Nghiệp Duyên- Đại lộ Kinh Hoàng 1972
Bút Ký : Định Mệnh 9
Đại Lộ Kinh Hoàng 1972
Tác Giả: Thanh Hiền- Dị Nhơn
Bell thành phố sương mù 2016
Xuất bản năm 2004
Từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tôn thân chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (tức Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân công chúa gả cho vua Chế Mân, đem về cho Đại Việt 2 châu Ô Và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tôn đổi thành đất Thuận Hoá vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng ngày nay là đất Hoá thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của nhà Nguyễn, khi chúa Nguyễn Hoàng được vào trấn thủ Thuận Hoá vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588) Ông lập dinh Ái Tử , quận Triệu Phong.
Vì thời tiết xấu nên giảm thiểu sự yểm trợ của Không Quân (miền Nam và Hoa Kỳ). đã dẫn đến lần lượt 11 căn cứ hoả lực của VNCH phải thất thủ. (căn cứ Bá Hô Holvomb, Sarge, Fluuer 2, Khe Gió, Carrol, Mai Lộc, Ái Tử...)
Ngày 31 tháng 3, căn cứ hoả lục của Tiểu Đoàn 4 Thuỷ Quân Lục Chiến tại núi Bá Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối sau khi bị tổn thất nặng. Ngay lúc 2 Trung đoàn 2 và 56 Sư đoàn 3 Bộ Binh đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho binh sỉ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó Bộ Binh, chiến xa CSBV, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hoả lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người.
Tuy nhiên, Cộng quân cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và trung đoàn 2 Bộ Binh trấn giữ. Đại chiến long trời lở đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài gòn và Đà Nẳng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn chưa tin là Hà Nội dám vượt qua sông Bến Hải. Chính điều này đã làm cho bao nhiêu sinh mạng vừa đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên trên các đường di tản, trước biển giặc.
Rền trời đại pháo phòng không
Quốc lộ 9 từ Đông Hà đi Cam Lộ bị cắt đứt. Ngày 3/4/1972 , Quân lực VNCH chỉ còn giữ được tuyến từ Cửa Việt dọc theo sông Cam Lộ ở phía Bắc, căn cứ Carrol và Mai Lộc ở phía Tây và Pedro về phía Nam. Bộ Tư lệnh tiền phương của Sư đoàn 3 Bộ Binh được lệnh về thành phố Quảng Trị, Lữ đoàn 258 TQLC được tăng cường thêm Tiểu đoàn 3 pháo binh/TQLC và Tiểu đoàn7/TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong khi đó căn cứ hoả lực Carrol của Trung đoàn 56 Bộ Binh bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ Nam Đông Hà, để lại cho giặc nhiều đại bác 155 ly.
Lữ đoàn 147 Thuỷ Quân Lục Chiến được giao trọng trách nắm giữ các căn cứ chiến lược, núi Bá Hô, Sarge, Holcomb và Mai Lộc, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 147 TQLC.
Quân dân Quảng Trị di tản theo quốc lộ 2 về hướng Nam , Cộng quân đã dùng Trung đoàn pháo binh Bông Lau có số hiệu 38 pháo kích vào người dân chạy loạn gây nên cái chết cho hàng ngàn ... ngàn thường dân vô tội trên đoạn đường 9m, khai sinh ra cái tên
"Đại Lộ Kinh Hoàng". Người chết vương vãi từng mảnh thịt, chết lăn lốc rã rời trên đầu ngọn lá, từng xác, từng xác người chết không toàn , từng vết máu đen xạm dưới ánh nắng gay gắt đã nặng mùi. Hàng trăm, trăm xác xe kéo dài đến hàng dậm, có chiếc chổng bánh vỡ sườn, loang lổ vết đạn. Vùng đất chết, vạn vật cùng chung số phận trên đại lộ tử thần.
Trên đầu nghe tiếng đạn reo
Dưới chân tử lộ vùi theo thây người
Quảng Trị là tỉnh giới tuyến miền Nam VNCH và không ai nghĩ hoặc là sẽ có ngày CSBV sẽ vượt làn ranh giới tuyến quy ước (sông Bến Hải cầu Hiền Lương), để công khai xâm lăng miền Nam, vì thế nên miền Nam Cộng Hoà chỉ để Sư đoàn 3 Bộ Binh phòng thủ miền giới tuyến này . Sư đoàn 3 Bộ Binh (Tư lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai) là một Sư đoàn tân lập( và tháng 10 năm 1971) gồm 3 Trung đoàn (2,56 và 57) Trong 3 Trung đoàn này thì chỉ có Trung đoàn 2 là có nhiều kinh nghiệm chiến trường vì đã được tách ra từ Sư đoàn 1 Bộ Binh và 2 Trung đoàn 56,57, còn lại thì yếu kém về huấn luyện và kinh nghiệm tác chiến( có các thành phần gốc đào binh trong đơn vị). Chính vì vậy, tỉnh Quảng Trị được chánh quyền miền Nam VNCH tăng phái thêm 2 Lữ đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến (147 và 258) nhằm để bảo vệ mặt phía tây của tỉnh ( giáp với nước Lào).
Đồi Charlie, gọi theo phiên âm Việt là đồi Sạc Ly , là một địa danh nằm tiếp giáp giữa ba huyện Sa Thầy, Đăk Tô và Ngọc Hồi, thuộc tỉnh Kontum, miền Nam Việt Nam. Địa danh này nổi tiếng với nhiều trận giao chiến khốc liệc giữa Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và đồng minh Quân đội Hoa Kỳ với quân Cộng Sản Bắc Việt.
Từ trung tâm thành phố Kontum theo đường 14 đi khoảng 45 km, tới ngã ba Tân Cảnh, cách địa danh Charlie khoảng 10km. Vị trí đỉnh đồi Charlie có cao độ xấp xỉ 900m so với mực nước biển, nằm tại khu vực giáp ranh giữa các xã Rờ Khởi (huyện Sa Thầy), PôKô, Tân Cảnh (Đăk Tô) và các xã SaLoong, Đắk Sú (Ngọc Hồi). Hai điểm cao cạnh bên là Ngọc Ring Rong và Ngọc Rinh Rua, có cao độ là 800m, từng được mệnh danh là "chân cột cờ" của khu vực đồi Charlie.
Do vị trí điểm cao, từ đây có thể có vị trí chiến lược có tầm quan sát rộng, đỉnh đồi từng được quân đội Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng Hoà xử dụng để xây dựng một cứ điểm quân sự để kiểm soát cả một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương.
Vị trí cứ điểm nằm trong một dãy cứ điểm liên hoàn của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù VNCH, được đặt tên theo các chữ cái A,B,C, D, đến Y, nhằm bảo vệ phi trường Phượng Hoàng và tuyến phòng thủ ngoại vi cho căn cứ Tân Cảnh, tức bản doanh bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 22 Bộ Binh. Theo thông lệ của quân đội Hoa Kỳ và VNCH, mỗi cứ điểm đều có tên đặt theo các chữ cái này bằng tiếng Anh và tiếng Việt, như Alfa, Anh Dũng, hoặc Yankee, Yên Thế. Chính vì vậy, cứ điểm trên ngọn đồi được đặt tên theo chữ cái C, được gọi là đồi C, hay đồi Chalie.
trận địa Charlie 1972
Charlie tiếng pháo ru dài
Đông Hà, Cam Lộ bom cày nát tan
Nguyễn Đình Bảo gọi tên anh
Người hùng mũ đỏ liệt oanh oai hùng
Nguyễn Đình Bảo chết hôm qua
Khí hùng bất tử trường sa chôn mình
Anh là người lính đồng minh
Đầy lòng nghĩa khí với tình quân nhân
Vì bạn chẳng nghĩ đến thân
Chẳng màng sống chết địch quân cận kề
Rền trời đạn pháo chẳng ngưng
Charlie máu nhuộm anh hùng vinh danh !
Anh vừa nằm lại Chalie
Người hai lần chết còn gì thịt da
Anh hùng da ngựa bọc thây
Thịt xương tan tác bom cày nát tan
Charlie Song Kiếm tan hàng
Nghe cơn mưa pháo còn đang ru dài...
Ngày 23/4/1972 , Sư đoàn 2 CSBV cùng 4 Trung đoàn độc lập thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) bắt đầu tấn công, cùng với xe tăng đại bác, CSBV xử dụng hoả tiến chống chiến xa At-3 Sagger gây nhiều thiệt hại cho các chiến xa M-41 của ta và phá huỷ các công sự phòng thủ, các xe tăng M- 41 lần lượt bị bắn cháy.
Lực lượng VNCH gồm Trung đoàn 42, 2 pháo đội 105 ly và 155 ly, 1 chi đội thiết giáp M-41,M-113, 1 Đại đội công binh chiến đấu. Trung tâm hành quân của Sư đoàn cũng bị trúng đạn bốc cháy, lực lượng VNCH phải tháo chạy, hệ thống truyền tin bị thiêu huý. Cố vấn Mỹ giúp đỡ cho mượn máy móc thành lập trung tâm hành quân mới.
Người người chết chẳng toàn thân
Con đường xương trắng dân quân phơi mình
Hải Lăng, Ái Tử điêu linh
Bờ Nam Thạch Hãn , Bộ Binh tan hàng!
