Tôi được lệnh
đến làm việc trong toán cố vấn cho tiểu
đoàn 37 Biệt Động Quân, hậu cứ đóng ở
ngoại ô thành phố Đà Nẵng vào tháng Mười
năm 1967. Tôi được chỉ định
đến tiểu đoàn này để thay thế Trung
Sĩ Brock, tử trận vài tuần trước. Đến tháng Giêng, 1968, đại úy Walter Gunn
cũng được đưa đến tiểu
đoàn để làm cố vấn trưởng. Nhìn ông ta, tôi có thể nói ngay, ông ta sẽ là một
cấp chỉ huy tài giỏi (Đại Úy Walter Gunn rất
cao lớn). Những cố vấn khác trong toán đi với
tiểu đoàn 37 BĐQ gồm có: Trung úy Stan Brodka, và hiệu
thính viên (truyền tin) Burlson, một người vui tính,
thích âm nhạc, đến từ
Vào khoảng cuối tháng
Giêng, 1968, có tin đồn, giới thẩm quyền cao cấp
muốn có lá quốc kỳ Việt
Căn cứ hành quân Khe Sanh nằm
về hướng tây tỉnh Quảng Trị (Quân Đoàn
I). Hướng tây của căn cứ là nước Lào, hướng
bắc là vùng phi quân sự. Khu vực Khe Sanh nằm
trên đường xâm nhập của quân đội Bắc
Việt vào miền nam. Xung quanh căn cứ có nhiều
đồi núi, cây cối rậm rạp, nhiều bụi
tre gai và cỏ “voi” (elephant grass). Giòng sông Rao Quan và một phần
đường số 9 (không đi xe
được) nằm về phiá đông, đông nam căn
cứ. Phi đạo ngắn trong căn cứ dài khoảng
3500 bộ (ft), trải những tấm “ri, PSP”. Lực Lượng
Đặc Biệt có một toán “A” nằm
nơi trại biên phòng Lang Vei, cách Khe Sanh vài dặm về hướng
tây nam. Trại biên phòng này tuyển mộ sắc
dân người Bru sinh sống rải rác trong những ngôi
làng lân cận. Tình hình trại biên phòng
này như đang nằm trên “lò lửa”.
Tiểu đoàn 37 BĐQ, cùng
với đầy đủ súng ống, đạn dược,
quân trang quân dụng, được phi cơ C-130 Hoa Kỳ
trong phi trường Đà Nẵng đưa đến
căn cứ Khe Sanh. Lo sợ hỏa lực phòng không của
địch từ trên những rặng núi bao quanh, các phi
công C-130 Hoa Kỳ không từ từ giảm cao độ,
mà hạ thấp thật nhanh rồi đáp xuống phi
đạo. Phi cơ mở cửa sau và chúng
tôi chạy thật nhanh ra ngoài, trong khi đó các phi công cho
phi cơ vòng lại nơi cuối phi đạo rồi cất
cánh
ngay tức khắc. Các biệt
động quân khi vừa ra khỏi phi cơ, được
địch quân chào đón bằng đợt pháo kích bằng
hỏa tiễn 122 ly, nên phải lập tức tìm chỗ
trú ẩn. Nhờ sự đổ quân nhanh nhẹn,
các phi cơ C-130 bay về Đà Nẵng an
toàn. Sau đó tiểu đoàn 37 BĐQ di chuyển
về cuối phi đạo. Tiểu đoàn BĐQ
tăng cường cho căn cứ Khe Sanh được
giao cho trách nhiệm đóng quân bên ngoài tuyến phòng thủ
phiá đông của căn cứ. Vị trí phòng thủ của
tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân nguy hiểm nhất
vì nằm bên ngoài tuyến phòng thủ chính của căn cứ
Khe Sanh.
Trong khi các binh sĩ biệt
động quân bận rộn tổ chức tuyến phòng
thủ, tôi đảo mắt quan sát xung quanh. Những gì
trông thấy là tôi sững sờ, kinh ngạc! Căn cứ
Khe Sanh trông giống như bị đốn chặt bằng
chiếc rìu hai lưỡi, hay là vừa mới trải qua
một cơn giông bão. Khu chứa
đạn phế thải bị trúng đạn pháo binh của
địch, những vỏ đạn đại bác, mảnh
thùng đạn gỗ, đất cát văng vương vãi
khắp nơi trong căn cứ. Dọc theo phi đạo, đồ quân nhu, quân cụ,
cơ phận máy bay, cánh quạt, v.v... nằm
rải rác. Nhiều pháo đài trúng đạn,
có cái bị san bằng với mặt đất. Tôi nhận thức rằng... tất cả đều
là sự thực. Điều rõ ràng là quân đội Bắc
Việt không muốn chúng tôi “sống” ở đây và ngược
lại, phe ta cũng không muốn sự có mặt của họ!
