Tuesday, August 8, 2017




 

Tôi hiểu Việt cộng là gì...

 

 





Tôi hiểu Việt cộng là gì...



Tôi hiểu Việt cộng lần đầu tiên là khi tôi khoảng bốn hoặc năm tuổi, vào khoảng năm 1978-79.
Việt cộng vô nhà tôi tịch thu đồ đạc, họ lấy chiếc xe đạp có bánh xe mập màu trắng mà khi đó tôi đang tập chạy.

Tôi còn nhớ khi đó tôi khóc rất thê thảm, trong lòng thật sự cảm thấy đau đớn oằn oại, cảm giác mà sau này đọc "The Thorn Birds", tôi có thể đồng cảm với cô bé Meggie trong đó, khi cô bé này bị mất con búp bê.

 photo o-142732610-facebook_zpsugywpeo8.jpg Đối với một đứa trẻ nhỏ thì chiếc xe đạp, hay con búp bê, là cả thế giới của họ.
Việt cộng đành lòng nào mà vô giựt như vậy, sau khi đã lấy nhiều nhà cửa, đất đai, của gia đình tôi!

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tuổi thơ tôi đã mất đi theo chiếc xe đạp bị đánh cắp.
Mẹ tôi không nói gì, sau đó chỉ nói:

— "Sao con lại khóc trước quân thù, kẻ thù?"

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Trước đó, tôi có kẻ thù nào đâu, con nít năm tuổi làm gì biết kẻ thù là gì.

Nhưng sau đó thì tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.


 

 

Giải phóng hay ăn cướp?

 




Giải Phóng Hay Đi Ăn Cướp?

* Chúng nó rêu rao rằng chúng nó đi giải phóng miền Nam.

“Giải phóng” xong, tài sản nhà cửa của người VNCH bị chúng chiếm đoạt tất cả rồi chia nhau hưởng!

* Chúng rêu rao rằng chúng đi làm cách mạng là để xây dựng một xã hội công bằng.

Chúng đã xây dựng cái “xã hội công bằng” đó như thế nào?

Sau 30/4/1975, bằng nhiều hình thức, chúng tịch thu nhà cửa tài sản của người Miền Nam.

Nếu chúng nó là những người đi giải phóng chân chính, thì những tài sản đó chúng tịch thu rồi trao lại cho dân nghèo miền Nam, cho những kẻ không nhà, hoặc dùng vào những lợi ích dân sinh…
Nhưng không! Chúng chia nhau hưởng những tài sản chúng cướp đoạt đó và ngang nhiên trở thành giai cấp giàu có cho tới bây giờ đã gần 40 năm!

* Chúng nó rêu rao rằng chúng nó đi giải phóng miền Nam.

Cướp đoạt tài sản, nhà cửa xong, chúng còn tống khứ những người Miền Nam nghèo khổ đi “kinh tế mới” là những nơi khô cằn sỏi đá, phèn chua nước mặn, rừng thiêng nước độc, địa dư ám khí, để chúng chia chác nhau tọa hưởng thành quả “giải phóng” của chúng!

* Chúng nó đi giải phóng hay đi ăn cướp?

Sau khi chiếm được Miền Nam, Việt cộng ra lệnh đổi tiền... Mỗi gia đình chỉ được đổi 350 đồng. Tiền cũ còn lại vô giá trị... Người dân miền Nam không có tiền để sống, phải bán tài sản nhà cửa để sống, lớp đi vượt biên đường biển, lớp đi vượt biên bằng đường rừng, lớp đi vùng "Kinh Tế Mới" - Người Thành Phố ra rừng ở - bọn Việt cộng trong rừng ra - Người Rừng về thành phố ở - bỗng dưng có tiền mua không "Cưỡng Chiếm" nhà cửa của người thành phố...

* Chúng nó đi giải phóng hay đi ăn cướp?

Miền nam Việt Nam được cai trị bằng một lũ Người Rừng...