Ngày 29/4, lúc 2 giờ sáng CQ tấn công Trung đoàn 2 BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía Tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, CSBV có chiến xa lội nước PT-76, tấn công các Tiểu đoàn ĐPQ và NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút về bên bờ Nam Thạch Hãn phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ, đẻ chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị CQ đóng chốt nhiều đoạn, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, chỉ có 9 cây số, bị bỏ ngỏ để CQ đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu hồng, với cái tên là Đại Lộ Kinh Hoàng nơi mồ chôn tập thể của dân Quảng Trị trong trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Trước áp lực quá mạnh của CSBV và VC miền Nam trong địa bàn Quảng Trị, ngày 30/4/1972 Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai mở phiên hộp các đơn vị trưởng thuộc quyền để bàn kế hoạch lui binh và việc lui binh đang khởi sự thì Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư lệnh Quân khu 1 lại ra chỉ thị tử thủ Quảng Trị. Lệnh và phản lệnh giữa quân đoàn và sư đoàn khiến các đơn vị đã bất tuân thượng lệnh và chính vì đó mà hệ thống phòng thủ Quảng Trị đã bị gẫy đổ (vì các đơn vị tự động rời bỏ vị trí đóng quân để rút lui về hướng Nam).
Tướng Vũ Văn Giai- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn BĐQ và các đơn vị của Sư đoàn 3 Bộ Binh, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2/5/1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn bị CSBV cưỡng chiếm. Nhưng Cộng quân đã bị hoàn toàn chận đứng bên bờ sông Mỹ Chánh, bởi Lữ đoàn 368 TQLC do Đại tá Chung chỉ huy.
Tân Cảnh- 1972
Việt Nam Cộng Hoà Kontum 1972
Mùa hè đỏ lửa xác vùi Lộc Ninh
Thịt xương tan nát bãi mìn
Ngóng qua Đồi Gió tử sinh chuyển rồi !
Bình Long giáp phía Bắc với Kampuchia, phía Đông giáp 2 tỉnh Phước Long và phước Thành, phía Nam là tỉnh Bình Dương. Tỉnh lỵ An Lộc cách Sài gòn 100 cây số về phía Bắc. Tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchia với 1 diện tích 2.240 km2 gồm trên 76.000 dân. Riêng quận An Lộc gồm cả thành phố tỉnh lỵ rộng 740 km2 với khoảng 44.000 dân, đa số tập trung vàoTân Lập Phú. Toàn tỉnh Bình Long, chung quanh tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút ngàn, vài ngọn đồi thpai thoải Đồi Gió, Đồi Đồng Long là những cứ điểm quân sự quan trọng bảo vệ thị trấn An Lộc.
Những người hùng Bộ Binh
Anh Biệt Kích, lính Dù
Biệt Động Quân anh dũng
Quyết bảo vệ Quân Khu
Giữa lúc chiến trường Lộc Ninh vẫn diễn ra ác liệt, 1 cánh quân khác của CT 9, đơn vị được coi là thiện chiến nhất trong số 4 Sư đoàn CSBV tham chiến tại Bình Long, bất ngờ tấn công vào tỉnh lỵ An Lộc từ 3 giờ chiều ngày 6/4/72, nhằm chặn đường tiếp viện cho Lộc Ninh. Đoạn đường từ An Lộc đi Lộc Ninh bị gián đoạn hoàn toàn, chỉ có thể liên lạc bằng điện thoại. Tình hình hết sức nghiêm trọng. Trận thế của CSBV đã bắt đầu hình thành.
Không có một chiến xa
Thương thay người lính Cộng Hoà
Lộc Ninh máu nhuộm trường sa chôn mình !
Trở lại An Lộc sau 30 giờ ác chiến đẩm máu bằng đủ mọi hình thức, từ xáp lá cà, cận chiến bằng lựu đạn, súng dài, súng ngắn thi nhau nổ, trong phân nửa thị xả phía Bắc, cuộc tấn công đợt 1 có chiến xa pháo binh hỗ trợ CSBC đã bị Đẩy lui, 2 bên đều thiệt hại nặng và kiệt lực, cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại.
Cũng trong ngày 15/4/72, Tướng Nguyễn văn Minh dời Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 lên Lai Khê để trục tiếp chỉ huy mặt trận. 1 lực lượng đặc nhiệm gồm 20.000 binh sĩ với Nhảy Dù, Bộ Binh, Thiết Kỵ được thành lập để giải toả quốc lộ 13.
Cộng quân pháo kích dã man vào nhà thờ và nhà thương cả 600 người đã chết tại bệnh viện Bình Long. Chuyến di tản lớn nhất vào ngày 12/6/72. Khoảng 12.000 đồng bào từ An Lộc tiến về hướng Nam Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch đến Tân Khai. Cộng quân đã chận bắn xối xả vào họ và khoảng chừng 2.000 người dân đã bỏ mạng.
Tháng 2 năm 1955 , ra trường ông nhận chức Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn 13 Việt Nam (thành lập tại Cần Thơ ngày 11/4/1951), đồn trú tại Bình Mỹ,Châu Đốc. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp Trung uý và giữ chức Đại đội trưởng của Tiểu đoàn 13. Đến giữa năm 1959, ông thuyên chuyển qua Trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 21 BB.
Đầu năm 1961, ông được biệt phái qua lĩnh vực hành chánh làm Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Vĩnh Bình, qua giữa năm 1962 ông giữ chức Quận trưởng quận Trà Ôn (Vĩnh Bình). Tháng 2 năm 1964, sau cuộc chỉnh lý nội bộ do Tướng Nguyễn Khánh lãnh đạo, ông được thăng cấp Đại uý tại nhiệm. Sau đó trở lại đơn vị cũ là Trung đoàn 31 BB làm Tiểu đoàn phó Tiêu đoàn 2/31. Cuối năm, ông lên làm Tiểu đoàn tưởng của Tiểu đoàn này. Đến ngày 1/11/1965, ông được thăng cấp Thiếu tá.
Cuối năm 1966, ông nhận chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31. Đến ngày 19/6/1967 ông được thăng cấp Trung tá. Ngày 1/11/1968 thăng cấp Đại tá. Qua năm 1969, ông giữ chức phụ tá hành quân cho Tư lệnh Quân đoàn IV do Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh làm Tư Lệnh.
Trung tuần tháng 7/70, một lần nữa ông được biệt phái làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ). Thượng tuần tháng 6/1971, được lệnh bàn giao chức Tỉnh trưởng cho và Tiểu khu trưởng lại cho Đại tá Chương Dzềnh Quay (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn 21 BB). Ông được bổ nhiệm chức Tư lệnh Sư đoàn 5 thay thế Tướng Nguyễn văn Hiếu.
Tháng 3/1972, ông được vinh thăng cấp bậc Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Bộ Tư lệnh ở căn cứ Lai Khê, Bình Dương. Sau chiến trận mùa hè đỏ lửa tháng 7 cùng năm ông được tặng thưởng tại mặt trận Đệ tam đẳng Bảo quốc huân chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu cùng ân thưởng huy chương đặc biệt mang danh hiệu Bình Long anh dũng . Qua tháng 9, ông được bàn giao chức Chỉ huy trưởng Tư lệnh Sư đoàn 5 lại cho Đại tá Trần Quốc Lịch, ông thuyên chuyển về Quân đoàn IV giữ chức Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc nhiệm của Quân đoàn kiêm phụ tá hành quân cho Tư lệnh Quân đoàn là Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.
Thượng tuần tháng 6 năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh thay thế Đại Tá Chương Dzềnh Quay được cử làm Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, được lệnh bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Đại tá Mạch văn Trường (nguyên chánh thanh tra của Sư đoàn), để về lại Quân đoàn IV nhận chức Tư lệnh phó Quân đoàn do Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 vào lúc 8 giờ 45 sáng, khi được tin Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà buông vũ khí đầu hàng. Tại bộ Tư Lệnh Quân đoàn IV ông rất đau buồn, với tinh thần bất khuất không chịu đào thoát hoặc đầu hàng địch. Theo gương tiền nhân bảo toàn khí tiết, sau khi gặp mặt thuộc cấp dặn dò, tâm tình và vĩnh biệt gia đình, ông đã tuẫn tiết tại tư dinh 73 trại Lê Lợi. Cần Thơ, bằng cách dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45. Hưởng dương 42 tuổi.
Trước khi nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc để vĩnh biệt, ông đã nói:
(Tôi bằng lòng chọn cái chết, tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành )
Lễ an táng được tổ chức trong hoàn cảnh buồn thương tại khu đất của gia đình trên đường Nguyễn Viết Thanh (thị xã Cần Thơ).
Phu nhân: bà Trương Kim Hoàng. Ông bà có 2 người con:1 trai, 1 gái.
Tài liệu tham khảo và trích đăng :
Việt Nam A History : Stanley Karnnoew
In Retrospecti The Tragedy And Lessons Of Việt Nam
( Robert MC Namara)
Những trận đánh lịch sử trong chiến tranh Việt Nam:
(Nguyễn Đức Phương)
Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà:
(Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Luân, Lê Đình Thuỵ)
An Lộc chiến trường đi không hẹn : Phạm Châu Tài
Cuộc rút quân bi tráng của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù....