Khi đơn vị Biệt
Động Quân Việt Nam vào đến vị trí thay thế
cho một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ. Đơn vị này được lệnh lui vào
sâu bên trong, làm thành tuyến phòng thủ thứ hai, đằng
sau phòng tuyến BĐQ để bảo vệ căn cứ.
Khi mới đến, các binh sĩ TQLC Hoa Kỳ vẫn nghi
ngờ tinh thần chiến đấu của BĐQ và của
QL/VNCH nói chung. Họ tìm
đến các cố vấn Hoa Kỳ hỏi “Có thể tin
tưởng BĐQ/VN không?” và tôi đã trấn an họ
“BĐQ/VN dư sức hoàn thành nhiệm vụ trao phó cho họ.
Phòng tuyến này... bảo đảm”
Ngày 7 tháng Hai, khoảng
nửa đêm, trại LLĐB Lang Vei bị quân đội
Bắc Việt tràn ngập. Địch quân xử dụng
chiến xa hạng nhẹ, lội nước PT-76, súng phun
lửa tấn công. Đến sáng hôm sau, tình hình tuyệt vọng,
những quân nhân LLĐB sống sót được di tản
về Khe Sanh và sau đó đưa đi nơi khác. Họ
là những anh hùng thực sự.
Đến lúc
này, trên bản đồ trận liệt, trước mặt
và xung quanh chúng tôi là quân thù. Về phiá tây
là quân đội Bắc Việt trên phần đất Lào,
phiá bắc là vùng phi quân sự. Dường
như, trận tấn công lớn đầu tiên của
địch nhắm vào tiểu đoàn 37 BĐQ khi đơn
vị này vừa mới chân ướt, chân ráo đến
Khe Sanh. Đó là cơ hội tốt nhất để
chào đón Biệt Động Quân với ý định
“đá đít” họ ra khỏi căn cứ. Tuy
nhiên, đối với quân đội Bắc Việt, chuyện
đó xẩy ra không được êm đẹp như dự
tính. Biệt động quân đập tan trận tấn
công của địch, khả năng tác chiến của họ
“đẹp” như tôi chưa từng được chứng
được kiến bao giờ. Ngày hôm sau, những TQLC
Hoa Kỳ nói với tôi... họ rất tin tưởng vào
BĐQ/VN và họ cảm thấy rất... an
tâm.
Không có được sự
yểm trợ tiếp vận, phương tiện như
quân đội Hoa Kỳ, đánh giặc theo kiểu “con nhà
nghèo”, BĐQ/VN
phải tự đào hầm hố, lập công sự phòng
thủ lấy bằng... sức người. Tôi cũng vui
vẻ và cũng là lần đầu tiên... đào hầm bằng
tay. Căn hầm làm BCH, cũng là “nhà” của
tôi trong thời gian “thăm viếng” căn cứ Khe sanh. Chúng tôi được tiếp
nhận hai TQLC, một thiếu úy và một binh sĩ.
Họ đến làm việc với chúng tôi như toán “tiền
sát viên, DLO” cho pháo đội 105 ly trong căn cứ. Mấy khẩu 105 ly tác xạ ngày đêm bên ngoài
tuyến phòng thủ BĐQ. Phòng tuyến này có hai hoặc
ba lớp hàng rào kẽm gai concertina, được gắn
hỏa pháo soi sáng, mìn và mìn định hướng claymore. Ngoài ra còn được treo lủng lẳng, lon
đồ hộp, lon coca để gây tiếng báo động
cho binh sĩ phòng thủ, đề phòng đặc công bò
vào. Tuyến phòng thủ của BĐQ nằm chắn
mũi tấn công chính của quân đội Bắc Việt
vào căn cứ. Lúc nào cũng nghe tiếng súng.
