Xin mời quí vị quí bạn vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu, tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:
“Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn”.
“Ông ta muốn ám chỉ Trung Tướng phải không?
“Tôi cũng nghĩ vậy”.
“Trung Tướng có nói gì không?
“Không”.
“Đến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?
Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng chạy vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ, ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:
“Tôi đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu như tôi khước từ di tản”.
“Thiếu Tướng Smith có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng?
“Ổng được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi”.
“Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không Trung Tướng?
Trung Tướng Khuyên buông thỏng: “Giờ thứ 25”.
“Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không?
“Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon”.
Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Ngay sau bản tin ngắn ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ, tọa lạc bên trái đại lộ Thống Nhất (từ Dinh Độc Lập nhìn về hướng Thảo Cầm Viên).
Tôi xin dừng ở đây để thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu Đại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn dùng cơm, để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều là bạn thâm giao của cựu Đại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:
“Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?
"Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến”.
Phần cuối câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy.
Vẫn sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ 25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 48 tiếng đồng hồ!
Trở về văn phòng, đứng ở lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càng chân trực thăng chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành tại Sài Gòn ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở điểm là họ còn chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước họ ...". Thật lòng mà nói, lúc ấy tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc đời, mặc dù nó đang xảy ra trước mắt tôi!
Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn tiến, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Điện thoại xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước. Ông lên xe, nhìn thẳng phía trước, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?".
Ông không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nếu tôi không lầm, thì Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt, một lời từ biệt với biết bao nguy hiểm cho người đi lẫn người chưa đi!
Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của Giờ Thứ 25!
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:
“Trình Đại Tá, Trung Tướng đã vào gặp Thiếu Tướng Smith rồi”.
“Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi đang ở nhà tôi”.
“Ủa, anh không đi sao?
“Dạ không Đại Tá”.
“Anh có thể cho tôi biết là sau khi rời chỗ tôi thì Trung Tướng đi những đâu không?
“Rời văn phòng Đại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng số 3 ra đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Đi được một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Đi bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà”.
“Anh trông thấy nhiều người trong đó chớ?
“Đông lắm Đại Tá ơi! Đông nghẹt người lận”.
“Cám ơn anh, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào mừng ngày ấy thôi. Chào anh nhé”.
Vậy là, quí vị lãnh đạo đất nước Việt Mam vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội, đã lần lượt "rời bỏ Việt Nam" gần như theo hệ thống quân giai cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy:
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ "bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, lên phi cơ đi ngoại quốc!
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, lên phi cơ đi ngoại quốc!
Đại Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc!
Đầu giờ thứ 25, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ đi ngoại quốc!
Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để "đi ngoại quốc", thì quí vị Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng ra đi! Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên họ đành phải quyết định: Tự động tan hàng!
Tôi điện thoại cho Đại Tá Nguyễn Hồng Đài (con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về Phủ Tổng Thống:
“Anh Đài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc, vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô và một phần lực lượng của Quân Đoàn III thôi”.
“Được rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện thoại anh”.
Một lúc sau, Đại Tá Đài gọi tôi:
“Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham Mưu. Anh yên tâm”.
Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục Trưởng Cục Quân Vận (Đại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch. Tôi vào đề ngay:
“Trong trách nhiệm Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Điều đó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân mới thành lập với Đại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Đại Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Đại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng, cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Đoàn Biệt Động Quân cùng với vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận, thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục, tôi nghĩ là các bạn biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị, chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến với mình trong những ngày tháng sắp tới -
Sở dĩ phải nói lời chào ngay vì tôi thấy Đại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Đại Tá Cao Văn Phước, Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Đại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Đoàn Vận Tải và đi rồi.
Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Đoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Và một vài Đại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Đại Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:
“Chào Trung Tướng”.
“Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc”.
“Thưa Trung Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi, thưa Trung Tướng”.
“Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh”.
“Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy. Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ này, thưa Trung Tướng”.
“Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm nay”.
“Vâng. Chào Trung Tướng”.
Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Đời Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần Văn Ân, có lần nói với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong những trường hợp như vậy ông rất thích được phóng viên báo chí tiếp xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm, và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường.
`Tôi trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã cung cấp cho các vị chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức viết tay lệnh bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị Cục Phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.
“Bây giờ xin phép anh tôi về nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết”.
“Được rồi, anh về đi. Anh có cần xe mở đường không vì đường phố đông nghẹt người với xe cộ đó?
“Cám ơn anh. Không cần đâu anh”.
Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để sẳn sàng tấn công các đơn vị cộng sản nếu như trực thăng vận tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian bé nhỏ vừa tối lại vừa sáng!
Trong những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng động cơ phản lực chiến đấu, từng đôi từng đoàn, xé không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như vắng âm thanh đó thì họ cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến đấu vì Dân Chủ Tự Do!
Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy! Tôi xuống xe và chen nhau từng bước giữa khối người là người mới trở vào được trong khu cư xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục Tiếp Vận:
“Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm”.
“Được rồi. Có gì tôi gọi anh”.
Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám (đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.
Gần nửa đêm, Đại Tá Trương Đình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi:
“Trình anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền cho anh em theo họ”.
“Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được. Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm quyền. Anh hiểu tôi rồi hén”.
Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại (nhà tôi) reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc nảy, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ liên lạc với anh chưa?
“Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng”.
“Cố gắng nghe anh Hoa”.
“Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp tục được nữa, thưa Trung Tướng”.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp Vận điện thoại tôi:
“Thưa Đại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã lên xe đi rồi”.
“Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy anh?
“Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng đi mà không xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến) theo nữa”.
“Thôi được. Sáng sáng một chút, tôi tìm cách đến Tổng Cục hẳn hay”
Tiếp đó điện thoại lại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Đài đây anh (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài). Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975) "Ông Già" sẽ công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe”.
“Nhưng mà nội dung giải pháp là gì?
“Trung lập, như tôi nói với anh đó”.
“Vậy là tôi chuẩn bị. Cám ơn anh”.
Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến 2 điều cho vấn đề được rõ thêm.
Điều thứ nhất. Khoảng năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Đài tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu tiên tôi “bị” ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây theo trí nhớ của tôi.
Và điều thứ hai. Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi. Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc C130 sang Singapore để đi Australia, vì tôi được sự giúp đỡ của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc với cơ quan ngoại giao Australia tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng ngoặc.
Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến Tổng Tham Mưu. Đến, nhưng không được phép vào.
Chuyện như thế này: Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng Đại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung Tướng Vĩnh Lộc cử Đại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội- giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết. Đại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng. Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:
“Đại Tá thông cảm, vì lệnh của Đại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành”.
“Tôi hiểu. Bây giờ Đại Tá Thăng ở đâu vậy anh?
“Dạ Đại Tá Thăng dường như lên văn phòng Trung Tướng rồi Đại Tá”.
“Thôi được. Chốc nữa Đại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe”.
“Đại Tá thông cảm cho tôi nghe Đại Tá”.
“Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh đừng bận tâm. Tôi đi đây”.
Đạn đại bác của quân cộng sản nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh. Chúng tôi phải nép vào thân cây trước văn phòng Tổng Hành Dinh.
Sang trại Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu có ai gọi.
Qua điện thoại, Trung Tướng Vĩnh Lộc đồng ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Đô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận. Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời với các vị ấy. Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là 18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày -tôi nghĩ- ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng góp phần trách nhiệm về cái chết tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người!
Tại Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát -người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 thất bại- được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Đoàn 4 Không Quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di tản.
Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Đại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:
“Chuẩn Tướng Thân đâu rồi các bạn?-
“Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng xuống đó rồi bảo tôi về đi”.
“Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng chạy rồi”.
(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng trại tập trung Tam Hiệp, Biên Hòa, trại này người địa phương còn gọi là trại Suối Máu nữa)
Đại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi tôi:
“Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Đảo không? Hắn đang ở đầu máy bên kia nè”.
Đó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Đoàn III cho lệnh lui về căn cứ Long Bình.
“Chào anh Đảo, Hoa đây. Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi ở chỗ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi!
“Dù gì thì anh đã đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh khác mà”.
“Sao anh ở chỗ anh Minh?
“(Tôi mượn câu của anh để trả lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi”.
Sau đó -tức sau giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dùng giấy tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng giam.
Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ máy thu thanh trong phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự.
Tôi xem đây là giây thứ 3.600, giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu bảo vệ tự do dân chủ!
Thế là hết !!!
Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt, rẽ sang đường Trần Quốc Toản, ép bên phải để ghé vào Cục Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó, hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo:
“Không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ”.
Dọc đường về nhà, những nơi mà tôi vừa đi qua, có biết bao bộ đồ trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỷ của quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố. Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc ''Như Lá Chết Cành Khô'' do cựu Đại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Đổng Lý Văn Phòng của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình).
Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy đó đây trong trên đường phố Sài Gòn. Đó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ nói lên một cảnh tượng trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì chưa tròn trách nhiệm với dân với nước!
Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!) của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của cộng sản mới vào dinh Độc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị!
Trong lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh!
Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền lực, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn, và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng, hiểu thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành thất thủ. Đó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp nhận đầu hàng, của:
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. (Cần Thơ)
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. (Lai Khê, Bình Dương)
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, tự tử tại nhà vì tên tuổi Quân Đoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.
Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng.
Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, mỗi chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc chiến đấu của chúng ta, những vị đó đã can trường thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường võ bị: "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."
Và theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, là người rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng. Thiếu Tướng Đảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Đoàn, đã chống trả mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Đoàn quân cộng sản tấn công Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của Quân Đoàn III.
Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang!
Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã!
Quê hương Việt Nam chúng ta,
dân tộc Việt Nam chúng ta,
sao mà bi thảm đến như vậy!
sao mà bất hạnh đến như vậy!
Phạm Bá Hoa
Houston, tháng 3 năm 2009
(Trích trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ” nhà xuất bản Ngày Nay ấn hành lần 4 vào tháng 7 năm 2007)
https://hung-viet.org/a23977/gio-thu-25
Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.
Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.
Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.
Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng
Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.
Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.
Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.
Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.
Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.
Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.
Giữa cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.
Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rõ những trái sáng.
Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.
Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì anh đã nhắm mắt ra đi.
Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.
Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.
Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1.2.1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải. Không quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau.
Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã gào to lên:
- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.
Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.
Phạm Phong Dinh
No comments:
Post a Comment