BÀI THƠ TRONG NGÔI MỘ CỔ
Vào năm 1994, khi khai quật một ngôi mộ cổ ở tỉnh Triết Giang Trung Quốc, người ta đã tìm thấy một bài thơ tình. Bài thơ này được khắc trên một tấm gỗ quí và được thiếu nữ nằm trong áo quan ôm trước ngực. Ngôi mộ được xác định là đã có khoảng chừng hai thế kỷ và người thiếu nữ khoảng chừng 17 tuổi. Vì bài thơ không đề tên tác giả nên người ta phân vân không biết nó là của cô gái đã sáng tác hay là của ai khác.
Bài cổ thi ngũ ngôn tứ tuyệt này không có đầu đề và được trình bày như sau:
*Nguyên tác:
君 生 我 未 生
我 生 君 以 老
君 恨 我 生 遲
我 恨 君 生 早
*Dịch âm:
Quân sinh ngã vị sinh
Ngã sinh quân dĩ lão
Quân hận ngã sinh trì
Ngã hận quân sinh tảo
* Khuyết danh
*Dịch nghĩa:
Chàng sinh, em chưa sinh,
Em sinh, chàng đã già.
Chàng hận em sinh muộn,
Em hận chàng sinh sớm.
*Dịch thơ:
BÀI THƠ TRONG NGÔI MỘ CỔ
Chàng sinh từ lúc em chưa sinh
Em sinh chàng đã hết ngày xanh
Chàng mang hờn oán em sinh muộn
Em hận chàng sinh trước tuổi mình·
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
dịch
CÁC MỐI LIÊN QUAN VỀ NGUỒN GỐC BÀI THƠ TRONG NGÔI MỘ CỔ
Khi đọc bài thơ trên tấm gỗ, giới khảo cổ và giới văn học đã thấy đây là một chuyện lạ, họ đoán thiếu nữ trẻ tuổi này đã qua đời vì một nguyên nhân đặc biệt nào đó có liên quan đến nội dung bài thơ cho nên giới văn học đã đổ xô truy tìm nguồn gốc của nó và cuối cùng họ đã biết được xuất xứ.
Bài thơ này không phải do người thiếu nữ nằm trong áo quan viết mà nó đã có từ thời nhà Đường.
Theo một truyền thuyết thì bài thơ này do một kỹ nữ nào đó ở đất Tần Hoài đã viết ra. Nó chỉ là khổ thơ đầu của một bài thơ có 4 khổ, được gom lại thành 8 câu.
Nàng kỹ nữ trẻ tuổi xinh đẹp này có quen một khách tình lớn tuổi. Tình cảm họ vô cùng sâu đậm nhưng vì cách biệt tuổi tác quá lớn, vì dư luận xã hội... họ không thể cùng nhau chung sống. Trước khi chia tay đi nơi khác, nàng viết bài thơ này trên một tấm lụa để tặng cho người tình vong niên.
Theo một tài liệu khác thì bài thơ được viết trên một chiếc quạt, nguồn này có vẻ hợp lý bởi vì do viết trên quạt, diện tích bề mặt có hạn nên bài cổ thi mới gom lại chỉ còn 8 câu thay vì phải trình bày 16 câu.
Còn về trường hợp thiếu nữ nằm trong áo quan có thể đã mắc phải mối tình bi thương nào đó, giống như người kỹ nữ xa xưa nên đã mượn bốn câu thơ để mang theo mình về cõi nghìn thu.
*Bài thơ đề quạt của người kỹ nữ như sau:
君 生 我 未 生 o 我 生 君 以 老
Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.
君 恨 我 生 遲 o 我 恨 君 生 早
Quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo.
君 生 我 未 生 o 我 生 君 以 老
Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.
恨 生 不 侗 時 o 日 日 與 君 好
Hận sinh bất đồng thì, nhật nhật dữ quân hảo.