(Vương Hồng Anh
Mặt trận Kontum 1972 (Trọng Đạt)
BĐQ Đỗ Như Quyên – BĐQ Trên Chiến Trường Quảng trị 1972
Lời Tác Giả:
Cách đây bốn mươi hai năm, cùng với An Lộc và Kon Tum, đồng bào tỉnh Quảng Trị đã trải qua một biến cố đầy kinh hoàng do CS gây ra. Từ ngày 30 tháng 3 đến 16 tháng 9 năm 1972, toàn tỉnh Quảng Trị trở thành một bãi chiến trường, được coi như tột đỉnh của “chiến tranh quy ước” vào thời đó. Kẻ trực tiếp gây thảm họa này là lính đánh thuê Cộng Sản Hà Nội, và địch cũng xác nhận rằng chúng là kẻ, “đánh cho ông Liên Xô, đánh cho ông Trung Quốc!” (Lời Lê Duẫn)
Để ngăn chận sóng đỏ ở “Vùng Hỏa Tuyến”, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã làm những gì mình có để cứu dân và giữ nước. Bộ Tổng Tham Mưu/ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đưa ra lực lượng ưu tú nhất của mình gồm: Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, và các đơn vị Bộ Binh. Đã có cả trăm ngàn người trai nước Việt thay nhau ra trận, chiến đấu với CSBV (Cộng Sản Bắc Việt) trên chiến trường Quảng Trị vào năm 1972. Trong đó có chúng tôi, những người may mắn còn sống lúc nhiều đồng đội đã ra đi.
Là những người có một thời gắn bó với chiếc Mũ Nâu, từng có những tháng ngày cam go qua vài mặt trận ở tỉnh Quảng Trị, chúng tôi thường tìm đọc các bài viết nói về chiến trường này vì một phần đời mình đã trải qua ở đây, một chiến trường đẫm máu và lệ. Phần lớn các bài viết chúng tôi đã tìm đọc là của quý chiến hữu người Việt cũng như Mỹ thuộc Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Bộ Binh, vv… Phần còn lại được trích dẫn từ các vị có những biên khảo đặc biệt về các biến cố quân sự ở Việt Nam, bằng Việt ngữ và Anh ngữ. Chúng tôi rất biết ơn công trình trí tuệ của quý vị và nhận lỗi đã trích dẫn nhưng không xin phép trước.
Muốn viết cho tạm đầy đủ (hoặc một phần nào đó) về các Liên Đoàn 1, 4, 5, 6, 7 Biệt Động Quân ở Quảng Trị năm 1972, và nếu chỉ tìm kiếm trong sách, báo, tài liệu… thì chúng tôi chẳng thể làm được nếu không có các chứng nhân, là những chiến sĩ Biệt Động Quân từng xông pha trên chiến trường này. Hôm nay, 42 năm sau trận chiến đó, hầu hết các vị mà chúng tôi thăm hỏi đều có chung một nỗi niềm:
“Nay kể lại vì đây là một trách nhiệm trước lịch sử. Hy vọng thế hệ kế thừa sẽ có thêm dữ kiện để từ đó làm sáng tỏ những gì bị quên lảng, cũng như bị xuyên tạc và bóp méo lịch sử của Cộng Sản Việt Nam. Kể lại chẳng phải vì danh dự cá nhân hay màu cờ sắc áo của binh chủng mình, mà vì trách nhiệm, vì sự thương nhớ đến những đồng đội các cấp đã ra đi trong âm thầm, và nhớ thương các đồng đội nay đang thầm lặng sống tản mạn khắp bốn phương trời, danh tính và sự dấn thân vì đất nước của các vị đó đang bị lảng quên trong lịch sử.”
Qua những bài viết của nhiều tác giả, tài liệu chính thức… nói về Biệt Động Quân tại chiến trường Quảng Trị năm 1972, chúng tôi có rất ít dữ kiện, chi tiết, mặc dù Bộ Tổng Tham Mưu đã tăng cường cho Quảng Trị tất cả 5 Liên Đoàn/ Biệt Động Quân là 1, 4, 5, 6, 7. Điều thiếu sót đó làm chúng tôi rất bức rứt trong lòng, vì đây là một khoảng trống quan trọng trong quân sử QLVNCH nói chung và chiến trường Quảng Trị nói riêng. Từ sự trăn trở và ray rứt đó, chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm tài liệu, hỏi thăm và liên lạc những vị từng là Biệt Động Quân và chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972. Hầu hết các vị ấy nay tuổi đời đã cao, ký ức có thể đúng, có thể sai vì vị trí mỗi người khác nhau trên chiến trường, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là các vị ấy cố nhớ và kể lại. Chúng tôi chỉ là người lắng nghe, ghi chép, so sánh, đối chiếu tài liệu tham khảo, tổng hợp lại để có bản văn này. Còn chuyện đúng hay sai hãy để cho người đọc dựa vào đó tìm hiểu thêm, giúp làm sáng tỏ các chi tiết, dữ kiện, diễn tiến… về chiến trường Quảng Trị năm 1972.
Chúng tôi xin trân trọng biết ơn những vị sau đây hết lòng góp tâm sức cho bài viết này:
Trần Kim Đại, Hoàng Phổ, Hồ Văn Hạc, Nguyễn Văn Gio, Lại Thế Thiết, Quách Thưởng, Đỗ Đức Chiến, Nguyễn Văn Măng, Giang Văn Xẻn, Trần Tiễn San, Kăng Tum Sơn, Hà Kỳ Danh, Nguyễn Văn Nam, Hà Mai Khuê, Nguyễn Trung Tín, Đỗ Văn Nai, Trần Văn Quy, Huỳnh Lập Quốc, Nguyễn Ngọc Ấn, Trần Thy Vân, Hồ Công Bình, Võ Văn Hiền, Trần Thương Quảng, Đỗ Minh Hưng, Bùi Quang Thắng,…
Nếu chúng tôi có ghi thiếu danh tính của vị nào thì xin được tha lỗi. Hy vọng sẽ có người lên tiếng đính chánh, bổ xung thêm những thiếu sót sau khi đọc bài viết này. Nếu được như vậy cũng chính là sự mong mỏi của chúng tôi và của những người trong cuộc.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
PHẦN 1: SÓNG ĐỎ TRÀN BẾN HẢI CUỐI THÁNG 3 NĂM 1972
Khoảng 11 giờ trưa ngày 30/3/1972, quân CS Bắc Việt (CSBV) từ bờ Bắc sông Bến Hải bất ngờ đồng loạt pháo kích vào phía Nam vùng “Phi Quân Sự” của Việt Nam Cộng Hòa.
Pháo binh của địch tập trung khoảng 250 súng đại bác và hơn 200 giàn hỏa tiễn, bắn vào 17 trong tổng số 23 căn cứ phòng ngự, căn cứ hỏa lực lớn – nhỏ và 4 thị trấn dân cư là Cửa Việt; Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà, từ phía Bắc kéo dài qua hướng Tây tỉnh Quảng Trị.
Suốt bốn giờ đầu, CSBV đã bắn gần 4.000 đạn đại bác 122 ly,130 ly, 152 ly và hỏa tiễn 122 ly (loại giàn phóng “Katyusha” đặt trên xe với 4 hộp chứa). Sau 24 giờ, địch đã bắn hơn 11.000 quả đạn các loại. Những căn cứ và địa điểm quân sự của Trung Đoàn 2, Trung Đoàn (TrĐ) 57/ Sư Đoàn 3 Bộ Binh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, vv… ở hướng Đông Bắc và chính Bắc đều bị pháo kích nặng nề. Cùng lúc đó, căn cứ hỏa lực Tân Lâm (tên cũ Carroll) của TrĐ 56/ SĐ 3, căn cứ Mai Lộc của Lữ Đoàn 147/ Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) ở phía Tây và Tây Nam Đông Hà cũng bị đạn pháo địch vùi dập.
Khói lửa ngút trời ở những căn cứ như Alpha 1, A2, A3, A4 (Cồn Thiên), A5, Charlie1 (nơi đặt BCH/ TrĐ 57 BB), C2, C3, Gio Linh, Đông Hà, Cam Lộ, Fuller, Khe Gió, Tân Lâm (Đồi 241, tên cũ Carroll), Mai Lộc, Sarge, Holcomb, Núi Bá Hộ, vv… Phần lớn công sự chiến đấu ở những vị trí nêu trên đều bị hư hại nặng trong đợt pháo kích phủ đầu của địch.
Lực lượng pháo binh 105, 155, 175 ly của ta gần như bị địch vô hiệu hóa trong 24 giờ đầu. Ta đã không thể phản pháo vì khoảng cách chênh lệch nên giảm khả năng yểm trợ, các đơn vị tuyến đầu phải chiến đấu trong tình thế vô cùng bất lợi. (Đại bác 105 ly bắn xa 11 km, 155 ly – 15 km, 175 ly – 32 km, đại bác 122 ly của cộng sản bắn xa 16 km,130 ly – 27 km, 152 ly – 24 km, hỏa tiễn 122 ly bắn xa 25 km).