Đại úy Gunn làm việc
trực tiếp với tiểu đoàn trưởng, tiểu
đoàn 37/BĐQ, đại úy Hoàng Phổ, còn tôi làm việc
với một hạ sĩ quan biệt động quân, anh
ta rất nhanh nhẹn. Chúng tôi xin tiếp tế
cho họ những gì cần thiết (thực phẩm, nước
uống, thuốc men, đồ cứu thương), đạn
dược và không trợ, cũng như pháo binh yểm trợ.
Các binh sĩ BĐQ chia xẻ với tôi những điều
khó khăn, lo lắng trong vấn đề nhận tiền
lương (phải xin phương tiện, đưa
sĩ qua phát lương vào Khe Sanh và đưa tiền về
cho gia đình, vợ con) và tin tức về trận tổng
tấn công Tết Mậu Thân đã lan
tràn khắp miền nam Việt
Trong suốt
tháng Hai, thời tiết trở nên xấu, vừa lạnh
vừa có nhiều sương mù bao phủ. Những
chuyến tiếp tế cho căn cứ đều phải
dùng phương tiện thả dù, và số kiện hàng thâu
hồi được rất ít, đa số rơi vào tay địch quân. Đặc
biệt nhu cầu nước uống rất hạn chế
vì khó thả dù tiếp tế. Không biết
binh sĩ BĐQ có biết được tình trạng này
không? Thực ra, họ ít nhu cầu vệ
sinh hơn người Hoa Kỳ, khả năng mưu sinh,
sống còn của họ rất cao. (lính
Mỹ ngày nào cũng cần tối thiểu một nón sắt
nước để rửa mặt, đánh răng, lau người...
Thiếu thuốc bôi nách Right Guard, chắc mùi
của họ lên tới trời xanh... địch quân
đánh hơi được).
Chiến đấu
với biệt động quân Việt
Đúng giữa
tháng Ba năm 1968, mức độ nước dự trữ
đã xuống đến mức thấp nhất, chúng tôi
phải để dành nước. Tuy nhiên, các phi công
can đảm vẫn đem đến cho chúng tôi những
gì cần thiết. Phải công nhận TQLC lo
chuyện này rất đầy đủ với tất cả
khả năng của họ.
Chúng tôi nhận được
“quà tặng” đủ loại bắn vào căn cứ hàng
ngày gồm có: đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng
cối 61, 82 ly, đại bác không dật 75 ly, súng phóng hỏa
tiễn B-40, B-41, đại liên và tiểu tiên AK-47 và súng CKC
từ những xạ thủ bắn sẻ. Lính
Bắc Việt chế ra những dụng cụ để
phá lớp hàng rào phòng thủ. Họ nhồi thuốc
nổ TNT vào những ống tre dài, rồi thọc vào dưới
lớp hàng rào kẽm gai, nhưng bị binh sĩ BĐQ
trông thấy bắn chết và tịch thu
“đồ nghề”.
Lợi dụng
lớp sương mù che phủ, lính Bắc Việt đào
hệ thống điạ đạo nhằm xâm nhập
vào bên trong phòng tuyến BĐQ, nhưng cũng bị biệt
động quân phát giác, tiêu diệt. Tất
cả những kế hoạch nhằm tấn công vào phòng
tuyến BĐQ đều bị thất bại.
Một xạ thủ
đại liên Bắc Việt được binh sĩ TQLC
Hoa Kỳ biết đến và đặt tên là “Luke the
Gook”. Anh ta bắn tất cả những máy bay trên bầu
trời Khe Sanh, phản lực Phantom F-4, máy bay vận tải
tiếp tế C-130, C-123, trực thăng v.v... tất cả những gì bay được. Vài hôm trước khi tiểu đoàn 37/BĐQ
đến Khe Sanh, anh ta bắn rơi một phản lực
Phantom mà chiếc này cũng định thanh toán anh ta. Viên phi công nhẩy dù ra và được cứu
thoát. Từ tuyến phòng thủ của
BĐQ nơi cuối phi đạo, binh sĩ BĐQ có thể
nghe được tiếng súng đại liên phòng không của
địch phát ra đằng sau những ngọn đồi.
Tay xạ thủ Bắc Việt này (Luke) phải là một
tay rất “cứng cựa” hay là quân đội Bắc Việt
có nhiều Luke?