君 生 我 未 生 o 我 生 君 以 老
Quân sinh ngã vị sinh , ngã sinh quân dĩ lão.
我 離 君 天 涯 o 君 隔 我 海 角
Ngã ly quân thiên nhai, quân cách ngã hải giác.
君 生 我 未 生 o 我 生 君 以 老
Quân sinh ngã vị sinh , ngã sinh quân dĩ lão
化 蝶 去 尋 花 o 夜 夜 栖 芳 草
Hóa điệp khứ tầm hoa, dạ dạ tê phương thảo.
*Dịch nghĩa:
Chàng sinh, em chưa sinh; em sinh chàng đã già
Chàng hận em sinh sau, em hận chàng sinh sớm.
Chàng sinh, em chưa sinh; em sinh chàng đã già
Hận không sinh cùng thời, ngày ngày vui bên anh.
Chàng sinh, em chưa sinh; em sinh chàng đã già
Em xa chàng chân trời, chàng cách em góc bể.
Chàng sinh, em chưa sinh; em sinh chàng đã già
Mơ hóa bướm tìm hoa, đêm đêm đậu nhành cỏ (*)
(Phương thảo: Là cỏ thơm, vì trái thanh vần nên tạm dịch là nhành cỏ)
Nếu bài thơ 8 câu trên được tách ra thành 16 câu, ta sẽ có bốn khổ thơ ngũ ngôn tứ tuyệt khá hoàn hảo như sau:
*Nguyên tác: *Dịch âm Hán Việt:
君 生 我 未 生 Quân sinh ngã vị sinh
我 生 君 以 老 Ngã sinh quân dĩ lão
君 恨 我 生 遲 Quân hận ngã sinh trì
我 恨 君 生 早 Ngã hận quân sinh tảo
君 生 我 未 生 Quân sinh ngã vị sinh
我 生 君 以 老 Ngã sinh quân dĩ lão
恨 生 不 侗 時 Hận sinh bất đồng thời
日 日 與 君 好 Nhật nhật dữ quân hảo
君 生 我 未 生 Quân sinh ngã vị sinh
我 生 君 以 老 Ngã sinh quân dĩ lão
我 離 君 天 涯 Ngã ly quân thiên nhai
君 隔 我 海 角 Quân cách ngã hải giác
君 生 我 未 生 Quân sinh ngã vị sinh
我 生 君 以 老 Ngã sinh quân dĩ lão
化 蝶 去 尋 花 Hóa điệp khứ tầm hoa
夜 夜 栖 芳 草 Dạ dạ tê phương thảo
*Dịch thơ:
CHÀNG SINH, EM CHƯA SINH.
Chàng sinh từ lúc em chưa sinh
Em sinh, chàng đã hết ngày xanh
Chàng mang hờn oán em sinh muộn
Em hận chàng sinh trước tuổi mình.
Chàng sinh từ lúc em chưa sinh
Em sinh, chàng đã hết ngày xanh
Hận sao không được sinh cùng lứa
Để được ngày ngày vui với anh.
Chàng sinh từ lúc em chưa sinh
Em sinh, chàng đã hết ngày xanh
Em xa chàng mãi chân trời vắng
Chàng cách xa em góc biển tình.
Chàng sinh từ lúc em chưa sinh
Em sinh chàng đã hết ngày xanh
Ước cùng hóa bướm tìm hoa đẹp
Sát cánh đêm đêm đậu cỏ nhành.
Thể thơ ngũ ngôn rất kiệm lời nhưng có sức chứa hàm ngôn rất lớn. Điểm nổi bật là tác giả đã sử dụng phương pháp lặp một cách có chủ ý. Trong lặp câu, đã lặp lại hai câu đầu trong suốt cả bốn khổ thơ để nhấn mạnh về sự nghiệt ngã phũ phàng của thời gian đối với sự xuất hiện của con người.
