, đặt thủ đô tại Sài Gòn.
Miền nam vừa xây dựng kinh tế đất nước vừa phải chống trả những cuộc vượt Vĩ Tuyến 17 xâm lăng của công sản bắc Việt càng lúc càng gia tăng và khốc liệt.

Khi miền nam có nguy cơ bị tiêu diệt, quân đội Hoa Kỳ và quân đội đồng minh trong SEATO mới vào cứu nguy cho miền nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 mới có những bước chân đầu tiên của quân đội Mỹ đặt lên miền nam Việt Nam.

Dưới đây là những hình ảnh miền nam trong 10 năm xây dựng kinh tế 1960 - 1964 trước khi quân đội Hoa kỳ đổ bộ trên miền nam.

 photo 1100agraveitruy1EC1nhigravenhSagraveiGograventh1EADpniecircn1960.jpg
Đài truyền hình Sài Gòn vào năm 1960


 photo 6894524398_8a6cb3285a_z.jpg
Tòa Đô Chánh Sài Gòn / Saigon 1964 - City Hall


 photo Saigon1964-11001EA1il1ED9Th1ED1ngNh1EA5t.jpg
Sài Gòn 1964 - Đại Lộ Thống Nhất


 photo Saigon1964-CaravelleHotel-VIP-goodrestarauntattop.jpg
Saigon 1964 - Caravelle Hotel - VIP - good restaraunt at top


 photo Saigon1964-RexMovieTheatre-onlyescalatorinVietnam.jpg
Saigon 1964 - Rex Movie Theatre - only escalator in Vietnam


 photo Saigon1964-ParkingLot.jpg
Saigon 1964 - Parking Lot


 photo Saigon1964-CaravelleHotelTop-SaigonRiverView.jpg
Saigon 1964 - Caravelle Hotel Top - Saigon River View


 photo Saigon1964-ARVNGeneralJointChiefofStaff.jpg
Saigon 1964 - ARVN General Joint Chief of Staff


 photo Saigon1964-TanSonNhut.jpg
Saigon 1964 - Tan Son Nhut


 photo Saigon1964-TanSonNhut-helicopterswitharmament.jpg
Saigon 1964 - Tan Son Nhut - helicopters with armament


 photo Saigon1964-BritishEmbassyEmbassy.jpg
Saigon 1964 - British Embassy Embassy


 photo LoNguyenTuDalat-danlambao.jpg
Lò Nguyên tử ở Đà Lạt


 photo avn1.jpg
Chiêu Đãi Viên Hàng Không Sài Gòn 1960


 photo avn3r.jpg


 photo avn.jpg


 photo 5385718025_ffcb202af4_b.jpg
Thiếu nữ Sài Gòn 1960


 photo n1EEFsinh.jpg


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet37.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet25.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet23.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo Thi1EBFun1EEFSG1960.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet31.jpg
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960


 photo Ph1EE5n1EEFSagraveiGogravenn1030m60.jpg
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960


http://namrom64.blogspot.com/2013/06/hinh-xua-ngay-phu-nu-3031960-tai-sai.html
http://honngocviendong.vn/hinh-anh/ngay-phu-nu-viet-nam-nam-1960
Ngày lễ Hai Bà Trưng / Ngày phụ nữ Việt Nam năm 1960




1
 photo sagraveigograven.jpg
2
 photo Saigon_Old22-1.jpg
3
 photo SagraveiGogravenTown.jpg
4

 photo 834d07c6-2bd1-4589-851d-70f85a394e6c.jpg



Sài Gòn những năm 1960 - Hòn Ngọc Viễn Đông

http://youtu.be/IlmGVeAeMQc



Saigon 1961





Saigon 1950



Sài Gòn Xưa Đón Tết Canh Dần, 1950




http://nguyenus90.blogspot.com/2014/09/1960-so-sanh-tong-san-luong-cua-mien.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)2tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-2526220338450539361Sat, 20 Sep 2014 23:02:00 +00002014-10-05T14:26:51.438-07:00ương Trắng Miền Quê Ngoại" sẽ vĩnh viễn là một bí mật trừ phi có thêm chứng cớ mới đáng tin cậy.

Vì tác giả thực sự của bài hát chưa được xác định rõ rệt, tôi sẽ không viết thêm về tiểu sử tác giả. Bạn đọc có thể đọc tiểu sử Đinh Miên trên mạng (Wikipedia 2014). Tuy nhiên, cái tên Đinh Miên Vũ là danh xưng không ai phủ nhận. Do đó, tôi sẽ dùng Đinh Miên Vũ là tên tác giả, cho dù đó là Đinh Miên hoặc ba người Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình.

Với vỏn vẹn một bài hát và tác giả chưa được xác định, rất khó viết về ý tưởng và các nhận xét khác về bài hát. May thay, như đa số các bài hát khác của miền Nam Việt Nam trước 1975, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" tự nó có đầy đủ chứng cớ cho một bài hay với nội dung đầy tình cảm và cách diễn tả tuyệt vời tuy có vài khuyết điểm, mà không cần tra cứu gì thêm về tác giả. 

Tôi đã viết về bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" (Cao-Đắc 2014a) và "Một Mai Giã Từ Vũ Khí" (Cao-Đắc 2014b). Trong bài này tôi sẽ không lập lại những gì đã viết về hai bài đó. 

Phẩm chất hoặc giá trị của một bài hát thường dựa vào hai khía cạnh: nhạc (music) và lời (lyric). Khía cạnh nhạc thường gồm có ba yếu tố: giai điệu (melody), hòa âm (harmony), và nhịp điệu (rhythm). Khía cạnh lời gồm có nội dung câu chuyện, ý nghĩa câu ca, từ ngữ, cách dùng chữ, cú pháp, cách hành văn. Ngoài hai khía cạnh trên, còn có các khía cạnh khác như nhạc cụ, ca sĩ, nhạc cảnh, phụ diễn (vũ công, người mẫu, v.v.). Tôi tin rằng những bài hát hay cần phải hay cả nhạc lẫn lời. Có những bài hay vì khía cạnh nhạc, nhưng lời không xuất sắc lắm. Một thí dụ điển hình là bài "Những bước chân âm thầm" của Y Vân. Có rất ít bài hay chỉ vì lời. Lý do đơn giản là âm nhạc dựa vào âm thanh, và âm thanh chỉ có thể cảm nhận bằng nghe, chứ không thể bằng đọc hoặc nhìn được. Nếu ai chỉ muốn thưởng thức lời thì họ có thể tìm được ở một bài văn hoặc một bài thơ. Tuy nhiên, lời nhạc đóng góp một phần quan trọng trong giá trị của bài nhạc. Nhiều khi chỉ một câu trong bài nhạc cũng đủ làm cho người nghe xao xuyến. Thí dụ như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" như tôi phân tích trước đây.

Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" hay cả nhạc lẫn lời, tuy lời chỉ xuất sắc ở phần đầu như sẽ được phân tích sau. Như trong hai bài trước, tôi sẽ chỉ chú trọng về khía cạnh văn chương của lời nhạc.

Nguyên văn lời bài hát như sau.

Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm
Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm
Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu 
Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau

Nào những khi ôm thép súng tê tay
Đăm mắt theo bao hư ảo thở dài
Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh
Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai

Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ, gió hẹn mưa thề 
Một khi con về quê ngoại xưa, để mẹ nhắn lời thăm
Đường làng cũ năm nào, 
khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường
Giờ đây con đường xưa còn đó
Tóc liễu vờn gió ru buồn...

Bận hành quân nên chắc khó thăm nhau
Nhưng có nhau như hơi thở vào đời
Tóc em còn có thơm hương cỏ may
Để anh nói chuyện ngày mai

Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi
Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về
Xin có em nguyện cầu cho đời anh
Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai...

Như đa số nhiều bài hát khác, lời nhạc thường bị ghi chép sai lầm, hoặc ca sĩ sửa đổi lời nhạc, vô tình hay cố ý. Có những sửa đổi vô hại, nhưng có những sửa đổi làm mất ý nghĩa của câu. Trong bài, có vài chỗ lời bị thay đổi. Thí dụ như "buốt" thay vì "ướt" trong câu "Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," "cuộc đời" thay vì "buồn thương" và "quẳng" thay vì "quàng" trong câu "Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh," "phố" thay vì "hố" trong câu "Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ," "liều" thay vì "liễu" và "hoài" thay vì "buồn" trong câu "Tóc liễu vờn gió ru buồn," "đôi khi" thay vì "nghe tin" trong câu "Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về." Tất cả những sửa lời này làm mất, và có khi còn làm trái ngược, ý nghĩa của bài hát. Thí dụ như "quẳng gánh" là vất gánh xuống, trong khi "quàng gánh" là vác gánh lên vai. Câu ca đang nói về ban mai, khi người mẹ gánh hàng ra chợ bán, cô em còn "khêu sáng ánh đèn từ sương mai" thì làm sao mà quẳng gánh được?

Tình yêu thương mẹ được thể hiện tuyệt vời với lối diễn tả đơn giản nhưng táo bạo và độc đáo 

Nội dung bài hát là lời nói của anh lính xa nhà. Trong lúc đi hành quân trong vùng núi rừng, anh nhớ đến mẹ anh và hồi tưởng ngày thơ ấu đi theo mẹ đến trường. Anh có người yêu, và anh muốn người yêu cầu nguyện cho anh để anh hoàn thành sứ mạng. 

Bài hát không chú trọng vào cốt chuyện duy nhất về người mẹ. Anh lính đề cập đến cuộc sống lính tráng của anh, chuyện tình, và bạn bè của anh. Vì vậy, người nghe có thể bị phân tán, và có cảm tưởng tình tiết không được chặt chẽ. Tác giả cố móc nối chuyện tình anh với mẹ anh bằng câu chót, nhưng ý nghĩa câu chót mơ hồ và sự móc nối lỏng lẻo nên không tạo được tính chất mạch lạc chặt chẽ của các ý tưởng. Tuy nhiên, với kỹ thuật diễn tả điêu luyện và cách dùng chữ tài tình, tác giả đã làm nổi bật lòng thương yêu mẹ và tình quê ngoại của anh lính. 

Mở đầu, anh lính nói đến cuộc hành quân của anh. Anh phải "lội bùn dơ" và đi ngang qua đám lau sậy trong nước chằng chịt khiến anh phải cố lách qua và phải đi như vậy suốt cả đêm. Nơi anh đi chắc phải là vùng rừng núi. Sương rơi trên vai làm ướt áo anh. Chắc là anh không đi một mình và có các bạn đồng đội đi theo. Nhưng anh và đồng đội anh phải đi qua lạch đầy bùn và lau sậy một cách yên tịnh, có thể vì sợ quân địch khám phá, vì anh có thể thấy đàn chim bay và nghe tiếng khỉ vượn hú.

Nơi anh đi hành quân ở đâu? Dựa vào nhan đề bài hát "Sương trắng miền quê ngoại" và "sương trắng rơi vai" anh "ướt lạnh mềm", ta có thể hiểu được là anh đang đi hành quân ở miền quê ngoại. Vì vậy anh nhớ đến mẹ và em anh. Mẹ và em anh đang ở "nơi chốn xa" và không ở miền quê ngoại. Trong lúc hành quân, anh phải ngồi chờ, có thể chờ quân địch hoặc chờ chỉ thị hoặc tiếp viện. Ngồi trong "hố nhỏ" trong cơn mưa gió, anh nhìn về phía xa xa và tưởng tượng hình ảnh gia đình anh lúc đó. Bấy giờ là sáng sớm, mẹ anh đang vác gánh lên vai để mang hàng ra chợ bán. Em của anh đang khêu đèn để có ánh sáng vì mặt trời chưa mọc.

Chắc anh cũng thường xuyên liên lạc thư từ với mẹ anh, nên mẹ anh biết anh đang "ngồi hố nhỏ" trong cơn mưa gió trong khung cảnh hoang vu của rừng núi ("Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ"). Với chi tiết anh biết mẹ anh đang quàng gánh lúc sáng sớm mai, và mẹ anh biết anh đang ngồi hố nhỏ trong chuyến hành quân, tác giả cho thấy mối liên hệ mẹ con của anh lính rất mật thiết, kể lể tâm sự với nhau nhiều lần. (Để ý là "mẹ biết" có thể là một câu hỏi: "Mẹ có biết... không?" Cho dù đó là câu hỏi, ta vẫn thấy anh lính kể lể mọi chuyện về anh cho mẹ anh nghe.) Mẹ anh còn nhắn lời thăm họ hàng quyến thuộc vẫn còn ở quê ngoại khi anh có dịp đi qua quê ngoại.

Anh chợt nhớ đến ngày thơ còn bé. Mẹ anh dắt anh đi trên con đường làng tới mái trường xưa. Bây giờ con đường đó vẫn còn, nhưng hình ảnh mẹ anh đi trên con đường đó lúc mẹ còn trẻ không còn nữa, vì mẹ anh hiện đang ở xa. 

Đây có lẽ là đoạn cao đỉnh của bài hát. Tác giả dùng lời lẽ thật bình thường nhưng vẽ ra một hình ảnh có tác dụng mãnh liệt: "Đường làng cũ năm nào khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường." Chỉ với nhóm chữ/ cụm từ "theo mẹ đến trường," tác giả cho thấy hình ảnh thơ ngây của cậu bé, lẽo đẽo đi theo mẹ trên con đường làng. Hình ảnh đó cho thấy cái nhỏ bé, ngơ ngác, sợ sệt, dè dặt của một cậu bé phải dựa vào sự chăm sóc, lo lắng của mẹ. Một hình ảnh chứa chan tình cảm tràn trề, có tác dụng trên tất cả mọi người thương yêu mẹ. Cho dù bạn không đi theo mẹ đến trường lúc còn bé, hoặc không đi trên đường làng, bạn vẫn có thể hình dung ra được và có nỗi cảm xúc bồi hồi. Có những nhóm chữ/ cụm từ rất đơn sơ, nhưng rất tượng hình, tượng thanh, và gây xúc động mạnh. Thí dụ như "con níu chân cha" trong "Trộm Nhìn Nhau" của Trầm Tử Thiêng, "mẹ lần mò" và "nắm áo người xưa" trong "Ngày trở về" của Phạm Duy, và "lá ngủ thật mê say" trong Hoa Trinh Nữ của Trần Thiện Thanh.

Anh nhớ gì về mẹ anh nhất trong khoảng thời gian đó? Một cách bất ngờ và độc đáo, tác giả vẽ ra một hình ảnh kỳ diệu: "tóc liễu vờn gió ru buồn." Ít có người con trai nào nghĩ đến mẹ mình qua những sợi tóc rũ dài bay theo làn gió nhẹ thoảng. Cậu bé còn cắp sách tới trường đó đã là một thi sĩ! Ta có thể hình dung hình ảnh người mẹ dắt cậu bé đi học trên con đường làng tới trường. Mẹ cậu bé, có lẽ có lúc đi nhanh hơn cậu bé, và cậu bé đi sau mẹ nên mới có dịp ngắm tóc mẹ rũ dài bay theo làn gió. Cậu bé không biết cách diễn tả ra sao, nhưng chỉ ghi nhận hình ảnh đó mãi mãi trong đầu óc, để cho đến khi cậu bé trưởng thành, trở thành một thi sĩ, nhạc sĩ và có đủ ngôn từ diễn tả, anh mới bật ra "tóc liễu vờn gió ru buồn." Để hiểu cái độc đáo của tình yêu thương anh lính dành cho mẹ anh, bạn hãy tự hỏi bạn có giữ hình ảnh gì của mẹ bạn từ lúc bạn còn bé.

Tác giả rất táo bạo khi dùng câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" để tả những sợi tóc mẹ. Sự táo bạo đó có thể khiến người nghe không hiểu. Vì hình ảnh đó thật đột ngột, và "tóc liễu" thường dùng để tả một cô gái, ít ai có thể hiểu được anh đang tả mẹ anh lúc bà còn trẻ. Do đó, rất nhiều người hơi ngỡ ngàng khi nghe câu này. Ngoài ra, với lối tả như thể đó là hình ảnh trong hiện tại, người nghe không nhận ra được ý anh muốn nói là "Giờ đây con đường xưa còn đó" nhưng "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" của mẹ không còn nữa, vì mẹ anh không còn ở quê ngoại, hoặc vì mẹ anh đã trở thành người đàn bà trung niên làm việc lam lũ và không còn tóc liễu nữa. Tuy nhiên, vì "theo mẹ đến trường" và "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" quá mạnh, tạo ấn tượng sâu đậm trên người nghe, sự mơ hồ này không có ảnh hưởng lắm và người nghe dễ dàng bỏ qua. 

Quả thật vậy, theo tôi nghĩ, cả toàn bài, hình ảnh cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng và tóc liễu bà mẹ vờn gió là hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng nhất. Cái ý tưởng cậu bé ghi nhận hình ảnh tóc mẹ bay trong gió từ lúc còn bé ngây thơ theo mẹ đến trường cho đến lúc anh trưởng thành, trở thành một chiến sĩ xông pha trận mạc, lội bùn lách lau sậy trên đường hành quân, tay ôm súng thép, bảo vệ non sông, là một ý tưởng không những thơ mộng, hồn nhiên, mà còn gây xúc động mãnh liệt. Chính cái hình ảnh này khiến người nghe muốn nghe đi nghe lại bài hát, đưa hồn vào giọng ngân cao dài của ca sĩ diễn tả. Chỉ đoạn đó thôi làm người nghe quên hết tất cả những lỗi nhỏ nhặt khác. 

Rồi ý nghĩ anh lính miên man tiếp tục. Anh nhớ tới người yêu anh. Tác giả đổi cảnh một cách đột ngột. Từ hình ảnh người mẹ, anh chuyển sang người yêu. Tuy chuyện đó rất là bình thường cho một người lính ngồi trong hố nhỏ miên man nghĩ đến những người thương yêu, tác giả khiến người nghe ngỡ ngàng, hơi bị "chưng hửng" vỉ đang bị cảm xúc mạnh sau hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng còn đang vương vấn. Sau khi được nốt nhạc đưa lên cao với "tóc liễu vờn gió ru buồn", người nghe mong mỏi một chuyển tiếp nhẹ nhàng, có thể là một hình ảnh khác, một cảm tưởng khác về bà mẹ. Tiếc thay, anh lính đổi cách xưng hô vì anh chuyển sang nói với người yêu anh. Đang từ "mẹ con" biến thành "anh em." Chưng hửng là còn nhẹ. Người nghe có thể thất vọng. Có thể tác giả cố tình, có thể tác giả thiếu kinh nghiệm. Dù do lý do gì, tác giả không giữ được sự liên tục của các hình ảnh cho người nghe.

Với người yêu, anh không mô tả nàng. Anh chỉ cảm thấy ấm cúng vì "có nhau như hơi thở vào đời." Nhưng anh không rõ người yêu anh còn trông chờ anh hay không. Ở đây, tác giả dùng "thơm hương cỏ may" để ám chỉ sự trung thành, trang tiết của cô gái chờ đợi người yêu. Cỏ may thường được kết hợp với câu chuyện một cô gái đi tìm người yêu nhưng sau đó chết vì mòn mỏi kiếm mãi không thấy anh khắp nơi (Xem, thí dụ như, Dân 2007). Ý nghĩa của câu chuyện đó thường liên kết với tình yêu mạnh mẽ và trung thành. Trong bài hát này, anh lính mong là người yêu anh vẫn còn trông đợi anh và anh sẽ "nói chuyện ngày mai" về tương lai hai đứa.

Rồi anh lính nhắc đến các bạn học đã đi lính như anh. Vài đứa bạn thân đã "nghe tin chẳng trở về." Anh nhờ người yêu anh cầu nguyện cho anh, không phải vì anh sợ chết mà anh muốn sống để hoàn thành nhiệm vụ "đá mềm chân cứng" để mẹ có tương lai. Tác giả dùng sự ra đi biệt tin của những người bạn thân anh để dẫn đến chuyện anh mong người yêu cầu nguyện cho anh. Cách chuyển đổi hơi gượng ép và khiến người nghe hơi bị "chưng hửng" lần nữa vì sự móc nối không được tự nhiên. Tác giả không cần phải dùng sự ra đi biền biệt của mấy người bạn anh, vì chuyện anh ta là lính đủ cho biết anh sống chết ngày nào không biết. 

Câu chót "Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai" có nhiều vấn đề. Trước hết, "đá mềm chân cứng" có ý nghĩa lạ lùng. Ý nghĩa dễ hiểu nhất là anh lính tiếp tục đi hành quân, bước trên những con đường sỏi đá nhiều đến độ chân anh trở nên chai cứng và đá sỏi phải mềm đi vì bước chân của anh. Nhóm chữ/ cụm từ này cũng xuất hiện trong bài "Một lòng đợi bạn" (Anh ra đi đá mềm chân cứng/ Em ở nhà hãy vững như đồng). Nó cũng có thể ám chỉ sự kiên tâm trì chí. Nhưng trong bối cảnh anh lính đi hành quân, ý nghĩa bước chân đi khắp nơi trong các cuộc hành quân có lẽ đúng nhất.

Nhóm chữ/ cụm từ "để mẹ còn tương lai" hơi yếu ớt, như thể tác giả chợt nhớ là bài hát này là cho mẹ nên cố móc nối lại hình ảnh người mẹ. Quan trọng hơn, cách diễn tả của câu chót rất khó hiểu và kỳ quặc. Làm sao mà "đá mềm chân cứng" có thể đem tương lai cho mẹ anh? Từ "đá mềm chân cứng" tới "mẹ còn tương lai" người nghe phải đi qua nhiều giai đoạn suy luận:

Đá mềm chân cứng → Đi hành quân nhiều → Đem chiến thắng → Hòa bình trở lại → mẹ có tương lai.

Lối diễn giải có chuỗi suy luận gồm có nhiều mệnh đề luận lý như trên thường được coi là "ngụy biện luận lý" (logical fallacy) trong lý thuyết về tranh luận (argument). Một cách bình dân, ta có thể nói đó là lối "chuyện bé xé to." Trong lối diễn giải này, nhiều mệnh đề luận lý được chắp nối vào nhau trong đó phần kết luận (conclusion) của một mệnh đề là phần giả thuyết/thiết (premise) của mệnh đề được chắp nối kế tiếp, theo một cách mà từ phần giả thuyết/thiết của mệnh đề đầu tiên đến phần kết luận của mệnh đề cuối cùng là một bước nhảy luận lý vĩ đại (giant leap of logic). Sau đây là một thí dụ:

Nếu trời mưa, tôi ở nhà.

Nếu tôi ở nhà, tôi vào trang mạng Dân Làm Báo.

Nếu tôi vào trang mạng Dân Làm Báo, tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản.

Nếu tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản, tôi dễ nổi giận.

Do đó, tổng kết lại, nếu trời mưa thì tôi dễ nổi giận. Cái sai lầm của ngụy biện này rất hiển nhiên.

Kiểu ngụy biện luận lý trên được gọi là dốc trơn (slippery slope) hoặc Domino fallacy (Xem, thí dụ như, Damer 2009, 185). Khi bạn tuột xuống một dốc trơn, bạn sẽ lôi kéo cả một đống vật cản trở dọc đường, và cuối cùng thì các vật này dồn lại thành một đống vĩ đại, tương tự như phản ứng dây chuyền do bởi những miếng dominoes ngã lên nhau.

Lẽ dĩ nhiên, đây là một bài hát, không phải là một bài dùng luận lý. Nhưng văn thơ nhạc dựa vào suy diễn tương tự như luận lý. Các biến dạng của suy diễn này là nghĩa đen/ nghĩa bóng và ẩn dụ. Văn sĩ hoặc thi sĩ rất thường dùng kiểu suy diễn này để diễn tả ý tưởng một các gián tiếp. Nhưng các suy diễn nên đơn giản, thông thường, được nhiều người chấp nhận, hoặc chỉ cần một hay hai bước suy diễn. Không ai muốn diễn tả quá phức tạp làm ý nghĩa trở nên khó hiểu hay kỳ quặc. Ở đây, "đá mềm chân cứng" là một nhóm chữ/ cụm từ it ai dùng. Từ "đá mềm chân cứng" để suy ra nghĩa bóng là "đi hành quân nhiều" đòi hỏi một trí tưởng tượng không nhỏ. Từ "đi hành quân nhiều" để suy ra "chiến thắng trên chiến trường" là hơi vất vả. Cứ thế, bạn sẽ thấy tác giả khiến người nghe phải có trí tưởng tượng thật là phong phú mới hiểu được tại sao "đá mềm chân cứng" sẽ cho "mẹ còn tương lai."

Ngoài chuyện suy diễn cực nhọc đó, cái kết luận "mẹ còn tương lai" có vẻ mơ hồ. "Tương lai" có vẻ mơ hồ. Anh lính chắc cũng khoảng lứa tuổi hai mươi. Mẹ anh, chắc cũng còn trẻ (dựa vào câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" hàm ý mẹ anh khoảng hai, ba mươi tuổi khi anh lên 6, 7 còn cắp sách theo mẹ đến trường), có thể bốn, năm mươi tuổi lúc ấy. Do đó, tương lai cũng còn dài. Nhưng tương lai gì? Anh lính muốn tương lai mẹ anh thế nào? Không còn cực khổ gánh hàng tần tảo? Sống lâu khỏe mạnh? Lập lai gia đình? Tác giả không cho chi tiết đặc thù và chỉ muốn cho một ý tưởng đại khái. 

Chuyện đó không có gì sai, nhưng thiếu hiệu quả. Như tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí," một kỹ thuật viết hiệu quả là chú trọng vào chi tiết rõ rệt, dù chi tiết đó chỉ là một trong nhiều chi tiết khác. Cho một chi tiết rõ rệt giúp người nghe tưởng tượng ra được các chi tiết khác. Thí dụ như thay vì nói, "Hôm nay tôi cảm thấy sung sướng," bạn có thể nói, "Hôm nay tôi huýt gió trong giờ làm việc làm mấy đồng nghiệp ngạc nhiên." Chỉ với chi tiết đó người nghe biết là bạn đang sung sướng và còn biết thêm vài chi tiết về bạn nữa. Trong bài này, câu "mẹ còn tương lai" quá mơ hồ và không đem lại tác dụng mạnh. Người nghe có thể sẽ bỏ qua và không có chút gì suy nghĩ thêm, và tác giả đã thất bại trong việc lôi cuốn người nghe. Người nghe xong bài hát sẽ không "huởn" mà cố suy nghĩ mẹ có tương lai gì.

Theo tôi nghĩ, tác giả dùng "mẹ" trong câu chót không phải chỉ mẹ anh lính. Có vẻ tác giả muốn dùng "mẹ" để ám chỉ mẹ Việt Nam, hàm ý tổ quốc. Với nhóm chữ/cụm từ "đá mềm chân cứng," tác giả nhấn mạnh ý chí chiến đấu của anh lính đem lại hòa bình cho đất nước. Do đó, mục đích chiến đấu của anh là cho tổ quốc, cho mẹ Việt Nam, chứ không phải cho mẹ anh. Tuy nhiên, cách diễn giải đó cũng chưa chắc đúng. Hoặc tác giả cố tình mơ hồ để người nghe muốn hiểu sao thì hiểu. Dù diễn giải thế nào, tôi nghĩ nhóm chữ/ cụm từ "mẹ còn tương lai" rất yếu.