Ngày 10 tháng Hai, bắn trúng một
máy bay KC-130 chở nhiên liệu, làm chiếc máy bay bốc
cháy trước khi xuống được phi đạo. Hai viên phi công chính và phụ, thoát được ra
ngoài, nhưng những người còn lại kẹt trong
phi cơ đều bị thiêu sống. Tôi chứng kiến
cảnh chiếc máy bay bốc cháy chỉ cách hầm trú ẩn
của tôi vài trăm thước. Đó là một cảnh tượng
hãi hùng, tôi ngồi xuống cầu nguyện cho những người
bị kẹt bên trong chiếc máy bay. Sau vụ này, phi cơ
C-130 không còn đáp xuống được nữa vì phi
đạo đã ngắn bớt, chỉ còn phi cơ vận
tải loại nhỏ C-123 xuống được, đem
theo đồ tiếp tế cho binh
sĩ trú phòng.
Chúng tôi thường xuyên bị
ăn đạn súng đại bác 57, 75
ly không dật. Biệt động quân đưa
một trung đội ra ngoài lục xoát, đi tìm “thủ
phạm”. Trung đội BĐQ chạm địch bị
tổn thất nhưng vẫn thanh toán được toán
xử dụng súng và tịch thâu khẩu súng đem về
căn cứ. Ngày 25 tháng Hai, một toán tuần
tiểu TQLC ra lục xoát bên ngoài, rơi vào ổ phục
kích của địch. Đó cũng là toán TQLC duy nhất
ra ngoài hoạt động theo như tôi
còn nhớ. Bên ngoài lớp hàng rào phòng thủ là đất cấm
(no man’s land) vùng tác xạ tự do cho phi cơ và pháo binh.
Một đêm khuya, chúng tôi
nghe mấy tiếng depart súng cối, nhưng không nghe tiếng
nổ. Sáng hôm sau, ra quan sát mới biết, có mấy qủa
đạn súng cối rơi vào phòng tuyến BĐQ nhưng
họ quên lấy chốt an toàn ra trước
khi bắn, nên qủa đạn không nổ.
Một đêm
khác, khi chúng tôi đang ở trong hầm, một tiếng nổ
long trời làm xập một góc hầm, người bên
trong ngã nhiêng ngửa. Chúng tôi phải bới
đống gạch vụn chui ra. Bên ngoài hàng rào là một
hố sâu khoảng 10, 15 bộ (feet) do một quả bom
2000 cân Anh nổ. Quả bom này có lẽ rơi
lạc mục tiêu.
Quân trú phòng được
yểm trợ bằng tất cả sức mạnh của
quân đội Hoa Kỳ. Những đợt pháo đài bay
B-52 trải thảm như cơn điạ chấn, mặt
đất rung lên từng cơn. Ngoài ra còn được,
pháo binh chiến lược 175 ly từ rặng núi Rock Pile
tác xạ vào những nơi tình nghi tập trung quân của
quân đội Bắc Việt.
Tôi được lệnh về
Đà Nẵng để lấy đồ tiếp tế
cho toán cố vấn và lấy thư.
Trong chuyến bay ra khỏi căn cứ Khe Sanh, chúng tôi phải
khiêng theo mấy túi đựng xác chết.
Đến Đà Nẵng, đó là một thế giới
khác, tôi được “tẩy uế” bụi trần, một
lần “kỳ cọ” sướng nhất trong đời.
Sau khi lấy đồ tiếp tế, thư
từ, tôi đón một chiếc C-123 khác bay lên Khe Sanh.
Tuần lễ đầu tiên
trong tháng Tư năm 1968, thỉnh thoảng có mùi xác chết,
hôi thối bay vào căn cứ, tùy theo hướng
gió. Tiểu đoàn 37/BĐQ ra lệnh cho một
trung đội ra ngoài lục soát. Kết
qủa biệt động quân tìm thấy một hệ thống
điạ đạo, hầm hố với vào khoảng 70
xác chết binh sĩ Bắc Việt.
Đến ngày 6 tháng Tư,
đại đội 84, tiểu đoàn 8 Nhẩy Dù Việt
Nam được trực thăng, sư đoàn Không Vận
số 1 (1st Air Cavalry) đưa vào căn cứ Khe
Sanh, bắt tay với tiểu đoàn 37/BĐQ. Đến ngày 15 tháng Tư, toàn bộ tiểu
đoàn 37 Biệt Động Quân Việt
Theo cuốn Patrolling, Winter 2009, pages: 71-74
Vũ Đình Hiếu
No comments:
Post a Comment