Những điều này không ai có thể quên được, lớp trẻ sinh sau năm 1970 không chứng kiến sự độc ác này.


https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20121108181554AAA18Nn



 

 

1
Ngày chúng nó vào đây

 




 photo chuacuteng noacute_zpsozedkfuk.jpg

 

2
Vào vơ vét về

 

3

 photo hogravea bigravenh trong tagraven nhn_zpsexe5ksyz.jpg

 

4

 

5

 

 photo thng tiacuten_zpsrezxg49y.jpg

 

6






 

 



 photo sau 1975 b VC saacutet hi_zpsnrsbgy1g.jpg

 photo t thng_zpswiioelf0.jpg

 

 

 

Đảng viên Việt cộng Đỗ Mười phát biểu

 photo 2015 - 1 14_zpsriw1oa7w.jpg

 

 







Làm Thinh



Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.

Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con - vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi - ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà!
Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan chính quyền v. v… Họ hay nói với nhau: “Vợ chồng ông Lê thật dễ thương”.

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie - người quản gia - rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.

Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: “Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy”.
Ông Lê giới thiệu:

— “Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia”.

Sau đó, ông nói:

— “Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho”.

Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói:

— “Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm”.

Ông Jean Marie hỏi:

— “Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ?”. Ông Lê trả lời như không trả lời:

— “Mẹ tôi ở Paris”.

Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa-long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng.
Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.

Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước - cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản - ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sài Gòn. Ông giao du rộng, lại “biết cách giao du”, thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của chính phủ và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

Ông thường nói: “Hồi tôi từ Đà Nẵng vô Sài Gòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẵng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết.
Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết”.

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: “Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền!”.

Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói: “Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng”. Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.

Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói:

— Trời ơi! Mấy bả đi hết rồi kìa! Ông cười:

— Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, “họ” đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không? Tôi bình chân như vại!

Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp 'cách mạng' qua ngả thằng cháu - cũng gốc liên khu năm như ông - đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng “bị” mời đi “làm việc” như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng “lá bùa” đó không linh! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng.

Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để “làm việc”. Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần “làm việc” cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược!

Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa “nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo”. Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc “đổi đời vĩ đại” này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi!

Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: “Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được!”. Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa.

"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dãy nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời!” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ được chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai?

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?

Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù:

– Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì? Phải không?

Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi! Gã còn nói như ra lịnh:

– Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ?

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa: ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng!

Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ - có ba dãy nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân - và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng? v. v... đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông “phải” nghe.
Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở “chui rúc” trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng!

Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông:

– Tôi đã nhờ người quen trong tòa đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng “thần tượng” của thời trước chỉ còn là một cái bóng! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu… Đúng là một sự “đổi đời vĩ đại”!

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại.

Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng:

– “Cha mày!”.

Rồi tiếp:

– “Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ!”

Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.

Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng Tư, nhứt là ở đoạn “mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần”. Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có “cái gì không ổn”, nhưng ông nghĩ: “Có lẽ tại nó ở bên này lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời”. Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu: – “cho tụi nó chết”.

Bỗng người con hỏi:

– Còn mấy thằng tướng ngụy?

Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:

– Mấy người đó thì ba không biết.

– Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nầy báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun!

Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống “tụi nó” y chang!

Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu.

Về đến nhà - ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu - ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói:

– Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê - giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt - không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư. Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.

Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:

– Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.

Khi bước qua xa-long để uống cà phê, ông Lê hỏi:

– Ba má định qua đây ở chơi bao lâu?

Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời:

– Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

Người con ngạc nhiên:

– Ủa? Sao lại ở luôn? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý!

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng: nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:

– Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?

– Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết!

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.

Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách “đầy đủ và trung thực”!

Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.

Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:

– Chị bác sĩ A, sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.

Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang:

– Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.

Ông nói “xin con cho ba”, đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.

Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!

Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời!

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằn trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ.

Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng “cám ơn”, nhẹ như hơi thở.

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang.

Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết! Vợ con: hết! Sức khỏe của ông rồi cũng sẽ hết! Hết! Hết!

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.

Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.

Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn:

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



 

 