Tóm lại, bài hát có ý nghĩa thật hay và táo bạo trong phần đầu (2/3). Phần sau (1/3) không đem lại hoàn mỹ cho bài hát mà lại còn có thể làm loãng ý. Tuy nhiên, bài hát vẫn có giá trị nhờ lối tả cảnh và cách dùng chữ thật độc đáo ở phẩn đầu như được trình bày sau đây.

Lối tả cảnh và cách dùng chữ thật sáng chói trong phần đầu lấn át vài khuyết điểm trong phần sau

Tương tự như phần nội dung và ý tưởng, có sự không đồng đều trong kỹ thuật diễn tả và cách dùng chữ. Tuy nhiên, những điểm đặc sắc quá sáng chói làm lu mờ những khuyết điểm. 

Ngay lúc mở đầu, tác giả có lối tả cảnh tuyệt vời. Tác giả tận dụng những kỹ thuật hay nhất trong chuyện viết để trình bày cảnh anh lính đang đi hành quân và nghĩ đến mẹ anh. Người nghe tưởng tượng ra được ngay cảnh anh lính đang hành quân trong vùng núi non rừng rú. Tác gỉả dùng hai kỹ thuật tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí": "Cho thấy, đừng kể" và "Chú trọng vào chi tiết rõ rệt." 

Tác giả cho thấy cuộc hành quân qua cảnh "lội bùn dơ," "băng lau lách," "xuyên đêm," thay vì kể lể hành quân cực khổ thức khuya cả đêm. Ngoài ra, tác giả còn dùng các chữ/từ mạnh (lội, băng, xuyên, sương trắng rơi, rủ nhau, gọi nhau, tê tay, đăm mắt, hư ảo) làm sống động hình ảnh. Đi theo với cách cho thấy, tác giả dùng những chi tiết rõ rệt của cuộc hành quân qua vùng núi non rừng rú vắng vẻ: lội bùn, băng lau, xuyên đêm, đàn chim bay, khỉ vượn hú.

Tác giả dùng "sương" hai lần: "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" và "Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai." Ngoài ra "sương" còn được dùng trong nhan đề. Ta phải hiểu rõ hai loại sương. Tiếng Việt mơ hồ trong chữ/ từ "sương." Tiếng Anh phân biệt rõ các loại sương: dew (sương mai/ đêm), mist (sương mù mỏng), fog (sương mù dày). Trong "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," tĩnh từ "trắng" cho thấy đó là sương mù vì không ai tả giọt sương mai/ đêm màu trắng. Giọt sương mai/ đêm trong như giọt nước. Chỉ có sương mù mới tạo ra hình ảnh trắng đục. Ngoài ra, sương mai/ sương đêm tạo ra do bởi cô đọng (condensation) và thường xuất hiện trên các vật mỏng lộ ra như cỏ, lá cây, hoa, mui xe. Ngược lại, sương mù tạo ra khi hơi nước đọng lại thàng những giọt nước li ti trong không khí. Chỉ có sương mù mới "rơi" xuống, chứ sương mai/ sương đêm không có rơi xuống. Câu "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" có ít nhất hai tác dụng: thiết lập quy chiếu về thời gian (cộng thêm với "xuyên đêm") là sáng sớm, và cho thấy chuyến đi hành quân lâu đến nỗi vai anh lính thấm sương trở nên lạnh mềm.

"Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu" vẽ ra hình ảnh các đàn chim bay trên trời không có định hướng. "Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau" gợi ra cảnh tượng đám khỉ vượn kêu réo nhau một cách vô tư (ngẩn ngơ) chứ không phải hỗn loạn phá phách.

Bốn câu đầu dàn dựng bối cảnh của câu chuyện. Tác giả xác định rõ không gian (vùng núi non rừng rú) và thời gian (sáng sớm) và những diễn tiến của cuộc hành quân. Cách diễn tả rất tài tình tạo ra một hình ảnh sống động và cho người nghe có ý niệm rõ rệt.

Không những thế, tác giả còn dùng một kỹ thuật viết rất hiệu quả trong việc tả cảnh hoặc tình cảm là dùng nhiều giác quan trong ngũ quan (nhìn, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc/ cảm nhận/ va chạm). Bằng cách dùng nhiều giác quan, người viết lôi cuốn độc giả vào cảnh vì độc giả liên tưởng đến những hình ảnh, mùi, vị, âm thanh, và cảm giác trong lúc tưởng tượng ra cảnh tượng hoặc tình cảm.

Anh lính nhìn thấy đàn chim bay trên trời (Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu), nghe tiếng khỉ vượn hú (Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau), tiếp xúc/ va chạm sương rơi ướt lạnh và súng ̣đến tê tay (Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm/ Nào những khi ôm thép súng tê tay). Chỉ thiếu ngửi và nếm nhưng đủ lôi cuốn người nghe. Dùng nhiều giác quan quá không nhất thiết là hay vì con người thường cảm nhận cùng lúc chỉ qua hai, ba giác quan mà thôi. Rất ít có tình trạng nào mà bốn hay năm giác quan được dùng. Người viết cũng phải nên cẩn thận, và đừng lạm dụng các giác quan. Chỉ nên dùng bốn, năm giác quan trong trường hợp thật đặc biệt. Thí dụ như trong bài "Uy Lực" (Cao-Đắc 2014c), tôi dùng cả năm giác quan khi tả cảnh sáu con sư tử trở vể lãnh thổ chúng (thấy cây bao báp cổ, ngửi mùi hương quen thuộc của những bụi cây keo, nếm không khí khô hoài cổ, nghe tiếng gió xào xạc trên bãi cỏ, và cảm nhận bãi đất núi lửa mềm gợi nhớ). Lý do là tôi muốn nhấn mạnh dùng các con sư tử trẻ là ẩn dụ cho tuối trẻ Việt Nam, trong nước và hải ngoại, đã bị mất nước dưới nền đô hộ cộng sản với lý thuyết ngoại bang, và họ trở về để lấy lại đất nước và khôi phục lại chính nghĩa. Vì đó là bài thơ văn xuôi nên tôi có thể kéo căng cái nhấn mạnh đó.

Như trình bày ở trên, hình ảnh tuyệt vời nhất của cả bài nhạc là hình ảnh cậu bé đi theo mẹ đến trường trên con đường làng. Tác giả dùng chữ đơn giản, không cầu kỳ, nhưng có tác dụng mạnh. 

Để ý tác giả dùng "theo mẹ đến trường" thay vì "mẹ dẫn con đến trường." Tác giả vẽ ra cảnh tượng dưới góc nhìn của cậu bé, để chuẩn bị cho hình ảnh "tóc liễu vờn gió ru buồn" ngay sau đó. Trong việc viết, chọn góc nhìn (viewpoint) cho nhân vật rất quan trọng. Người nghe hay người đọc sẽ đứng vào vị trí của góc nhìn đó để tham gia vào cảnh tượng. Người viết nên giúp người nghe/ đọc đứng ở vị trí trong suốt cảnh một cách nhất quán. Thay đổi góc nhìn trong một cảnh dễ tạo ra lẫn lộn và làm giảm tác dụng trên người nghe/ đọc, trừ phi người viết cố tình chuyển góc nhìn. 

Đinh Miên Vũ dùng góc nhìn của anh lính một cách đồng nhất khi tả cảnh anh nhớ lại ngày xưa còn bé. Anh lính nhớ "khi con còn bé nhỏ" và "theo mẹ đến trường." Nhờ vậy anh mới ghi nhận được hình ảnh tóc mẹ bay trong gió. Bằng cách dùng góc nhìn của anh lính (thay vì một người bàng quan nào đó đứng trên đường), tác giả chuẩn bị cho hình ảnh sau đó.

Hình ảnh tóc mẹ anh bay trong gió được mô tả sống động với câu "tóc liễu vờn gió ru buồn." Cũng như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" trong bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" của Hoài Linh, câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có lối dùng chữ sâu sắc và gợi hình thật tuyệt diệu.

Trước hết, "tóc liễu" thường được dùng để tả mái tóc dài rũ xuống của các cô gái trẻ. "Liễu" là loại cây có lá thuôn dài và cành mảnh dẻ. Liễu rũ thường dùng làm cảnh trồng bên bờ hồ hoặc bờ sông. Liễu thường được dùng để ám chỉ phái nữ (liễu yếu đào tơ, phận liễu). Tóc liễu mô tả mái tóc chảy dài có những nhánh chẻ ra và không phải dày dặc. Rất nhiều thi sĩ dùng "tóc liễu" để tả mái tóc cô gái. 

Tóc liễu xanh xanh vẫy tóc người,
Tay em cầm nhẹ lấy tay tôi...
Lần đầu ân ái trao bằng mắt
Rồi để tình thương đến trọn đời
(Tình Xa - Hồ Dzếnh)

Suốt trời hôm ấy thê lương quá,
Tóc liễu bờm xơm, sóng vỗ hồ,
Mây rối trên trời, cây rối lá,
Giường cô xuân nữ gối chăn xô...
(Thu - Hồ Dzếnh)

Môi khô tóc liễu thân gầy, 
Anh xa, em kẻ lông mày với ai? 
(Không hẹn ngày về - Nguyễn Bính)

Vừa rồi tỏ mặt Hằng Nga 
Mây vương tóc liễu son pha má đào.
(Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính)

Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều 
Bên màu hoa mới thắm như kêu; 
Nỗi gì âu yếm qua không khí, 
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu
(Nụ Cười Xuân - Xuân Diệu)

Với chuyện "tóc liễu" được các thi sĩ dùng nhiều, "tóc liễu" trong "tóc liễu vờn gió ru buồn" có gì hay hơn? Thực ra, trong bối cảnh của bài hát, "tóc liễu" có tác dụng khác hẳn với "tóc liễu" trong các bài thơ. Tác giả để anh lính dùng "tóc liễu" để tả tóc mẹ mình dựa vào trí nhớ của anh về mẹ mình lúc anh còn bé. Tuy không nói rõ, ta có thể hiểu là mẹ anh không còn có tóc liễu nữa. Mẹ anh phải buôn tảo bán tần, gánh hàng ra chợ hoặc đi bán rong ngoài đường, và bây giờ chắc cũng khoảng it nhất là tứ tuần hay ngũ tuần, thì làm sao mà còn tóc liễu được nữa. Quan trọng hơn, nếu mẹ anh vẫn còn tóc liễu thì tại sao anh có ý nói là tóc liễu vờn gió nay còn đâu. Anh lính rất luyến tiếc tóc liễu đó. Chỉ một chi tiết đặc thù đó, ta có thể hiểu là anh lính rất thương mẹ. Đây là một thí dụ cho thấy dùng một chi tiết rõ rệt làm nổi bật được toàn diện ý tưởng.

Anh lính nhớ mái tóc liễu đó thế nào? Ở đây, tác giả biểu lộ tài năng dùng chữ tuyệt diệu. Những sợi tóc liễu của mẹ anh "vờn gió"! Động từ "vờn" hàm ý đưa đẩy, đùa giỡn (mèo vờn chuột), nhảy múa. Tự nó, "vờn" là một động từ mạnh mẽ (mạnh mẽ đây là chỉ tác dụng diễn tả, không phải là sức mạnh của hành động) để diễn tả cảnh tượng đùa cợt. Quan trọng hơn, tác giả dùng "tóc liễu" là chủ từ của động từ vờn, nhân cách hóa những sợi tóc đó như thể những sợi tóc có tâm trí riêng của chúng. Hay hơn nữa, những sợi tóc liễu vờn gió. Làm sao mà tóc lại có thể vờn được gió? Chính gió mới thổi tóc bay lên chứ? Nhưng không, với cậu bé 6, 7 tuổi, cậu ta không thấy gió thổi tóc mà chỉ thấy những sợi tóc dài nhảy múa đùa giỡn với gió. Còn gì tuyệt diệu và thơ mộng bằng?


Hậu quả của những sợi tóc nhảy múa đùa cợt với làn gió là gì? Một cách bất ngờ, tác giả mô tả cảnh tượng đó "ru buồn." Một lần nữa, tác giả nhân cách hóa cảnh tượng tóc nhảy múa với gió, cho cảnh tượng đó có khả năng phát ra âm thanh như hát bài ru ngủ. Có phải chăng gió thổi những sợi tóc tạo nên âm thanh khi những sợi tóc quyện với nhau hoặc vướng vào tay, cổ, nón, áo của mẹ anh? Âm thanh đó chắc nhỏ như tiếng ru khe khẽ của mẹ. Tiếng ru đó chắc đều đều và tạo ra một giai điệu rù rì văng vẳng từ đâu đến. Nhưng tại sao ru "buồn"? Ở đây, tác giả dùng "ru" một cách khác thường. "Ru" thường được dùng là ru ngủ, nhưng tác giả dùng "ru" như là một động từ với ý nghĩa phát ra âm thanh đều đều nhẹ nhàng êm ả, gợi lên một cảm xúc hay tác dụng nào đó, không nhất thiết là cho ngủ. Với cách dùng đó, ta có thể dùng "ru buồn," "ru vui," "ru nhớ," "ru sầu," "ru hạnh phúc," "ru khổ," v.v. Tuy nhiên, không phải túc từ nào cũng thích hợp với "ru." "Vui" thường hàm ý náo nhiệt, dùng "ru vui" rất gượng gạo vì làm sao mà giai điệu đều đều êm ả lại có thể đem lại niềm vui. Nới rộng thêm nữa, "ru" không nhất thiết dính líu đến âm thanh, và có thể Đinh Miên Vũ không có ý định cho những sợi tóc bay theo gió tạo ra âm thanh ru buồn mà chỉ có hình ảnh đó ru buồn cậu bé. Với cách dùng chữ như vậy, ta có thể viết những câu như "Ánh mắt nàng long lanh ru tôi vào giấc ngủ triền miên," "Bầu trời xanh cao với các cụm mây trắng lờ lững ru niềm hân hoan tràn trề," v.v. Sau đây là một cách giải thích khác cho "ru buồn."

Tại sao lại "buồn"? Anh lính thấy buồn lúc nào? lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường hay là bây giờ khi anh nghĩ lại hình ảnh đó? Ý nghĩa trực tiếp từ câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có sự mơ hồ. Tuy ta biết chắc "tóc liễu vờn gió" không còn nữa, ta không biết chuyện "ru buồn" xảy ra lúc nào. Một diễn giảng là cảm xúc buồn đó xảy ra với câu bé. Nhưng tại sao cậu bé buồn? Ở đây, ta không rõ. Anh lính không nói thêm. Anh chỉ nhớ là những sợi tóc bay nhảy với gió đã khiến anh buồn lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường. Có thể vì cậu bé muốn ở nhà với mẹ, không thích đi học. Có thể vì cậu bé thương mẹ phải lặn lội dẫn mình đi học. Có thể có một chuyện gì đó về mái tóc mẹ. Ta không biết. Dưới một diễn giảng khác, anh lính có ý nói vì "tóc liễu vờn gió" không còn nữa nên hình ảnh đó ru buồn. Nghĩa là anh lính buồn sau này, không phải lúc là cậu bé đang ngắm tóc mẹ vờn gió. Theo tôi nghĩ, cách diễn giảng này có vẻ hợp lý hơn. Thứ nhất, sự kiện một cậu bé buồn vì tóc liễu mẹ vờn gió là một chuyện khá kỳ quặc Thứ nhì, một giải thích có thể làm phù hơp mọi chuyện. Giải thích đó là cậu bé thực ra rất thích và rất vui khi nhìn tóc mẹ vờn gió, vì vậy mà cậu bé giữ mãi hình ảnh đó. Do đó, khi mẹ không còn có "tóc liễu vờn gió" nữa, cậu bé và sau này trưởng thành là anh lính, cảm thấy buổn. Chuyện đó cũng giải thích tại sao Đinh Miên Vũ dùng động từ "ru" vì cái mất mát đó xảy ra nhiều lần, đều đều ngày này qua ngày khác, như một giai điệu lập đi lập lại như lời ru.

Cho dù cách diễn giảng nào, câu "tóc liễu vờn gió ru buổn" thật là tuyệt diệu trong bối cảnh anh lính nghĩ đến ngày thơ ấu theo mẹ đến trường. Đinh Miên Vũ đã thành công trong việc tạo ra một ấn tượng sâu đậm về lòng thương yêu mẹ của anh lính.

Tiếc thay, cách diễn tả xuất sắc đó không đồng đều. Cái diễn tả tuyệt vời về tình yêu thương mẹ của anh lính bị cắt đứt đột ngột khi tác giả để anh lính chuyển ý nghĩ sang người yêu anh. Trong khi phần đầu rất là tuyệt vời, phần sau trở nên tầm thường, nếu không muốn nói là yếu kém, gượng gạo, và thiếu mạch lạc. Như đã trình bày ở trên, ngoài lối chuyển tiếp đột ngột từ mẹ sang người yêu, tác giả có lối suy diễn kỳ quặc của "đá mềm chân cứng" và mơ hồ tả ước vọng anh lính là để cho "mẹ còn tương lai."

Chúng ta không hiểu tại sao có sự chênh lệch giữa hai phần trong cùng một bài hát. Nếu Đinh Miên Vũ là một người, ta có thể giải thích là ông viết phần sau trong trạng thái khác với phần đầu, như thể ông muốn viết cho xong. Nhưng nếu Đinh Miên Vũ là ba người, thi ta biết là người viết phần đầu khác với người viết phần sau.

May thay, có hai yếu tố cứu vãn bài hát. Yếu tố thứ nhất là nhạc điệu. Giai điệu bài hát rất hay, có lối kể lể gây xúc động. Hòa âm và nhịp điệu cũng rất xuất sắc, trầm bổng nhịp nhàng. Nếu bạn nghe nhạc không lời, bạn vẫn thưởng thức bài hát, nhất là khi các nhạc cụ phối hợp nhau như guitar, sáo, và trống phụ họa (Xem, thí dụ như, Phạm 2014). Yếu tố thứ hai là sự nổi bật ở phần đầu khiến người nghe quên đi hoặc không nhận ra cái yếu kém ở phần sau. Ngoài ra, tuy phẩn sau yếu kém so với phần đầu, nó cũng không đến nỗi tệ, và cũng đóng góp được hoàn thành câu chuyện anh lính đang muốn diễn tả.

Bài hát nói lên sức mạnh của âm nhạc miền Nam trước 1975 qua cách diễn tả tình yêu thương mẹ nồng ấm

Có nhiều bài hát về tình mẹ con. Thí dụ như Lòng Mẹ, Bà Mẹ Quê, Bông Hồng Cài Áo, Bà Mẹ Trị Thiên, Bà Mẹ Gio Linh. Những bài này chỉ nói về người mẹ thuần túy, ca ngợi mẹ và tình yêu mẹ dành cho con. Cũng có nhiều bài hát về người lính VNCH và mẹ. Thí dụ như Xuân Này Con Không Về, Cảm Ơn. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" có lẽ là bài hát hay nhất về tình yêu thương của người lính VNCH dành cho mẹ anh. Bài hát này là một thí dụ cho thấy tính chất nhân bản của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trước 1975.

Như tôi đã trình bày trong các bài trước, âm nhạc miền Nam trước 1975 không ủy mị, yếu đuối như phe cộng sản thường chê bai. Ngược lại, âm nhạc miền Nam trước 1975 rất mạnh mẽ, hào hùng, và kích động ý chí. Neil Jamieson, một học giả Hoa Kỳ, gán sức mạnh của hai miền Nam Bắc là Âm Dương, với miền Bắc Dương và miền Nam Âm. "Các trận đánh lớn lúc Tết khiến cho chiều âm này một động lực mạnh mẽ trong VNCH" (Jamieson 1993, 320). Tôi không nhất thiết đồng ý với cách phân loại đó, nhưng khái niệm âm dương hoặc nhu cương giúp ta có chút hiểu biết về tính chất của hai miền Nam Bắc trong chiến tranh. 

Một điểm quan trọng mà nhiều người, nhất là phe cộng sản, quên, là miền Bắc là kẻ xâm lăng trong khi miền Nam chỉ phòng thủ. Người lính VNCH có gia đình, cha mẹ, vợ con, và họ phải bảo vệ những người thân yêu. Sức mạnh của họ không phải là tấn công giết giặc, mà là tình yêu. Chính tình yêu giúp họ mạnh mẽ và chiến đấu chống trả quân thù. Do đó âm nhạc miền Nam trước 1975 phản ảnh cái sức mạnh đó. Gọi tình yêu cha mẹ, vợ con, người tình ủy mị yếu đuối là thiếu hiểu biết, mất cá tính nhân bản. Quân đội Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, không coi trọng cái tình yêu đó. Họ bi tẩy não chỉ biết phục vụ Đảng cộng sản Việt Nam và yêu thương Bác Hồ hơn cả cha mẹ, vợ con. Ngược lại, những người lính VNCH lúc nào cũng có tình yêu thương gia đình. Bản nhạc "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" thể hiện tình thương yêu mẹ của anh lính trẻ một cách nồng ấm. Tình yêu thương đó được bộc lộ chân thành qua chi tiết cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng, ấp ủ hình ảnh những sợi tóc mẹ bay nhảy theo cơn gió thoảng trong suốt mười mấy năm.

Đinh Miên Vũ, dù là Đinh Miên hay Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình, lúc sáng tác bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" chỉ là một người lính trẻ ở tuổi đôi mươi. Kinh nghiệm viết nhạc coi như không có vì bài này là bài duy nhất được sáng tác trước năm 1975. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" cho thấy mức sáng tạo thật cao, có những kỹ thuật viết thật điêu luyện. Một lần nữa, bài này là một thí dụ cho thấy xã hội và thể chế tự do của VNCH đã giúp phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật trong miền Nam trước 1975.

Kết Luận

"Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là bản nhạc duy nhất của Đinh Miên Vũ trong kho tàng âm nhạc miền Nam trước 1975 và là một trong những bài hay nhất, nếu không muốn nói là bài hay nhất, về tình yêu thương mẹ. 

Tuy có nhiều bài về tình yêu mẹ dành cho con, rất it bài nói về tình yêu con dành cho mẹ. Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" còn xuất sắc ở cách diễn tả độc đáo qua một cảnh tượng bình thường, đem lại cảm xúc mạnh cho người nghe. Cách diễn tả độc đáo đó và khía cạnh tha thiết của nhạc điệu khiến người nghe quên đi vài khuyết điểm trong lời nhạc. 

Một lần nữa, "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bằng chứng hùng hồn cho mức sáng tạo phong phú trong xã hội tự do của chính thể VNCH và sức mạnh của nền âm nhạc miền Nam trước 1975. Chúng ta lắng tai nghe bài hát, thưởng thức nhạc điệu và lời ca ru hồn; nhưng chúng ta không quên cảm thấy xót xa cho nền âm nhạc của miền Nam trước 1975.

Cảm tạ

Tôi xin có lời cảm tạ anh Vũ Đông Hà và các bạn dân lành, Sài gòn, PHO, binh, Cau Ho, buồn cho tiếng Việt của trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của Sài gòn.



____________________________________

http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/suong-trang-mien-que-ngoai.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/09/suong-tra-mie-que-ngoa-cao-tua.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7042307105878688723Sun, 31 Aug 2014 00:39:00 +00002014-09-03T22:45:10.353-07:00

Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa


Mặt tiền tòa nhà hành chánh Viện Đại Học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.[1]
Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Tổng quát

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4]

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6]

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4]

Triết lý giáo dục

Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.

Năm 1958, dưới thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).

  1. Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
  2. Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
  3. Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.[1]

Mục tiêu giáo dục

Số liệu giáo dục bậc tiểu học[9]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955400.8658.191
1957717.198[10]
19591.115.000[11]
19601.230.000[10]
19631.450.67930.123
19641.554.063[12]
19702.556.00044.104

Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?

  1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
  2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
  3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]

Những quy định trong hiến pháp

Điều 26, Hiến pháp năm 1956: "Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận."[13] Điều 10, Hiến pháp năm 1967: "1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật." Điều 11 phát biểu: "1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục."[2]

Giáo dục tiểu học và trung học

Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1970sau 1970
lớp nămlớp một
lớp tưlớp hai
lớp balớp ba
lớp nhìlớp tư
lớp nhấtlớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thấtlớp sáu
lớp đệ lụclớp bảy
lớp đệ ngũlớp tám
lớp đệ tứlớp chín
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tamlớp mười
lớp đệ nhịlớp 11
lớp đệ nhấtlớp 12

Giáo dục tiểu học

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[14] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[15] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra hai ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[16] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[17] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[18]

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[19] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[20] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[21] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng . Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[22]

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[16] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[17] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh LongSa Đéc).[18] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)... Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

Trung học đệ nhất cấp

Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[23] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai "lục cá nguyệt" (hay "học kỳ"). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[24] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[25] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[26] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[27]

Số liệu giáo dục bậc trung học[9]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
195551.465890
1959132.529[11]
1960160.500[10]
1963264.8664.831
1964291.965[12]
1967-68471.000[16]
1968-69554.000[16]
1969-70632.000[16]9.069
Trung học đệ nhị cấp

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[28] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[29] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[30] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[31] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[32] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng "tối ưu" hay "ưu ban khen" (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng "ưu" (16/20 điểm trở lên); "bình" (14/20); "bình thứ" (12/20), và "thứ" (10/20).[33] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[34]

Trung học tổng hợp

Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v... nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[35] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh LễLong Xuyên.[36]

Trung học kỹ thuật

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anhtiếng Pháp.[37] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[38], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[37][39]

Các trường tư thục của Quốc Gia Nghĩa Tử Giáo Hội Công Giáo và hệ thống trường Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Các trường tư thục và Bồ Đề

Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[40] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[41] Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.[42] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhấthệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie-Curie, Colette, và Saint-Exupéry.[43] Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.[44] Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).[45]

Các trường Quốc gia Nghĩa Tử

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia Nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia Nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[46][47] Vì vậy trường Quốc gia Nghĩa tử khác trường Thiếu Sinh Quân. Sau năm 1975, các trường Quốc Gia Nghĩa Tử cũng bị giải thể.

Giáo dục đại học

Số liệu giáo dục bậc đại học
Niên họcSố sinh viên
19597.500[11]
1960-6111.708[48]
196216.835[12]
196420.834[12]
197050.000[16]
1974-1975166.475[50]




http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-111



http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/giao-duc-viet-nam-cong-hoa-to-chuc-va.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-6293512938212711028Thu, 28 Aug 2014 01:12:00 +00002014-10-12T21:33:21.693-07:00Quân Sử VNCH

Câu chuyện của KingBee man/Phi Đoàn 219 Long Mã Biệt Đoàn SOG, bị sa vào tay giặc cộng


Như Chuyện Không Tưởng

Chung Tử Bửu

Khi cánh cửa phòng giam trại thẩm vấn tù binh Ngã Tư Sở, Hà Nội, đóng lại cài then khóa chặt phía ngoài vào buổi chiều ngày 9 Tháng Ba năm 1971, mọi dự tính trốn thoát của tôi trở thành vô vọng. Tụi ma giáo nầy sẽ giở trò quỉ quái gì đây? Bao giờ thì mình sẽ bị đưa lên các trại khổ sai nơi thâm sơn cùng cốc? Mình sẽ chịu nổi các đòn tra tấn tới mức nào? Bao giờ thì chúng sẽ đem mình đi thủ tiêu? Có khi nào mình sống sót trở về gặp lại bao người thân yêu nhất không?