Trong thuật lặp chữ, tác giả đã dùng 15 lần chữ “quân” (chàng, anh), 12 lần chữ “ngã” (ta, em), 15 lần chữ “sinh”, ba lần chữ “hận” (oán giận, hờn oán)... hoặc các điệp từ/lặp chữ khác như nhật nhật (ngày ngày), dạ dạ (đêm đêm) v. v... Mặc dù sử dụng nhiều lần như vậy nhưng không gây nhàm chán mà trái lại đã tạo ý phong phú hơn cho bài thơ, gây nhiều âm vang và ấn tượng cho người đọc.
Ngữ thuật nghệ thuật này đã nhấn mạnh và nổi bật được sự việc không may mang đầy khổ đau ray rứt, tiếc hận của cả hai nhân vật. Bên cạnh đó phương pháp đối đã sử dụng như:
trì (muộn) – tảo (sớm),
thên nhai (chân trời) – hải giác (góc biển),
nhật nhật (ngày ngày) – dạ dạ (đêm đêm)...
Đã khiến cho ý tình bài thơ thêm sâu lắng và mênh mang.
Về cách cấu trúc câu và nghĩa chữ của bài thơ cũng rất đơn giản nên khi dịch ra, bài thơ gần như sát nghĩa với chữ Việt. Lời giản dị trong sáng, ngắn gọn nhưng cô đọng, hàm súc cho nên việc dịch cho đạt ý thì dụng công quả là không dễ.
Bài thơ có nội dung ý tưởng của nó mang hồn của cái bóng ẩn danh là thời gian. Thời gian là tấm gương soi, soi rõ được tâm hồn muôn nơi muôn thuở của nhân loại. Thời gian cũng cho ta thấy rõ được cái hay, cái đẹp, cái xấu, cái dở cũng như những suy tư, ước vọng, hy vọng, tuyệt vọng... những điều phức tạp của con người?”.
HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
Chàng sinh thiếp chữa chào đời.
Thiếp sinh chàng đã già rồi còn đâu.
Chàng buồn vì thiếp sinh sau.
Vì chàng sinh trước thiếp sầu nghìn thu.
bản dịch của Mai Văn Tạo.
7/21/2013 08:44:32 am
Lê Phước Dũng
12/27/2013 10:51:41 am
Phần bình bài thơ (4 khổ) thật tuyệt: Sâu sắc, súc tích dịch thơ khổ thơ đầu tiên với 2 bản dịch - lục bát và thất ngôn tứ tuyệt dưới tên TRẦN THU GIANG,
THƠ DỊCH:
Quân sinh ngã vị sinh
Ngã sinh quân dĩ lão
Quân hận ngã sinh trì
Ngã hận quân sinh tảo
Bản dịch thơ lục bát
Chàng sinh, thiếp mới chào đời
Thiếp sinh chàng đã già rồi còn đâu!
Chàng hận vì thiếp sinh sau
Chàng sinh chi sớm, thiếp đau kiếp này.
Trần Thu Giang
Bản dịch thơ tứ tuyệt
Thiếp mới ra đời, chàng đã sinh
Đời chàng đã xế, thiếp bình minh
Chàng hận sao thiếp sinh muộn thế
Chàng sớm sinh chi, thiếp hận mình…
Trần Thu Giang
- Chữ "dĩ" này tôi nghĩ không đúng tinh thần của bài thơ. Nó có nghĩa là lấy làm... lấy sự… như trong trường hợp "dĩ hòa vi quý" hay "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Chữ "dĩ" trong bài này phải dùng theo nghĩa "đã, rồi".
Chữ dĩ 以 ngoài nghĩa lấy làm... lấy sự… nó còn cùng nghĩa với chữ dĩ 已.
Ngày xưa hay dùng chữ 已 như chữ dĩ 以. Nó có nghĩa: Chỉ sự đã qua, lời nói về sự đã qua như:
dĩ nhiên 已然 đã rồi, dĩ nhi 已而 đã mà, v. v.
No comments:
Post a Comment