Mức độ bắn phá dữ dội, kéo dài nhiều giờ liền cuả CSBV làm dân chúng kinh hoàng tháo chạy trong hỗn loạn. Chiều ngày 30/3, đã có khoảng 50.000 người dân chạy trốn khỏi tầm pháo của CS. Trên Quốc Lộ 9 và Quốc Lộ 1 đầy những đoàn người hớt hải tìm cách thoát về thị xã Quảng Trị ở phiá Nam. QL 1 và QL 9 từ Gio Linh (Bắc); Cửa Việt (Đông),Cam Lộ (Tây) về Đông Hà (Nam) nhiều nơi bị gián đọan vì sự lẫn lộn giữa đoàn người chạy loạn (và chạy theo) với các đơn vị đang chuyển quân. Nhiều xe cộ dân sự trúng đạn bốc cháy, trong khi xác người nằm rải rác hai bên đường. Tiếng khóc la vang dậy khắp nơi.
Sau hai mươi bốn giờ pháo kích dai dẳng, bộ binh CSBV bắt đầu, cùng xe tăng T 54, T 59, PT 76, xua quân tràn tới giữa khói lửa ngút trời ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị, nghèo nàn và khốn khổ.
Ngày 31/3, các căn cứ tuyến đầu cuả SĐ 3 và TQLC đều bị tấn công, từ A đến Gio Linh ở phía Bắc, cho tới căn cứ Sarge và Núi Bá Hộ về hướng Tây, nhưng phòng tuyến các nơi này vẫn giữ vững sau nhiều đợt tấn công bằng biển người của địch.
Ngày 1/4, quân cộng sản gia tăng các cuộc tấn công bằng pháo binh và biển người vào những căn cứ A1, A2, A3, vv… Các đơn vị ở đây được lệnh phải bỏ căn cứ rút quân về Nam Đông Hà lập tuyến án ngữ khẩn cấp. Những toán chuyên viên về Không Trợ, Hải Pháo của Việt lẫn Mỹ tại những vị trí quan trọng trong vùng đã được trực thăng đến giải cứu đưa về Đông Hà và Ái Tử. Căn cứ hỏa lực A4 (Cồn Thiên), căn cứ Fuller của TrĐ 2 do Trung Tá Huỳnh Đình Tùng làm Trung Đoàn Trưởng, căn cứ hỏa lực Khe Gió cuả TrĐ 57 của Trung Tá (Tr/T) Nguyễn Hữu Cương sau nhiều lần bị tấn công cũng buộc phải rút quân về phía Nam lập tuyến phòng ngự. Đây là những căn cứ phòng thủ, căn cứ hỏa lực đầu tiên của SĐ 3 BB rơi vào tay quân CS sau 48 giờ đầu của cuộc xăm lăng.
Chiều ngày 1/4, sau nhiều lần chống trả mãnh liệt các cuộc tấn công của địch, cánh quân B của TĐ 4 TQLC, do Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá Nguyễn Đăng Hòa chỉ huy, đã triệt thoái khỏi căn cứ Núi Bá Hộ. Lúc 3 giờ sáng ngày 2/4, cánh quân A của TĐ4 TQLC chỉ huy bởi Thiếu Tá (ThT) Trần Xuân Quang cũng triệt thoái khỏi căn cứ Sarge cùng với viên cố vấn TĐ 4 là Th/T Walter Boomer. Sau đó toàn bộ TĐ 4 TQLC về lập phòng tuyến tại căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH/ Lữ Đoàn 147TQLC do Tr/T Nguyễn Năng Bảo làm Lữ Đoàn Trưởng. (Mai Lộc nằm về phía Nam căn cứ Tân Lâm khoảng 3 km.) Cũng trong ngày 1/4, trước mức độ pháo kích khốc liệt của địch vào Ái Tử, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai lệnh cho BCH Tiền Phương SĐ 3 BB trong căn cứ Ái Tử dời về bờ Nam sông Thạch Hãn.
Khoảng 8 giờ tối ngày 1/4, dưới ánh sáng vàng rực của hỏa châu, lực lượng phòng thủ bờ Nam sông Miếu Giang báo động có xe tăng địch xuất hiện bên kia cầu. Khi chiếc T 54 dẫn đầu xuất hiện ngay đầu dốc đã bị chiến xa M 48 bắn hạ. Chiếc PT 76 phía sau cố lách qua tiến tới cũng bị TQLC bắn cháy bằng súng chống chiến xa XM 202. Hai chiếc thiết giáp này làm đoàn xe địch ở phía sau không thể tiến lên được. Trong đêm 1/4, địch đã cho nhiều nhóm đặc công cố vượt sông Miếu Giang, nhưng TQLC đã tiên liệu được chuyện này nên cho những toán quân nhỏ tuần tiểu dọc bờ sông, hầu hết các toán xâm nhập của địch đều bị bắn chết lúc còn đang bơi hoặc bị bắt sống lúc vừa lên bờ.
Ngày 2/4, khoảng 11 giờ trưa xuất hiện hai đoàn xe tăng của địch khoảng 28 chiếc tiến về thị trấn Đông Hà. Ở hướng Bắc, trên Quốc Lộ 1 có 10 chiếc PT-76 và 14 chiếc T 54 cùng lính bộ binh nhốn nháo chạy theo sau. Nơi hướng Đông dọc theo bờ Bắc sông Miếu Giang có 4 chiếc PT 76 cũng tiến về Đông Hà. Tiểu Đoàn 3 TQLC, Th/T Lê Bá Bình làm Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) và ThT Trần Kim Đệ Tiểu Đoàn Phó (TĐP), đang phòng ngự ở đây được lệnh giữ vững Đông Hà cùng Chi Đoàn 1/ Thiết Đoàn 20/ Chiến Xa M 48 do Đại Úy Đặng Hữu Xứng làm Chi Đoàn Trưởng (Thiết Đoàn 20/ CX do Tr/T Nguyễn Hữu Lý làm Thiết Đoàn Trưởng). Một toán chống chiến xa với bốn đại bác không giật 106 ly gắn trên bốn xe jeep, cũng được TĐ 6 TQLC từ Ái Tử đưa lên lên tăng cường cho TĐ 3 TQLC.
(Hai Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh và 20 Chiến Xa thuộc Lữ Đoàn I Kỵ Binh, do Đại Tá Nguyễn Trọng Luật làm Tư Lệnh. Riêng Thiết Đoàn 20, vì có tới 44 chiến xa M 48 nên thiết đoàn này dự trù thành lập riêng một đại đội bộ binh trực thuộc với 270 quân nhân. Đại đội bộ binh này sẽ được chia cho mỗi chi đoàn 90 người, thường xuyên đi theo bảo vệ những chiếc M- 48 ở bất cứ nơi đâu).
Lúc quân CSBV bắt đầu tấn công vào Đông Hà từ bờ Bắc sông Miếu Giang, thì ở bờ Nam một bức tường hỏa lực dày đặc đã được tung ra từ Thiết Giáp, TQLC, Pháo Binh và hải pháo từ ngoài khơi bắn vào. Trước một hỏa lực quá dữ dội từ lực lượng phòng thủ, đội hình phía địch bắt đầu hỗn loạn, khi hững chiếc T 54 bắt đầu chạy quờ quạng. Xe tăng địch tách xa bộ binh, chạy tản ra thành từng nhóm nhỏ tìm cách vượt qua sông Miếu Giang.
Lúc đó thì M 48 với nòng súng 90 ly mới bắn từng chiếc xe tăng địch đang hướng về bờ sông. Khoảng 3 giờ chiều, bầu trời trở nên sáng rõ với một màu xanh, đó cũng là lúc các khu trục cơ A 1, AD 6 từ phi trường Đà Nẵng bay ra rượt đuổi xe tăng địch. Kết quả: 9 chiếc PT 76 và 2 chiếc T 54 bị xe tăng M 48 của Chi Đoàn 1 bắn hủy từ khoảng cách hơn 1.000 m, 4 chiếc PT 76 ở hướng Đông cũng bị hải pháo triệt hạ. Không quân bắn cháy 12. Trong số đó Đại Úy Trần Thế Vinh của Phi Đoàn 518/ Sư Đoàn III/ Không Quân, tăng phái cho SĐ I Không Quân, đã bắn cháy 5 chiếc T 54. (Phi Đoàn 518 có danh hiệu Phi Long 518, do Thiếu Tá Lê Quốc Hùng làm Phi Đoàn Trưởng). Chiếc khu trục của Đại Úy Trần Thế Vinh bị trúng đạn phòng không 12. 7 bên cánh trái, buộc phải rời chiến trường về đáp an toàn ở Đà Nẵng.
Cuộc tấn công cuả địch quân vào Đông Hà bị thảm bại sau khi chiếc PT 76 duy nhất còn lại bỏ chạy về hướng Bắc. Riêng về thiết giáp, đây là lần đầu T 54 và PT 76 của CSBV gặp chiến xa M 48, nhưng địch chưa kịp thấy nòng đại bác 90 ly của nó thì đã bị bắn hạ. Cục diện chiến trường xảy ra nhanh đến nỗi viên chỉ huy thiết giáp của cộng sản hốt hoảng điện báo về BCH rằng đơn vị xe tăng của hắn ta bị triệt hạ từ những vị trí không thể nhìn thấy!