KingBee/Phi Đoàn 219 Long Mã

 photo ChungT1EEDB1EEDuVagraveErnest_zpsc7179c6a.jpg

phi công Chung Tử Bửu và Ernest

Phương trời Nam xa xôi ấy, người mẹ góa, đàn em dại, cô vợ trẻ, con đầu lòng đang chập chững tập đi, đơn vị cũ, khung trời xưa, bạn bè, chiến hữu, bây giờ ra sao? Biết bao nhiêu hình ảnh hiện lên trong trí não. Những khổ đau của bao người thân ở miền Nam vời vợi ấy có lẽ sẽ dần nguôi. Bóng hình, tên tuổi mình ở phi đoàn rồi sẽ phai dần vào quên lãng. Các bạn cùng khóa có lẽ thấy thầm tội nghiệp cho số phận hẩm hiu của mình được vài ngày rồi cũng quên. Nhưng mình phải sửa soạn đương đầu với một cảnh ngộ chưa hề chuẩn bị đối phó: Ðời tù binh trong các nhà giam cộng sản!

Mỗi lần nhìn thấy hai người đàn em của tôi cùng bị bắt tại mặt trận, Thiếu Úy Khánh và Thiếu Úy On bị giam khác phòng, nhưng cùng một dãy là tim tôi nhói lên vì thương các đàn em của mình. Các cậu mới ra trường được vài tháng, bay hoa tiêu phó cho tôi một thời gian, chưa dạn dày chiến trận đã bị lôi theo con chim đầu đàn gãy cánh. Trong số mười sáu sĩ quan tù binh bị bắt trong cùng một trận đánh, tuy hai cậu ấy là người gần gũi nhất của tôi, nhưng nếu hỏi rằng tôi biết gì về tánh tình, khả năng, tài vặt, hoặc đời tư của hai chàng, thì tôi cũng mù tịt. Tôi chỉ cảm nhận một điều, mình phải có bổn phận khích lệ và an ủi hai người em cùng phi đoàn. Năm tháng bị thẩm vấn căng thẳng rồi cũng quen, nhưng cái loa điện tổ chảng chĩa thẳng vào mấy cửa sổ cao sát trần nhà phòng giam phát tiếng the thé của đài nói dối Việt Nam; nào là buổi trưa hát bài chòi, giữa đêm hát chèo, với lại mấy thứ nhạc lai tàu bắt chước giọng Liên Sô hát nhanh như ma đuổi, cộng thêm đủ thứ bản tin phịa thứ thiệt đẳng cấp thế giới, thì chịu không thấu bà con ạ!

Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Hành Khúc
http://youtu.be/jdDZAGNQv4Y
Một hôm đi ngang qua cửa phòng Khánh và On, Khánh cầm hai hột nhãn lượm ngoài sân ra dấu bảo tôi hãy lấy hột nhãn, rửa sạch, nút lỗ tai để đỡ phải nghe. Bao đêm khuya canh vắng suy nghĩ về tương lai đen tối của mình, có một câu hỏi vấn vương không rứt ra được: “Nếu thật có thiên đàng, hỏa ngục và linh hồn, khi mi chết hồn mi sẽ đi đâu? Lên hay xuống?” Sau một số ngày thành thật suy nghĩ thì câu trả lời rất rõ ràng là sẽ đi xuống! Tại sao? Bởi vì mặc dù có đạo, nhưng giữa tôi với cõi thiên đàng chẳng có mối liên hệ chặt chẽ nào bảo đảm một vé đi lên. Nhìn lại mặt đạo đức của mình thì chỉ toàn là những điều xấu hổ. Ðúng là đầu xanh mà vô số tội! Bị đối diện với sự thật nghiệt ngã, tôi mới nhận ra rằng dù có biết, có tin, có là đạo vòng vòng, chẳng thứ nào tạo được tình liên hệ thân ái với Ðấng Tối Cao là Ðấng sẽ ban quyết định cho mình lên hoặc xuống. Lấy lẽ công bằng mà nói, thần nào, cõi thánh thiện nào chịu chứa chấp một thằng có đủ thứ tội lỗi xấu xa như tôi? Ðứng trước số phận vĩnh cửu của mình, tôi không thể khinh suất đặt niềm tin vu vơ vào những điều chỉ nghe người ta truyền lại chứ chưa bao giờ biết rõ. Trong cõi nhân loại có nhiều niềm tin tôn giáo khác hẳn nhau, thì không thể nào mọi niềm tin đều là chân lý. Nếu có anh đúng thì phải có nhiều anh sai. Làm thế nào biết được ai đúng ai sai? Hoàn cảnh bấy giờ không phải là lúc lý sự về Ðấng Tạo Hóa hiện hữu hay không hiện hữu, vì chẳng ai giải thích được nguồn gốc sự sống, trật tự tuần hoàn của cõi thiên nhiên, và sự hình thành vũ trụ bao la.

Ðối với tôi, đứng trước số phận chắc chắn là hẩm hiu và bất hạnh, bản năng khôn ngoan của con người là tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh bế tắc, chẳng ai gàn dở ngồi lý sự về những điều không chứng minh nổi. Vì thế, nỗi trăn trở của tôi ngoài việc suy tính phương cách đối phó với những cuộc hỏi cung diễn ra suốt 6 ngày mỗi tuần, còn là nghĩ cách tìm ra lời giải đáp cho thắc mắc làm thế nào tạo được mối liên hệ thân ái với cõi thần linh trên thiên đàng. Ðể rồi đây, nếu có phải sớm qua thế giới bên kia thì mình cũng còn có chút hy vọng! Trong hoàn cảnh tuyệt vọng và cấp bách, tôi muốn biết vấn đề cách rõ ràng rành mạch, vì sự biết lõm bõm chẳng giải quyết được gì. Càng suy nghĩ càng hối tiếc, vì từ khi còn nhỏ tôi đã được tiếp xúc với Thánh Kinh là quyển sách nói về vấn đề nầy, nhưng tôi đã thờ ơ với số phận vĩnh cửu của mình.

Tôi nhớ đến một lời tuyên bố của Ðức Chúa Giêsu trong sách phúc âm nào đó được nhắc tới trong các bài giảng về đức tin mà tôi đã nghe, rằng: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hột cải, sẽ khiến núi nầy đời đi, thì nó sẽ dời đi...” Như vậy có phải là với chút lòng tin thì sẽ được ban cho quyển Thánh Kinh không? Ðối với tôi, lời tuyên bố chắc nịch thì một là thật, hai là dỏm, chứ không thể có kiểu lừng chừng. Làm sao ai có nổi thứ đức tin cỡ đó? Nếu tôi có chút đức tin nào thì giỏi lắm nó chỉ lớn cỡ bằng hột bụi bay vơ vẩn là tối đa! Giống như lênh đênh giữa biển bao la, vớ được cái gì làm phao thì cứ bám lấy. Thứ mà tôi cần nhất lúc nầy là quyển Thánh Kinh. Nhưng nhìn lại thực tại của mình trong nhà tù cộng sản thì vô cùng thối chí. Bọn nầy thù ghét Cơ-đốc-giáo hơn mọi thứ trên đời, làm sao nó cho phép mình có được quyển Thánh Kinh, nếu có? Thế còn lời tuyên bố của Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng thì sao? Lấy cái gì để chứng minh? Nếu Thiên Chúa không trị nổi bọn cộng sản thì có gì đáng tin? Chẳng lẽ Ðấng Tối Cao không đủ quyền phép buộc tụi xảo quyệt nầy phải cho tôi quyển Thánh Kinh hay sao? Muốn biết có thật hay không thì phải thử là cách tốt hơn hết. Từ hôm đó tôi đã bắt đầu cầu xin như thế nầy: “Kính lạy Thiên Chúa, nếu Ngài hiện hữu và toàn năng, xin ban cho con một quyển Thánh Kinh trong nhà tù cộng sản nầy.” Thật vậy nếu Thiên Chúa có thật và toàn năng thì sá gì mấy thằng Việt Cộng láo toét. Tôi cung kính dâng lời khẩn cầu của mình mỗi ngày hai lần vào buổi sáng thức dậy và buổi tối trước khi ngủ.

 photo kingbee26_zps7017cc8c.jpg
Cùng thời gian đó, có một tên đại tá đến thẩm vấn tôi suốt một tuần về các vấn đề xã hội, thông tin báo chí, văn hóa văn nghệ của Miền Nam. Hắn ba hoa khoác lác về vấn đề tự do tín ngưỡng ở miền Bắc rồi khoe về các nơi thờ tự hiện đang có tại Hà Nội. Tôi hỏi móc một chuyện:

- "Thưa ông, mặc dù tôi không được ra ngoài để thấy cuộc sống xã hội ở miền Bắc nầy, nhưng tôi đoán là vấn đề tự do tín ngưỡng như ông nói chắc không có. Vì tôi nghe phía bên ngoài tường rào có tiếng dân chúng đi lại sinh sống quanh đây rất nhiều. Mà đa số người Việt Nam theo đạo Phật. Có dân ắt phải có chùa. Có chùa ắt phải có chuông. Có chuông thì tôi phải nghe. Nhưng mấy tháng nay tôi chẳng bao giờ nghe tiếng chuông chùa cả, chỉ nghe toàn là tiếng kẻng thôi. Tại sao vậy?"

Hắn trả lời:

- “Anh nhầm rồi! Chùa ở ngoài nầy không dùng chuông mà gõ kẻng anh ạ!”

Biết là hắn phịa, nhưng tôi không có cớ nào để bẻ hắn. Tuy vậy, sau một tuần thẩm vấn xong hắn hỏi một câu:

- “Anh có nguyện vọng gì không? Tôi có thể giúp anh được gì không?”

Tôi trả lời:

- “Dạ có, tôi muốn có một quyển Thánh Kinh để đọc.”

Hắn giãy như đỉa phải vôi:

- “Ô ô ô ô... cái... cái... cái đó thì không được! Vì chúng tôi không tin, không cho phép, và cũng chẳng đào đâu ra để có cho anh.”

- "Ông nói các ông không tin, và không cho phép; tôi tin ông nói đúng. Nhưng về việc ông nói là không có để cho, thì tôi nghĩ là ông nói dối đấy!"

Tôi nói.

- "Sao... sao anh lại dám nghĩ là tôi nói dối? Anh biết cái... cái... cái gì ở ngoài nầy? Anh lấy lý do nào nào?"

Hắn la lên:

- "Thưa ông, mới hồi nãy ông khoe cạnh phố Hàng Da gần Cửa Nam vẫn còn nhà thờ Tin Lành, vẫn có mục sư, và tín đồ vẫn được đi nhà thờ dự lễ. Có phải vậy không ạ? Thế mà ông nói là không đào đâu ra Thánh Kinh. Chẳng nhà thờ Tin Lành nào mà không có sẵn Thánh Kinh cả. Nếu nhà thờ ấy có thật, ông cứ đến xin một quyển là họ biếu ông ngay." Tôi nói.

- "Tôi đã nói là không được." Hắn nói.

- "Vì ông hỏi nguyện vọng của tôi thì tôi thật lòng nói rằng đó là thứ tôi cần. Chứ có bao giờ các ông theo nguyện vọng của tôi trả tự do cho tôi trở về Miền Nam đâu." Tôi nói.

- "Anh đừng đòi hỏi những gì mà tôi không thể giúp." Hắn ta nói.

- "Vậy xin cảm ơn ông đã quan tâm." Tôi nói.

Không ai biết rằng tôi sẽ phải tiếp tục ở tù thêm 12 năm nữa, và cái Tổng Cục Chính Trị đó cũng không nghĩ rằng họ sẽ nhốt tôi thêm mười hai năm nữa. (Cho tới cuối năm 1978, khi tôi bị cái đói hành hạ dai dẳng ở trại cải tạo Nam Hà. Một đêm tôi nằm trách móc Chúa tại sao Ngài để cho tôi bị đói như thế nầy, bỗng cuốn phim ký ức về con gà mái xổng khỏi lồng làm trì hoãn đoàn xe chở tù binh vào ngày 16 tháng 4, 1972, diễn ra rõ mồn một trong trí. Có tiếng hỏi rất nhỏ nhẹ vang trong trí “Nếu ngày ấy Ta không tháo cho con gà xổng ra ngoài, trì hoãn đoàn xe để cứu cả đoàn khỏi bị máy bay bắn cháy, liệu ngày nay con còn sống sót để nằm đó trách móc Ta chăng?” Một tuần sau tôi “bị” điều động sang đội nấu bếp mới thành lập). Chuyện đời tù của tôi quá dài không thể kể hết trong một bài viết ngắn.


Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái. Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973.

…Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm.
Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua...
Chung Tử Bửu

Trong những ngày phải đi rừng đốn gỗ, chặt nứa, chặt chổm, của hai năm 73 và 74, biết bao ký ức của thời quân trường, thời du học các trường bay ở Mỹ cuồn cuộn kéo về trong tâm khảm. Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm. Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua. Ôi quê hương ra sao bây giờ? Trên đất Bắc dong chân qua những miền đất lạ, người xử người dã man nghiệt ngã. Bọn cáo chồn lộ nguyên hình tàn độc, bỉ ổi, và man trá. Quyển Thánh Kinh, cái gai trong mắt tụi coi trại, là nguồn an ủi vô biên của người tù binh trong những ngày gian khổ.

MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM
http://youtu.be/bx1wYg3kf_4
Khoảng gần cuối năm 1973, nhóm tù binh 7 người chúng tôi bị chia cách khỏi đám đông ngày nào đi lao động hái trà cũng phải đi ngang qua cái nhà của tụi chỉ huy trại. Chúng trương lên một tấm bảng đen giữa sân, mỗi ngày lấy phấn trắng vẽ mặt trận tiến quân của Ai Cập đánh Do Thái. Ðài phát thanh thì oăng oẳng hí hửng từng giờ loan tin chiến thắng của Ai Cập. Ðược đâu vài bữa huênh hoang, bỗng cái bảng đen biến mất, và bản tin về chiến sự vùng Trung Đông cũng đột ngột im re. Chắc là “phe ta” thua to rồi!

Một ngày Tháng Sáu 1974, chúng tôi được tin 4 anh trong đám đông đã vượt ngục. Ôi! Vui chi kể xiết, dù chúng tôi bị gò bó nhiều hơn. Tụi Việt Cộng gửi tới Yên Bái một sư đoàn tập trận để lùng bắt cho bằng được những người tù binh đã bỏ trốn. Ba tuần trôi qua, bóng các anh vẫn biệt mù tăm cá, tôi hứng chí làm bài thơ “Tiếng Rừng Xôn Xao” (với bút hiệu Phù Vân) tặng các bạn mình. Nói làm sao hết nỗi tự hào của các chiến sĩ Cộng Hòa hiên ngang bất khuất. Niềm tin càng ngày càng vững trong gian lao, dù ngày về quê hương vẫn còn xa mờ mịt.

Lưu Đày - Lê Tâm
http://youtu.be/K4e9R4JUfcE
Từ ngày được tin Phước Long, rồi Ban Mê Thuột thất thủ, tôi xem những lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu Ước và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh. Ngày 11 tháng 4, 1975, tôi bị đưa về tạm giam tại nhà tù Hỏa Lò. Ngày 25 tháng 4 bị đưa trở lại Ðông Khê, Cao Bằng. Trại giam năm xưa bây giờ trở thành trại kỷ luật. Tôi gặp lại 4 anh vượt ngục đã bị bắt lại và bị đưa lên đây trừng trị từ nhiều tháng trước. Bốn chục thằng Việt Cộng lo trông coi và hành hạ chỉ có 11 người tù binh. Ôi! Buồn không chi tả xiết! Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa. Tôi tưởng chừng lòng mình đã thành chai đá. Nước mắt không còn để khóc. Quyển Thánh Kinh bị tịch thu vì là trại kỷ luật. Bị giam riêng một mình ở tòa nhà đá trên đầu dốc, tôi chỉ còn là cái xác không hồn.


… và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh.

… Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa…
Chung Tử Bửu

Cuối năm 1975, chúng tôi được cho phép viết thư về nhà lần đầu tiên. Tôi quyết định không viết. Có lẽ gia đình tôi chẳng còn ai. Còn vợ tôi, nếu nàng đã đi bước nữa mà nhận thư tôi chỉ khiến nàng thêm bẽ bàng. Thôi, tôi tự xem mình như đã chết. Và tôi cũng muốn gia đình tôi đừng biết tin tôi còn sống. Tôi sẽ ở tù không có ngày ra. Bọn Việt Cộng đã tuyên bố vậy. Báo tin tôi còn sống chỉ làm người thân đau khổ thêm một lần nữa, ích lợi gì! Nhưng Thiếu Úy Chờ, người bạn cưa xẻ với tôi, theo tôi năn nỉ khuyên nhủ suốt mấy ngày. Ðể làm vừa lòng bạn, tôi viết qua quít một thư cho mẹ tôi, mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ tới, vì có lẽ mẹ và các em tôi đã được đưa đi Mỹ rồi.

Mùa Ðông năm ấy rét chưa từng thấy. Ban ngày nhiệt độ trung bình là 2 độ C. Ban đêm 5, 6 độ âm. Vẫn phải lao động, cưa gỗ, đẵn củi, đập đá, đắp đường. Bụng lúc nào cũng đói, cái đói triền miên hành hạ không nguôi. Nếu không có bãi cỏ hắc âu làm thuốc, có lẽ, tất cả chúng tôi đã gục ngã vì bệnh thấp khớp sưng đầu gối. Rau dấp cá mọc hoang trở thành nguồn lương thực cứu đói chánh yếu của chúng tôi. Cỏ gì xực được là bứt. Tôi lại vận dụng trí não làm một bài thơ tựa đề là "Mùa Ðông Thạch An" thuộc nằm lòng chứ không bao giờ ngu viết ra giấy. Khoảng ba tháng sau, nhằm mùa Xuân, một buổi trưa rất bất ngờ, thằng cai tù tên là Tòng đem đưa cho tôi thư nhà gửi ra, thật dày. Tôi rất bình thản mở thư ra xem. Trong thư có rất nhiều ảnh chụp. Tấm hình màu nằm trên cùng là ảnh hai đứa con gái của tôi khoảng 4, 5 tuổi. Ôi! Chúng xinh đẹp và dễ thương làm sao. Tôi chợt òa khóc không thể nào ngưng. Bao nhiêu nước mắt và nỗi lòng thương nhớ bị đè nén từ lâu đầy ngập trong linh hồn, nay tràn ra như nước vỡ bờ. Một mình giữa xà lim vắng lặng, tôi nghe tiếng khóc hu hu của mình trộn lẫn tiếng nấc. Khi thấy lại hình ảnh của những người thân yêu nhất, mọi cảm xúc bỗng bừng sống dậy, dạt dào... Từng lời thư yêu thương của vợ làm tôi quá hối hận vì đã nghi ngờ lòng chung thủy của nàng. Ôi em! Ôi hai con! Vâng, sẽ có ngày... sẽ có ngày tôi được gặp lại người xưa.

Tháng 6 năm 1976, tôi được trả lại quyển Thánh Kinh, được ra khỏi trại kỷ luật và bị đưa đi trại Sơn La vùng Tây Bắc. Chẳng phải vì chúng tôi đã mãn hạn, nhưng vì bọn Việt Cộng dùng trại Ðông Khê để trừng trị những người chiêu hồi bị chúng tóm lại được. Ở Sơn La, tù nhân lao động quần quật hai năm rưỡi, lội khắp các cánh rừng của bản Mường Thải rồi về trại Ba Sao Nam Hà ở ba năm rưỡi nữa. Sau đó chuyển về trại Z30C Hàm Tân thêm hai năm 7 tháng. Suốt thời gian ấy, tôi được báo trước trong những giấc mơ đủ thứ chuyện sẽ xảy ra, thì đều diễn ra y như tôi đã thuật lại cho các bạn cùng phòng. Trong gần 14 năm trôi nổi gian truân và cả sau nầy, bàn tay bảo vệ và gìn giữ của Thiên Chúa vẫn theo tôi không bao giờ rời xa. Ôi, Thiên Chúa đầy yêu thương đã đoái đến một con chiên ghẻ bướng bỉnh.

Không món quà nào trong thời khổ đau quý hơn món quà quyền phép giúp tôi biết mình luôn được bảo hộ, được chỉ dẫn cho biết con đường chân lý. Suy gẫm về những ngày gian khổ đó, tôi luôn biết ơn Ðấng đã che chở bảo vệ tôi, thậm chí một cái tát cũng đã không xảy ra, mặc dù tôi là người tù bị bọn Việt Cộng ghét nhất trại. Có lẽ tôi là người duy nhất thuộc khóa 65 Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã trải qua những kinh nghiệm như đã kể. Có người bạn như vậy kể cũng “hãnh riện” lắm chứ, phải không các bạn!

Chung Tử Bửu

LTS: Chung Tử Bửu là học sinh Trung Học Lê Lợi Di Linh gần Đà Lạt, hiện làm Mục Sư tại Texas

Nguồn: http://www.anhdao.org/D_1-2_2-66_4-328_5-4_6-2_17-80_14-2_15-2/#nl_list_bookmark


-----------------------------------------------------------
 photo khongquanvnch_zpsb3a521ed.jpg
-----------------------------------------------------------
Chuyến Bay Tử Thần Vào Đồi 31 Hạ Lào

Chuyện về Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển “Trận Hạ Lào năm 1971″, rồi nhà văn Nhảy Dù - Lê Ðình Châu đại úy đại đội trưởng. Đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển “Ðôi Mắt Người Tù Binh”, và anh Nguyễn Văn Long, thiếu úy sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu. Ở đây, tôi (Bùi Tá Khánh) chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.
Kingbee Bùi Tá Khánh



Binh sĩ VNCH tại Khe Sanh đang chờ để được trực thăng bốc vào
đất Lào lúc mở đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, ngày 8-2-1971

Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong Phi Đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I Không Quân trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của Biệt Đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế, tất cả phi cơ của Phi Đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi.

Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt Hóa chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của Không Lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hỏa lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị Không Quân trực thuộc Sư Ðoàn I Không Quân trong đó có Phi Đoàn Long Mã 219.

Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong ba lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm hai hoặc ba chiếc H-34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hỏa lực 29, 30, 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất “hot”, nhưng “sôi nổi” nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù bốn ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.


Đồi 31 - Lam Sơn 719 - Hạ Lào

Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có hai phi cơ do anh Chung Tử Bửu lead, tôi co-pilot và Nguyễn văn Em là mê-vô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.

Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.

Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội Tác Chiến Điện Tử Dù cùng với 18 chiếc máy “sensor” vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12 ly 7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA-7 nữa.

Về không trợ thì có hai chiếc Gunship của Phi Đoàn 213 do Trung Úy Thục bay trước mở đường.


Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M-60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến Landing Zone anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của Trung Úy Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy “Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây”. Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.

Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hỏa, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy “Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy”.

Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa” trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ Đại Úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù “trên đây nè thiếu úy, tụi tôi bắn yểm trợ cho”. Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, Thiếu Tá Ðức trưởng ban 3, Đại Úy Trụ phụ tá ban 3, Đại Úy Nghĩa sĩ quan liên lạc Không Quân, Trung Úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Thiếu Úy Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có Trung Tá Châu tiểu đoàn trưởng và Đại Úy Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại Tá Thọ mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “ông” nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Trung Úy Nguyễn Hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.

Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến Không Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có hai phi tuần F-4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.

Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với ba chiếc H-34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc hai phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận “tiền pháo” dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ!”.


Binh sĩ VNCH bị quân Bắc Việt bắt trong trận đánh Lam Sơn 719

Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được hai chiếc T-54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn Văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau hai xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần hai chiếc F-4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm hai xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H-34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.

Về phía Không Quân, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các sĩ quan và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ ba các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả hai chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ hai tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.

Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại hai phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của hai phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 33 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.

Kingbee Bùi Tá Khánh
hung-viet.org


http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=8828
Tác giả/Nhân vật: Bùi Tá Khánh |13-07-2011|




http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/nhu-chuyen-khong-tuong.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)1tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-4507071360771432585Tue, 26 Aug 2014 23:40:00 +00002014-09-05T21:32:42.556-07:00Chỉ có VNCH mới có chính danh thưa kiện và vì thế VNCH phải được thừa kế chính phủ sau này nếu muốn lấy lại Hoàng Sa.

 photo 10547583_807754132570631_1579498698215541646_n_zpsf7775060.jpg ><br><br><font size="Các Ông Chỉ Có Một ĐƯỜNG BINH…”

Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp Ước Liên Minh Quân Sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh Sát Biển.

Hôm trước khi ra sân bay về nước, đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm.

Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:

- Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?

Đại diện CSVN cười và giải thích:

- Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.

Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:

- Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?

Đại diện CSVN phá lên cười:

- Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?

- Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975.

Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?

Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:

- Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở.

Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa Án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi không?

- Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.

- Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?

- Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ.

Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.

- Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam đã có xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?

- Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.



- Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?

- Đúng! Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!

Đại diện CSVN cười sặc sụa:

- Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi.

Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa. Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:

- Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ước buôn bán” và “chủ quyền”.

- Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.

- Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai.

Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi. Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.

- Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?

- Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền.

Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:

- Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập đển chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói: “Có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”.

Đại diện Mỹ cười rồi nói:

- Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền… TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?

- Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!

- Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH. Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có “khôn lâu”.

- Ý ông là?

- Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không.

Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác: “Khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.

Đại diện CSVN mỉa mai:

- Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?

- Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế…

- Huề tiền!

- Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân…

Đại diện CSVN phá liên cười:

- Ông khôi hài quá, thế mà lại dạy “ngoại luộc trứng” Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:

- CSVN ký công hàm Phạm Văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958, nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó ị trước. Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ. Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.

Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:

- Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không? Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:

- Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không? Rồi, ông nói tiếp:

- Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm Văn Đồng, vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.

- Không còn cách nào hết sao?

- Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.

- Cách gì ông nhắc lại đi.

- Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.

- Làm cách nào?

- Ngay ngày mai… Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa. Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó. Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ. Có như thế thì trước diễn đàn thế giới, VNCH chỉ VẮNG MẶT 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” vì tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra. Trời Việt lại… HỪNG ĐÔNG.

Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:

- Chỉ đơn giản thế thôi sao?

Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó. Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:

- All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã). Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH. Cầm bài chi lâu cho nó… ƯỚT.

Sưu tầm

--------------------------------

Học giả Trung Quốc phản biện những lập luận của Việt Nam về Công Hàm Phạm Văn Đồng?

Nguyên văn bài phản luận của thằng "học giả" TC.

1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về căn bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.

Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.

Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên Bố Lãnh Hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich (t ính hợp lý), là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên Bố Lãnh hHải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”

2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mỹ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mỹ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mỹ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công Hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.

Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mỹ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lý do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!

3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc.

Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng. Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.

Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài. Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lý của nước Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử lý đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn nguyên tắc căn bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa? ! Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã ký Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lý do rằng hiệp định này được ký kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định.

Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ. Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.

6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công Hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.

Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công Hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lý do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich (hợp lý) pháp luật, sự thực lịch sử. Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về căn bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình. Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.

Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lý được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kỳ của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.

Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.

Ngô Viễn Phú

http://dannews.info

Nào, "mời các học giả Việt cộng, các sử gia XHCN của nước Việt cộng", các nhà nghiên cứu tư tưởng của tên đảng cướp HCM, tham gia phản biện .

Đây là lý do chính mà CHXHCNVN không hề dám kiện vì... ngọng miệng rồi! Chỉ có VNCH mới có đủ quyền & tư cách đòi lại các vùng đất, biển đã mất vào tay TC mà thôi.

http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=7672&page=1955

Cái kẹt là, VN thống nhất nên công hàm tặng không của Phạm Văn Đồng mới có giá trị, chứ nếu còn VNCH như là một quốc gia như Trung Quốc đã phân tích thì công hàm lập tức vô giá trị vì - anh không thể cho không ai đó một tài sản mà anh không phải là sở hữu chủ!


 photo hs-tsa_zpsc45d5698.gifhttp://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/chi-co-vnch-moi-co-chinh-danh-thua-kien.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-9188028671274164851Sat, 23 Aug 2014 00:02:00 +00002015-08-24T16:14:50.505-07:00

Hi Ký:
CUC Ð B TRONG LÒNG ÐCH
Tác Gi: Trung Tá Nguyn Ðăng Hòa
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1/Quaí Điểu
 
Từ trái sang phải TĐP/TĐ1, Ban 3 kiêm ĐĐTCH, ĐĐT Việt và TĐT/TĐ1 
  Kể từ sau cuộc đổ bộ bằng trực thăng của Tiểu đoàn 1 Quái Điểu vào ngày 11/7/72, tại quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chưa một ai viết lại cuộc đổ bộ ấy, và tôi nghĩ nếu tôi không viết để nói lên cuộc chiến đấu ác liệt, oai hùng này thì ai có thể viết thay tôi ? Vì như tôi đã trình bày trong tập Hồi ký CƠN LỐC DÀI, hơn 1OO ông phóng viên thế giới, không một ông nhà báo nào dám "thi thố tài năng" đi theo chúng tôi cả. Cũng như 2 nữ phóng viên chiến trường Việt Nam là Kiều Mỹ Duyên và Lam Thiên Hương một thời ngang dọc đã lắc đầu khi tôi mời 2 cô đi "du ngoạn". Nỗi danh thì cũng muốn, nhưng nghĩ đến mạng sống như "chỉ mành treo chuông" 2 cô vừa cười vừa nói: "Thôi, tui chẳng ham đâu".

Như có một thôi thúc, ray rứt nào đó buộc tôi phải viết để nói lên sự thật oai hùng của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, đã tạo được trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Xin cho phép tôi được làm một nhân chứng lịch sử để tô đậm thêm Quân sử hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

* * * * *
... Phá Tam Giang vào một sáng mù sương 11/7/72
Dù đang là mùa hè nhưng trời Huế vẫn còn sương mù, một làn khói mỏng giăng đầy, bao phủ cả một vùng Vân Trình rộng lớn. Trên cánh đồng vừa mới gặt, mùi rạ thơm thoang thoảng, nếu có thêm vài cô thôn nữ xinh xắn của mẹ Việt Nam nữa là ta đã có một hình ảnh đồng quê thanh bình của bao năm cũ. .. Gia đình Quái Điểu hơn 700 tay súng đã sẵn sàng tại bãi bốc chờ lên trực thăng đi vào đất đi.ch. Những chàng Kinh Kha thời đại đang ưu tư về cuộc đời và đang chờ đón một tương lai không mấy rạng rỡ.

Đúng 7 giờ sáng, chiếc trực thăng UH-1B của chỉ huy đáp xuống cạnh nhà thờ 2 chuông Điền Môn, bốc tôi và cố vấn Mỹ bay thẳng ra biển Đông. Để tránh phòng không địch, trực thăng đã phải bay trên biển và ở cao độ vừa tầm cho chúng tôi quan sát thành phố Quảng Trị và quận lỳ Triệu Phong, nơi Tiểu đoàn 1 Quái Điểu sẽ phải đổ bộ để tái chiếm.

Quận Triệu Phong nằm về phía Đông Bắc cổ thành Quảng Trị khoảng 2 cây số, là quê hương của tên đồ tể Lê Duẩn, môn đệ kế vị già Hồ đã về chầu Diêm Vương. Vì vậy không dễ gì địch để chúng tôi tái chiếm lại Triệu Phong.

Những túi lửa B.52 chiều ngang 1 cây số và chiều dài 3 cây số được lóe lên từng chập, và khi các chùm bom chạm đất thì lửa bốc cháy cùng những tiếng nổ phụ rền vang một góc trời ... Tại đây địch cũng sẵn sàng nghêng đón chúng tôi. Đơn vị bạn gần nhất vẫn còn ở tuyến sau Mỹ Chánh mịt mù. Chúng tôi sẽ phải nhảy trên đầu địch, đánh thọc sâu vào lòng địch, bóp ngay yết hầu chúng, buộc chúng phải nhả Cổ thành Quảng Trị mà chúng đã chiếm giữ hơn 3 tháng qua. Sư đoàn Dù đã gặp phải muôn vàn khó khăn và thiệt hại nặng nề khi tái chiếm Quảng Tri.

Có lẽ thượng cấp quên đi cửa ngõ Triệu Phong, nơi mà Việt cộng phải giữ với bất cứ giá nào, để bảo vệ huyết lộ dẫn ra Cửa Việt bằng đường bộ và đường thủy dọc theo sông Thạch Hãn. Nhờ huyết lộ này mà chúng có thể tiếp tế cũng như tải thương và thay quân rất dễ dàng.

Đúng 12 giờ 5 phút ngày 11/7/72, ngày mà suốt đời tôi không bao giờ quên được. Trước khi lên máy bay, Tướng Trưởng và Tướng Lân đến bắt tay và chúc chúng tôi thành công. Lời nói của Tướng Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến như một luồng điện chạy dài theo xương sống tôi:
- Danh dự này, tôi giao cho anh và Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến.
Riêng Đại tá Bảo, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 nhìn chúng tôi như một người cha nhìn những đứa con thân yêu đang đứng bên bờ vực thẳm. Ông rơi nước mắt nói với tôi lời giã biệt:
- Mày cố gắng giữ gìn anh em, khuyên họ nên đọc kinh cầu nguyện theo đạo giáo của họ!


Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến với biệt danh Quái Điểu được trực thăng bốc từ nhà thờ 2 chuông Điền Môn bay ra Triệu Phong, bất thần đổ trên đầu địch, giữa những đám ruộng trước quận lỵ. Tuy bãi đáp đã được B.52 "dọn cỏ" suốt 2 tiếng đồng hồ, với 33 phi vụ đã cày nát từ Đông Hà đến Quảng Trị, mà gia đình Quái Điểu vẫn được con cháu Bác và Đảng dàn chào long trọng. Súng phòng không 23 và 37 của địch bắn lên như pháo bông.
Đại đội 4 Tiểu đoàn 1 do Đại úy Trịnh Văn Thềm chỉ huy, lãnh nhiệm vụ đổ bộ trước. Hai chiếc trực thăng khổng lồ CH.54 chạm đất một cách bất ngờ nên thoát được phòng không địch. Có 32 chiếc trực thăng đổ quân, gồm 17 chiếc CH-53 (loại Chinook Mỹ dùng để cứu con tin tại Iran) chở được 60 người và CH-46 loại Chinook chở được 20 người. Chiếc tôi đi bị lãnh 4 viên phòng không, tưởng chừng như rớt. Vừa rời khỏi trực thăng, tôi đã được chào mừng bằng một trái 57 ly không giật, vì chung quanh tôi là một rừng antenne truyền tin. Tôi bị thương ở đùi phải, máu ướt đẫm. Viên Trung úy Hải quân Mỹ bị lòi ruột ra ngoài trông thật khiếp, nhưng vẫn còn sống. Đau đớn cho Tiểu đoàn chúng tôi là 1 chiếc trực thăng bị rớt và nổ tung sau đó 2 phút lại chở nguyên Trung đội Quân y, 60 người chỉ sống sót 12 trong đó có Bác sĩ Hoàn. Ông đã lao được ra ngoài cửa cấp cứu, nhưng phải 2 ngày sau mới bò về được Bộ chỉ huy Tiểu đoàn với thân hình cháy phỏng nặng. Chúng tôi không lấy được xác những người bị chết vì chiếc máy bay này thuộc Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và đã mang theo 47 trái mìn chống chiến xa và tất cả đã tan tành theo chiếc máy baỵ. Đáng lẽ tôi đã gởi xác theo chuyến đó rồi, nhưng tới phút chót cố vấn Mỹ lại rủ tôi đi trên chiếc CH-46 để khi xuống bãi thoát ra thật nhanh, tránh được phòng không địch.
Ngay phút đầu, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, chúng tôi đã bị thiệt hại hơn 200 người vừa chết vừa bị thương. Người cố vấn Mỹ còn cho tôi biết trong số 32 máy bay trực thăng, có 29 chiếc trúng đạn và 2 chiếc rớt, một nổ tại chỗ và một rớt ngoài biển. Cuộc đổ bộ này đã được báo chí xem như cuộc đổ bộ Inchon tại Đại Hàn năm xưa. Tướng Lân được triệu về dinh Độc Lập để thuyết trình về cuộc đổ quân cho Hội đồng An ninh Quốc Gia. Mọi người hồi hộp theo dõi bước chân của bầy Quái Điểu gan lì.
Cánh đồng Triệu Phong đã trở thành bãi chiến trường khốc liệt. Xe tăng Việt cộng phối hợp với bộ binh của chúng bắt đầu rời vị trí phòng thủ để rượt đánh chúng tôi, và những chiếc trực thăng vũ trang "Cobra" của phe ta đã táo bạo săn đuổi chúng như những con diều hâu hung dữ. Riêng Tiểu đoàn 1 Quái Điểu lúc bấy giờ tan tác như bầy gà lạc mẹ, mạnh ai nấy đánh, dùng chiến thuật cá nhân phối hợp từng tổ nhỏ cố bám lấy bờ sông Vĩnh Định là chi nhánh của sông Thạch Hãn để làm điểm tựa, giữ lấy mạng sống mong manh. Hai con sông này đã nuôi dưỡng quận lỵ Triệu Phong, làm cho nó trở nên trù phú và sầm uất nhất tỉnh Quảng Trị, giờ đây đang ôm ấp che chở cho những toán Quái Điểu lạc bầỵ
Nhờ vào súng M.72 chống chiến xa ta đã bắn hạ được một số tăng địch, có những chiếc bốc cháy cách xa ta chỉ 50 thước, làm cho anh em an tâm hơn và tin tưởng vào loại vũ khí cá nhân hiện đại và tối tân này, mỗi Đại đội chỉ được trang bị 12 trái thôi. Những hố bom trở thành vị trí chiến đấu lý tưởng cho binh sĩ mình. Họ đứng thẳng, tỳ súng vào miệng hố nhắm vào từng đợt sóng biển người của bọn Việt cộng khát máu mà bắn.
Đại đội 1 của Đại úy Bồng Sơn đã dùng con sông Vĩnh Định như một chỗ tựa tốt để chống trả từng đợt xung phong của địch cũng như yểm trợ cho các Đại đội 2, 3 và chỉ huy còn đang phơi mình trên bãi đáp. Kết quả sơ khởi Đại đội 1 đã tịch thu 10 cây súng 37 ly phòng không của địch đã đặt hàng ngang tại bìa làng.
Trời đã vào đêm, bóng tối đồng lõa với tội ác của địch qua những đợt "cắn lén" nhưng cũng là người bạn chân tình che chở cho chúng tôi, hạn chế tầm quan sát của địch nên chúng chỉ dùng pháo đe dọa vu vơ. Đến 10 giờ Tiểu đoàn mới nắm được tay nhau, lập thành một phòng tuyến tạm thời. Chỉ còn Đại đội 4 của Đại úy Thềm bị cô lập phải tự phòng thủ bảo vệ riêng, nhưng xét về mặt chiến thuật thì rất có lợi cho Tiểu đoàn. Một cái chốt khổng lồ làm tiền đồn cho đơn vị tại Chợ Sãi, dùng Pháo binh và Hải pháo ngăn chận sự di chuyển của địch từ Cổ thành Quảng Trị qua quận Triệu Phong, cũng như quan sát được thủy lộ dẫn ra Cửa Việt. Chiếm và giữ được Triệu Phong thì sớm muộn gì tỉnh Quảng Trị cũng sẽ trở về vùng đất Tự do.
Thường thường đánh nhau với những đơn vị chính quy tuy chém giết thả giàn "mạnh được yếu thua" nhưng thích hợp với người quân tử. Một cuộc chiến tranh quy ước, có lúc đánh lúc nghỉ, ăn uống, tiếp tế, tải thương, thay đổi lối đánh cho phù hợp trận liệt, rồi trở lại đánh tiếp. Nhưng với bọn Việt cộng, các cấp chỉ huy của chúng có được đào tạo ở một quân trường nào đâu! Đã vậy đầu óc lại bị Bác Đảng nhồi nhét hận thù đầy ắp nên chúng hăng say chém giết ... từ chú du kích nhỏ bé không biết gì gặp lúc đàn anh chết nhiều quá, cũng nhảy ra thay thế chỉ huỵ Vì vậy Việt cộng chỉ biết dùng một chiến thuật rừng với lối đánh lén, cắn lén!
Triệu Phong lúc bấy giờ là vùng địch kiểm soát nên họ có nhiều lợi thế hơn ta. Chúng rình rập, tấn công không ngơi nghỉ cốt làm cho quân ta mệt, tinh thần căng thẳng, quân số tiêu hao dần mòn. Nếu không có tinh thần cao và khả năng điêu luyện sẽ bị chúng đốn ngã dễ dàng. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đang đi trên đoạn đường chông gai ấy. Đến 11 giờ đêm quân ta tạm ngưng chém giết, mọi người lục ba-lô lấy cơm sấy ra nhơi. Ngồi trong hố cá nhân, chẳng cần cấp chỉ huy ra lệnh hay kiểm soát đôn đốc, ai nấy cũng đề cao cảnh giác và sẵn sàng lâm chiến vì đã quá quen thuộc với những đòn đen tối hạ cấp của lũ chuột Việt cộng.
Đêm khuya yên tĩnh, bỗng có tiếng la hét vang dội từ phía Chợ Sãi, nơi Đại đội 4 của Đại úy Thềm phòng thủ riêng. Một đoàn xe tăng địch với đèn pha sáng trưng, dàn hàng ngang cùng bộ binh chạy theo bên hông xe vừa bắn vừa hô xung phong. Tôi đã chuẩn bị trước các yếu tố tác xạ tiên liệu Pháo binh và Hải pháo, 42 khẩu pháo 105 ly nhả đạn cùng lúc và liên tục cộng với hàng ngàn trái hải pháo loại 500 cân Anh khổng lồ, khi nổ chụp lúc chạm nổ, trút lên đầu địch.
Vặn tần số truyền tin nội bộ của Đại đội 4 tôi theo dõi trận đánh, nghe các Trung đội trưởng liên lạc với Đại đội trưởng lòng tôi yên tâm được phần nào và cảm phục sự gan lì của họ. Trên máy PCR. 25 vang lên giọng nói bình tĩnh của Thiếu uý Tánh khi anh liên lạc với Đại úy Thềm:
- Thần Phong hãy yên tâm, chiếc tăng đầu còn cách chúng tôi 100 thước, tôi đã ra lệnh từng tổ 3 người sẵn sàng M.72 nghênh chiến ... Hiện giờ chiếc gần nhất chỉ còn khoảng 50 thước, chờ kết quả, sẽ có một số "cua rang muối" (chiến xa địch) để tặng Thần Phong và Hương Giang (danh hiệu của tôi).
Thiếu úy Tánh nói tiếp trong sự hồi hộp của tôi:
- Tôi bắn thử một viên M.72 chống chiến xa, kết quả tuyệt vời, chính tôi cũng không ngờ đạn vừa ra khỏi nòng là một tiếng nổ long trời, con cua trước mặt tôi đã nổ tung và bùng cháy.
Tất cả các Trung đội đều an tâm và phấn khởi, từng tổ tam tam chế đã dùng M.72 cải tiến để đưa đoàn cua của Bác vào chảo rang. Đại đội trưởng đã gọi máy về Tiểu đoàn tặng tôi có đến hàng chục con cua. Riêng Hạ sĩ Ích, Tiểu đội phó dùng M.79 phóng lựu, một mình anh đã rang 3 con cua ngon lành.
Song song với Đại đội 1 và 4, sự chiến đấu gan dạ của Đại đội 2 của Đại úy Duật và Đại đội 3 do Trung úy Vàng Huy Liễu chỉ huy đã tạo sức mạnh vô song cho gia đình Quái Điểu. Sư đoàn 312 của Việt cộng với quân số gấp 10 lần hơn đã không nuốt được Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến kiên cường.
Qua hai ngày song đấu, địch đã được tăng viện nhưng không vì thế mà áp đảo được quân ta. Cấp chỉ huy Việt cộng đã đánh giá sai lầm về Tiểu đoàn 1 Quái Điểu, và cho đấy là một miếng mồi ngon chúng chỉ cần nhe nanh là đã nuốt chửng được ngay. Việt cộng đâu ngờ gặp phải một miếng mồi lửa, tạo nên bởi sự đoàn kết sắt đá, gắn bó keo sơn cùng sự chiến đấu bền bỉ gan dạ của anh em binh sĩ ta. Và chúng cũng không lường được lòng yêu nước tràn đầy của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trước sự tồn vong của đất nước. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã tổ chức được vị trí phòng thủ kiên cố bằng máu xương và sức mạnh tinh thần của mình cộng với sự yểm trợ hùng hậu mà chưa bao giờ Quân lực Hoa Kỳ xử dụng trên chiến trường Việt Nam.
Tôi đang liên lạc trên hệ thống Không lực để nhờ họ đánh phá căn cứ Ái Tử, (nơi mà địch đang đặt Bộ chỉ huy và căn cứ hỏa lực để yểm trợ cho chiến trường Quảng Trị) bằng những trận rải thảm B.52 tạo nên những biển lửa khổng lồ đốt cháy tham vọng điên cuồng của bọn Cộng sản cướp nước bạo tàn, thì Trung sĩ Ngữ cận vệ trung tín nhất của tôi chạy vào báo:
- Trình Thiếu tá, Trung úy Kỳ thuộc Đại đội Viễn thám vừa bắt được 2 nữ du kích Việt cộng, tịch thu 2 khẩu súng "các-bin" tại nhà mình đang đóng quân!
Thì ra căn hầm cư trú của 2 "cô bé" du kích chỉ cách hầm đóng quân của tôi và cố vấn Mỹ độ 10 thước, trong vòng 24 giờ qua các cô muốn giết chúng tôi lúc nào chẳng được. Vì thế tôi đến gặp 2 cô và được biết họ cũng như hầu hết thanh thiếu niên Quảng Trị bị kẹt lại sau khi quân ta rút về tuyến Mỹ Chánh đã bị Việt cộng đoàn ngũ hóa và trang bị thành tổ "dân quân chiến đấu". Hai cô còn cho biết họ là nữ sinh trường trung học Nguyễn Hoàng và có người anh cả là Đại tá làm việc tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòạ Tôi liền cởi trói, bảo lãnh 2 cô và gia đình họ rồi hứa sẽ đưa ra vùng tự do sau cuộc đổ bộ này. Từ đó 2 cô là những người phục vụ đắc lực cho đơn vị tôi về tình hình du kích tại địa phương. Nhờ vậy mà chúng tôi đã thanh lọc và bắt giữ cũng như tịch thu rất nhiều tài liệu và vũ khí. Thế mới hay, trong cuộc chiến, yếu tố "tranh thủ nhân tâm" cũng quan trọng không kém, và còn tiết kiệm được xương máu anh em.
Sau 15 ngày chiến đấu quên ăn quên ngủ, Tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã giao tiếp được với Tiểu đoàn chúng tôi nhưng cách nhau bằng con sông Vĩnh Đi.nh. Vì không dùng được trực thăng nên tôi phải nhờ đơn vị bạn này tải thương bằng những bè chuối buộc dây kéo qua sông !
Sau đó Tiểu đoàn 1 Quái Điểu được đưa về Huế, chúng tôi như những người về từ cõi chết, râu tóc rậm rạp như người rừng, mắt sâu như vực thẳm, tiều tụy như những bệnh nhân lâu ngày. Chúng tôi những người lính Thủy Quân Lục Chiến đã dành phần đời trai trẻ của mình cho những chuyến đi dài không mệt mỏi: từ tuyến đầu của con sông Thạch Hãn, được chọn làm giới tuyến ngăn địch cho đến vùng đầm lầy sông Ông Đốc, chặng đường cuối của quê hương hoặc lặn lội vùng biên giới Miên Lào với núi rừng trùng điệp... với một mục đích duy nhất là bảo vệ quê hương thân yêu khỏi lọt vào tay quân Cộng sản khát máu, bạo tàn.


Nguyễn Ðăng Hòa
Phúc thân mến.
Hồi ký của ông Nguyễn Đăng Hòa có vài điểm sai về nhân sự và chiến thuật.
***ĐĐ1lãnh nhận nhiệm vụ đổ đầu tiên chớ không phải ĐĐ4, vì đổ bộ sau cùng nên khi landing zone bị pháo kích nặng thì pilots không thể đáp được đúng mục tiêu, nên ĐĐ4 phải phòng thủ riêng rẽ.
*** Nhân sự Đại úy Duật lúc đó là TB3, Bồng Sơn ĐĐ1, Trúc Giang tức Trung uý Dương văn Tươi ĐĐ2, Trung Úy Vàng Huy Liễu ĐĐ3, Trịnh văn Thềm ĐĐ4, Th/Tá Nguyễn cao Nghiêm TĐPhó
***ĐĐ1 tịch thu 10 khẩu Phòng không không phải địch đặt ở bìa làng mà đặt rất sát bờ sông, cách chỉ có khoảng 2 mm, mục đích của sự đặt sát bờ sông là để tránh được phi, pháo của ta, địch căn cứ vào thói quen của chúng ta, là đâu có ai yêu cầu đánh bom và bắn pháo vào giửa dòng sông, nên chúng tương kế tựu kế khai thác thói quen của chúng ta để tránh được nhiều thiệt hại, cũng như vũ khí tịch thu được không phải chỉ toàn 37mm phòng không đâu, mà trong số đó qúa bán là loại 12.7mm.


Mong rằng bạn sẽ nắm vững được những chi tiết của trận đánh đầy máu lưã này.
Bồng Sơn- Ngày ấy thời chinh chiến.


Nguồn: http://bongsonbui.blogspot.com/2014/08/trieu-phong-chien-ia-loang-mau_99.html

 

http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/h-o-i-ky-cu-o-c-o-b-o-trong-long-i-ch.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-2216734687355076190Fri, 22 Aug 2014 21:22:00 +00002014-08-22T14:25:21.744-07:00

Chuyện bây giờ mới kể: Bức tượng “Thương Tiếc”

Bức tượng “Thương Tiếc”, nặng 10 tấn, cao hơn 6m,
được đặt tại cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
(Hình: vnrozier)

Khi cuộc chiến leo thang khốc liệt, năm 1966 Nghĩa trang Quân đội tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, bắt đầu không còn đủ đất để các tử sĩ VNCH yên nghỉ. Chính phủ nền Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải tính đến việc thành lập một nghĩa trang mới và địa điểm được lựa chọn nằm dọc theo phía tay trái của xa lộ Biên Hòa (nay là xa lộ Hà Nội) nếu từ hướng Sài Gòn đi Biên Hòa.

Kiến trúc sư kiêm điêu khắc gia, Đại úy Nguyễn Thanh Thu, được lệnh của Tổng thống Thiệu lên đường đi Phi Luật Tân để nghiên cứu mô hình xây dựng Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila (American Cemetery in Manila), được coi là một nghĩa trang đẹp nhất Á châu. 

Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003, https://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/837204065/in/photolist-2gYTAR-2gYTze) 

Năm 2003, tôi đã có dịp đến Phi Luật Tân và viếng Nghĩa trang Hoa Kỳ tại thủ đô Manilla [1]. Nghĩa trang có tên American Cemetery, đây là nơi chôn cất thi hài quân nhân Mỹ và đồng minh đã nằm xuống trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương vào thời thế chiến thứ hai.

Nghĩa trang mằn trên một khu đất rộng 615,000 mét vuông, trồng cỏ xanh rì vây quanh là những hàng cây rợp bóng mát. 17,206 ngôi mộ chiến sĩ được đánh dấu bằng các thập tự giá và xếp hàng thẳng tắp như một đội quân thầm lặng. Điểm xuyết cho nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi những dòng chữ tưởng nhớ công ơn những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.

 Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003)

Sau chuyến đi tham khảo tại Phi Luật Tân, Đại úy Thu sẽ phải trình đề án lên Tổng thống Thiệu để giao cho công binh xây dựng một nghĩa trang mới mang tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ông còn gợi ý phải có một tác phẩm điêu khắc tại cổng vào nghĩa trang để nói lên sự tri ân của mọi người tại hậu phương trước những tử sĩ được chôn cất tại đây.

Đại úy Nguyễn Thanh Thu xin 1 tuần để suy nghĩ về dự án và trước khi ra về anh còn được Tổng thống Thiệu nhắc nhở bằng những lời rất thân tình: “Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải xoay quanh “cục nhưn” là bức tượng… Tôi đặt nhiều hy vọng vào anh…”.

Tất cả mọi chuyện chỉ bắt đầu một cách giản dị như vậy. Tuy nhiên, đối với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu đó là thời gian anh trăn trở nhiều nhất với những ý tưởng của một nghệ sĩ sáng tạo cho một công trình mang tầm vóc quốc gia nói lên lòng tri ân của mọi người đối với những chiến sĩ đã bỏ mình ngoài chiến trường.

Trong suốt một tuần lễ, hầu như ngày nào anh cũng có mặt tại nghĩa trang Hạnh Thông Tây để chứng kiến những cảnh tang tóc, đau thương của vợ con tử sĩ. Nhà chứa xác đầy nghẹt, những chiếc hòm chưa chôn còn mịt mù nhang khói tại những khu phải căng lều bạt chờ chôn… trong khi trực thăng vẫn hàng ngày tiếp tục chở xác về nghĩa trang.