1








data-orig-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn46-280x246.gif" data-orig-size="267,235" data-comments-opened="1" data-image-meta="{"aperture":"0","credit":"","camera":"","caption":"","created_timestamp":"0","copyright":"","focal_length":"0","iso":"0","shutter_speed":"0","title":"","orientation":"0"}" data-image-title="ARVN46-280×246" data-image-description="" data-medium-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn46-280x246.gif?w=300&h=264" data-large-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn46-280x246.gif?w=300&h=264" class="alignnone size-medium wp-image-6121" src="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn46-280x246.gif?w=300&h=264" alt="ARVN46-280x246" /> {"aperture":"0","credit":"","camera":"","caption":"","created_timestamp":"0","copyright":"","focal_length":"0","iso":"0","shutter_speed":"0","title":"","orientation":"0"}" data-image-title="maicongphai-02" data-image-description="" data-medium-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/maicongphai-02.gif?w=300&h=209" data-large-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/maicongphai-02.gif?w=314" class="alignnone size-medium wp-image-6122" src="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/maicongphai-02.gif?w=300&h=209" alt="maicongphai-02" width="300" height="209" /> nhatpham-3 qt-doanduongchienbinh qt-hothanhdanh-khang qt-tuquai-83c quanaochoem quangtrung-86d thanh-toan-qt tks-buiductinh tks-nguyenphuc-83c tks-nguyentoan-buihuuthanh tks-nguyenvandiep tl-qt-12 tl-qt-12 (1) Vuot-Cau-Treo 3 50ae17ea_778e6fc0_những người lính việt nam cộng hòa tại sài gòn với quân trang là bàn chải đáng răng cùng tạp chí khiêu dâm kiểu playboy 1968. 84D TTHL Quang Trung 207eu4 8003_433543836744288_135805056_n 9402_430187307079941_576899079_n 9665_468166196615385_1240173561_n 67718_433418903423448_816477394_n 383806_475502499140265_1952791884_n 541672_442027732562565_756546678_n 547751_485473294884675_1675287166_n 580237_433906110041394_603530448_n 936645_1526616680891729_5787838307232051250_n 943515_420077764757562_411891764_n 945677_435184766580195_297379493_n 1009835_445892052176133_1383157456_n 1011421_426326770799328_1892576595_n 1017717_441254849306520_977560946_n 1069931_438807372884601_1265233573_n 1239852_465664883532183_956148223_n 1374346_478036725628332_760287648_n 1380615_475702399195098_899985948_n 1383756_476236865808318_780395757_n 1384275_474555262643145_1656881396_n 1385285_482069805225024_347651168_n 1457615_495975767167761_1594472259_n 1458589_501902186575119_1605249320_n 1462998_497693113662693_1039991605_n 1471990_492035267561811_195020465_n 1476189_499140413517963_1781309283_n 1506449_1947909712016405_1761139106305338047_n 1656366_1439528252958182_7874350951101324592_n 1959439_562945390470798_4963812328665093205_n 10006496_547441295354541_1068555082_n 10250326_1470101249904793_4735314239235444268_n 10301953_1519920804898185_5265294628368237003_n 10325175_1519920608231538_8718672105978128968_n 10333411_786137461398965_7151884907568981300_o 10338307_260030197537505_2309908259383135183_n 10342917_238231946371454_4255706383888476175_n 10344774_1519920664898199_8757292769614009123_n 10347186_1519921068231492_2596104073495513099_n 10352381_1519921014898164_2757909622580429263_n 10353044_1519920554898210_1248424790338845179_n 10377546_591206987644638_1501838833885387444_n 10377986_1535715853318680_9069263612077157323_n 10385277_1527342530822679_4577587513889305792_n 10393848_1519920454898220_6764779757421127083_n 10402704_1519920498231549_4295069515935629954_n 10402887_1519920241564908_8401817264750203943_n 10403282_1519920634898202_6699190282294481410_n 10403580_1470759819838936_7057266470112378717_n 10407007_1531765667047032_5120335387705132027_n 10410302_1519920251564907_6269951364079819612_n 10411804_482323191912228_4856028635876272545_n 