Khoảng 1 giờ trưa, thời tiết trở xấu hơn khiến lực lượng phòng thủ của ta tại Đông Hà gặp khó khăn hơn. Mưa tuy nhỏ nhưng trần mây xám phủ sát mặt đất, cản trở tầm nhìn của máy bay quan sát nên Không Quân chẳng thể yểm trợ. Lợi dụng vào thời tiết đó, địch đã cho thiết giáp mở đợt tấn công thứ hai vào Đông Hà nhưng lần này bị cản lại bởi một người là Trung Sĩ Huỳnh Văn Lượm, thuộc Đại Đội 1/ TĐ 3 TQLC. Khi chiếc T 54 dẫn đầu lăn xích đến đầu cầu bờ Bắc thì ở đầu cầu phía Nam, Trung Sĩ Huỳnh Văn Lượm bắn quả M 72 thứ nhất nhưng bị trượt bên hông xe. Viên đạn M 72 thứ hai được bắn tiếp nhưng cũng bị trượt hông pháo tháp. Bỗng nhiên, chiếc T 54 này khựng lại rồi rú máy chạy lùi thật nhanh.
Từ lúc này, quân CS không tấn công qua hướng cầu Đông Hà nhưng gia tăng pháo kích về bờ Nam sông Miếu Giang. Để ngăn cản đà tiến quân của địch, cầu Đông Hà và cầu xe lửa (đã hư) bắc ngang sông Miếu Giang được Công Binh SĐ 3 phá huỷ lúc 4 giờ 30 chiều bằng 300 kg thuốc nổ. Đại Úy John W. Ripley, cố vấn TĐ 3 TQLC và Th/T James E. Smock, cố vấn Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh đã cố gắng làm chuyện này trong giờ phút căng thẳng nhất.
Trong hai ngày 1 và 2 tháng 4, sau nhiều lần tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Lâm (Carroll, Đồi 241) nhưng thất bại, quân CS bắt đầu bao vây căn cứ này và không ngừng pháo kích. Để tăng thêm áp lực tâm lý cho những người trong căn cứ Tân Lâm, TrĐ 38/ Pháo Binh (TrĐ pháo “Bông Lau”) của địch cho đại bác 130 ly, hỏa tiễn 122 ly bắn khoảng 240 viên đạn vào căn cứ Mai Lộc của TQLC. Chỉ có khoảng 30 quân nhân cùng các cố vấn Mỹ được một trực thăng CH- 47, sau khi tiếp tế đạn cho Mai Lộc, đến giải cứu. Khoảng 400 người khác tự mở đường máu thoát thân, trong đó có các quân nhân Thiết Giáp, các pháo thủ của TQLC và PB/ QĐ I.
Lúc nhận được tin căn cứ hỏa lực Tân Lâm đã vào tay giặc thì căn cứ hoả lực Mai Lộc của TQLC ở phía Nam Tân Lâm cũng đang bị pháo kích dồn dập. Bộ Chỉ Huy LĐ 147 TQLC ở đây nhận định khi Tân Lâm đã mất thì Mai Lộc sẽ là mục tiêu kế tiếp. Nếu bị tấn công thì căn cứ này sẽ bị thiệt hại nặng vì đã mất hỏa lực yểm trợ từ căn cứ Tân Lâm. Đêm 2/4, BCH/ LĐ 147 ở căn cứ Mai Lộc cho pháo binh bắn hết số đạn còn lại, phá hủy súng rồi cùng TĐ 2 Pháo Binh (Thiếu Tá Đặng Bá Đạt làm TĐT) và TĐ 4 TQLC băng rừng về hướng QL 1 phía Nam Đông Hà.
(Hai ngày sau, Lữ Đoàn 258 TQLC ra thay thế, LĐ 147 được đưa vô Huế tái bổ xung và trang bị. Ngày 23 tháng 4, lữ đoàn này ra trận đánh tiếp.)
Cũng trong ngày 2/4, TĐ 6 TQLC ở căn cứ Holcomb, trước mức độ tấn công của địch cũng được lệnh triệt thoái về căn cứ Phựợng Hoàng (Pedro) hướng Tây Nam căn cứ Ái Tử khoảng 7 km.
Trưa ngày 2/4, các đợt pháo kích chưa từng có của CSBV xen kẽ các cuộc tấn công đã gia tăng thấy rõ. Vào lúc này thời tiết lại quá xấu nên Không Quân Việt và Mỹ chẳng thể yểm trợ hữu hiệu cho quân bạn. Thêm vào đó, từng đoàn dân chúng chạy nạn trộn lẫn vào các đơn vị đang hành quân. Điều này khiến các đơn vị bị bó tay, không thể chiến đấu có hiệu quả, cũng như gây trở ngại rất nhiều trên các trục lộ. Ngoài ra, cũng có không ít các tiền sát viên pháo binh CS trà trộn trong làn sóng người chạy nạn.
Chiều ngày 2/4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB cho thiết lập tuyến phòng thủ di động khẩn cấp từ khu vực Nam Đông Hà đến Tây Ái Tử, kéo dài từ bờ Nam sông Miếu Giang đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Đồng thời Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của sư đoàn ở căn cứ Ái Tử cũng hoàn tất việc dời về Bộ Tư Lệnh tại Trại Đinh Công Tráng trong cổ thành, ngoại ô thị xã Quảng Trị. Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh trực thuộc SĐ 3 do Tr/T Nguyễn Văn Tá chỉ huy thì bảo vệ toàn khu vực thị xã. Trung Đoàn 2/ SĐ 3 BB của Tr/T Huỳnh Đình Tùng nhận lệnh về bảo vệ Đông Hà cùng TQLC và Thiết Đoàn 20/ Chiến Xa; Trung Đoàn 57/BB của Tr/T Nguyễn Hữu Cương trước đó cũng được lệnh rút quân khỏi Gio Linh về lập tuyến phòng ngự từ bờ Nam sông Miếu Giang, từ Đông Hà ra Cửa Viêt. Riêng Thiết Đoàn 17 KB của Tr T Nguyễn Xuân Dung (?) thì cùng Lữ Đoàn 258 TQLC của ĐT Ngô Văn Định và TĐ 3 Pháo Binh TQLC của Th/T Trần Thiện Hiệu được lệnh trấn giữ quanh căn cứ Ái Tử, thiết lập các vị trí án ngữ ở căn cứ Phượng Hoàng phía Tây Nam – Ái Tử.
Lữ Đoàn 369/ TQLC do Đại Tá Phạm Văn Chung chỉ huy, từ ngày 1/4 đã nhận lệnh sẵn sàng cho chiến trường mới. Ngày 2/4, toàn bộ Lữ Đoàn (LĐ) 369/ TQLC được không vận ra Phú Bài với nhiệm vụ:
Thiết lập một tuyến ngăn chận ở phía Nam thị xã Quảng Trị khoảng 10 km. Chu vi khu vực phòng thủ này rộng khoảng 200 km2 bao gồm những căn cứ Anne, Jane, Barbara, Nancy, v.v.
Phòng tuyến này cũng được coi là nơi tập trung các nhu cầu tiếp vận cho chiến trường phía Bắc Quảng Trị. Tuyến án ngữ của LĐ 369 bắt đầu từ bờ Nam Cầu Đá trên sông Nhùng của thôn Trường Phước, xã Hải Trường quận Hải Lăng, mở rộng vô hướng Tây QL 1 khoảng 4km. Từ đây LĐ rải quân vòng về bờ Bắc cầu Mỹ Chánh, thuộc xã Mỹ Chánh quận Phong Điền. Lúc LĐ 369 TQLC tới Phú Bài khoảng 12 giờ trưa, đã có hơn 200 xe “GMC” các loại của Quân Vận thuộc Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, của TQLC và SĐ 1/ BB, v.v được huy động và chở trọn LĐ 369/ TQLC đến vị trí lúc 2 giờ chiều trong ngày 2/4/1972.
x X x
PHẦN 2: BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀ TUYẾN ÁN NGỮ PHÍA TÂY QUẢNG TRỊ THÁNG 4/1972.
Ngày 3/4, Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường cho mặt trận Quảng Trị:
1. Liên Đoàn 5 BĐQ với ba Tiểu Đoàn 30, 33, 38. Liên đoàn này đang hành quân ở hướng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh thì nhận lệnh khẩn cấp tập trung về căn cứ Trảng Lớn trong vòng ba giờ. Sau đó toàn liên đoàn được Sư Đoàn 3 Không Quân không vận ra phi trường Phú Bài khoảng 7 giờ tối trong ngày. Suốt đêm 3/4, Liên Đoàn 5 BĐQ được xe Quân Vận, thuộc BCH 1Tiếp Vận, đưa đến căn cứ Hòa Mỹ (tên cũ Camp Evans) nằm sát bên trái QL 1, phía Bắc thành phố Huế khoảng 24 km để được trang bị bổ xung tối đa.
2. Liên Đoàn 4 BĐQ với hai Tiểu Đoàn 43 và 44 với Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Hưng Phê; Thiếu Tá Liên Đoàn Phó Nguyễn Hạnh Phúc. Liên Đoàn 4 cũng đang hành quân nơi hướng cực Bắc tỉnh Prey Veng, Kampuchia thì được lệnh vượt biên giới về tập trung tại Thiện Ngôn (nơi gần nhất ở vị trí hành quân). Từ đây xe Quân Vận đưa đoàn quân này đến phi trường Trảng Lớn, cùng họp chung với BCH LĐ 5, nhận đặc lệnh hành quân và bản đồ tỉnh Quảng Trị. Suốt đêm 3/4, máy bay vận tải C 130 của Sư Đoàn 3 Không Quân đã đưa Tiểu Đoàn 43 và 44 và BCH/ LĐ 4 BĐQ đến Phú Bài.