Ngày cuối cùng của một tuần tìm ý tưởng là vào một buổi trưa Thứ Sáu trên đường từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây anh Thu ghé vào một quán nước gọi ly đá chanh. Và đây chính là giờ phút “định mệnh” khi anh nhìn thấy một người lính thuộc binh chủng Nhảy dù ngồi trước những chai bia và hai cái ly…

Anh lính ngồi nói chuyện với cái ly thứ hai trước sự ngạc nhiên của chủ quán lẫn khách uống nước. Hình như anh lính là người vừa thăm bạn được chôn cất tại Nghĩa trang Hạnh Thông Tây. Một ly anh cúng bạn và một ly anh uống. Anh ngồi vừa uống vừa nói chuyện với chiếc ly!

Cảm động trước hình ảnh một người lính khổ sở khi phải mất bạn, anh Thu cầm ly nước chanh bước qua bàn lảm quen. Anh lính ngước lên nhìn anh Thu với vẻ khó chịu vì sự riêng tư của mình bị người lạ làm phiền và tiếp tục trở về với ly bia “cúng” bạn.

Anh Thu cũng bị lúng túng vì thái độ “bất hợp tác” của anh lính nhảy dù. Mấy cô bán hàng lại cười khúc khích, có lẽ các cô nghĩ nãy giờ có một người “điên” ngồi uống bia nói chuyện với cái ly và bây giờ lại thêm người “điên” nữa lân la đến làm quen.

Người lính tiếp tục gục đầu ngồi độc thoại, phớt lờ những lời xã giao làm quen của anh Thu. Dường như anh tưởng bị quân cảnh hỏi giấy nên lẳng lặng móc bóp giấy tờ cho anh Thu mà không hề ngước mắt nhìn và tiếp tục uống!

Anh Thu cầm bóp trở về bàn mình và ghi lại tên anh lính: Võ Văn Hai, cấp bậc Hạ sĩ, binh chủng Nhảy dù, cả tên tiểu đoàn lẫn KBC (Địa chỉ Khu Bưu Chính của quân lực VNCH). Khi anh Thu trả lại giấy tờ, Hạ sĩ Võ Văn Hai nhét vào túi với vẻ bất cần, cũng không thèm ngước mặt nhìn lên.

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu

Khuya Thứ Sáu anh Thu mới bắt đầu vẽ để sáng Thứ Bảy trình Tổng thống. Từ 8g tối đến 6g sáng anh phác thảo được 7 bản vẽ trong tiếng súng và bom thỉnh thoảng vọng về Sài Gòn. Những ý nghĩ ở một hậu phương yên bình trong khi những người lính ngày cũng như đêm xả thân ngoài chiến trường khiến anh Thu dồn hết tâm trí vào những nét vẽ của anh.

Anh Thu hôm đó chỉ ngủ 2 tiếng thì bị đánh thức bởi tiếng chó sủa, thì ra theo lời của vợ anh: “Có người đến nhà mời anh đi trình dự án!”. Họ đến sớm để mời anh đi ăn sáng trước khi gặp Tổng thống Thiệu. Lần trước đây anh gặp Tổng thống để bàn về dự án tại Bộ Tổng tham mưu nhưng lần trình dự án lại là tại dinh Gia Long.   

Lịch gặp Tổng thống vào lúc 9  giờ sáng nhưng vì Tổng thống còn đang tiếp khách nên anh Thu trong lúc đi lại trên hành lang dinh Gia Long bỗng nảy ra câu hỏi “Tại sao lại không vẽ Võ Văn Hai?”. Nghĩ là làm ngay. Anh tưởng tượng một bố cục dựa trên hình ảnh Hạ sĩ Hai ngồi nhớ bạn tại quán nước.

Anh trở ngay vào phòng Đại tá Cầm, tùy viên của Tướng Thiệu, chụp một cây bút nguyên tử, lấy trong giỏ rác một bao thuốc lá và rút mảnh giấy bọc bao thuốc trở ra hành lang ngồi vẽ lại hình ảnh Hạ sĩ Hai.

Một lần nữa, “định mệnh” lại ra tay: trong 7 bản vẽ mang theo, anh Thu thấy bản cuối cùng, một “tốc họa” trên bao thuốc lá tại dinh Gia Long, là bản anh ưng ý nhất. Đến khi vào gặp Tổng thống, anh trải 7 bản vẽ lên sàn nhà trước bàn làm việc, bản vẽ cuối cùng trên bao thuốc lá anh vẫn còn cầm trên tay.

Tổng thống Thiệu sau khi đi tới, đi lui ngắm 7 bản vẽ, ông nói: “Anh là “cha đẻ” của dự án này nên theo ý anh, bức nào làm anh hài lòng nhất”. Phải nói, anh Thu là người thật thà, chất phác, anh thẳng thắn trình bày:

“Thưa Tổng thống, nếu Tổng thống cho tôi chọn lại thì bản vẽ mới đây tôi vừa nghĩ ra và vẽ vội trên bao thuốc lá lại là bản vẽ tôi ưng ý nhất… nhưng tôi sợ mình quá vô lễ để đưa ra tại đây”.  
        
Tổng thống Thiệu vui vẻ và đồng ý xem “tốc họa” trên bao thuốc lá. Ông cầm bản phác thảo Hạ sĩ Võ Văn Hai về ngồi trên ghế ngắm nghía, một lúc sau ông nói: “Anh Thu à, người nghệ sĩ hay lãng mạn lắm mà chiến sĩ của mình thực tế hơn, họ cần một cái tên cho đề tài, anh cho tôi biết đề tài của bức hình là gì đây?”.

Anh Thu lần lượt đề nghị các tên: (1) Khóc bạn, (2) Tình đồng đội, (3) Nhớ nhung, (4) Thương tiếc và (5) Tiếc thương. Cuối cùng Tổng thống chọn tên “Thương Tiếc” cho bức phác họa Hạ sĩ Võ Văn Hai ngồi nhớ bạn. Tổng thống còn nhắc nhở phải làm sao nói lên được ý nghĩa vừa thương tiếc bạn bè nằm xuống nhưng cũng phải thể hiện tinh thần chiến đấu của người lính VNCH lúc nào cũng vững tay súng.

Bất ngờ, Tổng thống yêu cầu anh vẽ một bản thứ hai lớn hơn, vẽ tại chỗ, ngay ở dinh Gia Long. Thế là với dụng cụ giấy vẽ, bảng đen và các loại màu được cung cấp ngay theo yêu cầu, anh Thu bắt đầu… “ra tay” trước mặt Tổng thống Thiệu và một số sĩ quan thân cận của ông.

Anh Thu có thêm yêu cầu cần một người ngồi làm mẫu… và trong số các sĩ quan hiện diện, chính Đại tá Cầm “xung phong” làm… người mẫu! Thực ra thì hình ảnh Đại tá Cầm mặc quân phục chỉnh tề, “ủi hồ láng cóng”, không thích hợp với hình ảnh người lính thật sự nhưng đó chỉ là một hình ảnh gợi ý để sáng tác cấp tốc.

Anh Thu còn xin thêm thêm 1 khẩu súng trường cho Đại tá Cầm để trên đùi, đó là khẩu Garant M1 đang được quân đội sử dụng trên chiến trường… Anh cũng đề nghị trong lúc anh vẽ, tất cả mọi người miễn đặt câu hỏi, vì nếu như thế anh sẽ mất sự tập trung trong sáng tác và sẽ thất lễ nếu anh không dừng vẽ để trả lời.  

Khó khăn của anh Thu là phải hoàn thành tác phẩm trong một thời gian gấp rút, anh tâm sự: “Lúc bấy giờ, không biết có một điều xui khiến vô hình nào đó mà tôi xuất thần phóng bút vẽ lại Hạ sĩ Hai… Không biết là tôi vẽ hay là ai nữa!”.

Nguyễn Thanh Thu

Sau khi Tổng thống Thiệu ký tên vào bức “tốc họa”, anh Thu chỉ có 3 tháng để hoàn tất công trình tượng đài trước ngày 1/11/1967, ngày Quốc khánh của VNCH. Vấn đề trước mắt là đi tìm “người mẫu” Võ Văn Hai trong quán nước ngày trước tại Gò Vấp. Anh đã tìm đến đơn vị của Hạ sĩ Hai và gặp vị Thiếu tá phụ trách đơn vị. 

Thoạt đầu khi nghe anh Thu trình bày vấn đề, vị Thiếu tá có vẻ băn khoăn, suy tính… nhưng khi thấy tận mắt bức họa có chữ ký của Tổng thống Thiệu, ông lại hãnh diện khi có người lính thuộc đơn vị nhảy dù của mình được chọn làm biểu tượng cho người lính VNCH tại nghĩa trang…

Vị Thiếu tá còn ra lệnh cho tập họp đại đội với súng ống đầy đủ để anh Thu chọn “người mẫu”, vì theo ông, trong đơn vị có nhiều người cao to tới 1,7 hoặc 1,8 mét, còn Hạ sĩ Hai chỉ cao chừng thước 1,6… Chính ông Thiếu Tá cũng chọn được 4 người lính lực lưỡng trong hàng đầu còn anh Thu thì chỉ réo tên Võ Văn Hai ở gần cuối hàng quân.

Anh Thu được giao 5 người lính nhảy dù để làm mẫu cho bức tượng Thương Tiếc trong vòng 3 tháng. Anh cũng nói riêng với các “người mẫu”, sự thật anh chỉ cần Hạ sĩ Hai, nhưng tất cả đều được nghỉ phép 3 tháng tại Sài Gòn với điều kiện chỉ được mặc quần áo dân sự để không bị quân cảnh làm khó dễ.

Anh Thu bên bản sao bức tượng “Thương Tiếc”

Chính hình ảnh Võ Văn Hai ngồi tiếc thương bạn trong quán nước đã ám ảnh anh Thu để sáng tạo ra bức tượng “Thuơng Tiếc” ngồi trước cửa Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ngày ngày, anh Hai trong bộ quần áo dân sự đạp xe lên nhà anh Thu, tại đây anh thay bộ quân phục, với ba lô, súng đạn đầy đủ để ngồi làm mẫu.

Một hôm, khi bức tượng gần hoàn chỉnh chỉ còn thiếu chi tiết khuôn mặt, anh Thu đã cố tình để cho người lính ngồi một mình trong phòng, còn anh kín đáo quan sát qua bông gió trên tường. Đây là dụng ý của nhà điêu khắc muốn để anh ngồi một mình nhớ đến người bạn đã qua đời.

Anh Thu có thể thấy từng đường nét diễn biến trên khuôn mặt lúc anh lính ngồi buồn một mình và nhà điêu khắc đã phác họa lại trên giấy khuôn mặt anh. Phần mình, Hạ sĩ Võ Văn Hai lại sợ đã làm chuyện gì khiến Đại úy Nguyễn Thanh Thu phiền lòng nên cho anh về sớm mà không biết ông đã bí mật quan sát! 

Khuôn mặt người lính “Thương Tiếc” bạn được tái hiện qua bức tượng trong cuộc phỏng vấn 

Khoảng 3 giờ sáng anh Thu thức dậy để bắt đầu giai đoạn hoàn chỉnh cuối cùng của bức tượng: nét mặt của người lính. Anh dùng đèn cầy để lấy ánh sáng chiếu vào nhiều góc cạnh, qua đó anh có thể sửa lại nét mặt người lính theo những gì anh phác họa.

Loại ánh sáng nhân tạo qua ánh đèn cầy có tác dụng điều chỉnh các góc cạnh của tác phẩm theo hướng người nghệ sĩ di chuyển từ nhiều phía. Anh Thu hoàn toàn bị cuốn hút vào những cảm xúc trên khuôn mặt người lính. Đó là những giây phút chỉ mình anh và nhân vật của bức tượng trong ánh sáng mờ ảo của cây đèn cầy.    

Sau một giấc ngủ ngắn, anh tỉnh dậy sáng hôm sau để quan sát và so sánh công trình của mình đêm qua dưới ánh đèn cầy với ánh sáng ban ngày. Anh mừng vì khuôn mặt của người lính giữa ánh sáng tự nhiên ban ngày và ánh sáng nhân tạo từ đèn cầy vẫn hiện lên một nét buồn ray rứt.

Như vậy là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu có thể hài lòng với công trình nghệ thuật kéo dài 3 tháng của mình. Và chúng ta được chứng kiến pho tượng “Thương Tiếc” ngồi trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa từ năm 1967 cho đến sau ngày 30/4/1975.

Bức tượng “Thương Tiếc” được đắp lại cho cuộc phỏng vấn

***

Chuyện bây giờ mới kể về bức tượng “Thương Tiếc” được viết lại theo nội dung cuộc phỏng vấn của Lê Xuân Trường với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu qua một video clip dài 36,57 phút vừa xuất hiện trên Youtube, bạn đọc có thể theo dõi qua địa chỉ:

https://m.youtube.com/watch?v=IJbgQGqBsCA&rdm=17jwyp50u&client=mv-google

Cuộc phỏng vấn của Nguyễn Xuân Trường với điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu

Trong clip này, ở phần cuối dài hơn 5 phút, có đề cập đến thời gian đi học tập cải tạo của Đại úy Nguyễn Thanh Thu. Anh tâm sự cuộc đời của mình dính liền với tác phẩm Thương Tiếc, từ “danh vọng” đến “thê thảm”. Tại trại cải tạo trong thời gian bị “biệt giam” 22 tháng trong “thùng conex” [2] với lời buộc tội: “Tướng lãnh, sĩ quan xong giặc rồi là hết, còn anh vẫn lưu lại tư tưởng phản động qua tác phẩm….”.

Cán bộ trong trại chắc cũng chưa từng thấy bức tượng “Thương Tiếc” mà chỉ nghe đồn qua người Sài Gòn vì bức tượng đã bị giật sập và nấu thành kim loại sau năm 1975. Khi ở trong trại được khoảng 8 tháng, có lần “quản giáo” trong trại đề nghị anh Thu khai chỉ đóng vai phụ giúp trong việc tạc tượng còn tác giả đã ra nước ngoài!

Anh Thu đã trả lời một cách khẳng khái rằng anh đã “làm” thì anh “chịu”, tàu chìm thì anh chìm theo, máy bay rớt thì anh rớt theo, tượng chết thì anh chết theo… chứ không thể nào khác được. Anh Thu đã phải trả giá về sự “ngoan cố” của mình, nhưng một “phép lạ” đã xảy ra trên đường ra pháp trường sử bắn…

Nguyễn Thanh Thu diễn tả lại cảnh vì sao anh bị… điếc

Người xem video clip này dễ dàng nhận thấy giữa người phỏng vấn Lê Xuân Trường và người được phỏng vấn, anh Nguyễn Thanh Thu, đôi lúc không có sự “ăn ý” trong đối thoại. Chỉ ở đoạn cuối mới có câu trả lời tại sao anh Thu đã bị “điếc” trong thời gian đi cải tạo khiến cho những đối thoại trong cuộc phỏng vấn không được “trơn tru” như bình thường.

Nguyên do tại sao xin bạn đọc theo dõi phần cuối câu chuyện bây giờ mới kể trên video clip đã dẫn.

Bức tượng Thương Tiếc sau 30/4/1975

***

Chú thích:

[1] Xem thêm bài viết “Phi Luật Tân thời hậu SARS” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/phi-luat-tan-thoi-hau-sars.html

[2] Thùng Conex: loại thùng bằng sắt để chứa hàng hóa trong quân đội Mỹ ngày xưa, có kích thước khoảng 3 mét mỗi chiều. Ngày nay thường thấy loại thùng này lớn hơn được chuyên chở trên các xe container.

[3] Xem thêm bài viết “Nghĩa tử là nghĩa tận: Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” tại:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/nghia-tu-la-nghia-tan-nghia-trang-quan.html

***

Bình luận trên Facebook:


***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.            Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.            Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.            Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.            Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.            Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.            Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.            Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.            Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.            Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/08/chuyen-bay-gio-moi-ke-buc-tuong-thuong.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/chuyen-bay-gio-moi-ke-buc-tuong-tiec.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-478637319946919807Tue, 19 Aug 2014 22:57:00 +00002015-08-25T01:00:41.505-07:00Quân Sử VNCH

 photo khungTr1EA7n1100T.jpg

“AI ĐẦU HÀNG, NHƯNG TAO THÌ KHÔNG!”
Trần Đình Tự

Đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc. Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tuyến.

     

    NÓ VÀ TÔI


    Viết cho Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự,
    Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân,
    Và tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    *********************

    Tiểu Đoàn Trưởng - Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân
    Thiếu Tá Trần Đình Tự

    Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Thiếu Tá Tự là một trong những Sĩ Quan kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã không chịu nhục đầu hàng mà chọn con đường chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Tới khi hết đạn, lưỡi dao oan nghiệt của anh đã kết liễu cuộc đời chiến đấu vì chính nghĩa Tự Do của Dân Tộc.

    Thiếu Tá Trần Đình Tự đã hy sinh vì Tổ Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

    Còn tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân của Tự từ thủa thiếu thời, hiện đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại Lợi.

     Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm 1954.

    “Tôi, Nó sinh ra nhằm chinh chiến,
    Mới quen nhau mà thương mến,
    Nó quê ngoài kia, từ lâu lắm chưa lần về”.


     

     photo frame_tv_680_bar_top_00.jpg

     photo frame_tv_bar_right_trans.png

     
     

     
     

     

    Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đã đến bến bờ Tự Do, chỉ còn nhớ là từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đình tôi đã được đưa về Trường Nữ Trung Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi học, nhưng các học sinh đều được tạm nghỉ để trường học biến thành những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia đình tôi được phân phối một khoảng trống ở gầm một cái cầu thang nào đó của trường.

    Di cư vào Nam bằng “Tầu Há Mồm”

    Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần thì Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phụ Thọ, Gò Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đã đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài Gòn nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đình chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đình chúng tôi được chia một góc của lớp học.

      Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối thực phẩm và gạo nước để tự nấu ăn lấy. Mỗi tuần cũng được phát thêm một ít tiền tiêu vặt. Trường học có hàng rào bao chung quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi trường Tiểu Học này, chưa hề biết gì về dân bản xứ miền Nam cả.

    Ở được vài tuần lễ thì trung tâm tỵ nạn đóng cửa, mỗi gia đình được cấp một số tiền nhỏ để tự tìm nơi ăn chốn ở lấy. Số còn dư thì làm vốn sinh nhai. Những ai là công chức và giáo chức đều được tái tuyển dụng. Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp thuận cho mở một trường mới, dậy ngay tại khuôn viên của trường Tiểu Học hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là “Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ Tây II”. Trường chính thì học hai buổi: Buổi sáng, từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiều. Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ trưa.

    Bố tôi là một trong những Giáo Viên được tuyển dụng dậy ở trường này, nên gia đình chúng tôi đã mướn một căn nhà ở vùng “Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho Sở Thú ở sát bên (Vì Sở Bông sát cạnh sông Thị Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đã lập doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn Văn Nho).

    Tôi và Tự cùng được xếp vào học Lớp Nhì (Bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc gọi là Grade 4). Cô Giáo đầu tiên của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học trò gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi khác nhau: Lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nhì thì bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài, gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối lớp.

    Giờ bắt đầu học và tan học được báo hiệu bằng một hồi trống dài. Lớp Nhì Và Lớp Nhất được giao nhiệm vụ đánh trống báo hiệu.
    Tôi và Tự quen nhau là nhờ nhiệm vụ đánh trống này. Mỗi lần đánh trống, phải có hai học sinh: Một đứa đánh trống, đứa kia làm phụ tá, vừa đứng trông chừng đừng cho ai lại gần, lỡ bị trúng dùi trống, vừa để thay thế nếu đứa đánh trống chính bị đau tay không đánh trống được, hoặc bị ốm không đi học được. Ngày thứ hai của buổi học, lớp Nhì được giao nhiệm vụ đánh trống. Cô Đoan chọn tôi và Tự.

    Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó, được coi là rất quan trọng, học sinh nào . . . có thớ lắm mới được giao nhiệm vụ này, cả trường cùng nhìn vào cái trống và người đánh trống. Tự cầm dùi trống tiến tới, nhìn quanh, thấy ai cũng đang ngừng chơi nhìn vào mình, thì . . . hơi rét, thay vì đánh ngay một hồi trống, thì nó lại rụt rè, đưa dùi trống lại cho tôi mà nói:

    - “Mày . . . đánh trống đi, tao . . . giữ cái trống cho nó khỏi quay!”

    Tôi còn nhát gan hơn nữa, vội vàng dấu hai tay ra đằng sau, từ chối kịch liệt:

    - “Tao sức vóc thế này, đánh trống làm sao mà kêu to được! Mày . . . cứ đánh đi, tao . . . phụ cho”.

    Vì không thể nhì nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi học của cả trường được, nên hai đứa đồng ý cùng hợp lực với nhau mà đánh. Hồi trống của lớp Nhì vang lên không giống ai, vì được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó, chúng tôi quen nhau.

    Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen với đám con nít Nam Kỳ để học những trò chơi lạ mắt của họ. Trò chơi hấp dẫn nhất vào thời đó là chơi “Tạt Lon” mà cả hai đứa không thể nào phát âm theo đúng giọng của đám con nít người Nam được: “Tạc loong”.
    Trò chơi này tối thiểu cần có ba đứa, và càng đông con nít càng vui. Con trai con gái đều chơi chung với nhau được hết:

    Khởi đầu, đứa chủ chốt sẽ vẽ một vòng tròn ở giữa khoảng đất được chọn làm sân chơi. Những đứa khác sẽ chạy ra hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa vòng tròn khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéo. Luật chơi sẽ như sau:

    Đám con nít còn lại sẽ chia ra làm hai phe, đứng ở phía sau lằn mức đã vẽ, có nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau từ đầu này qua đầu kia. Đứa giữ lon sẽ đứng kế bên vòng tròn để giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy đổi chỗ cho nhau. Để khỏi bị đứa giữ lon bắt và giao lại vai trò giữ lon, cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái lon mà tạt cho nó văng ra khỏi vòng tròn. Đứa giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon, đặt trở lại trong vòng tròn thì mới có thể bắt những đứa chạy ngang được. Bắt rất khó, vì cả chục đứa tạt tràm vào lon, không đứa này thì cũng có đứa khác tạt trúng cái lon văng ra xa. Vừa mới lượm được cái lon đặt vào vị trí cũ thì lại có đứa khác tạt cái lon văng ra nữa. Đứa nào nhanh thì vẫn có thể bắt đứa khác chạy ngang được. Đứa nào chân tay vụng về, bị bắt lượm lon đổ mồ hôi hột.

    Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi trưa mới thông thuộc cách thức chơi. Sáng hôm sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực sự là để đi vòng vòng kiếm cho ra mấy miếng ngói bể, gõ gõ mài mài cho nó trở thành một cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới trường. Tan học, hai đứa đi vòng vòng xem đám nào ít người chơi thì nhào vô chơi ké:

    - “Tụi bay . . . cho tao chơi chung với!”

    Cả bọn đang chơi chợi dừng tay lại, nhìn chúng tôi như hai con quái vật, nhưng chưa đứa nào có quyết định gì hết. Chợt có một đứa con gái trong bọn la lớn lên:

    - “Đừng có chơi dzới mấy thằng Bắc Kỳ, bay!”

    Thế là cả bọn nhao nhao lên:

    - “Đừng có chơi dzới Bắc Kỳ”!

    - “Hổng cho tụi bay chơi đâu!”

    Đứa con gái mạnh miệng nhất, chọc quê tụi tôi:

    - “Bắc Kỳ cong, bỏ dzô long, kiu chít chít, Bỏ dzô đích hớt kiu!”

    Một đứa khác, tử tế hơn, nói nhẹ nhàng:

    - “Tụi bay biết cái gì mà đòi chơi?”

    Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần thì Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phụ Thọ, Gò Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đã đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài Gòn nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đình chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đình chúng tôi được chia một góc của lớp học.

    Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục, đứng nhìn tụi nó chơi một lúc rồi bỏ cục tràm vào cặp, đi chỗ khác. Hôm sau, tôi và Tự tìm ra chân lý: Trong trò chơi tạt lon này, đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơi. Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy gì mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn tình xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ chơi.

    Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon sữa bò ở những quán bán cà phê hủ tíu của mấy chú Hoa Kiều. Rình cả buổi trời mới lượm được một cái lon sữa bò mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày mai. Hôm sau, tan buổi học, hai đứa ôm cặp đi vòng vòng tìm dịp may. Dịp may đây rồi: Một đám con nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra tới giữa đường bị xe vận tải cán dẹp lép. Cả bọn xìu như cái bong bóng bể, mặt đứa nào đứa nấy xẹp còn hơn cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon sữa bò đưa cao lên:

    - “Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn đó!”

    Tôi không dám đặt điều kiện phải cho tụi tôi chơi mới cho mượn lon, vì sợ tụi nó từ chối nữa thì quê mặt.
    Tụi nhóc Nam Kỳ đưa một mắt nhìn nhau dọ ý, còn con mắt kia thì nhìn vào cái lon sữa bò mới tinh đang sáng chói dưới ánh mặt trời một cách thèm muốn.
    Cuối cùng, một đứa trong bọn hỏi tụi tôi:

    - “Mà tụi bay . . . biết chơi hông?”

    Tự và tôi hăm hở gật đầu. Một đứa có vẻ đầu sỏ, nhìn những đứa khác như hỏi ý, rồi ngập ngừng nói:

    - “Dzậy thì . . . tụi bay bỏ cái loong xuống . . . chơi chung!”

    Thế là Nam Bắc đã chung một nhịp cầu rồi đấy!
    Tự lại chơi đẹp, chịu . . . “Bị” để cho đứa đang làm nghề giữ lon được chạy ra tạt lon. Kể từ đó, bọn con nít Nam Kỳ mới cho chúng tôi nhập bọn chơi chung và không gọi chúng tôi là “Bắc Kỳ Dzốn” nữa. Tụi nó dạy tụi tôi bí quyết mài cục tràm sao cho đi nhanh và trúng đích. Còn tụi tôi thì lo đi kiếm lon sữa bò. Có lần ham tìm lon quá mà tôi giành lon với một đứa khác. Tên này thấy tôi mặt lạ và đi có một mình, thì lên mặt ăn hiếp:

    - “Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ lên! Không trả, tao . . . uýnh thấy . . . mẹ mầy đó!”

    Tôi nắm chặt cái lon, cung tay thủ thế:

    - “Tao lượm được trước, mày tới sau mà đòi sao được!”

    Tụi nó ỷ đông, tính nhào tới làm thịt tôi.
    Tự đang kiếm lon trong tiệm ăn, nghe léo xéo bên ngoài, vội vàng chạy ra, thấy tụi nó đang vây tôi, hắn liền xô bắn một thằng ra đằng sau, rồi mặt hầm hầm, xuống tấn, nạt lớn:

    - “Cái lon đó tụi tao lượm được trước. Đứa nào muốn giành, tao . . . chơi liền!”

    Đám con nít thấy tụi tôi bây giờ có tới hai đứa, đứa nào cũng gan lì, Tự lại bự con nữa, nên không dám làm tới, tìm cách rút dù, nhưng cũng cố chọc quê:

    - “Cái đầu thằng này niểng niểng, coi ngộ quá ta!”