10415577_1519920678231531_8896576428068505636_n 10415642_675782342476347_4270673525519204328_n 10421429_1519920708231528_1995124765745619528_n 10421429_1519920708231528_1995124765745619528_n (1) 10428504_584719698293367_639571346622071374_n 10430845_1460981867483398_7426089347812388489_n 10440107_1519920128231586_6881893145632330161_n 10443440_260029914204200_8482629506000134912_n 10443506_260030007537524_4209169686038323864_n 10452357_1529490997274499_1978610138136371820_n 10455351_482323868578827_1419843937228265695_n 10457961_1519940734896192_6799996916452387068_n 10458365_1530098630547069_9099959845883224393_n 10462973_1519920621564870_2838209835743064613_n 10463004_1519920691564863_8232749077258069686_n 10463916_1519920411564891_9195720176566409532_n 10464159_1529491040607828_3881340224686498835_n (2) 10475259_260029947537530_6935563878648178421_n 10479233_1531763530380579_3937498404469146770_n 10480992_1519920424898223_1357282819058614515_n 10482430_1470101353238116_9168861744314031506_n 10485366_519724521462865_5547915059216396801_n.ANH, CẦU XIN CHO ANH ĐƯỢC BÌNH YÊN NƠI CÕI VĨNH HẰNG 10485725_1519920298231569_4814653274766793958_n 10487400_1519921074898158_7571216456717731491_n 10488213_1519920731564859_2972045745691184134_n 10491248_586425738122763_3785569014834079085_n 10492372_1519920431564889_2409889071305244361_n 10501604_1531765253713740_6684621283783070751_n 10511162_1531765567047042_6563272535308308886_n 10521063_1527342057489393_7126589686078846806_n 10521719_1460276770887241_892934501_n 10523976_1409876699234691_2167597938025749362_n (2) 10524350_645514188889569_3686074877986707569_n 10532368_1529490937274505_1170111123402748961_n 10533557_328674703964476_1693063778432422038_n 10534479_1532702696953329_5768828211357901187_n 10536920_684659341609155_8089924134257836636_n 10543635_1531763670380565_3949986830911073826_n 10544794_1529490973941168_5267692325911910_n 10547527_1530098553880410_6321005454420196780_n 10551856_1460276320887286_1276181219_n 10552567_1528016967418367_2830282716084165889_n 10557345_1470101293238122_719159593783503484_n 10561603_1531838493706416_4363971003030150836_n 10561699_1530098593880406_7596650052632532864_n 10561802_1530098603880405_5128863624781915997_n 10563029_661796823894535_5088798911928346471_n 10563098_1540718142818451_5873352803964470772_n 10576934_337419139746515_2357600094603627066_n AI ĐẦU HÀNG NHƯNG TAO THÌ KHÔNG Ai ở lại chiến đấu thì đi theo tôi ARVN10-280x210 ARVN13-206x280 ARVN15-203x280 ARVN44-206x280 ARVN44-206x280 (1) ARVN45-205x280 ARVN47-205x280 ARVN48-205x280 ARVN52-144x280 ARVN55-180x280 ARVN61-203x280 ARVN62-203x280 ARVN63-117x280 ARVN111-280x210 ARVN491-134x280 ARVN501-130x280 ARVN511-129x280 ARVN531-117x280 ARVN541-163x280 ARVN571-280x273 ARVN_portrait2s ARVN_portrait5s ARVN_portrait8s ARVN_portrait11s ARVN_portrait12s ARVN_portrait13s ARVN_portrait14s ARVN_portrait16s ARVN_portrait17s ARVN_portrait20s ARVN_portrait21s ARVN_portrait22s ARVN_portrait23s ARVN_portrait24s ARVN_portrait25s ARVN_portrait26s ARVN_portrait37s ARVN_portrait44s ARVN_portrait44s (1) ARVN_portrait46s ARVN_portrait47s ARVN_portrait49s ARVN_portrait50s ARVN_portrait51s ARVN_portrait52s ARVN_portrait53s ARVN_portrait54s ARVN_portrait56s ARVN_portrait56s (1) ARVN_portrait57s ARVN_portrait57s (1) ARVN_portrait58s ARVN_portrait58s (1) ARVN_portrait59s ARVN_portrait60s ARVN_portrait61s ARVN_portrait62 avatar Minh KHoa Bà Ngô Đình Nhu Viếng Thăm Tỉnh Vĩnh Long 7-1962 Bạn tôi thân mến đã liệt oanh ngã xuống Biết bao nguời xong nợ xương máu không trở về biet dong quan Biệt Động Quân vì dân quyết chiến biệt kích nhảy toán ra bắc biệt kích nhảy toán ra bắc2 Chiensihaiquan-HS Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo 1 Coup3 Đại Tá Sơn Thương DaiTaHoNgocCan_HySinh (1) Đại-tướng-Dương-Văn-Minh-196x280 daklak1966bknungussf day tu than Di cư vào Nam bằng “Tầu Há