(Riêng TĐ 42 thuộc LĐ 4 của Thiếu Tá Đặng Hữu Lộc làm TĐT, Đại Úy Giang Văn Xẻn làm TĐP thì ở lại Kampuchia vì đang bảo vệ bến phà Neak Loeung ở cực Nam tỉnh Prey Veng).
Sáng sớm ngày 4/4, TĐ 43 BĐQ tạm thời chuyển quân tới đóng dọc bờ sông Hương ở khúc thôn Vỹ Dạ, hướng Đông thành phố Huế khoảng 2 km. TĐ 44 và BCH/ LĐ 4 BĐQ tạm thời vào Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa gần Phú Bài, khoảng 16 km phía Nam Huế và cách Đông Hà khoảng 76 km.
3. Ngày 4/4, Liên Đoàn 6 BĐQ với ba Tiểu Đoàn 34, 35, 51 do Trung Tá Trịnh Văn Bé làm LĐT; Thiếu Tá Đào Trọng Vượng làm LĐP; Đại Úy Phùng Thanh Sơn làm Trưởng Ban 3. Liên đoàn này được không vận cùng một ngày với Thiết Đoàn 18, thuộc Lữ Đoàn III KB từ phi trường Biên Hòa. Lực lượng của LĐ 6 đến Phú Bài khoảng 3 giờ chiều và cũng tạm đóng quân trong Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa.
– Tiểu Đoàn 34 BĐQ với Th/T TĐT Đỗ Văn Mười, Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Trịnh Trân.
– TĐ 35 BĐQ với Th/T Huỳnh Thiên Mạng TĐT; Đại Úy Lê Văn Đễ TĐP.
– TĐ 51 BĐQ do Th/T Hoàng Vĩnh Thái l m TĐT; Đại Úy Đinh Trọng Cường làm TĐP.
(Ba ngày sau, toàn bộ LĐ 6 BĐQ được đưa ra phía Nam căn cứ Hòa Mỹ khoảng 1 km. Riêng TĐ 51 thì tăng phái cho Sư Đoàn 1 BB, được đưa tới căn cứ Hoàng Đế. (Tên cũ căn cứ hỏa lực King), Tây Bắc Huế khoảng 25 km thay thế một tiểu đoàn cuả Trung Đoàn 1/ SĐ 1 BB. Trong bốn ngày ở căn cứ này, TĐ 51 BĐQ đã hứng chịu những đợt pháo kích nặng nề của địch. Ngày 12/4, toàn bộ LĐ 6 BĐQ cùng ba TĐ 34, 35, 51 trở lại Phú Bài và được không vận đến Pleiku, tăng cường cho chiến trường Cao Nguyên ở Quân Khu II.)
4. Cũng trong ngày 4/4, Thiết Đoàn 18 Kỵ Binh, thuộc Lữ Đoàn 3 KB) do Tr/T Bùi Văn Lộc làm Thiết Đoàn Trưởng cũng được không vận từ Biên Hòa đến Phú Bài, đơn vị kỵ binh M 113 này cũng tạm phòng thủ trong Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa với BĐQ.
(TĐ 18 Kỵ Binh do được điều động khẩn cấp nên để lại một chi đoàn ở mặt trận An Lộc. Thay vào đó, một chi đoàn M 41 của Thiết Đoàn 15 Kỵ Binh được tăng cường cho Thiết Đoàn 18 để cùng ra Quảng Trị.)
Ngày 5/4, Liên Đoàn 1 BĐQ do Trung Tá Lê Phú Đào làm LĐT đang hành quân ở Quảng Ngãi cũng được lệnh khẩn cấp ra QL 1. Quân Vận cuả SĐ 2/ BB được huy động để chở hai Tiểu Đoàn 21 và 37 BĐQ ra quận Mai Lĩnh nhận trách nhiệm bảo vệ hướng Tây – Tây Nam thị xã Quảng Trị.
(Riêng Tiểu Đoàn 39 BĐQ của Th/T Lại Thế Thiết (Tây Thi) thì được giữ lại bảo vệ Bộ Tư Lệnh/ Quân Đoàn I (Trại Nguyễn Tri Phương) ở ngoại ô phía Nam thành phố Đà Nẵng. LĐ 1 BĐQ ra Quảng Trị lần này chỉ có LĐT, chức LĐP còn để trống. Hai vị tiền nhiệm trước đó là Tr/T Lê Bảo Toàn LĐT; Th/T Nguyễn Hiệp LĐP thuyên chuyển về Quân Khu III cùng một lần, Tr/T Lê Phú Đào nhận chức không lâu thì đơn vị ra Quảng Trị.)
5. Ngày 6/4, Đại Tá Trần Công Liễu, Chỉ Huy Trưởng/ Bộ Chỉ Huy Trung Ương Biệt Động Quân nhận lệnh ra Huế lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Biệt Động Quân. Tuy nhiên, quyết định này từ Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có tính cách tượng trưng hơn là vì nhu cầu thực tế của chiến trường. Từ ngày 12/4, ĐT Trần Công Liễu theo LĐ 6 BĐQ lên Pleiku rồi ông về Sài Gòn. Cuối tháng 4 đến giữa tháng 5, ĐT Trần Công Liễu đã trở ra Huế để đi thăm và khích lệ tinh thần các đơn vị BĐQ tại Quân Khu I.
x X x
Sáng ngày 4/4, Liên Đoàn 5 BĐQ cùng Thiết Đoàn 17 KB từ căn cứ Hòa Mỹ bắt đầu tiến quân ra Đông Hà tăng phái cho Lữ Đoàn 1 KB của ĐT Nguyễn Trọng Luật. Ngày 6/4, Liên Đoàn 4 BĐQ và Thiết Đoàn 18 Kỵ Binh cũng từ Đống Đa, Phú Bài ra phía Nam Đông Hà để tăng phái cho Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh. Hai Liên Đoàn 4 và 5 BĐQ phối hợp với hai Thiết Đoàn 17 và 18 Kỵ Binh thay thế TQLC và Tr Đ 5/ BB ở tuyến đầu. Vào lúc này, bên kia bờ Bắc sông Miếu Giang có 11 căn cứ đã rút bỏ, 53 súng đại bác các loại đã phá huỷ trước khi bỏ lại cho quân địch.
*Bộ Chỉ Huy LĐ 5 BĐQ do Tr/T Ngô Minh Hồng (78) làm LĐT; Tr/T Lê Văn Hòa làm Liên Đoàn Phó (không lâu sau đó ông tử trận trên trực thăng ở Sầm Giang); Thiếu Tá Steel cố vấn trưởng và một Đại Úy là cố vấn phó cho liên đoàn.
*Đơn vị đi đầu của LĐ 5 là TĐ 30 BĐQ do ThT Võ Mộng Thúy (Thủy Tiên) làm TĐT; Đại Úy Nguyễn Văn Nam (Hoàng Sa) là TĐP
(TĐ 30 BĐQ trong năm 1971 là đơn vị chiếm giải đầu cuả cấp tiểu đoàn xuất sắc nhất toàn quân).
Lúc tới thị trấn Đông Hà, TĐ 30 BĐQ cùng Chi Đoàn 1 (15 chiếc M- 48) thuộc Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, do Đại Úy Đặng Hữu Xứng làm Chi Đoàn Trưởng, rời QL 1 tiến về hướng Tây. Trục tiến quân của đơn vị này nằm phía Nam QL 9 khoảng 2 km. Khi tới gần Hương Lộ 559, cách Đông Hà khoảng 6 km về hướng Tây, TĐ 30 BĐQ và CĐ 1 Chiến Xa dàn quân trên những đồi sim theo trục Bắc – Nam. Ba đại đội cùng hai chi đội chia nhau trấn giữ các ngọn đồi, vị trí xa nhất từ BCH khoảng hơn 1 km. Đại đội còn lại và một chi đội thì bảo vệ BCH/ TĐ 30 BĐQ và BCH/ CĐ 1 trên đồi Quai Vạc, ngọn đồi cao nhất ở vùng Động Lôn. Phòng tuyến này nằm về phía Đông Nam Cam Lộ khoảng 4 km và hướng Nam QL 9 khoảng 2 km, kéo dài đến thượng nguồn sông Vĩnh Phước ở phiá Nam.
*Tiểu Đoàn 38 BĐQ do ThT Vũ Đình Khang (Alpha) làm TĐT; TĐP Đại Úy Vũ Ngọc Chiêu (?), cùng Chi Đoàn 2 (M- 113; TĐ 18/ KB) của Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích (Bắc Đẩu) phòng thủ ở phía Nam TĐ 30, tính từ bờ Nam thượng nguồn sông Vĩnh Phước. (Sông này chảy qua cầu Vĩnh Phước trên QL1, nằm giữa Đông Hà và Ái Tử trước khi nhập với sông Thạch Hãn ở hướng Đông.)