    Tự đỏ mặt, vì cái cổ nó bị tật, làm cái đầu bị nghiêng qua một bên thật. Nó quát lớn:

    “Kệ tao!”

    Tụi con nít Nam Kỳ vừa rút lui, vừa chọc quê:

    “Niểng . . . Niểng”

    Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôi. Và cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng Niểng”.

    Qua năm lớp Nhất, chúng tôi học với thầy Phạm Văn Cảng. Bố Mẹ tôi cũng đã thuê được một căn nhà khác rộng rãi hơn, ở đường Nguyễn Văn Nhàn, còn gia đình của Tự vẫn ở Sở Bông.

    Chúng tôi không mê tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội bộ qua rạp hát, nhìn thấy cái bảng quảng cáo to tướng, đề hai chữ Zoro là đã mê rồi, vào lớp kể cho Tự nghe.

    Tan học, hai đứa dắt nhau ra rạp hát, ngắm chàng hiệp sĩ Zoro mặc quần áo đen, đội mũ đen, khăn bịt mặt cũng mầu đen, một tay cầm cương ngựa, một tay múa kiếm thật là oai hùng. Nhìn hình đã mê rồi, nói chi tới xem phim! Hai đứa nhìn nhau: Làm sao có tiền mà xem phim? Hai đứa chưa từng bao giờ xem xi nê, và cũng chẳng bao giờ có tiền mà đi xem cả! Không riêng gì hai đứa chúng tôi không, cả đám con nít ở vùng Thị Nghè cũng bu đầy rạp hát, ngước cổ lên mà ngắm chàng Zoro.

    Hiệp Sĩ Zoro trừ gian diệt bạo cứu dân lành

    Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất đầu tiên: Người lớn, con nít đứng chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau trình vé vào cửa. Bán vé thì chỉ có môt người, xoát vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp với lớp người đông nghẹt rạp. Tự xúi tôi:

    - “Mày nhỏ con, cúi thấp xuống, luồn qua người xoát vé mà chui vào. Xem được, về nhà . . . kể cho tao nghe.”

    Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, tìm dịp che cho tôi chui vào rạp. Bất ngờ, tôi gặp gia đình một thằng bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửa. Tôi mừng quá, kề tai nó nói nhỏ:

    - “Cường, cho tụi tao . . . vào chung nhe!”

    Cường mỉm cười thông cảm, nắm tay tôi giới thiệu với bố mẹ nó:

    - “Bố ơi, thằng này là thằng An, con ông giáo, học cùng lớp với con đó”.

    Thế là tụi tôi dính chùm lại với nhau, chen chúc vào cửa. Ông bố của Cường đưa một nắm vé ra, người xoát vé chưa kịp đếm vé và đầu người thì tụi tôi đã chui tuốt vào trong rạp mất tiêu rồi!

    Tôi và Tự ngồi xem đã đời rồi mới đi về. Tới đầu ngõ, tôi dặn Tự:

    - “Mày đi về cùng với tao, gặp bố tao trước. Bố tao sẽ hỏi tao đi đâu mà lâu thế? Mày sẽ phải nói là tao đến nhà mày chơi, nhớ nghe chưa?”

    Tự khoái chí:

    - “Mày cũng phải nói với bố tao là tao đến nhà mày chơi, nhớ chửa?”

    Từ đó, chúng tôi cứ theo cái mánh đó mà đi xem phim cọp.

    Được vài lần, ông xoát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng, mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha khác nhau để đi theo vào xem hát. Có lần, ông đã nắm cứng tôi lại mà hỏi người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành đứng ngoài nhìn hình thôi.

    Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ Thất trường công. Hồi đó, trường công ít lắm, vỏn vẹn có vài trường: Từ ngoài Bắc di chuyển vào, cho con trai thì có trường Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái thì có độc nhất một trường Trưng Vương mà thôi. Trường của phe người Nam đã có từ lâu là Võ Trường Toản, Petrus Ký và Gia Long.

    Tự và đa số đám học sinh Bắc Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân Định, thi vào trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia đình tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt tận Chợ Lớn.
    Mặc dù học khác trường, chúng tôi vẫn gặp nhau đều đều, ngày nghỉ vẫn đôi khi đi xem xi nê, ăn cà rem chung với nhau.

    Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9), cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung Học Đệ Nhất Cấp”. Tự gặp tôi, tâm sự:

    - “Bố tao nghỉ làm rồi, cả nhà chỉ còn Mẹ tao buôn bán, không được bao nhiêu nhưng cả gia đình trông vào đó. Tao phải nghĩ cách học cho mau để đi làm phụ mẹ.”

    Thế là nó vừa học Đệ Tam (Lớp 10) ở Hồ Ngọc Cẩn, rồi học thêm Đệ Nhị (Lớp 11) ở trường tư. Cuối năm, nó cứ đi thi Tú Tài Một, thử thời vận: Ai dè nó thi đậu!

    Tự đến gặp tôi, rủ đi xi nê ở rạp Cao Đồng Hưng (Bà Chiểu). Nhưng khi gặp bố tôi, là thầy học cũ của Tự (thầy Cảng dậy chúng tôi được nửa năm thì mất. Bố tôi dạy thế), nó ngập ngừng một lúc rồi chào tạm biệt bố tôi để đi lính.

    Thời đó, chiến truờng chưa khốc liệt cho lắm, việc đi lính cũng còn xa vời, nên bố tôi hơi ngạc nhiên vì quyết định của Tự, nhưng cũng chúc nó an toàn và thành công trong cuộc đời binh nghiệp. Đi xe buýt đến rạp hát, thay vì vào xem xi nê, chúng tôi ngồi ngoài quán uống nước mía. Tự lại tâm sự:

    - “Tao đã nói với mày rồi, nhà tao còn có một mình mẹ tao buôn bán nuôi cả gia đình, cực quá. Tao ráng đậu cái Tú Tài để xin đi làm. Tao đi làm được hơn một tháng rồi. Tao đã có thể góp chút ít phụ với mẹ tao, nhưng thực sự thấy không hợp với cuộc sống đó. Tao không thích hợp với nghề Thư Ký quèn, nên đã làm đơn xin đi học khóa 14 Thủ Đức rồi, vài ngày nữa sẽ nhập trường. Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc đời trai, vừa đánh Việt Cộng bảo vệ miền Nam, vừa có tiền giúp cha mẹ. Mình đã bỏ miền Bắc mà đi rồi, không bảo vệ miền Nam, lấy đất đâu mà sống!”

    Nói xong, nó móc túi rút ra một bao thuốc lá Bastos xanh, lấy một điếu hút rồi đưa bao ra mời tôi hút. Tôi ngạc nhiên, không biết nó học hút thuốc lá từ lúc nào? Riêng tôi thì chưa (Tự lớn hơn tôi 3 tuổi, nó 18, còn tôi mới có 15 tuổi thôi), nên tôi lắc đầu từ chối.

    “Ngày tôi gặp nó, nét đăm chiêu đêm nhập ngũ,
    Thấy thương nhau nhiều quá!”

    Ra trường, Tự đến thăm tôi vào một chiều nhạt nắng. Nó mặc bộ quân phục mới tinh, mặt mày đen xạm, rắn chắc nhưng vui tươi thoải mái. Hai thằng lại dắt nhau đi lang thang suốt buổi tối. Chúng tôi không uống nước mía nữa, mà uống cà phê đen và hút thuốc Quân Tiếp Vụ. Khi về, Tự bắt tay tôi, nắm chặt một lúc, rồi nói:

    - “Đời lính nay đây mai đó, chẳng biết trước được! Khi nào nghỉ phép, tao sẽ tìm cách về thăm mày, nhưng chắc cũng còn lâu lắm. Thôi, tao về. Cho tao gửi lời thăm thầy.”

    “Hôm chia tay, hai đứa cùng bùi ngùi,
    Ngày mai Nó, Tôi trên ngưỡng cửa cuộc đời,
    Dặn nhau gắng vui, dù cho vành môi se khô mấy cũng mỉm cười”.

    Thật vậy, kể từ đó, tôi chưa gặp lại Tự lần nào. Cuộc chiến cũng lần lần leo thang, đời lính dễ gì có ngày nghỉ, mà nếu có, Tự cũng còn thiếu gì chuyện để làm. Phần tôi, tôi cũng phải lo tiếp tục học hành, hết Tú Tài 1 lại đến Tú Tài II. Hết Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh, lại đến Tướng Dương Văn Minh, rồi Tổng Thống Diệm bị giết ... Cuộc đời học sinh của tôi cũng theo đó mà lung tung cả lên. Tôi quên mất cả Tự! Có nhớ thì cũng không biết nó ở đâu mà tìm?

    Vào khoảng năm 1968 – 1969, Việt Cộng tổng tấn công. Cả nước lâm chiến. Tôi đang học cũng phải xếp bút nghiên đi quân sự học đưởng một tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Học xong, được giao cho khẩu súng Carabin, làm nhiệm vụ “Sinh Viên bảo vệ thành phố”.

    Trong một chuyến đi thăm chiến sĩ tiền tuyến, đám sinh viên chúng tôi đi thăm một tiểu đoàn lính vừa đi hành quân về. Đó là Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân.

    “Biệt Động Quân vì dân quyết chiến.”

    Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng có một biệt danh rất dễ sợ là . . . “Thiếu Tá Tử Thần” và bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đón tiếp phái đoàn chúng tôi ở cổng trại và dắt chúng tôi đi thăm anh em binh sĩ đang gác ở các trạm gác, ở tiền đồn.
    Khi trở về doanh trại, chúng tôi đang nghe thuyết trình thì bất ngờ có một giọng nói thật là quen thuộc vang lên. Tôi ngạc nhiên, quay ngay đầu lại: Trước mặt tôi, một sĩ quan Biệt Động Quân rất trẻ, mang lon Đại Úy, cái đầu hơi nghoẹo qua một bên. Tôi mừng quá, hét lên:

    - “Tự! Phải mày đó không, Tự?”

    Tự cũng mừng rỡ, đưa hai tay ra:

    - “An! Mày là An đó hả?”

    Thế là hai đứa nắm tay nhau nói chuyện rối rít. Tôi nhìn Tự:

    - “Mày . . . đi Biệt Động cơ à! Dám . . . dỡn mặt với Tử Thần đó hả?

    Oai quá nhỉ! Đã . . . Đại Úy rồi! Lên lon mau thật! Vợ con gì chưa?”

    Tự chỉ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, vừa cười vừa nói:

    - “Tử thần đứng ngay trước mặt tao nè . . . Tao giỡn mặt với ổng hàng ngày! Thầy ra sao rồi? Còn đi dậy học không? (Thầy tức là bố của tôi, thầy giáo của Tự) Mày học tới đâu rồi? Sao học hoài vậy? Đi lính đi, vào Biệt Động với tao!”

    Đang ba điều bẩy chuyện thì Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nắm vai Tự kéo ra một góc, nói vài câu gì đó, Tự đanh mặt lại, quay trở lại nói với tôi:

    - “Có chuyện rồi, tao lại phải dẫn quân đi liền. Hẹn gặp mày kỳ tới! Cho tao gởi lời hỏi thăm thầy, nhe!”

    Ngày qua ngày, tôi bận rộn với việc dậy học kiếm tiền, với thi cử, bầu cử, ứng cử . . . ở trường Luật. Còn Tự thì chắc chắn là lại rày đây mai đó với những cuộc hành quân liên miên của người lính Biệt Động. Mỗi đứa mỗi phương trời.

    “Tử thần trước mặt tao nè!”

    Tôi học xong Đại Học năm 1971, còn sót lại một ít thòi gian hoãn dịch, cả đám sinh viên lo chạy tứ tán kiếm đường binh: Đứa thì đi ứng cử vào Hội Đồng Xã, đứa thì xin vào chương trình “Người Cầy Có Ruộng”, Xây Dựng Nông Thôn . . . để mong được hoãn dịch. Đứa khác thì nộp đơn thi vào Hải Quân, Không Quân. Tôi trình diện nhập ngũ và được xếp vào khóa 1/72 Thủ Đức.

    Suốt khóa học, tôi học tàng tàng, với hy vọng là, sẽ được biệt phái về làm ở Nha Quân Pháp hoặc Tòa Án Quân Sự. Nhưng hy vọng của tôi càng ngày càng tiêu tan dần với tình hình chiến trận càng ngày càng sôi động. Kết quả là đến cuối khóa, không có ban nghành nào tuyển thêm người nữa, tất cả các Tân Sĩ Quan đều được dành cho tiền tuyến.

    Những Sinh Viên Sĩ Quan lựa chọn đơn vị của mình theo thứ tự đậu cao thấp. Ai thích về gần nhà thì chọn Địa Phương Quân, Sư Đoàn . . . Ai muốn sống hùng sống mạnh thì chọn các binh chủng nổi tiếng như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách, Biệt Động Quân . . . Phần tôi, từ hồi nhìn thấy các anh hùng Mũ Nâu đánh đuổi bọn Việt cộng ở Hàng Xanh, tôi đã khoái binh chủng Biệt Động Quân rồi, nay được dịp, tôi hăng hái cầm bút viết ngay tên mình vào bảng danh sách các Tân Sĩ Quan Biệt Động Quân, chợt nhớ ra là đã có lần Tự rủ tôi vào Binh Chủng Cọp Đen này.



      "Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc đời trai, vừa đánh Việt Cộng bảo vệ miền Nam, vừa có tiền giúp cha mẹ.
      Mình đã bỏ miền Bắc mà đi rồi, không bảo vệ miền Nam, lấy đất đâu mà sống!”.

      Trần Đình Tự


    Mãn khóa 50 Rừng Núi Sình Lầy, tôi được đưa đi thực tập với Tiểu Đoàn 42 Cọp Ba Đầu Rằn đang hành quân ở Takeo, Campuchia, rồi Tiểu Đoàn 44 Cọp Đen hành quân ở Kiến Phong (1). Sau khi trui luyện kỹ càng, tôi mới được khăn gói lên vùng Pleiku gió núi mưa mùa để bổ xung vào Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Phòng (2). Vừa đúng lúc Trung Đội Thám Sát đang thiếu Sĩ Quan chỉ huy (Sĩ Quan cũ vừa tử trận), tôi đã đuợc Đại Úy Giác, Tiểu Đoàn Trưởng, chỉ định làm Trung Đội Trưởng Thám Sát.

    Từ đó, tôi trở đã trở thành một người lính “Cọp Đen” chính hiệu:

    “Mũ Nâu, mầu áo hoa rừng,
    Anh đi Biệt Động lẫy lừng bốn phương”.

    Đời Biệt Động của tôi, cũng như những anh em trong binh chủng, là những chuỗi ngày hành quân liên miên trong vùng II chiến thuật gió núi mưa mùa, với những trận đánh thật đinh tai nhức óc của đại bác 105, đại bác 130, Sky Raider và A37 . . . cùng với những trận đánh xáp lá cà im lặng tới rợn người, chỉ nghe tiếng lưỡi lê và dao rừng vung lên mà thôi (3). Chỉ ở vùng II này, mới có những Tiểu Đoàn Biệt Động Quân phải trở về Dục Mỹ bổ xung quân số và tái huấn luyện. Bên Việt cộng, có những Trung Đoàn, Sư Đoàn bị tan nát, xóa sổ.

    Tôi sống sót tại Quân Y Viện Ngọc Minh, với tờ giấy phân loại II và giải ngũ vào cuối năm 1974. Trở về cuộc sống dân sự, tôi lang thang khắp Sài Gòn Chợ Lớn xin việc. Các văn phòng luật sư, các ngân hàng đều đủ người hết rồi.

    Tôi nhớ lại đời sống quân ngũ, nhớ cái mũ nâu với mầu áo hoa rừng, muốn trở lại với Biệt Động Quân. Ngồi suy tư bên khói thuốc và ly cà phê đen, tôi nhớ lại các đồng đội, nhớ lại Trần Đình Tự, người bạn thủa xưa đã cùng ngồi chung với nhau trong quán nước này. Không biết bây giờ, nó còn:

    “Đang xông pha đèo cao núi thẳm?”
    Hay . . .
    “Đã về bên kia khung trời biền biệt trên cao?”

    Cuối cùng, tôi đã được Luật Sư Đào Văn Sáu nhận cho tập sự tại văn phòng của ông ở Biên Hòa (Luật Sư Sáu hiện đang định cự tại Tiểu Bang Victoria với tôi. Tôi đã gặp và chào ông). Sau đó, tôi đổi về Sài Gòn, tập sự với Luật Sư Nguyễn Duy Nguyên, ở đường Gia Long. Ngày ngày, tôi xách cặp đi bộ từ văn phòng qua Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn mà biện hộ cho thân chủ.

    Tháng Tư năm 1975, toàn bộ Miền Nam tan hàng mà không hô “Cố Gắng” (4). Thành phố Sài Gòn tràn ngập dép râu nón cối và nón tai bèo:

    “Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
    Chiếc nón tai bèo che phủ kín tương lai!”

    Bọn Việt cộng cai trị dân Nam bằng những trận dịch đau mắt và ghẻ lở phát không, và chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản” với kết quả là biết bao nhiêu người dân phải đi vùng “Kinh Tế Mới” và hàng đoàn xe Zin và Molotova bít bùng chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc.
    Đám sinh viên nằm vùng trốn ra bưng ngày xưa, như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đình Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Nuôi... xuất đầu lộ diện với những chức vụ lạnh lùng: Giám đốc Sở Công An Thành Phố, Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước...

    Đám Sĩ Quan Miền Nam tan hàng thê thảm. Người có phương tiện thì nhanh chân bay qua đảo Guam. Đám không chấp nhận đầu hàng, nhất định đánh Việt Cộng tới hơi thở cuối cùng để rồi chết thê thảm nơi trận tiền không ai chôn cất. Đám khác lẳng lặng buông súng nhập vào cuộc sống bình thường, giả dạng dân cầy, ngư phủ... để tìm đường vượt biên tìm Tự Do.

    Số còn lại chấp nhận ra trình diện bọn Việt Cộng để đi “Học Tập Cải Tạo”, nhưng thực sự là bị đi tù, từ ba ngày, thành ba năm, mười năm, mười bẩy năm. Có người bị xử tử, có người chết vì bệnh hoạn, phơi thây nơi rừng thiêng nước độc, không thân nhân không bạn bè, không manh chiếu đắp.

    Năm 1981, tôi may mắn vượt biên thành công, tìm Tự Do nới xứ Úc. Cũng như mọi người, tôi nhẩy vào factory cầy túi bụi, kiếm tiền gửi về cho gia đình, cho vợ con tìm đường vượt biên tiếp.

    Đến khi đoàn tụ vợ chồng, tôi mới trở lại trường học mà ráng sức học hành. Tôi không theo nghề cũ mà chuyển sang học Kế Toán.

    Khi cuộc sống đã tạm ổn, tôi mới mon men ra sinh hoạt với anh em cựu quân nhân trong tiểu bang Victoria. Tôi nhận thấy mọi quân binh chủng đều có hội đoàn riêng, chỉ có Biệt Động Quân là vắng bóng. Không phải vì anh em Mũ Nâu bị cọp liếm hết (5), mà vì anh em đã quá mệt mỏi rồi, không muốn hội hè gì nữa cả.

    Tôi ra sức quy tụ anh em cùng chí hướng và cuối cùng đã thành lập được “Hội Biệt Động Quân QLVNCH, tiểu bang Victoria”.

    Lễ ra mắt đã được cử hành long trọng vào ngày 19 02 2001 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu Quân Nhân, Footscray. Mục đích là tụ hội anh em Mũ Nâu cũ, hàn huyên chuyện xưa và giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày tại Úc. Từ hội Biệt Động Quân này, chúng tôi đã bắt liên lạc được với những Biệt Động Quân khác trên thế giới và gia nhập “Tổng Hội Biệt Động Quân” lúc đó do anh Trần Tiễn San làm Tổng Hội Trưởng.

    Tôi nhớ lại người bạn thủa xa xưa, nhắn tin tìm Trần Đình Tự trên tập san Mũ Nâu của Tổng Hội.

    Từ bên Mỹ, anh Trần Tiễn San báo cho tôi biết:

    - “Đã có tin của Trần Đình Tự, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân. Nhưng Tự đã không còn nữa.
    Thiếu Tá Trần Đình Tự đã tử trận.
    Thiếu Tá Trần Đình Tự đã hy sinh vì Tổ Quốc, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến”.

    “Hai năm sau mới có thư về,
    Người quen cho biết tin,
    Bạn tôi thân mến đã liệt oanh ngã xuống, khắp đơn vị tiếc thương”.


    ***

    “Tất cả nghe lệnh tôi.
    (Hình Đại Tá Sơn Thương)”
    Người sĩ quan hành quân phải gọi khẽ:

    - “Trung Tá!”

    Ông gượng dậy để lấy lại bản lãnh. Sau cú “Sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu Đoàn Trưởng:
    Tiểu Đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan,
    Tiểu Đoàn 33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường,
    Tiểu Đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự.
    Cả ba đáp nhận.
    Trung Tá Toàn chậm rãi, ông cố giữ cho tiếng nói của mình,với âm hưởng đều đặn như mọi ngày:

    - “Các anh ra lệnh cho con cái buông súng. Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi! Sẽ có đại diện của “Phe họ” đến để nhận bàn giao.

    Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn.
    Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ.
    Chúng ta đã bấy lâu cộng tác, sống chết với nhau.
    Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đã chấm dứt, tôi không còn trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn.
    Lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh bình tĩnh và chúc tất cả may mắn!”

    Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, anh quay qua Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó:

    - “Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng.

    Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh:
    Anh nói cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung.
    Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho!
    Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa (6).

    - “Ai ở lại chiến đấu thì đi theo tôi!”

    Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội Thám Báo, nói vói họ đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, còn ai muốn ở lại chiến dầu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên.

    Kết cục, cuộc chiến đấu cuối cùng cũng phải chấm dứt.
    Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt trói tất cả những người còn sống (9 người) giải về sân trường Tiểu Học gần đó.
    Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo).

    - “AI ĐẦU HÀNG, NHƯNG TAO THÌ KHÔNG!”

    Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên:
    - “Đến lúc này mà mày còn bướng hả? Lũ uống máu! Bọn tay sai! Những thằng ác ôn! Mày có làm theo lệnh của ông không thì bảo?
    Nhân danh Cách Mạng, ông ra lệnh cho mày cởi áo quần Ngụy và nằm xuống! Chúng mày đã đầu hàng, nghe rõ chưa?”

    Tự trả lời:
    - “Ai đầu hàng, nhưng tao thì không!
    Mày nghe đây: Chúng mày mới là lũ ác ôn.
    Chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má.
    Bọn mày chính là những tên tội phạm của Dân Tộc Việt Nam.
    Hiểu không? Một lũ đê tiện!”


    Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự.
    Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.

    Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn:
    “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”
    Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường đễ được bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi”.
    Sự đền nợ nước của Trần Đình Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 38 BĐQ. Anh cũng đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979. Tôi gặp Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt.

    Xưởng xuất thân khóa 22A Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
    Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc - tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng bò vào nhà dân, được giấu giếm, băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Sài Gòn.
    Đức đã ráng sống, ráng tìm cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của Thiếu Tá Tự cho mọi người nghe.
    Tôi đọc đi đọc lại bài báo, nước mắt nhiểu đầy trang giấy.
    Anh em sau bao năm không đuợc tin tức, lần đầu tiên đuợc tin nhau thì lại là tin cuối!
    Ôi! Buồn làm sao!

    “Hai đứa đôi nơi, ngày đầu tiên biết tin nhau là tin cuối.
    Chát cay đầu môi chiều khu chiến mưa sụt sùi”.

    Anh em sống với nhau từ nhỏ, tôi biết rõ Tự oai hùng. Tôi biết Tự dám chiến đấu tới cùng. Tôi đau thương, xót xa cho cái chết quá thảm khốc của Trần Đình Tự – Một Thiếu Tá Biệt Động Quân – cầm quân đánh trận, bị bắt ngay tại mặt trận mà lại không được bảo vệ bởi Luật Quốc Tế về Tù Binh, mà lại bị xỉ vả, chửi bới thậm tệ và cuối cùng bị hành hình một cách dã man như vậy hay sao?

    Trần Đình Tự, một Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, lại bị giết chết một cách bi thương, bị giết chết một cách dã man như vậy sao? Cả Thế Giới ngoảnh mặt làm ngơ!

    Những phóng viên truyền hình của Mỹ, của Úc, đâu hết cả rồi? Ông phóng viên nào chụp hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan đâu rồi? Ông Eddie Adams và đài truyền hình AP đâu? Sao không ra quay phim, phỏng vấn, làm rùm beng lên đi! Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc đâu? Sao không viết tin này lên cho cả thế giới đọc?

    Hồi Tết Mậu Thân, một tên phiến loạn không mặc sắc phục (dù là sắc phục của bọn GPMN) cầm súng bắn lại các chiến sĩ VNCH. Khi bị bắt, đương nhiên y bị coi là phiến loạn phá rối trị an. Bắt buộc là phải xử bắn tại chỗ theo đúng Hiến Pháp của VNCH. Tướng Loan xử bắn nó là đúng. Tại sao bọn nhà báo ngoại quốc lại làm rùm beng lên? Đễ đến nỗi tới chết, ông vẫn bị hàm oan!

    Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.

    Những tên nhà báo này chỉ giỏi bắt nạt VNCH mà thôi, còn thì sợ bọn VC bằng chết. Cả lũ im thin thít, để một người lính VNCH bị hành hình mà không dám có một tấm hình, một đoạn phim, một lời nói bênh vực? Công bằng ở đâu? Lẽ phải ở đâu?

    Sau khi Tướng Minh đầu hàng, đám ký giả ngoại quốc còn lại ở Miền Nam nhiều lắm chứ! Chắc chắn họ biết chuyện này. Có đều cả đám im lặng mà phụ họa với bọn VC mà thôi. Có lẽ tại tôi thương cho bạn quá mà nói càn hay chăng? Thôi thì, cuối cùng, Trần Đình Tự cũng đã chết rồi.

    Một cái chết oan nghiệt, nhưng đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc. Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tiền. Cái chết không có da ngựa bọc thây, nhưng gương sáng của Tự sẽ còn lưu lại cho đến ngàn sau:

    “Muôn lớp trai đi, nghìn sau theo dấu chân ghi vào thiên lý,
    Biết bao người xong nợ xương máu không trở về.”

    Trần Đình Tự, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, bạn thân của tôi từ thủa nhỏ, và biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đã chiến đấu cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa tới hơi thở cuối cùng.

    “Biết bao người xong nợ xương máu không trở về!”

    Ai đó vừa quăng cái lon sữa bò vào thùng rác.
    Tôi nhớ tới Tự, tới trò chơi tạt lon ngày xưa, muốn chạy ra lượm cái lon để dành chơi.
    Nhưng Tự đã chết rồi, đâu còn ai để chơi trò chơi này nữa!
    Mới đây, rạp xi nê Rivoli cũng đã chiếu lại phim Zoro. Tôi cũng tới rạp đứng xem hình quảng cáo, cứ tưởng tượng đâu đây, Tự đang đẩy vai tôi chui vào rạp hát coi cọp.
    Nhưng Tự đã chết rồi, đâu có đẩy vai tôi được nữa!

    Tự ơi,
    Mày chết ở đâu? Tao cũng không biết. Tới khi biết tin mày chết, tao cũng không thắp được cho mày một nén nhang.
    Tao cũng ráng tìm thân nhân, bạn bè của mày, để, nếu được, nhờ họ thắp một nén nhang cho mày, nhưng mãi đến bây giờ cũng chẳng tìm được ai.
    Tao có hai thằng bạn Biệt Động nữa, là thẳng Châu và thằng Đạm. Người quen cũng cho biết tin về hai đứa đó. Thằng Đạm còn sống, đang mở nhà hàng ở ngay Orange County, bên Mỹ, nhưng thằng Châu thì cũng đã chết rồi. Có điều tao may mắn đã liên lạc với vợ con của nó, để nhờ thắp cho nó một nén nhang.

    Mới đây, có anh Sơn, cũng là người ở cùng xóm với mày hồi xưa, cũng đang ở bên Mỹ, có cho tao biết một ít tin tức về mày:
    “Năm 2008, Sơn có trở về lại xóm củ vào dịp TẾT, thì gia đình anh Tự đã không còn ai ở đó hết. Hàng xóm có kể cho sơn nghe, là anh Tự đã bị Việt cộng giết tại chỗ vì anh không chịu đầu hàng, gần cận chiến 30-04 đúng như anh đã viết trong Việt Luận và take2tango. Ba má anh Tự đã mất hết chỉ còn người em trai tên Lộc và cô em gái út tên Tâm đã dọn về Thủ Đức.
    Đó là phần về anh Tự, còn chị Mỹ vợ và con anh Tự thì sơn không biêt đã đi về đâu?”

    “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Úc” ở Dandenong, Victoria, Australia.

    Đài tưởng niệm chiến tranh duy nhất trên thế giới có Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay suốt ngày đêm củng với 6 lá cờ của những quốc gia đã trực tiếp gởi quân tham chiến giúp Việt Nam Cộng Hòa, và chiếc trực thăng đã từng tham chiến ở Việt Nam, bao quanh tượng đồng hai chiến sĩ Úc, Việt trong thế tác chiến.

    Anh em cựu quân nhân Úc tham chiến ở Viêt Nam cũng với anh em lính chiến nhà mình, thuộc Tiểu bang Victoria, nơi tao ở, cũng đã gom công góp sức xây được một Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Úc để tưởng nhớ những “Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân” trong đó có mày.
    Vào ngày khánh thành bức tượng, 30 tháng Tư năm 2005, tao và các bạn đã thắp cho mày và những chiến sĩ vô danh khác một nén nhang. Ấm lòng rồi nhé!

    Các bạn lính chiến của tôi ơi,
    Các bạn bè ở hậu phương của tôi ơi,
    Hãy đến tượng đài Chiến Sĩ Úc Việt ở Dandenong, Victoria Australia, hoặc đến bất cứ Tượng Đài Chiến Sĩ ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vào ngày 30 tháng Tư, thắp cho Trần Đình Tự và những chiến sĩ vô danh khác của QLVNCH một nén nhang tưởng niệm, bạn nhé!

    “NGƯỜI ĐI VÀO TỐI VẪN LƯU DANH CHO ĐỜI MÃI,
    NÓ ANH HÙNG NGÀY MAI”

    Người Việt của tôi, là thế đấy!

    NGUYỄN KHĂP NƠI.



    Ghi chú:

    (1) Thực tập tại chiến trường:
    Từ Khi Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai nhận chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, ông đã cho các Tân Sĩ Quan BĐQ đi thực tập bằng cách đi theo các Sĩ Quan thâm niên của những Tiểu Đoàn BĐQ đang hành quân. Mục đích là để họ học cách chỉ huy và làm quen với chiến trường. Tôi được đi thực tập hai tuần lễ, với Tiểu Đoàn 42 ở Takeo (Campuchia) và Tiểu Đoàn 44 ở Kiến Phong. Sau đó mới đi chọn đơn vị ở Pleiku.

    (2) Biệt Động Quân Biên Phòng:
    Những tiểu đoàn BĐQ biên phòng, trước đây có tên là “Biệt Kích Mỹ” do lực lượng đặc biệt Mỹ tuyển và huấn luyện tại chỗ, đóng ở các trại biên phòng. Khi Mỹ rút quân, các trại biên phòng này được chuyển qua QLVNCH và đổi tên thành Biệt Động Quân Biên Phòng. Các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan được đưa đi huấn luyện đặc biệt ở Thủ Đức hoặc Đồng Đế để có thêm kiến thức quân sự. Sau này, Liên Đoàn 6 BĐQ mới được thành lập để bao gồm những tiểu đoàn biên phòng.

    (3) Phân biệt bạn, thù trong đêm tối:
    - Lính VNCH mang dây ba chạc giữ dây lưng TAB, chỉ có hai sợi dây nhỏ ở đằng trước ngực và hai sợi phía sau lưng. Mọi thứ cần thiết đều được máng vào dây TAB đeo quanh bụng: Bao đạn, lựu đạn, biđông nước, áo poncho . . .
    - Lính VC đeo bao đạn thật lớn ở ngay trước ngực, giống như áo giáp. Trung đội Thám Sát của tôi đi đột kích ban đêm, không có trăng sao và hỏa châu, lính ta không mang ba lô, chỉ đeo dây ba chạc mà thôi. Khi đụng địch, lính hai bên đánh xáp lá cà, chỉ có thể phân biệt giữa ta và địch bằng cách lần mó phía trước: Hễ rờ thấy người trước mặt bỏ trống ngực, đó là phe ta. Còn nếu có có bao đạn trước ngực thì biết ngay đó là VC, đâm lút cán liền.

    (4) Tan Hàng, Cố Gắng:
    Lính VNCH, sau khi tập họp nhận lệnh, cấp chỉ huy hô “Tan Hàng”, tất cả đồng thanh hô “Cố Gắng” rồi mới tan hàng ra về.

    (5) Cọp Liếm:
    Theo truyền thuyết, Cọp rình mồi, nếu không thể bắt được con mồi, sẽ đi chung quanh liếm bóng của con mồi, làm cho con mồi bị say, bị thôi miên, tự động đi kiếm cọp để bị bắt ăn thịt. BĐQ từ hồi thành lập, mặc dù có Bộ Chỉ Huy riêng, nhưng các Liên Đoàn và Tiểu Đoàn lại do các Quân Khu điều động, để được tăng phái cho mọi nơi. Do đó, lính BĐQ đánh trận mệt xỉu. Huy chương nhiều, lên chức mau, và . . . lên bàn thờ càng mau hơn nữa. Tỉ số thương vong của BĐQ cao hơn các binh chủng khác rất nhiều, vì thế, những chàng trai nào đăng lính Biệt Động, được người đời khóc trước, bằng cách gọi họ là những người . . . Bị . . . Cọp Liếm!

    (6) Thà chết, không đầu hàng:
    Hồi đánh trận ở Quảng Trị, Tự mang cấp bậc Đại Úy, Đại Đội Trưởng. Khi đơn vị rút qua sông Mỹ Chánh, Tự và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó tình nguyện ở lại chặn hậu. Khi VC ập tới, hai anh còn ba lô súng đạn đầy mình, mặc dù đã nhẩy xuống sông, nhưng bơi chưa đủ xa, bị VC bắt làm tù binh. Tới năm 1973 trao trả tù binh hai bên, Tự được thả trở về. Anh đã quá kinh nghiệm sống với VC nên thà chết chứ không đầu hàng giặc.

    Tôi bàng hoàng đọc đi đọc lại tin tử trận của Tự trong bài viết “Sự trả thù đê hèn và dã man” của tác giả Thiên Lôi, trong tập san Mũ Nâu số 2 và xin trích ra đây một đoạn cho tất cả cùng đọc:
    - “Lúc đó là 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn:
    “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
    “Trung Tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang.
    Hai mươi năm phục vụ quân ngũ, 19 năm rong ruổi vào ra vùng đạn bom, năm lần bị thương, lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng chừng như ai đang đóng ngập cái đinh muời phân vào đầu, có lẽ cắt ruột cũng chỉ đau đến thế. Ông lịm đi".



    http://www.nguyenkhapnoi.com/2012/05/21/no-va-toi-2/


 

http://www.nguyenkhapnoi.com/2012/05/21/no-va-toi-2/

 

http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/tua-e-ngay-hom-sau-tuc-mung-5-thang-tu.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)1tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-8575599076535394758Mon, 18 Aug 2014 22:58:00 +00002014-09-04T23:52:15.687-07:00 Hùng Ca, Nhạc Đấu Tranh và Quân Ca


I. Hùng Ca

- Thúc Quân -- Văn Giảng
- Xuất Quân -- Phạm Duy
- Ta Sẽ Về Đông Hà --
- Thề Không Phản Bội Quê Hương
- Vẫn Còn Đây Các Con Của Mẹ
- Chiến Sĩ Vô Danh -- Phạm Duy
- Anh Về Thủ Đô --
- Gót Chinh Nhân -- Anh Bằng
- Trên Đầu Súng Ta Đi -- Anh Việt Thu
- Thề Chiến Thắng Quân Thù
- Bài Ca Chiến Thắng -- Minh Duy

II. Nhạc Đấu Tranh

-
Đáp Lời Sông Núi -- Trúc Hồ
- Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ -- Nguyễn Đức Quang
- Việt Nam Minh Châu Trời Đông -- Hùng Lân
- Việt Nam Việt Nam -- Phạm Duy
- Đêm Mê Linh -- Văn Giảng
- Cô Gái Việt -- Hùng Lân

III.  Quân Ca


- Không Quân Việt Nam -- Văn Cao
- Hải Quân Việt Nam -- Văn Cao
- Lục Quân Việt Nam -- Văn Giảng
- Thủy Quân Lục Chiến Hành Khúc
- Thiếu Sinh Quân Hành Khúc


0000000000000000



Thúc Quân

(Văn Giảng - Hương Việt 1949)
• Trình bày: Nguyệt Ánh & Việt Dũng

Dồn trong đêm vắng ngàn tiếng đồng loa vang lừng.
Ðầu người lô nhô xác theo bờ núi sông hò reo.
Thấy tan trong khói mây, tiến quân tiến quân theo.
Nơi chốn sa trường quân Nam dồn bước oai vang trời.

Ðiệp Khúc:

Việt Nam vẫn đời đời, diệt quân Nguyên, quân lướt tới, thây kề thây.
Máu tuôn rơi, bước nẻo đường, núi chập chùng, đi về đâu.
Việt Nam vẫn đời đời, diệt quân Nguyên, quân lướt tới, thây kề thây.
Máu tuôn rơi, bước nẻo đường, núi chập chùng, đi về đâu.

Nhìn trong hơi gió thoảng bóng quân Nam lướt đi.
Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên.
Nơi đây đất nước đã biết bao đấng anh linh,
Xương trắng xây thành cố tâm đền núi sông, ân nhà.

0000000000000000

Xuất Quân

(Phạm Duy 1945) 1993
• Trình bày: Nguyệt Ánh & Việt Dũng

Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.
Đi là đi quyết chiến
Đi là đi quyết thắng
Đi là mang linh hồn non sông
Đi là đi quyết chiến
Đi là đi quyết thắng
Bước lên đây hồn Việt Nam.

Kèn vang theo tiếng chân đang rồn rập xa xa,
Tiếng gào thiết tha.
Từng lời chính khí đưa
Ấm ầm tiếng thét hòa
Rầm rầm tiếng súng xa trường sa.
Hồn say khi máu xương rơi tràn ngập biên khu
Oán thù khắp nơi
Từng bụi lốc cuốn rơi
Từng ngọn thép sáng ngời
Một đường kiếm thép oai hùng giơ.

Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.

Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Đi là mang mối thù thiên thu
Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Đứng lên đây người Việt Nam.

Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.
Đi là đi quyết chiến
Đi là đi quyết thắng
Đi là mang linh hồn non sông
Đi là đi quyết chiến
Đi là đi quyết thắng
Bước lên đây hồn Việt Nam.

Kèn vang theo tiếng chân đang rồn rập xa xa,
Tiếng gào thiết tha.
Từng lời chính khí đưa
Ấm ầm tiếng thét hòa
Rầm rầm tiếng súng xa trường sa.
Hồn say khi máu xương rơi tràn ngập biên khu
Oán thù khắp nơi
Từng bụi lốc cuốn rơi
Từng ngọn thép sáng ngời
Một đường kiếm thép oai hùng giơ.

Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến
Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành.
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành.

Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Đi là mang mối thù thiên thu
Đi là đi chiến đấu
Đi là đi chiến thắng
Bước lên đây người Việt Nam.

0000000000000000

Ta Sẽ Về Đông Hà

Ta Sẽ Về Đông Hà -

Việt Dzũng & Nguyệt Ánh



Ta sẽ về Đông Hà,
Ta sẽ về Gio Linh,
Giành lại đất quê hương xây bằng nước mắt,
Giành lại đất quê hương tháng năm mồ hôi.

Ta sẽ về Cam Lộ,
Ta sẽ về Triệu Phong
Bằng con tim lửa cháy,
Bằng bàn tay xiết lại,
Bằng hờn căm ngàn đời Gio Linh ơi!

Đây giờ đã đến,
Giờ bão tố,
Giờ sấm sét đánh trên đầu giặc.
Giờ hờn căm quân ta vùng lên.
Giờ phản công,
Giờ oai linh đã đến, giờ oai linh đã đến

Từ không trung anh hùng mây xanh,
Từ đại dương anh hùng biển khơi,
Đây bộ binh sức mạnh tuyệt vời.
Ta sẽ thắng, ta sẽ thắng!

Ta sẽ về Sài Gòn,
Ta sẽ về Thừa Thiên,
Giành lại đất quê hương chan hòa ánh nắng,
Giành lại đất quê hương thiết tha ngàn đời.

Ta sẽ về Hà Nội,
Ta chiếm lại Thăng Long,
Bằng con tim hẹn ước,
Bằng dòng máu kiêu hùng,
Hận thù nung lòng người Thăng Long ơi!

Đây giờ đã đến,
Giờ bão tố giờ sấm sét đánh trên đầu giặc.
Giờ hờn căm quân ta vùng lên.
Giờ phản công,
Giờ oai linh đã đến, giờ oai linh đã đến.

Từ không trung anh hùng mây xanh,
Từ đại dương anh hùng biển khơi,
Đây bộ binh sức mạnh tuyệt vời.
Ta sẽ thắng, ta sẽ thắng!
Ta sẽ thắng, ta sẽ thắng!

000000000000000

Thề Không Phản Bội Quê Hương

Nhạc sĩ: (chưa biết)
1)
Một cánh tay đưa lên
Hàng ngàn cánh tay đưa lên
Hàng vạn cánh tay đưa lên
Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính
Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng
Hòa bình phải trong vinh quang
Đền công lao bao máu xương hùng anh
Nào đứng lên bên nhau
Và cùng sát vai bên nhau
Thề nguyền với vung tay cao
Quyết đấu tranh đến khi nào đạt thành mong ước
Vận nước trong tay ta
Là quyền của quân dân ta
Tình đoàn kết quê hương ta
Chận âm mưu chia cắt thêm sơn hà

Điệp Khúc:
Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến!
Quyết không cần hòa bình đen tối
Chẳng liên hiệp ngồi chung quân bán nước vong nô
Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến!
Đánh cho cùng dù mình phải chết
Để mai này về sau con cháu ta sống còn.
2)
Vận nước đang vươn lên
Hàng ngàn chiến công chưa quên
Hàng vạn xác quân vong nô,
Đã chứng minh cho sức mạnh hào hùng quân dân
Thề chớ nao lui chân.
Ngồi cùng với quân xâm lăng
Ta thà chết chớ không hề lui
Quyết không hề phản bội quê hương (2)

000000000000000

Vẫn Còn Đây Các Con Của Mẹ


Vẫn còn đây, vẫn còn đây các con của mẹ
Vẫn còn đây, vẫn còn đây các con của cha
Con sẽ về bằng trọn thân xác
Con sẽ về bằng hồn phách linh thiêng
Từ dòng Cửu Long lên đỉnh Trường Sơn
Từ lòng đại dương đến chân trời quê hương
Trăm con từ khắp tám hướng quay về
Như ngày nào từ bọc mẹ ra đi

Vẫn còn đây, vẫn còn đây giống dân Tiên Rồng
Vẫn còn đây, vẫn còn đây cháu con Lạc Long
Năm mươi người cùng mẹ lên núi
Xây bưng biền lập khu chiến đấu tranh
Còn năm mươi người vượt đại dương
Nguyện cùng cha quyết xây lại quê hương
Trăm con cùng chung góp máu đào
Từ Động Đình về tận miền Cà Mau.

Điệp Khúc:

Hẹn gặp lại anh trong một ngày mới
Hẹn gặp lại em trong một ngày vui
Là ngày giải phóng nước non rạng ngời
Là ngày hạnh phúc thanh bình ngàn nơi.

Hẹn gặp Mẹ Cha trong ngày hội lớn
Hẹn gặp lại nhau trong ngày Việt Nam
Là ngày giải phóng nước non rạng ngời
Là ngày hạnh phúc thanh bình ngàn nơi.

Vẫn còn đây, vẫn còn đây trái tim Diên Hồng
Vẫn còn đây, vẫn còn đây máu xương Việt Nam
Con không hờn dù đời cay đắng
Tâm không sờn dù lòng trắng khăn sô
Còn hồn Việt Nam là còn niềm tin
Còn người Việt Nam sẽ có ngày quang vinh
Trong đêm trường thắp sáng mặt trời
Mai bình minh về rồi Việt Nam ơi!
00000000 Chiến Sĩ Vô Danh

Phạm Duy (Huế-1946)

Trình bày: Duy Quang & Elvis Phương & Tuấn Ngọc

Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Núi cây rừng
Lắng tiếng nghe hình dáng
Của người anh hùng
Lạnh lùng theo trống dồn
Trên khu đồi hoang
In trong chiều buông

Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về trong tiếng gió hú
Là hồn người Nam nhớ thù

Khi ra đi đã quyết chí nuôi căm hờn
Muôn lời thiêng còn vang
Hồn quật cường ngày mang đây phút chiến thắng
Sầu hận đời lấp tan

Gươm anh linh
Đã bao lần vây máu
Còn xác xây thành
Thời gian luống vô tình
Rừng trầm phai sắc
Thấp thoáng tàn canh
Hỡi người chiến sĩ vô danh.

00000000
Anh Về Thủ Đô

Trình bày: Jacqueline Thụy Trâm

Anh về thủ đô nước Nam tự do,
Chút quà mừng anh chiến binh đường xa
Là muôn tấm lòng thương yêu các anh
Đã hy sinh vì giống nòi.

Anh về thủ đô biết bao là vui,
Đã để lại đây mến thương đầy vơi
Người dân nước Việt thương yêu đón anh
Đón anh trai hùng bước qua.

Ơ! Này anh…
Áo xanh chiến trường bạc màu,
Mến anh mến từ thuở nào
Người trai tranh đấu.

Ơ! Này anh…
Đã mang đến tình mặn mà,
Mến anh những lời thật thà
Lòng dân mong chờ!

Anh về thủ đô chúng tôi chờ mong
Mong chờ ngày mai nước non bình yên
Toàn dân nước Việt ghi ơn các anh
Các anh trai hùng nước Nam.

Toàn dân nước Việt ghi ơn các anh
Các anh trai hùng nước Nam.

00000000000000
Gót Chinh Nhân


Anh Bằng
Trình bày: Hoàng Nam

Đêm nay đi giữa cây rừng hoang vu
Ta ca vang khúc ca tiêu diệt thù
Đây cheo leo đây ngọn đèo gió hú
Rừng cây thêm hoang vu.

Sương mênh mang xuống bao trùng non xa
Quê hương ơi mến yêu thêm đậm đà
Trăng lên cao tô đẹp màu hoa lá…
Tình dâng thiết tha.

Vui suốt đêm thâu,
Đoàn ta ra đi chí khí sâu
Dù đôi vai phong sương giãi dầu
Nguyện đem sương máu lấp sầu đau
Lối về… chiến khu…
Có tiếng súng đã vương thưa
Có tiếng hú gió đưa
Lòng chinh nhân xao xuyến
Bừng lên phút giấy mong chờ

Bừng lên phút giấy mong chờ
Nghe âm vang suối reo buồn đâu đây
Quên chông gai, quên đời vì sông núi,
Hồn ta chơi vơi ơ ờ…

Bao yêu thương núi sông ngập trong tim
Bao hy sinh máu xương nơi trận tiền
Mong quê hương thanh bình về đây đó…
Đẹp như ước mơ.

0000000000

Trên Đầu Súng Ta Đi

Nhạc và Lời: Anh Việt Thu
Trình bày: Gia Huy & Lê Tâm & Philip Huy

1.
Trên đầu súng ta đi... tổ quốc đã vươn mình
Trên lưỡi lê căm hờn... hờn căm như triều sóng
Ôi xôn xao... chiêng trống hối thúc
Đã giục giã khắp... chốn rộn ràng
Ôi lửa thiêng dậy bập bùng
Tay đốt… lửa tay vung kiếm

2.
Trên đầu súng xâm lăng... xiềng xích với bạo tàn
Trên lưỡi lê nô lệ... cùm gông phải gục ngã
Tay nâng niu… cây súng súng thép
Với đạn đồng mới... đã lên nòng
Và những loạt đạn đồng vàng
Vun lúa... trổ tràn đồng sâu

Điệp khúc:
Cho quê hương ta rạng ngời
Cho yêu thương cao vời vợi
Cho quê hương ta những đóa tuổi xuân
Để mai đây nghe nắng dậy hòa bình
Ðể ông cha còn nắm đất phủ mình
Ôi quê hương ta nước Việt….

3.
…Nam từ đó dâng lên... nhà máy với công trường
Những xí nghiệp ngôi trường... nhà thương và hầm mỏ,
Ôi bao la... thăm thẳm bát ngát,
Cánh đồng vàng... với lũy tre xanh
Và tiếng ê a đầu làng,
Là kinh nguyện cầu cho người gục xuống!

00000000000000000
Thề Chiến Thắng Quân Thù
Hợp ca

Thề chiến thắng quân thù
Thề chiến thắng quân thù
Ta hò reo khắp phương trời Nam.
Đoàn quân băng qua đèo, và tiến bước qua rừng
Thề một lòng đền ơn tổ quốc.

Thề chiến thắng quân thù
Thề chiến thắng quân thù
Ta diệt tan hết quân cộng nô.
Mài vũ khí sáng ngời rèn ý chí xây đời
Cùng tạo dựng Việt Nam thái hòa.

Kèn thúc! Quân vang lên,
Lừng uy… gót chinh nhân.
Ta ra đi thề một lòng
Thi gan trai đời hào hùng,
Ngàn đời sau ghi dấu Tiên Rồng.

Thề chiến thắng quân thù
Thề chiến thắng quân thù
Ta nguyện đem chiến công ngày mai.
Mặc thây phơi sa trường
Lòng quyết chí không sờn
Thề tạo lập Việt Nam phú cường.

00000000000
Bài Ca Chiến Thắng


Minh Duy
Trình bày: Hợp Ca

Kìa đoàn quân chiến thắng trở về dưới nắng hồng,
Cùng nhau hòa câu hát thành công!
Lớp áo xanh phai màu
Thấy phất phơ ngang đầu,
Màu cờ tung bay trước gió

Kìa đoàn quân chiến thắng trở về với xóm làng,
Thành công còn ghi nơi đầu súng
Những tấm gương kiêu hùng
Phất phới vui trong lòng
Bầu trời thủ đô đón mừng.

Thủ đô ơi thủ đô
Đoàn quân ta đã về đây
Tiếng reo vang vang dậy một trời.
Lớp lớp tinh kỳ bay phất phới.
Thủ đô ơi thủ đô
Đoàn quân ta đã về đây!
Sau bao nhiêu ngày luôn ước mơ.
Ngày chiến thắng quay về chốn xưa

Ai về Đồng Tháp
Hỏi thăm cây cỏ lá hoa
Quân cộng tàn ác,
Chiều nao thây đổ máu sa.
Giữa gió mưa âm u
Tiếng thù ngàn đời
Vờn trên xác không mồ nằm đó.
Tiếng súng xa như mưa
Khiến thù gục đầu dường như vẫn còn nghe.

Thủ đô ơi thủ đô
Đoàn quân ta đã về đây
Chiến công xin dâng đền người người
Xiết tay trong niềm tin yêu mới.
Thủ đô ơi thủ đô!
Đoàn con yêu đã về đây
Cho bao quân cộng nô nát thây.
Ngày chiến thắng bóng cờ tung bay.

00000000000000
Không Quân Việt Nam


Văn Cao 1945
Trình bày: Mai Hương & Quỳnh Giao & Vũ Anh

Giờ đoàn người từng vượt qua biên giới quyết chiến đấu
Ðã chiếm chiến công ngang trời
Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới quyết chiến đấu
Ði không lo gì xác rơi
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi
Hối tiếc tấm thân làm chi
Giờ thề một lòng vượt trên lưng gió quyết chiến thắng
Nhớ lấy phút giây từ ly

Ta là đàn chim bay trên cao xanh
Khi nhìn qua khói những kinh thành xa
Ðôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ðây đó hồn nước ơi!
Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió
U..u… u… u… u… u …
Ôi phi công danh tiếng muôn đời
Nhìn xa phi trường Việt Nam
Không quân ra đi cánh bay rợp trời
U..u… u… u… u… u …
Xa giang sơn ngắm nhìn về khắp nơi

Đàn chim dù bay ngàn phương cũng về
Ðể rồi ngày ngày sống hòa nhịp đời
Cùng ngàn kiếp chim
Đoàn ta càng đi càng xa
Quyết khi về đem lại đây chiến công
Dù thân mồ quên lấp chìm.

000000000000000
Hải Quân Hành Khúc / Hải Quân Việt Nam


Nhạc sĩ: Văn Cao

Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi hôm nay,
Bờ nước Nam, gió khơi nồng máu say
Ra đi không vương thê nhi
Miền Bắc núi tuyết rét buốt
Quen vui trong cơn phân ly
Sống trên ngàn trùng sóng.
Thân phơi trong bao gian nguy
Nước xanh hồn Thái bình Dương
Ra khơi sóng vươn dạt dào
Mênh mông sóng vang thân tầu
Nghe âm vang ù ù
Át tiếng máy ầm ầm
Quân ca theo trầm trầm
Tầu nhấp nhô
Mờ mờ xa mây núi
Dần dần xa mây núi
Đi cho quên bến bờ
Chờ ra đi trùng dương bát ngát
Ngày về tổ quốc ghi công.