Mồm” Đoàn Thanh Niên CÔNG Chức chào đón Bà Ngô Đình Nhu Viếng Thăm Tỉnh Vĩnh Long 7-1962 download download (1) download (2) download (3) download (4) download (5) download (7) dungco-72-black Gen-commons General_Normans GIA-LONG_81A1 GIA-LONG_ 81A Hiệp Sĩ Zoro trừ gian diệt bạo cứu dân lành. hinh-gialong hq14 images images (1) images (3) images (4) images (5) images (6) images (8) images (9) images (10) images (11) images (12) images (13) images (14) images (15) images (16) images (17) images (18) images (25) images (26) images (30) images (31) images (34) images (35) images (39) images (40) images (44) images (46) images (47) khoa8-72-qt le-qt-01 le-qt-02 LinhVNCH_2 Mũ Nâu, mầu áo hoa rừng Ngày 21 tháng 3 năm 1975 nguyên gia đình bị cộng sản bắn chết ở quốc lộ 1, gần đèo Hải Vân đang trên đường di tản ngoquangtruong Người lính 1 nguoi-linh-vnch-2 Nixon_inVNs qt-82b qt-loisong qt-loisong2 qt-thanh-hieu-thang-khoi quandoi56 quandoi64 svsq-vungoclinh-04 TaHuyThai_DD81AGiaLongDecember1972-500 Thiếu tá Lê Văn Mễ dang rộng tay Thống-tướng-Lê-Văn-Tỵ-186x280 Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_00.04_[2013.05.04_14.25.09] Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_01.36_[2013.05.04_14.24.01] Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_02.23_[2013.05.04_14.25.27] Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_02.45_[2013.05.04_14.25.34] Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_03.23_[2013.05.04_14.25.43] Tieng Hat Hanh Quan Xa Duy Khanh Thanh Tuyen .FLV_snapshot_03.45_[2013.05.04_14.25.50] tks-bien-01 tks-bien-02 tks-cong-kiet tks-hoanggiang-01 tks-hoanggiang-02 tks-hoanggiang-03 tks-hoanggiang-05 tks-LeminhThai-01 tks-LeminhThai-02 tks-LeminhThai-03 tks-LeVinhThanh-1 tks-LeVinhThanh-2 tks-LeVinhThanh-3 tks-luuvanquan-01 tks-luuvanquan-02 tks-nguyenhungquan-1 tks-nguyenhungquan-2 tks-nguyenhungviet tks-nguyenminhtu tks-nguyenminhtu-1 tks-nguyenquangthuat tks-nguyenuot-01 tks-nguyenuot-03 tks-nguyenuot-04 tks-nguyenuot-05 tks-nguyenuot-06 tks-nguyenuot-07 tks-nguyenuot-08 tks-nguyenuot-09 tks-nguyenvanhien tks-phananhnhut-nguyenphuc tks-phuoc tks-tam-tong tks-tangxuong-86f tks-trinhvanviet tks-viet-tri tks-vungoclinh-01
class="alignnone size-medium wp-image-6425" src="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/tc6b0e1bba3ng-c491c3a0i-thc6b0c6a1ng-tie1babfc-600x600.jpg?w=300&h=300" alt="Tượng-đài-Thương-Tiếc-600x600" srcset="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/tc6b0e1bba3ng-c491c3a0i-thc6b0c6a1ng-tie1babfc-600x600.jpg 235w, https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/tc6b0e1bba3ng-c491c3a0i-thc6b0c6a1ng-tie1babfc-600x600.jpg?w=150&h=150 150w" sizes="(max-width: 235px) 100vw, 235px" />


VN_war28s
data-large-file="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/vn_war29s.jpg?w=314" class="alignnone size-medium wp-image-6427" src="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/vn_war29s.jpg?w=300&h=200" alt="VN_war29s" width="300" height="200" srcset="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/vn_war29s.jpg?w=300&h=200 300w, https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/vn_war29s.jpg?w=150&h=100 150w, https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/vn_war29s.jpg 314w" sizes="(max-width: 300px) 100vw, 300px" />
hình ảnh Ngày 18 tháng 3 năm 1975 ARVN14-205x280
class="alignnone size-medium wp-image-6431" src="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn60-199x280.png?w=213&h=300" alt="ARVN60-199x280" width="213" height="300"

srcset="https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn60-199x280.png?w=213&h=300 213w, https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn60-199x280.png?w=107&h=150 107w, https://chieuanhquan.files.wordpress.com/2015/08/arvn60-199x280.png 223w" sizes="(max-width: 213px) 100vw, 213px" />



No comments:

Post a Comment