*TĐ 33 BĐQ do ThT Hà Kỳ Danh làm TĐT; Đại Úy Nguyễn Hồng Quang làm TĐP được giao trách nhiệm bảo vệ thị trấn Đông Hà. Phòng tuyến TĐ trải dài về hướng Tây thị trấn này khoảng 2 km, Chi Đoàn 3 M- 48 của TĐ 20 Chiến Xa do Đại Úy Đoàn Chí Sanh làm CĐT được tăng cường cho TĐ 33 BĐQ. (Riêng Đại Đội Trinh Sát 5 thì bảo vệ BCH/ LĐ 5 BĐQ và BCH Thiết Đoàn 20/ CX ở hướng Tây Nam Đông Hà khoảng 3 km. Hai chi đoàn chiến xa của TĐ 20 cùng phòng thủ chung với LĐ 5 BĐQ ở khu vực quanh Đông Hà được ThT Hoàng Kiều chỉ huy tổng quát.
Thiết Đoàn Phó TĐ 20 KB (Chi Đoàn 2/ TĐ 20 Chiến Xa của Đại Úy Phạm Quang Anh làm CĐT, Đại Úy Hà Mai Khuê là CĐP thì trấn giữ quanh khu vực căn cứ Ái Tử, nơi đặt BCH/ LĐ 1/KB; BCH LĐ 258 TQLC của ĐT Ngô Văn Định LĐT và TrT Đỗ Đình Vượng LĐP. Trước đó một ngày (3 tháng 4), Đại Úy Phạm Quang Anh bị tử trận, Đại Úy Hà Mai Khuê lên làm CĐT/ Chi Đoàn 2 Chiến Xa). Vào lúc này, BCH Tiền Phương SĐ 3 đã rời Ái Tử cùng với các cố vấn của sư đoàn. Tuy nhiên tại Trung Tâm Hành Quân trong Ái Tử vẫn còn những cố vấn (Team 155) cấp quân đoàn như Th/T David Brookbank (cựu phi công B- 52 lo về Không Trợ); Th/T Joel Eisentein (Hải Pháo); Th/T J. F. Neary (Truyền Tin Yểm Trợ), và Th/T Jon Easley cố vấn cho LĐ 258 TQLC.)
*Ngày 6/4, Liên Đoàn 4 BĐQ với hai Tiểu Đoàn 43 và 44 do Tr/T Lê Hưng Phê làm LĐT; ThTá Nguyễn Hạnh Phúc làm LĐP, được Thiết Đoàn 18 KB của Tr/T Bùi Văn Lộc (Đại Lộc) đưa ra rải quân lập phòng tuyến ở hướng Nam TĐ 38 thuộc LĐ 5 khoảng 4 km. Bộ Chỉ Huy LĐ/ 4 BĐQ và BCH TĐ 18 KB đặt ở bờ Bắc cầu Vĩnh Phước trên QL1.
*Tiểu Đoàn 43 BĐQ do ThT Kăng Tum Sơn làm TĐT; Đại Úy Trần Hữu Danh TĐP; Đại Úy Sơn Đos Trưởng Ban 3 vào lập tuyến phía Đông Nam căn cứ Tân Lâm khoảng 4 km (Tây Bắc Ái Tử khoảng 6 km). Vị trí này không có thiết giáp yểm trợ, thay vào đó Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh tăng cường một toán cố vấn về hải pháo và không trợ.
*Nối tiếp là TĐ 44 BĐQ của Th/T Vũ Văn Thi cùng một chi đoàn M113 của TĐ 18 KB đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, thế TĐ 1 TQLC của Th/T Nguyễn Đằng Tống; Th/T Đoàn Đức Nghi TĐP, cố vấn Đại Úy Lawrence H. Livingston
(Phượng Hoàng là một căn cứ có vị trí quan trọng, ở đây kiểm soát và ngăn chận đường vào thị xã Quảng Trị và căn cứ Ái Tử từ hướng Tây. Đến ngày 8/4, TĐ 44 BĐQ được lệnh rời căn cứ Phượng Hoàng để ra vị trí mới ở phía Tây cầu Vĩnh Phước. Căn cứ Phượng Hoàng sẽ được TĐ 33 BĐQ đến thay thế. Tuy nhiên, lúc TĐ 33 BĐQ còn cách căn cứ Phượng Hoàng khoảng 2 km thì được lệnh trở ra Đông Hà. TĐ 6 TQLC sẽ là đơn vị đến phòng thủ căn cứ này. TĐT/ TĐ 6 TQLC do Th/T Đỗ Hữu Tùng là TĐT; Đại Úy Nguyễn Văn Sử TĐP, cố vấn là Th/T William Warren và Đại Úy William Wischmeyer.)
*Liên Đoàn 1 BĐQ từ Quảng Ngãi ra Quảng Trị tăng phái cho Bộ Tư Lệnh SĐ 3 BB với hai TĐ 21 và 37. Sau khi nhận hàng trăm quả mìn chống chiến xa ở chi khu Mai Lĩnh, liên đoàn này có trách nhiệm bảo vệ hướng Tây- Tây Nam thị xã Quảng Trị, dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn. BCH/ Liên Đoàn 1 BĐQ đặt tại nhà thờ La Vang với Tr/T Lê Phú Đào LĐT; Trưởng Ban 3 Đại Úy Hồ Dzơn.
*Tiểu Đoàn 21 BĐQ do Th/T Quách Thưởng (Trùng Dương) làm TĐT; Đại Úy Nguyễn Văn Gio (Giang Sơn) TĐP; Trung Úy Trần Văn Quy (Bạch Mã) Trưởng Ban 3. Tiểu đoàn này đóng quân về hướng Nam Hương Lộ 556, phía Tây nhà thờ La Vang khoảng hơn 3 km, từ đây các đại đội lập tuyến phòng thủ kéo dài vào dãy đồi của Động Ông Đô.
*Tiểu Đoàn 37 BĐQ do ThT Võ Nhơn (Nam Hải) làm TĐT; Đại Úy Nguyễn Cảnh Nguyên (Nam Tà) làm TĐP; Đại Úy Phạm Thuận (Tam Phong) làm Trưởng Ban 3. TĐ lập phòng tuyến yểm trợ phía Nam TĐ 21 khoảng hơn 1 km, kéo dài đến hướng Bắc căn cứ Barbara.
(*Động Ông Đô là một dãy đồi thấp nằm theo trục Tây Bắc – Đông Nam, ở về hướng Tây Nam thị xã Quảng Trị khoảng 10 km. Khu vực đồi nhỏ nhấp nhô này xen lẫn các khe, suối nhỏ và có rất nhiều các lùm cây thấp như sim, trâm, dẻ, bụi dây tơ hồng,… mọc rải rác trên các đồi. Ngọn đồi trọc “trụi lủi” duy nhất và cao nhất ở đây là căn cứ hỏa lực Anne ở hướng Nam phòng tuyến TĐ 21 BĐQ, cao khoảng 275 thước. Căn cứ Anne vào lúc đó không có đơn vị nào phòng thủ, quân CSBV vẫn chưa chiếm).
Sau khi cầu Đông Hà bị phá sập CSBV quay vô hướng Tây, chiếm cầu Cam Lộ trên QL 9 với toan tính xuống đánh cắt ngang tuyến phòng thủ cuả Thiết Giáp, BĐQ, TQLC. Để phá vỡ phòng tuyến này, quân địch đã huy động năm trung đoàn bộ binh của hai SĐ 304 và 324, hai trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai trung đoàn pháo binh 38 và 48… chia ra làm năm mũi tấn công vào vị trí TĐ 30, TĐ 38, TĐ 43 (BĐQ), TĐ 6 (TQLC), TĐ 21 (BĐQ). (Tính theo trục từ Bắc xuống Nam.)
Lúc 7 giờ sáng ngày 9/4, sau đợt pháo kích kéo dài suốt đêm, một đoàn xe tăng khoảng 25 chiếc và khoảng hai tiểu đoàn bộ binh từ QL 9 tràn xuống tấn công vào vị trí TĐ 30 BĐQ ở Đồi Quai Vạc. Đơn vị của địch là TrĐ 88/ SĐ 308 BB và TrĐ 202 Chiến Xa. Dù được sương mù bao phủ, quân địch tuy ẩn hiện với đủ thứ “hoa lá cành” trên những đồi sim nhưng quân ta vẫn thấy rõ chiến xa địch dẫn đầu với khói xăng phun ra đen nghịt, bộ binh lúp xúp chạy theo sau. Th/T Võ Mộng Thuý và Đại Úy Nguyễn Văn Nam cho lệnh các đại đội vòng ngoài giữ vững vị trí phòng thủ, tập trung hỏa lực nhắm vào bộ binh địch, không được xung phong cận chiến để nhường xạ trường cho M 48 đối phó với T 54 của CS.
Ngay phát súng thứ nhất ở khoảng cách hơn 1.500 thước, viên đạn 90 ly từ nòng súng M 48 làm một chiếc T 54 bay pháo tháp và lăn xuống chân đồi, Chi Đoàn 1 Chiến Xa của Đại Úy Đặng Hữu Xứng đã làm địch sững sờ mất vài giây sau phát súng mở màn. Quân địch bắt đầu hò hét om xòm và ôm súng chạy “khơi khơi” lên vị trí của BĐQ trên những ngọn đồi. Suốt bốn giờ liền, các tay súng BĐQ của TĐ 30 với hoả lực cá nhân hùng hậu đã đè bẹp các đợt xung phong của địch. Trong khi đó, những chiếc M 48 quanh khu vực Đồi Quai Vạc thong thả bắn tỉa từng chiếc T 54 đang chạy tới từ phía xa.