0000000000000000
Lục Quân Việt Nam

Nhạc: Văn Giảng
Lời: Hương Việt
Trình bày: Nguyệt Ánh & Việt Dzũng

Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang,
Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan trai.
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi,
Đây đoàn quân ra đi nhịp nhàng mang theo
Thiên hùng ca thắm tươi trời Nam bốn phương.
Ta anh hùng muôn quân phá tan cường binh
Chí tang bồng đem theo khắp nơi tung hoành

Đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng
Nhìn trời mây đoàn quân cất bước đi mau
Nơi biên cương muôn quân theo loa thét vang
Quyết chiến thắng thề một lòng chung sức xây Việt Nam quang vinh
Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù

Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời Lục Quân Việt Nam
Xa nhìn thấp thoáng trong mây
Muôn bóng quân Nam dập dồn xây thành vinh quang tiến lên
Muôn đời Lục Quân Việt Nam.

00000000000000000
Đêm Mê Linh

Nhạc: Văn Giảng
Lời: Võ Phương Tùng

Canh dài...
Ta ngồi trong rừng cây vang âm hồn thiên thu
Trời vắng hồn lắng tiếng sơn hà trong gió hú:

"Ai thấy chăng xưa hùng cường?
Ai thấy chăng nay xiềng cùm
Đằng đằng nặng hận thù?
Ai đắp non sông trường tồn?
Ai kết lên dân tài hùng
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn?"

Ta cùng...
Chung lòng mong ngày vang danh thơm dòng oai linh.
Thề quyết rèn chí quét quân thù đang cướp nước
Ta cháu con dân Việt hùng
Nơi Mê Linh ta trùng phùng
Đồng lòng nguyền vẫy vùng
Ta chiến binh đang thề nguyền
Quanh ánh thiêng nung lòng bền
Gian nguy càng hăng chí
Xung phong chờ đến ngày.

Ai vì nước?
Ai thề ước?
Ta xung phong nguyền dâng thân hiên ngang
Nguyện đấu tranh xua tan quân Đông Hán
Ai trung thành?
Ai liều mình?
Thề hy sinh, thề tung hoành hiên ngang
Thề kiên trung chiến đấu, thề chiến thắng!

Canh dài...
Ta ngồi mơ ngày đi xông pha giành non sông
Ngời chói bừng sáng ánh tươi hồng hăng chí nóng
Quanh ánh thiêng reo bùng bùng
Ta nắm tay ca trầm hùng
Hẹn ngày rạng Lạc Hồng
Mơ xuất quân đi rập ràng
Mơ quét tan quân bạo tàn
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn.
0000000000000000


Cô Gái Việt

Sáng tác: Hùng Lân
Trình bày: Đoàn Thanh Niên Sinh Viên Bát Nhã

Lời sông núi…
Bừng vang bốn phương trời,
Giục chúng ta,
Đường phụng sự quyết tiến.

Triệu Trưng xưa
Đẹp gương sáng muôn đời
Dòng máu thiêng
Còn đượm nồng vạn trái tim

Dẫu không cùng tài trai vui tranh đấu
Gánh sơn hà còn trọng hơn xương máu
Dù thành thị hay thôn trang ai ơi!
Lòng hẹn lòng bạn gái ta xây đời.

Chị em ơi!
Quê nước chờ mong.
Ta sớm lập công,
Tô thắm giang sơn Việt Nam
Ngoài những phút quán xuyến tề gia
Hãy hướng lòng ta
Đến những ai đang cơ hàn

Kìa cô nhi không chút tình thân,
Đây lớp tàn nhân,
Năm tháng đau thương thầm trôi.
Cùng cương quyết!
Góp sức đồng tâm,
Muôn dân vui một đời vàng sáng tươi.

 

http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/hung-ca-nhac-au-tranh-va-quan-ca-i.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7155195415605059056Fri, 15 Aug 2014 07:27:00 +00002014-10-28T19:16:22.658-07:00Quân Sử VNCH

 

 




Người Lính Nghĩa Quân Trong Tim Tôi




Nguyễn Thanh Thủy

Năm tôi được 10 tuổi, gia dình tôi bỏ ruộng vườn vào ở trong khu Ấp Chiến Lược, được bao bọc bởi một vòng thành kiên cố có kẽm gai, có hào sâu chung quanh. Ở hai đầu ấp có hai cái đồn Nghĩa Quân nhỏ. Ba má tôi thỉnh thoảng trở về nhà làm ruộng, gặt lúa ban ngày, rồi ban đêm vào xóm ở. Ấp Chiến Lược là một công trình chiến lược dùng để cô lập Việt Cộng ra khỏi dân chúng. Việt Cộng hay trà trộn trong dân và bắn giết dân chúng và quân lính Việt Nam Cộng Hòa.

Lúc nầy Việt cộng bắt đầu nổi dậy mạnh ở miền Tây, thâu thuế, giết hại dân thường, ám sát Xã Trưởng, Ấp Trưởng của VNCH gây kinh hoàng cho dân chúng, gây mất ổn định cho xã hội miền Nam đang sống trong thanh bình.

Việt cộng bịt mắt, chặt đầu hay chôn sống bất cứ người nào họ nghi ngờ là đang cộng tác với chính quyền VNCH. Khu ấp chiến lược tôi ở được bảo vệ bởi một trung đội Nghĩa Quân, gồm có ba tiểu đội. Các chú lính hay ở trong đồn, còn vợ con họ sống trong các căn nhà nhỏ trong xóm. Nhà tôi ở gần nhà ông Tiểu Đội Trưởng, tôi kêu là chú Tấn.

Canh giữ xóm làng.

Lúc mới vào ấp tôi chỉ là một đứa con gái nhỏ quê mùa ngơ ngác. Nhưng lần lần tôi cặp bè bạn chơi với mấy đứa bạn, gái có, trai có, lớn tuổi, lanh lợi hơn, tôi học được nhiều thứ mới mẻ. Tôi biết cả tên cây súng nào là cây Carbine, cây nào là Garant, Thompsom, cây nào là cây súng phóng lựu. Tôi biết tên hầu hết các chú lính nghĩa quân trong tiểu đội của chú Tấn, nào là chú Tường, chú Sanh, chú Đúng, chú Quít, chú Mực... Các chú rất hiền và chú nào cũng nghèo. Bộ quân phục được các bà vợ vá nhiều chỗ. Tôi hay lân la đến nhà các chú chơi với con của họ. Với đồng lương Nghĩa Quân khiêm tốn, các chú ăn uống rất đạm bạc, thường là cá linh, cá lòng tong kho, với rau lang luộc hoặc chút ít canh bí, canh bầu. Hầu như chú nào cũng có vợ và vài ba đứa con. Khi rảnh rỗi tôi thấy các chú hay giúp việc nhà cho vợ buôn bán chút đỉnh kiếm thêm tiền. Có chú giữ con cho vợ ngồi bán rau ngoài chợ. Có chú xay bột cho vợ làm bánh tầm, bánh bò bán cho dân trong xóm.

Một người lính bộ binh trẻ.

Chú Tấn còn trẻ, nhưng ít nói. Thím Tấn là một người đàn bà hiền lành, có đôi mắt đẹp, to và dễ khóc. Chú hay xay đậu nành làm thành bánh đậu hủ cho thím ủ chao, ủ tương, rồi thím đem bán vào những buổi chợ rằm, chợ ba mươi cho người ta ăn chay. Chú thím Tấn có hai đứa con. Thằng Dũng được 6 tuổi, con Lan 3 tuổi. Khi bận bán tương, chao, thím Tấn hay gởi hai đứa nó nhờ tôi giữ dùm. Tôi hay chơi đùa và coi chúng nó như em. Tụi nó cũng rất thương tôi.

Rất ít khi dân trong xóm gặp các chú Nghĩa Quân ra đi hành quân, các chú lặng lẽ ra đi khi trời sụp tối để giữ bí mật. Họ âm thầm canh gác đâu đó dọc theo bờ thành ấp chiến lược, sáng sớm mới trở về. Họ đi về im lặng như những cái bóng mờ. Có những sáng tôi hay gặp các chú trở về, thường thì chỉ có cái áo khô, quần các chú ướt đẫm, sình bùn lên trên đùi. Các chú thường đi dép hay đi chân không, chẳng mấy ai có được đôi giầy.

Có khi đang đêm, tôi nghe súng nổ giòn rã. Sáng hôm sau các chú lính quen thuộc mang về hai cây súng chiến lợi phẩm của Việt cộng cùng với vài trái lựu đạn. Các chú kể cho mọi người trong xóm nghe là đêm rồi một toán Việt cộng băng qua ruộng phá hàng rào định đột nhập vào ấp chiến lược thu thuế và bắt dân đi làm dân công, qua sự hướng dẫn của một tên giao liên là người trong ấp. Các chú bắn chết hai tên, thây còn bỏ ngoài bìa ấp. Chúng tôi rủ nhau đi coi xác Việt cộng. Có lần các chú bắn chết cả một xuồng Việt cộng đang băng qua sông. Nhờ các bác ghe chài vớt lên, được nhiều súng. Sáng hôm sau ông Quận Trưởng bất ngờ đến đồn Nghĩa Quân xóm tôi, khen ngợi và thưởng tiền mua một con heo quay thật lớn. Các chú được dịp ăn nhậu vui vẻ. Mấy đứa con các chú Nghĩa Quân cũng hí hửng được dịp ăn thịt heo quay.

Một ngày nọ tôi đi học về thấy cả xóm nhốn nháo lên, mấy thím vợ lính hớt hãi lo lắng. Thím Tấn nước mắt quanh tròng. Tôi hỏi thì thím cho tôi hay Trung đội Nghĩa Quân vừa bị tấn công và hai chú Nghĩa Quân hiền lành của xóm tôi vừa hy sinh, đền nợ nước. Chú Mực mà tôi quen thì bị đạp mìn Việt cộng gãy giò. Thật là một cái tang lớn cho cả xóm tôi. Linh cửu của hai chú được quàng tại chùa, vợ con lối xóm khóc lóc tỉ tê. Đến chiều thì người ta chôn hai chú ngoài bờ rào ấp. Một hàng 6 chú Nghĩa Quân đứng chào trên bờ huyệt. Quan tài hạ xuống, các chú bắn 6 loạt đạn điếc tai. Mặt các chú rất đau khổ, gầm lại khác hẳn các khuôn mặt hiền từ hàng ngày mà tôi thấy.

Vợ con hai chú đòi nhảy xuống huyệt chết theo chồng. Nhiều người phải xúm lại kéo các thím lên, khó khăn lắm mới dẫn được họ về nhà. Bọn chúng tôi và mấy đứa con trai ngày thường hay chạy nhảy, phá phách, la hét, mà giờ cũng đứng im ru. Tôi không biết Việt cộng là ai, nhưng tôi lờ mờ hiểu rằng họ là người không tốt, vì họ bắn phá mà gia đình tôi phải bỏ thôn xóm vào đây. Giờ họ còn theo định đột nhập vào cái ấp chiến lược nầy làm chi nữa?

Lính VNCH hành quân.

Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Việt cộng bắt đầu tấn công miền Nam ở cấp số lớn hơn. Họ đặt mìn giật xe chạy trên quốc lộ, họ giật xập cầu, bắt dân chúng đi đắp mô cản đường xe chạy. Có khi họ giật mìn chết cả một chiếc xe đò. Nhiều người chết có cả đàn bà và trẻ em, thịt xương văng tung tóe. Có lúc họ pháo kích hay đặt mìn giật xập trường học của học sinh miền Nam. Tiểu đội của chú Tấn phải đi kích liên miên. Thím Tấn lo âu thấy rõ. Trung đội Nghĩa Quân lập được nhiều chiến công. Nhưng các chú Nghĩa Quân mà tôi quen biết cũng vơi dần. Họ đã âm thầm ra đi như những người chiến sĩ vô danh và trở về im lìm, trong những chiếc chiếu, những cái poncho, trong cái cảnh da ngựa bọc thây.

Rồi cái ngày đau thương của thím Tấn và hai đứa con dại đã đến Chú Tấn và một chú Nghĩa Quân nữa hy sinh trong một cuộc đụng độ dữ dội với Việt cộng năm 1965. Xác chú được khiêng để trên bộ ván trong căn nhà nhỏ của chú. Khi tôi đi học về, tôi thấy người ta đang tắm rửa thay đồ rồi để một nải chuối lên bụng chú, ngọn đèn dầu leo lét được thắp trên đầu nằm có để một chén cơm và một cái trứng vịt. Đầu chú được băng bông trắng. Máu còn rỉ ra bên màng tang. Vợ con chú vật vã khóc than, đau đớn không thể nào kể xiết. Tôi đến mắm tay hai đứa nhỏ. Thằng Dũng thỉnh thoảng hỏi tôi: “Bộ Ba em chết rồi hả chị?” Tôi chỉ ừ, không biết trả lời làm sao!

Lính VNCH dừng quân.

Đến khi chôn chú Tấn, hàng loạt đạn đưa tiễn vang rền. Thím Tấn chết lên chết xuống, bộ đồ tang trắng bê bết bùn sình. Người ta phủ lên cái mã đất của chú Tấn một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa thật dài. Bốn phía có cắm bốn lóng trúc có gạo và muối. Tôi phải dẫn con Lan và thằng Dũng về nhà. Nước mắt tôi tuôn rơi. Cuộc sống chúng tôi đang êm đềm hiền hòa, thì tại sao người ta phải tấn công thôn ấp, giết hết người nầy người nọ. Để làm gì?

Miền Nam độc lập tự chủ, có ai chiếm đóng miền Nam đâu, mà phải giải phóng chúng tôi. Cuộc đời dân miền Nam không hạnh phúc, sung sướng gấp chục lần dân miền Bắc hay sao? Tại sao các người phải giết chú Tấn của chúng tôi để cho cuộc đời mẹ con thằng Dũng từ đó ảm đạm, sa sút hẳn đi. Thím Tấn khóc hoài không dứt... Năm sau, gia đình tôi dời đi chỗ khác. Tôi ít được gặp lại Thím Tấn, thằng Dũng và con Lan.

Năm năm sau, tôi mới được về thăm ấp cũ, tôi mừng rỡ gặp lại thím Tấn và hai đứa con. Bây giờ ngày nào thím cũng phải ra chợ bán tương chao nuôi con. Thằng Dũng vẫn còn nhớ tôi nhưng con Lan thì không nhận ra tôi nữa. Sau nầy tôi có dịp tiếp xúc với nhiều binh chủng oai hùng khác của quân lực VNCH, nhưng lòng tôi vẫn còn nhớ về các chú Nghĩa Quân hiền lành mà tôi đã biết năm nào. Hơn phân nửa các chú đã nằm xuống để bảo vệ làng xóm, quê hương tôi. Số còn lại có người gãy chân, có người cụt tay, sống đời tàn phế. Việt Cộng đã chà đạp lên Hiệp Định Hòa Bình Paris mà họ vừa ký kết năm 1973, cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, đưa cả nước xuống 10 tầng địa ngục.

Một cảnh Huynh đệ chi binh, dìu bạn bị thương.

Thân tôi giờ xa xứ xa quê, đã hiểu được ý nghĩa sự hy sinh cao cả của các anh, các chú quân nhân quân lực miền Nam, thỉnh thoảng tôi nhớ lại các chú lính Nghĩa Quân tôi quen biết mà thấy lòng thương lắm. Cùng với bao nhiêu binh chủng khác của quân đội, các chú âm thầm lặng lẽ hy sinh, cho dân chúng trong ấp tôi được sống trong yên bình. Các chú đem xương máu ra bảo vệ nền tự do, dân chủ mới được thành hình trên miền Nam yêu dấu.

Các chú đã nằm xuống - bỏ lại con thơ, vợ dại - để ngăn cản bọn quỷ đỏ hung tàn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam, áp đặt cả nước trong một chế độ độc tài, hung bạo, không lối thoát. Các chú đã đem sinh mạng, xương máu của mình, để ngăn cản bọn bán nước buôn dân đày đọa cả dân tộc, và đưa đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại. Các chú đã anh dũng hy sinh, ngăn cản bọn CSVN chiếm đoạt đất nước làm tài sản riêng tư cho đảng, rồi tự ý dâng hiến đất đai, hải đảo của tiền nhân cho quan thầy Trung Cộng.

 photo KGrHqRnsE63V3f09BO1R7k5Vg60_3.jpg
Canh giữ xóm làng.

Hỡi cô bác, hỡi anh chị ơi! Nếu vị nào may mắn, có cuộc sống bình yên xin đừng quên các chú lính Nghĩa Quân đang sống đời tàn phế. Xin đừng quên các chú Nghĩa Quân đã lặng lẽ hy sinh để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Xin đừng quên vợ con họ, bị bỏ lại sau lưng với cuộc đời đau khổ.

Nguyễn Thanh Thủy

(Bài nầy được viết dựa vào những sự kiện có thật. Vì sự an toàn của một số người còn kẹt lại, tác giả tạm thời không đề cập đến những địa danh và tên người cần thiết trong bài nầy.

http://www.vietlist.us/VietHistory/nguoilinhnghiaquan.shtml



 



Xin tặng tất cả những người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân VNCH

 

 

 

http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/nguoi-linh-nghia-quan-trong-tim-toi.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7101263988578045996Wed, 13 Aug 2014 03:40:00 +00002014-08-12T20:40:29.677-07:00

• ĐẠI HỘI 35 NĂM NGÀY CÁM ƠN ỦY BAN CAP ANAMUR CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN

 ĐẠI HỘI 35 NĂM NGÀY CÁM ƠN ỦY BAN CAP ANAMUR CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN
Ngày hội trùng dương rộn tiếng cười
Tim ta cảm tạ nở hoa tươi
Capanamur đầy nhân ái
Từ cảng Hamburg đi cứu người.

Vâng! từ cảng Hamburg này vào ngày 09.08.1979 con thuyền nhân ái Cap Anamur do ông bà Dr. Neudeck khởi xướng rời bến để lên đường tới hôm nay là ngày 09.08.2014 vừa đúng 35 năm.  



 

Hôm nay Cộng đồng người Việt tị nạn toàn nước Đức nói chung cũng như nhiều người đã đi định cư ở những quốc gia trên thế giới này, đã trở về đây mừng ngày kỷ niệm đúng 35 năm để nói lên lời tri ân từ trái tim, cám ơn Dân tộc Đức nói chung và đặc biệt mừng vị đại ân nhân 75 tuổi nói riêng là ông Dr. Neudeck. Ông là hình ảnh của người Samaria nhân hậu xưa. Không chỉ riêng với 11.300 người Việt Nam đã phải rời bỏ quê cha đất tổ ra đi tìm tự do, vì không thể sống nổi dưới chế độ cộng sản cai trị hà khắc vào bậc nhất thế giới này. Những mạng người đang trôi nổi, lênh đênh trên biển cả, trên những con thuyền mong manh, thô sơ, mà phần chết rất nguy hiểm đang chờ chực phía trước họ. Ông cũng còn là người luôn mở rộng trái tim yêu thương đồng loại tới tất cả những nơi con người đang bị bạc đãi khắp nơi trên thế giới nữa. Vâng! ông chính là người Samaria nhân hậu.


 


Hàng ngàn người đến từ khắp muôn phương đã hiện diện nơi đây để tri ân, để đem tình nhân ái đến với nhau và để cùng nhau đóng góp một chút gì có thể để những chương trình cứu giúp người khốn khổ của ông và ủy ban được tiếp tục.

- Trong buổi lễ kỷ niệm hôm nay để tri ân ông bà Dr. Neudeck tôi thấy có sự hiện diện của những quan khách quan trọng:
- Đức tổng giám mục Hamburg
- Ông Philip Roesler nguyên phó thủ tướng Đức và chủ tịch đảng FPD. 
- Ông Franz Müntefering nguyên chủ tịch đảng SPD.
- Thị trưởng thành phố Hamburg v. v...
Bên phía cộng đồng tị nạn cộng sản tôi thấy có:
- Đại diện Asia có nhạc sĩ MC Nam Lộc
- Đại diện SBTN Hoa Thịnh Đốn
- Ban Đại Diện và Ủy ban vận động xây dựng Viện Bảo Tàng Thuyền nhân VN. tại Canada.
- Ông GB. phùng Khải Tuấn chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo và BCH.
- Bs.Mỹ Lâm chủ tịch Liên Hội NVTNcs. tại CHLB Đức và BCH.
- Cùng rất nhiều hội đoàn mà tôi không thể nhớ cũng như biết hết được.


Những chức sắc phát biểu có Đức TGM. Hamburg.

Những chính trị gia bên chính quyền thì có thị trưởng thành phố Hamburg.
Cựu chủ tịch đảng SPD. Franz Müntefering
Cựu phó thủ tướng kiêm chủ tịch đảng FDP. Phillip Roesler v. v...
Đa số đều nói về tình nhân đạo với nhau cứu người là quan trọng nhất, Vì Thiên Chúa sinh vạn vật nhưng con người vẫn là qúy nhất. Chúng ta đều là con cái của Chúa không thể sống với nhau trong một xã hội mà cai trị nhau bằng sự ác nghiệt được, mà luôn phải mở rộng tấm lòng bác ái để giúp đỡ nhau, hãy đưa bàn tay ra để nắm lấy tay những con người đang gặp hoạn nạn vì đây không những chỉ vì tình thương không mà còn là một trách nhiệm mà Thiên Chúa đã nói cho chúng ta như vậy.

Đa số từ Đức Giám Mục tới các chính trị gia đều rất khen ngợi sự hội nhập tốt đẹp và sự thông minh của những con cái người Việt thuyền nhân trong những trường học với những hạng cao. Rất nhiều con cái của thuyền nhận nay đã ra trường trở thành bác sĩ kỹ sư tiễn sĩ giáo sư, giáo viên v.v... rất thành công trong việc học vấn và công ăn việc là cần cù và chăm chỉ. 

Hôm nay, trong bài phát biểu và chia sẻ ông Dr Neudeck có nói một câu mở đầu bài phát biều ràng: "Tôi là người Việt Nam" Ich bin ein Vietnammese" cả công trường cùng vỗ tay. 

Ông cũng chia sẽ tóm tắt lại đoạn đường chông gai 35 năm về trước lúc đó ông 40 tuổi đời sau bao nhiêu trăn trở trong lòng với những hình ảnh xảy ra với người Việt Nam trên biển đông, cuối cùng ông quyết định liều để thuê con tàu Cap Anamur ra khơi cứu người Việt nam tị nan trên biết đông, mặc dù chưa biết khi cứu được họ rồi sẽ ra sao? Khi đó chính phủ Đức thì chưa có chương trình nhận những người Việt Nam chúng ta. Nhưng mà cứu người là chính nên cứ lên đường cứu người cái đã rồi mọi sự tiếp theo sẽ tính sau. vì tình yêu thương đồng loại mạnh hơn tất cả những cái khác. Ông cũng nhắc đến một người mà luôn bênh đỡ những người tị nạn chúng ta và cũng có mặt hôm nay đó là kí giả truyền hình Franz Alt.

Đây là những vị ân nhân của chúng ta vì lúc bây giờ mà không có những bài báo của ông là người rất có uy tín và ông đã đưa lên truyền hình kêu gọi người dân Đức, và từ đây nhân dân Đức với biết đến và giúp đỡ tài chánh để con tàu có tiền và thực phm thuốc men để đi cứu chúng ta nhiều hơn
Ông Franz Alt cũng có bài phát biểu với ngày đại hội hôm nay.

Chương trình diễn ra thật tốt đẹp vui vẻ với bài phát biểu cuối cùng của một chàng trai Việt nam 26 tuổi sinh ra và lớn lên ở Đức, cũng là chính trị gia của đảng FDP ở Hamburg.



Giọng nói mạch lạc rõ ràng. Chàng cũng nói cùng tuổi trẻ: chúng ta cần giữ cả hai nền văn hóa Việt-Đức. Tôi mong rằng có nhiều người Việt Nam tuổi trẻ theo về ngành chính trị để sau này giúp cho đất nuớc Việt Nam.



Bài hát Cap Anamur đã vang lên trên cảng Hamburg ngày hôm nay thật cảm động nóim lên tình người bác ái yêu thương, nhật là cái tên Cap Anamur không bao giờ phai mờ đi trong trái tim tôi và những người tị nạn cộng sản Việt Nam. Buổi lễ ở tượng đài tại cảng Hamburg chấm dứt vào lúc 16 giờ thất tốt đẹp.
 
Trong phòng họp báo

Ban tổ chức mời tất cả cùng về hội trường Đại học quân sự Hamburg chung vui đêm văn nghệ mừng 35 năm ngày đại hội Cap Anamur. 

Vì buổi lễ ngoài cảng Hamburg không tiện cũng như đủ thời gian để phát biểu nên ban tổ chức trong buổi văn nghệ có mời một số quan khách lên phát biểu như MC. nhạc sĩ Nam lộc v.v.


đa số đều có nhận định gần giống nhau về ngày lễ thất ý nghĩa và cảm động. Nam Lộc cũng hát tặng đại hội nhạc phẩm để đời của ông viết lúc mới sang Hoa Kỳ mà rất nhiều người đã xúc động khi nghe tiếng hát ông cất lên bài " Sài Gòn vĩnh Biệt". Ông viết bài nhạc này với đầy cảm xúc năm 1975 khi cộng sản mới chiếm miền nam Việt Nam. Cảm tưởng mất quê   hương.


Rất nhiều tiết mục đặc sắc trong chương trình văn nghệ đêm nay. Ca đoàn Hamburg đã đóng góp rất nhiều những hơp ca tht hay và ý nghĩa. Ban văn Võ Điểm Sáng đóng góp những màn Võ thuật Vovinam và những mà vũ tuyệt vời. Và bao nhiêu những danh ca đến từ khắp vùng đất nước Đức.


Gần 12 giờ đêm mà chương trình văn nghệ vẫn còn qúa hấp dẫn, một đêm văn nghệ thật phong phú và hay. Khán giả thì rất đông nên những gian hàng ăn đã bán hết sạch. Tôi ra lái xe về đến nhà là gần 3 giờ sáng hôm nay ngồi viết vội lại những gì mình nhớ được mà cặp mắt cứ muốn sụp xuống nên chắc chắn có nhiều thiếu sót mong ban tổ chức và qúy vị độc giả thông cảm.
Dưới đây là những số tài khoản vẫn đang cần sự đóng góp của tất cả những ai có lòng nhân ái yêu thương để ủy ban có điều kiện đi tiếp con đường bác ái yêu thương Cứu giúp người cùng khốn.

Thanh Sơn 10.08.2014.
Tường thuật và ghi hình 
https://plus.google.com/112607046134381245790/posts/95uyqZyngf5?cfem=1


1. http://www.cap-anamur.org/service/jede-spende-hilft
(Trang này có thêm tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha)
hoặc qua nhà Bank vào trương mục mang tên
Cap Anamur / Deutsche Not-Ärzte e.V.
Kontonummer: 2 222 222
Bankleitzahl: 370 50 198
Sparkasse Köln-Bonn

2. http://www.grünhelme.org/?page_id=831
hoặc qua nhà Bank vào trương mục mang tên
Grünhelme e.V. 
Kontonummer: 2000008
Bankleitzahl: 700 700 74
Deutsche Bank München
Older PostHome
Newer Post Older Post Home