Khoảng 9 giờ sáng trên bầu trời bỗng có thêm ba chiếc phản lực A 37 đến trợ chiến đúng lúc. Khoảng 11 giờ trưa, tiếng gào thét từ quân cộng sản không còn nghe nữa nhưng khói lửa từ 11 chiếc xe tăng T 54 đang bốc cháy thì thấy rất rõ. Chưa kể 4 chiếc khác trên đường chạy trốn đã phản lực A 37 của Không Quân bắn cháy. Khoảng 12 giờ trưa, đang lúc BĐQ và TG lo củng cố vị trí phòng ngự thì có ba chiếc xe tăng của địch bất ngờ từ dưới một khe suối rậm rạp phóng lên chạy vào phòng tuyến.
Đây là ba chiếc T 54 bỏ trốn tìm chỗ nấp vào buổi sáng lúc những chiếc khác bị bắn cháy. Đợi tới khi không còn tiếng súng, ba chiếc này tìm cách tẩu thoát nhưng vì mất phương hướng nên chạy vô ngay BCH/ TĐ 30 BĐQ. Trong vòng năm phút, hai chiếc bị BĐQ bắn hạ bằng M 72, trong khi chiếc thứ ba vì sợ quá nên địch quân nhảy xuống xe chạy trốn, bỏ lại xe còn nổ máy. Ngay sau đó, chiếc T 54 mới toanh cuả Nga Sô được anh em Thiết Giáp lái đưa về Huế trưng bày ở Phú Văn Lâu. Đây là chiếc xe tăng T 54 thứ nhất do TĐ 30 thuộc LĐ 5 BĐQ tịch thu được ở chiến trường Quảng Trị.
(Khi đưa về Phú Văn Lâu, vì LĐ 5 BĐQ là đơn vị tăng phái nên tấm bảng phía trước chiếc T54 này ghi là của SĐ 3/ BB tịch thu ở Cam Lộ.)
Khoảng 2 giờ chiều ngày 9/4, quân CS quay lại hò hét, xung phong lần thứ hai bằng biển người nhưng địch vẫn bị hỏa lực của BĐQ và TG đẩy lui. Tổng kết chiến trưòng lúc 5 giờ chiều trong ngày: TĐ 30/ BĐQ và CĐ 1 Chiến Xa có hơn 30 người tử trận, bị thương khoảng 50 người, 15 chiếc M 48 đều vô sự. Phía địch tổn thất gần 300 quân nằm quanh đồi Quai Vạc, bắt sống 3 tù binh tuổi thiếu niên (khoảng 15 – 16), 11 chiếc T 54 bị M 48 bắn cháy, 4 chiếc khác do Không Quân bắn cháy, 2 chiếc bị BĐQ trực tiếp triệt hạ và 1 bị BĐQ tịch thu. Vũ khí các loại thu được 227 súng cá nhân và cộng đồng gồm AK 47, B 40, B 41, mười súng “thượng liên” 12 ly 7 (tương đương đại liên 50 ly), 8 đại bác không giật 82 ly. (Đại bác ”sơn pháo” của Nga Sô.)
Cũng trong ngày 9/4, khoảng 7 giờ 30 sáng địch tấn công vào vị trí TĐ 38 BĐQ sau khi pháo kích suốt đêm. Tại hướng này, quân CS không có chiến xa yểm trợ nhưng bộ binh đông khoảng ba tiểu đoàn của TrĐ 24/ SĐ 304. Tuy nhiên địch không ngờ Th/T Vũ Đình Khang và Đại Úy Vũ Ngự Chiêu đã chia quân phòng thủ trên ba ngọn đồi liền, lập tuyến hình tam giác để có thể yểm trợ lẫn nhau. Tại mỗi vị trí đều được tăng cường một chi đội M 113 thuộc Chi Đoàn 2 thuộc TĐ 18 KB của Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích.
Dù ở vào vị trí bất lợi là từ chân đồi chạy lên tấn công, quân CS vẫn điên cuồng xua quân tràn tới, dĩ nhiên địch bị đốn ngã dễ dàng từ hỏa lực cá nhân của BĐQ và đại liên 50 ly của M 113. Sau ba lần xung phong bằng biển người nhưng vẫn bị đẩy lui, khoảng 2 giờ chiều quân địch phải bỏ chạy lúc lực lượng phòng thủ tung ra một cuộc phản công truy diệt. Quanh khu vực TĐ 38 BĐQ đầy những xác người của địch bỏ lại. Có khoảng 200 thiếu niên (tuổi từ 15 tới 17) miền Bắc đã bỏ mạng tại đây vì mệnh lệnh sắt máu của các cấp chỉ huy điên dại CSBV. TĐ 38 BĐQ và CĐ 2 KB tịch thu khoảng hơn 150 súng các loại, trong đó có 3 súng cối 82 ly, 8 đại bác không giật 75 và 82 ly, 9 đại liên 12.7,… Phía bạn tử trận 20 người, bị thương khoảng 50 người mà phần đông là do bị đạn pháo binh của địch.
Lúc 7 giờ sáng ngày 9/4, sau một đêm bị pháo kích nặng nề như những nơi khác, TĐ 43 BĐQ bị địch tấn công cũng bằng chiến thuật biển người.
(Vào tháng này, tuy ít mưa lớn nhưng hầu như vùng đất gần chân núi phía Đông dãy Trường Sơn ở tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên thường có sương mù dày đặc, bao phủ sát đất từ khoảng 5 giờ chiều đến 7- 8 giờ sáng hôm sau. Sau giờ này sương mù có thể tan loãng ở gần mặt đất, nhưng trên cao lại tụ những lớp mây thấp u ám nặng nề cùng với các cơn mưa phùn lạnh buốt cả người).
Cánh quân B với hai đại đội do TĐP Trần Hữu Danh chỉ huy là nơi bị tấn công trước. Dù quân địch nhiều lần cố tràn lên chiếm nơi đây nhưng liên tiếp bị đè bẹp trước sự gan lỳ của chiến sĩ TĐ 43 BĐQ. Khoảng 8 giờ sáng địch tung quân đánh luôn vào cánh quân A do TĐT Kâng Tum Sơn chỉ huy. Sau vài lần xung phong thảm bại, phía CS lùi quân xa khỏi tầm đạn để pháo binh bắn phủ đầu chừng nửa giờ vào quân bạn. Nhưng địch không ngờ, lúc buổi sáng do hai bên quá gần nên hải pháo của ta không bắn được. Lần này do chạy lui hơi xa để tập trung quân, chờ xung phong lần nữa, thì cũng là lúc toán cố vấn yểm trợ hỏa lực đã điều chỉnh xong tọa độ cho hải pháo sẵn sàng.
Khi vừa chấm dứt đợt pháo kích, địch đã gào thét hô xung phong vang dậy rồi đầy những bóng nguời từ phía Tây chạy tới…. chỗ chết. Khi tiếng la hét xung phong của địch còn chưa ngưng thì đạn đại bác từ ngoài khơi bắn vào đã nổ vang khắp các nơi, và toàn loại đạn nổ chụp từ trên cao. Chỉ trong vòng 10 phút ngắn ngủi, bãi chiến trường nơi đây không còn nghe tiếng la hét, chỉ còn thấy xa xa thưa thớt những bóng người chạy lảo đảo về phía Tây. Hải pháo cũng ngưng bắn lúc quân phòng thủ cho các toán quân nhỏ ra “thu dọn” chiến trường. Một viên Thượng Sĩ của địch chấp nhận đứng lại đầu hàng vì quá sợ hãi không chạy nổi.
Ngày hôm sau và hôm sau nữa, quân địch quay lại tấn công tiếp nhưng bị tổn thất nặng trước sự kiên cường của BĐQ và sự yểm trợ của hải pháo. Tuyến phòng ngự của TĐ 43 BĐQ từ ngày 14/4 về sau không còn bị bộ binh địch tấn công, nhưng vẫn bị những cơn mưa pháo dai dẳng của đối phương đổ vào đây như muốn trả hận cho TrĐ 29/ SĐ 304.
(Kể từ phần này, chúng tôi sẽ hạn chế không ghi tổn thất của hai bên thêm. Qua con số đã kể về hai TĐ 30 và 38 BĐQ sau trận đánh, người đọc có thể hình dung, phỏng đoán số quân bị tổn thất của địch qua lối đánh “lấy thịt đè người” thật man rợ của CS.
Số xác chết của lính CSBV bỏ lại quanh khu vực như đã kể, sau vài ngày đã được BĐQ đào hố chôn lấp vì mùi thối nồng nặc khắp vùng. Riêng vũ khí tịch thu của địch, vài ngày đầu còn tập trung cho xe chở về Ái Tử nhưng sau đó chỉ gom lại phá hủy tại chỗ, vì quá nhiều và cũng không có thì giờ cho việc đó trong lúc địch không ngưng pháo kích).
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment