Wednesday, February 21, 2018

Tiểu Đoàn 3 & 6 TQLC - Tiến về Quảng Trị

Một Cọp Biển

Ba mươi tháng ba năm 1972, quân Cộng sản Bắc Việt đã bất thần mở trận đại tấn công vào tỉnh Quảng Trị với 3 Sư đoàn Bộ binh, khoảng 4O ngàn quân cùng các loại chiến xa T54, T34, PT76, hỏa tiễn SA2, SA7 và dữ dội nhất là hỏa lực của Sư đoàn Pháo với đại bác 13O ly nòng dài, bắn xa cả 3O cây số.

Sư đoàn 3 Bộ binh với sự tăng cường của một Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một Liên đoàn Biệt Động Quân chỉ cầm cự được có 31 ngày. Ngày 1/5/72, ta phải triệt thoái khỏi tỉnh Quảng Trị. Tất cả lực lượng đều lui về lập tuyến phòng thủ tại bờ Nam sông Mỹ Chánh, ranh giới Quảng Trị và Thừa Thiên.

Tại ranh giới này, quân sĩ của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã chận đứng tất cả mưu toan tiến xa về phía Nam của quân Bắc Việt, và đồng thời cũng đã mở nhiều cuộc tấn công giới hạn vào Hải Lăng và Mỹ Thủy, phía Bắc phòng tuyến Mỹ Chánh bằng phương tiện trực thăng và đổ bộ bằng tàu Hải quân. Những cuộc hành quân đột kích này đã khiến cho địch quân phải luôn luôn ở thế phòng thủ, không biết ta sẽ phản công vào chỗ nào và bất cứ giờ phút nào.

Ngày 27/7/72 Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh thay thế Sư đoàn Nhảy Dù đánh chiếm cổ thành Đinh Công Tráng, mục tiêu chính trong việc tái chiếm tỉnh Quảng Trị.

Kể từ lúc qua sông Mỹ Chánh, chỉ trong vòng một ngày quân ta đã tiến sát ngoại ô tỉnh lÿ. Và 3 ngày sau lực lượng của Sư đoàn Dù đã kiểm soát được toàn diện tỉnh lÿ, trừ khu vực Cổ thành Đinh Công Tráng. Ngôi thành cổ hình vuông, mỗi chiều chỉ 5OO mét nhưng lại xây bằng gạch nung cứng được bao bởi lớp đất dày trên 5 mét mặt thành, bao quanh là một lớp hào sâu, rộng khoảng 1O mét. Đây là Tiểu khu Quảng Trị, và trong suốt tháng 4/72 là bản doanh của Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh. Tướng Giai đã ra lệnh tăng cường tối đa vật liệu phòng thủ như hàng chục rào kẽm gai bao quanh chân thành. Trên mặt bốn bờ thành, binh sĩ Tiểu khu đã đào công sự phòng thủ với hàng trăm lô cốt kiên cố, cạnh Bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Trị, Trung tâm Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh đã được một Đại đội Công Binh xây cất kiên cố bằng gỗ, bằng sắt và trên nóc là 15 lần bao cát. Tất cả những công trình phòng thủ này đã để lại cho địch xử dụng. Gậy ông đập lưng ông!

Cộng quân đã lợi dụng những phòng thủ này để cầm cự với Sư đoàn Nhảy Dù trong suốt 2O ngày qua. Bốn Tiểu đoàn thiện chiến Nhảy Dù, kể cả Tiểu đoàn đã nổi danh tạo nên 6 sĩ quan cấp Tướng đã bị chặn lại dưới bức thành cổ này. Vào những giờ phút cuối bàn giao trách nhiệm, cấp chỉ huy của lực lượng Dù còn đẩy một toán quân lên bờ thành với hy vọng cắm được cây cờ! Tất cả đều hy sinh.

Nhận trách nhiệm tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, đoàn chiến sĩ Mũ Xanh có ngờ đâu là nhận trách nhiệm với quân đội, với lịch sử Việt Nam, danh dự to tát này đã được tạo nên bằng sự hy sinh của hàng ngàn chiến sĩ Cọp Biển.

Đại tá Ngô Văn Định, vị Lữ đoàn trưởng thâm niên nhất, được giao nhiệm vụ này, ranh giới đã được vẽ lại trên bản đồ: Bên phải quốc lộ 1 là trách nhiệm của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến thay thế cho Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đánh vào hướng Tây Nam, những đứa con của Thần Ưng một thời oanh liệt ở căn cứ Phượng Hoàng đã luân phiên chiến đấu trong suốt 4O ngày sau đó.

Tiểu đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến thay thế cho Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đánh vào mặt Đông cổ thành vào những ngày đầu, và chính những chiến sĩ Sói Biển trong ngày chót của chiến dịch đã may mắn leo lên bờ Cổ thành phía Đông mở đường cho quân ta kéo vào cắm cờ trong ngày 15/9/72.

Lữ đoàn 147 phía Đông, chặn địch ngang từ quận Triệu Phong ra đến bờ biển, Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến từ ngày xuống phía Nam quận Triệu Phong vẫn còn nằm lì ở đây chịu pháo để ngăn chận trục tiếp tế của Cộng quân từ phía Bắc vào Cổ thành. Việc tiếp tế phải thực hiện vào ban đêm qua sông Thạch Hãn nên rất hạn chế và khó khăn. Có Quái Điểu che chở sườn phía bên phải, các chiến sĩ Sói Biển yên lòng nhìn về phía Bắc. Cổ thành rêu phong chỉ còn cách xa có 4OO mét, cở 2 tầm đạn M16. Chỉ 2 tầm đạn súng tay, 2 Tiểu đoàn 3 và 8 Thủy Quân Lục Chiến đã luân phiên đánh 48 ngày ròng rã, tiến lên từng thước một, có ngày bò xa được vài chục thước, tối lại phải lui về chỗ cũ. Đại đội quân số 14O, chỉ 48 giờ sau còn lại 8O, lại phải lui ra bổ sung và tiếp tế. Pháo, cối từ bờ Bắc sông Thạch Hãn rót sang, 75 ly không giật, B4O, B41 từ trong bờ thành bắn ra như tên vãi.

Không thể đánh ban ngày, mọi hoạt động của ta, từ trên bờ thành cao địch đã quan sát rõ, mọi sự di chuyển đều là mục tiêu địch tập tác xạ đủ mọi loại súng. Một chiếc nón sắt đưa cao khỏi giao thông hào là đạn đủ loại tập trung bắn tới, một con chó hoang dại dột chạy ra chỉ vài phút sau là “chầu bác”.

Tin tức tình báo là 1 Trung đoàn địch cố thủ trong ngôi Cổ thành này, như vậy trên mặt thành phía Nam có ít nhất 1 Tiểu đoàn Bộ binh địch đào hầm chữ A trên bờ thành, mỗi thước đất có 1 tên địch nằm tử thủ, làm sao đẩy được tụi lính trẻ con cháu Bác Hồ nhất định giữ lời thề Sinh Bắc Tử Nam. B52 không đánh được vì quá gần quân bạn, Pháo binh không hiệu quả, bắn ngàn trái chỉ rơi 15 trái trên mặt bờ thành, tụi lính Cộng chui trong lỗ như chuột, trái nào may mắn rơi trúng miệng hố thì cũng chỉ sát hại 1 tên là cùng. Chỉ còn có bom là hiệu quả, phi cơ phải bay thật thấp, bất chấp hỏa lực phòng không, mỗi trái 5OO lbs phá được vài thước bờ thành. Phải xử dụng cả ngàn phi vụ mới đập nát bốn mặt thành, nhưng đập nát không phải là mặt thành sẽ bỏ trống để quân ta bò lên dễ dàng.

Bom trúng địch có chết, nhưng khi máy bay vừa hết bom rời vùng thì toán địch khác bò lên trám vào chỗ trống, lại đào hố, sửa lại nắp hầm. Bờ thành có mòn đi nhưng hàng rào hỏa lực lại được lập lại thật nhanh đan kín 3 mặt thành, một con chim không bay qua được.

Chính những khó khăn này đã làm cho quân sĩ Mũ Đỏ bị chặn lại xa bờ thành không tiến lên được. Họ đã từ bờ Mỹ Chánh tiến vào ngoại ô tỉnh lÿ Quảng Trị trong 7 ngày, nhưng 2O ngày sau Sư đoàn Nhảy Dù chỉ tiến được thêm có 5OO thước và bị chận lại. Cuối cùng Tướng Trưởng phải giao trọng trách này cho Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Bằng mọi giá phải áp dụng câu châm ngôn trên vào mặt trận này. Điều khó nghĩ của Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến là phải có một kế hoạch để có thể đạt được mục tiêu mà không phung phí xương máu của quân sĩ.

Trước hết là sử dụng hỏa lực tối đa của Không quân, Hải pháo, Pháo binh cơ hữu của Sư đoàn. Thứ hai là đánh chậm mà chắc, tiến được thì lên, không tiến được thì lui, không được hy sinh một cách vô ích. Có kế hoạch bổ sung tiếp tế và tải thương đầy đủ đáp ứng nhu cầu của chiến trường. Có đủ những yếu tố trên, sự chiến thắng là lẽ đương nhiên, có chăng là vấn đề thời gian... Cái thời gian đó đã kéo dài trong suốt 48 ngày đêm, kể từ ngày trám tuyến Nhảy Dù đến ngày cắm được Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên Cổ thành Đinh Công Tráng.

Ngay sau hôm lực lượng Thủy Quân Lục Chiến thay thế Sư đoàn Nhảy Dù, tôi đã theo chân Lữ đoàn trưởng 369 lên Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 để nhìn cho rõ sư điêu tàn của thành phố Quảng Trị. Xe vừa ngừng thì pháo 13O ly đã ầm ầm đổ xuống, những người lính Tiểu đoàn 6 đã nhanh nhẹn ẩn nấp vào những căn hầm nhỏ ở những góc nhà đổ nát. Còn chúng tôi đành ngồi xuống chịu trận mưa pháo mãi gần 1O phút, pháo ngớt chúng tôi mới được hướng dẫn vào Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6.

Thiếu tá Tùng, người hùng của chiến thắng căn cứ Phượng Hoàng 2 tháng trước, với thành tích hạ 12 chiến xa của địch. Anh đã 2 lần đem Tiểu đoàn 6 nhảy xuống đất địch tại Hải Lăng và Mỹ Thủy phá nát căn cứ địch rồi trở về nguyên vẹn. Bây giờ đơn vị anh là mũi dùi chính, đánh vào Cổ thành rêu phong đổ nát kia, anh cười nói với chúng tôi:

- Nghĩ sao với loạt pháo 13O ly chào đón vừa rồi ?

- Không có gì lạ cả, anh quên rằng những ngày ở Ái Tử chúng tôi đã từng chịu pháo dữ dội hơn nhiều. Ngày đó, cả Sư đoàn Pháo địch tập trung vào Ái Tử. Bây giờ trận địa quá rộng cho một Sư đoàn Pháo phải không anh ? Vài chục quả không ăn thua gì.

Sau đó anh đưa chúng tôi lên đài quan sát của Tiểu đoàn và chỉ cho chúng tôi những địa điểm đã kiểm soát được. Đó là sân thượng của những cái nhà 2 tầng đã bị sập, chỉ còn cái cầu thang bằng gạch đi lên từng trên, một bức tường được đục một lỗ châu mai để quan sát về phía Cổ thành. Đứng ở đây nhìn bao quát cả thành phố Quảng Trị, tôi không thấy gì ngoài gạch đá, tôn gỗ và ngói vụn. Không biết bao nhiêu bom đạn đã ném xuống cái thành phố khốn khổ này. Không nhìn thấy đường phố, không còn một căn nhà nhỏ nào nguyên vẹn ! Những cụm khói bốc lên khắp nơi, địch vẫn pháo thường xuyên vào những vị trí đóng quân của ta, xa hơn nữa về mé Đông chừng 7OO mét là cái Cổ thành đang chìm trong màn khói của phi cơ oanh kích.

Tôi rời đài quan sát, thầm thương xót cho người dân thành phố này. Nếu ta chiếm lại được thì đến bao giờ họ mới kiến thiết được ngôi nhà cũ ?

Hỏi thăm tình hình, anh Tùng cho tôi biết chung quanh bức tường kia phía ngoài 4OO mét vẫn còn rất nhiều chốt của địch. Ta và địch vẫn còn lẫn lộn trong những đống gạch vụn đổ nát, không thể vẽ ranh giới chính xác trên bản đồ. Chỉ những ông Đại đội trưởng và Trung đội trưởng mới biết ta ở đâu và địch đóng chốt ở chỗ nào. Chiều hôm qua, ta còn phát hiện một Tiểu đội của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù nằm sâu trong tuyến địch. May mà ta phát hiện trước khi trời tối nếu không sẽ bắn lầm. Tại tuyến đầu, lính gác ban đêm đều sẵn sàng lựu đạn, nghe tiếng động phía trước là ném ngay, đặc công địch đêm tối mò mẫm tìm cách đánh trộm, bên ta sơ hở là lãnh đủ.

Có một sĩ quan Tiểu đoàn 6 kể lại cho chúng tôi nghe, chỉ có một cái chốt địch mà Trung đội anh không tiến lên được bước nào trong mấy ngày liền. Trong đám bám chốt này có một tên đầu trọc gan lì và khôn lanh như cáo, tên đầu trọc này đã được binh sĩ Sư đoàn Dù bàn giao lại, y đã bắn hạ rất nhiều khinh binh của ta và của Tiểu đoàn Dù lúc trước. Mãi sau ta phải dùng cái lối đánh đặc công để tiêu diệt cái chốt này.

Mặt trận tại thành phố Quảng Trị cứ chậm chạp diễn tiến như vậy, chẳng có trận đánh nào lớn, địch không có đất để điều động xe tăng vào vòng chiến. Nhưng pháo địch vẫn là điều e ngại cho quân ta, ngày ẩn nấp chịu pháo, đêm chờ đón đặc công địch, lúc thuận tiện chiếm thêm vài căn nhà, lúc khó khăn lại lùi về vài thước.

Cấp cao ở xa, đâu có nhìn thấy tận mắt cái khó khăn của những Trung đội trưởng và Đại đội trưởng. Những ngày trên tuyến đầu của họ là những ngày đêm mất ăn mất ngủ. Ăn làm sao ngon giữa những cơn mưa pháo và lính bị thương đem về liên tiếp. Ngủ làm sao yên khi đêm nào địch cũng hò hét xung phong đôi ba lần ? Dẫn Đại đội lên tuyến đầu với quân số 14O, ba ngày sau bị thương một phần ba, phải lui lại về bổ sung. Đại đội nào ngon lắm thì cũng chỉ chịu đựng được 1O ngày, sau 1O ngày là quân số tác chiến sẽ hao phân nửa. Thượng cấp xài xễ sao không đánh mà tổn thất nhiều, thật ra nhiều lúc “chỉ giữ được cũng đã là anh hùng”, có ai hiểu cho nỗi khó khăn của những sĩ quan cấp nhỏ thế này!

Bốn Tiểu đoàn Bộ binh xa luân chiến trong suốt 4O ngày mới xua được hết địch chui trong cái Cổ thành khốn nạn này. Trong suốt 4O ngày đó, Đại đội nào đi xa nhất chỉ được 5OO thước, và cũng trong thời gian ấy có phía chỉ tiến lên được 2OO thước, 2OO thước bằng xương máu của binh sĩ.

Mặt trận phía Nam quận lÿ Triệu Phong cũng vậy. Hai Tiểu đoàn 1 và 2 của Thủy Quân Lục Chiến cũng thay nhau đánh cả tháng trời mà cũng không ai làm được Quận trưởng quận Triệu Phong.

Tất cả một Trung đoàn địch chui vào một cái bánh chưng mỗi bề 5OO thước, bằng cách nào phải đập cái bánh, làm tê liệt khả năng của địch và đuổi chúng chạy về bên kia sông Thạch Hãn. Chiến dịch 9O ngày tái chiếm lãnh thổ đã chầm chậm bước qua ngày thứ 8O, chỉ còn có 1O ngày mỏng manh nữa, phải làm sao thanh toán được cái bánh chưng Cổ thành Quảng Trị đổ nát kia.

Kể từ ngày qua sông Thạch Hãn, chỉ 1O ngày sau mình đã tiến gần, đã thấy ngôi Cổ thành Đinh Công Tráng, Sư đoàn Nhảy Dù đã chiến đấu trong 2O ngày mà chỉ bám được vào mặt thành, dựng vội một lá cờ để rồi bị đánh bật trở lại. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến lên thay thế đã chiến đấu ròng rã trong 8O ngày, chỉ đẩy được tất cả các chốt địch ngoài bờ thành vào trong, và điểm gần nhất cũng còn cách bờ thành 2OO mét. Trận đánh thật kỳ cục, cả một Sư đoàn dồn vào một mục tiêu mỗi chiều có 5OO mét, thượng cấp sốt ruột, người dân cũng nóng lòng chờ tin chiến thắng. Không thể chần chờ, Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến soạn thảo kế hoạch Phong Lôi, xử dụng tối đa hỏa lực trong 48 giờ liên tiếp, Không quân chiến lược B52 oanh tạc ngày đêm trải thảm bên kia sông Thạch Hãn tới Đông Hà, đập nát những dàn Pháo binh hỏa tiễn cùng những bộ chỉ huy, điểm tiếp vận của địch.

Hải pháo từ các chiến hạm ngoài khơi bắn vào các điểm tình nghi của địch suốt ngày đêm. Pháo binh 175 ly từ Phong Điền tăng cường quấy rối, đặc biệt ngôi Cổ thành được chiếu cố thật kỹ, 12 khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu đại bác 1O5 ly cơ hữu của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh tác xạ không ngừng một phút, pháo thủ chỉ được thay nhau ngủ vài giờ đồng hồ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một trái nào lọt ra ngoài bờ thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe vận tải dài chở đạn suốt ngày đêm trên lộ trình Đà Nẵng - Quảng Trị; đạn pháo để dọc lề đường quốc lộ 1 hàng cây số. Các xe của Tiểu đoàn Pháo binh cứ chạy ra vác về, khỏi phải làm phiếu lãnh. Tại điểm tiếp liệu Mỹ Thủy, xà lan chở đạn cũng đổ đầy bờ biển. Chưa bao giờ các pháo thủ được bắn xả ga như vậy. Có người đã ôm viên đạn nhưng không đủ sức nạp vào nòng súng và ngã xuống. Trong 48 giờ đồng hồ 4 Tiểu đoàn Pháo binh đã bắn đi 6O ngàn trái đạn. Có thể nói không thước đất nào là không có đạn rơi.

Bốn bờ tường thành được dành cho Không quân chiến thuật, các phi công phải lựa chiều bay ném bom sao cho trúng bờ thành có 5 thước bề ngang. Phải làm sao san bằng các bờ thành kia, làm cho nó càng thấp càng tốt, phải đập nát những cái lô cốt ở 4 góc thành, phải làm câm họng đại liên, thượng liên, phải tiêu diệt những tên Cộng quân điên cuồng đã tự khóa xích chân mình vào vũ khí để tử thủ.

Sau hết, phải nhờ đến một số bom “Mắt thần”, những trái bom nặng 5OO lbs điều khiển bằng Radar, đánh trúng bờ thành đã làm nhiều chỗ mòn đi quá nửa. Cái tường thành ngạo nghễ rêu phong chỉ còn thấp chừng vài ba thước, gạch đất ngỗn ngang. Nhưng giữa đống gạch vụn cao thấp đó vẫn còn đám con cháu Bác Hồ chui rúc trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu đựng được các loại pháo của ta. Cứ dứt pháo là địch lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt.

Cái bánh chưng khó nuốt đã được cắt làm hai, Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến giao cho mỗi Lữ đoàn một nửa: Nửa phía Đông thuộc phần của 147 với 2 Tiểu đoàn làm 2 mũi nhọn, Tiểu đoàn 8 từ Đông đánh qua, Tiểu đoàn 3 vào chính diện góc bên phải bờ thành phía Nam. Nửa bên trái phiá Tây là trách nhiệm của Lữ đoàn 258 gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6, Trâu Điên từ hướng Tây đánh vào, Ó Biển đánh chính diện, mục tiêu là cái bờ thành đổ nát. Tất cả sẵn sàng để chờ sau 48 giờ của kế hoạch Phong Lôi làm tê liệt khả năng chiến đấu của địch là tiến quân.

Tại căn hầm của Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu tá Cảnh chậm rãi nói với Đại úy Thạch, Đại đội trưởng Đại đội 3:

- Anh Thạch, tôi biết Đại đội anh mới lui về nghĩ có mấy ngày mà lại giao nhiệm vụ này thì cũng kỳ quá, nhưng trong Tiểu đoàn bây giờ, anh là Đại đội trưởng cứng nhất...

Thạch ngắt lời:

- Xin Thiếu tá cứ ra lệnh, tôi sẽ cố gắng.

Anh đã đoán được ý định của ông Tiểu đoàn trưởng. Anh chửi thề trong bụng: “Mẹ kiếp, bốc thơm tôi làm gì. Tên tôi là Thạch, Thạch là đá. Đá ném đâu chẳng được”.

- Tôi thì cũng muốn vậy, lệnh thượng cấp phải làm sao chiếm được cái thành trước mặt kia trước thời hạn ấn định. Chỉ còn 1O ngày nữa, kế hoạch Phong Lôi bắt đầu từ hôm qua, với bom đạn như vậy tôi hy vọng sức địch yếu đi nhiều. Tối nay anh đem Đại đội lên trám tuyến cho thằng H rồi tìm cách tiến sát vào cái chân thành kia trước khi trời sáng. Nếu không được thì lui về, đừng để trời sáng tụi nó nhìn rõ là hỏng việc.

- Tôi nhận rõ, tôi sẽ cho con cái “move” vào lúc nửa đêm. Xin Đại Bàng chỉ thị ngưng soi sáng vào lúc 12 giờ.

- Đúng, tôi sẽ làm như vậy. Chúc may mắn, anh cần gì thêm ban 4 sẽ lo cho anh.

Thạch chào ông Tiểu đoàn trưởng theo đúng lễ nghi quân cách, đàng sau quay rồi rão bước về vị trí đóng quân của Đại đội. Anh triệu tập ngay các Trung đội trưởng và ra lệnh chuẩn bị xuất quân. Nhìn các sĩ quan trẻ tuổi đã cùng anh chịu gian khổ trong mấy tháng qua, anh vừa kiêu hãnh vừa bồi hồi xúc cảm. Họ vẫn tin tưởng ở anh, họ cũng mệt mỏi chỉ muốn được nghĩ thêm ít ngày nữa, nhưmg họ cũng hiểu rằng quân đội là kyœ luật, lệnh phải được triệt để thi hành. Thạch trầm giọng nói:

- Tập họp ở đây, chắc anh em cũng đoán được việc phải làm. Lệnh Tiểu đoàn, chúng ta lên trám tuyến cho Đại đội 1 tối nay, và nửa đêm sẽ là mũi dùi chính tấn công cái bờ thành khốn kiếp ở trước mặt. Đây không phải là lần thứ nhất chúng ta làm chuyện này, nhưng lần này chúng ta phải làm cho được. Danh dự của các bạn, của tôi, của Tiểu đoàn và của tất cả những người lính Mũ Xanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, bao nhiêu bạn bè chiến hữu của chúng ta đã hy sinh chung quanh cái bờ thành đổ nát kia, các anh em nghĩ sao?

Những lần trước chúng ta không dám ủi bừa bãi vì thương xót sinh mạng người lính trẻ. Lần này là lần chót, chúng ta không làm được thì phải nhường vinh dự cho đơn vị khác. Không bao giờ tôi nói nhiều như tối nay, giờ thì chúng ta bàn kế hoạch đánh đêm nay.

Mục tiêu chẳng cần phải vẽ trên bản đồ, cứ nhắm mắt đi thẳng là tới cái hào sâu, băng qua được là tới cái chân thành đổ nát. Chúng ta không thể vừa bắn vừa xung phong như những trận đánh trước kia, 12 giờ đêm nay phi cơ soi sáng sẽ rời vùng, mình sẽ âm thầm bò tới, len lỏi qua những đống gạch đổ nát, giữ thật im lặng

Bây giờ anh em về chuẩn bị trám tuyến, xong còn vài giờ để ngủ. Cố mà ngủ chút nào hay chút nấy. Đúng 12 giờ xuất phát, đội hình như thường lệ: ông Thạch dẫn Trung đội đi tiền đạo, Tòa hữu vệ, Thanh tả vệ. Ông Phán đi với tôi và Trung đội súng nặng theo tiếp ứng, còn ông Phó nhòm từ bây giờ đến nửa đêm ông điều chỉnh pháo vào cái bờ thành đó. Sau 12 giờ đêm chuyển pháo xa hơn chừng 1OO thước và ngưng đạn soi sáng. Nhớ xử dụng “delay” càng nhiều càng tốt, ông rót được bao nhiêu trái lên bờ thành là đỡ từng ấy mạng binh sĩ hy sinh. Trăm sự nhờ ông đó.

- Thưa Đại úy, tôi sẽ làm hết mình.

Chưa bao giờ anh sĩ quan tiền sát trẻ tuổi thấy mình quan trọng như đêm nay.

- Thôi trước khi giải tán, ai còn thắc mắc gì cứ hỏi. Không có ai hỏi gì thì chúng ta chia tay về chuẩn bị di chuyển khi chặp tối. Điều chót tôi dặn kỹ là chỉ thị binh sĩ không có bắn vu vơ, cứ im lặng bò tới, làm sao đến sát cái bờ thành thì tung lựu đạn thật nhiều rồi leo lên bám chặt vào đó, đừng để tên nào leo trở xuống. Bám được vào đó là ta có thể tựa để bụng ngang hai bên. Điều duy nhất để thành công. Chúc anh em may mắn.

Đại úy Thạch bắt tay từng Trung đội trưởng, đến lượt Thiếu úy Thạch, anh nói:

- Ông cùng tên với tôi. Thạch là đá, đá thì phải cứng, tôi chọn ông đi tiên phong là thế. Tôi hy vọng ông làm được việc.

*

Đại úy Thạch ngồi dựa lưng vào một bức tường thấp, hỏi khẽ người lính truyền tin lúc nào cũng theo ông như bóng với hình: “Có tin gì của các Trung đội không ? Đưa ống nói cho tao”.

- Thạch Thảo, Thạch Sanh gọi.

- Thạch Thảo nghe Đại Bàng.

- Anh tới đâu rồi?

- Tôi nghĩ sắp đến cái bờ nước, nhưng không có nước nhiều, tối quá không thấy gì hết. Tôi chưa liên lạc được với thằng Xuân dẫn đầu, nó bò nhanh quá.

- O.K anh cho người tìm nó, tôi chắc anh chẳng còn xa lắm đâu. Tôi chờ tin anh, tạm dứt.

Thạch trả ống nói cho người lính truyền tin, anh đoán Trung đội tiên phong chắc đã tới sát cái hào kia. Xuất phát từ lúc nửa đêm, cả Đại đội anh mò đi trong bóng tối đã gần 3 giờ đồng hồ. Ba giờ đồng hồ với khoảng cách chưa đầy 2OO thước. Chưa bao giờ đoàn quân tiến chậm như vậy, cái may là cho đến giờ phút này con cái đều vô sự. Địch vẫn thỉnh thoảng pháo và bắn vu vơ, tuy ít hơn mọi đêm nhưng cũng làm chậm bước tiến vì binh sĩ phải tìm chỗ ẩn núp cho dứt cơn pháo rồi lại dò dẫm bò lên từng bước một.

Bỗng lúc đó có một loạt đạn pháo binh nổ chát chúa ngay trước mặt. Thạch giật mình cầm lấy ống nói:

- Thạch Thảo anh có làm sao không ?

- Trình thẩm quyền vô sự.

Có tiếng nói lào xào ở bên kia, rồi Thạch nghe tiếng la mừng rỡ của người Trung đội trưởng:

- Trình Đại Bàng, thằng Xuân của tôi đã qua hào vào sát bờ thành, pháo nổ ngay trên đầu nó, thẩm quyền bảo ông Phở Bắc ngưng đi để tụi nó leo lên.

- O.K anh cũng leo nhanh lên và tiến với nó, tôi theo sát anh đây. Tôi sẽ thúc thằng Hai và Ba lên song song với anh, trời sắp sáng rồi, hãy vào hết chân thành và đồng loạt leo lên.

Thạch ra lệnh cho binh sĩ bò nhanh thêm, anh không ngờ mọi việc lại thuận buồm xuôi gió như vậy. Trung đội 1 đã bám được vào chân thành. Vừa báo cáo cho Tiểu đoàn diễn tiến của Đại đội thì từ phía trước hàng chục trái lựu đạn đã nổ trên mặt thành và tiếng báo cáo trong máy vọng ra:

- Thằng Xuân đã lên đến đầu tường rồi, chúng tôi đều sang cả bên kia bờ nước.

- Tốt lắm Thạch Thảo, tôi lên với anh đây, leo hết cả lên cái bờ thành và nằm thủ ở đó, không thằng nào được lui.

Lúc này địch đã phát hiện ta tấn công, súng từ trên bờ thành bắn ra như mưa, rồi cối, pháo đổ xuống phía sau của Đại đội. Thạch đứng dậy hét to: “Xung Phong!”. Tất cả chạy nhanh qua cái hào đã cạn vì gạch đất từ 2 bên đổ xuống. Không còn đường lui, kẻ nào lui là kẹt trong hàng rào hỏa lực của pháo và cối. Chỉ còn một đường sống là vào sát chân thành.

*

Trong lúc đó, phía Tây Nam Cổ thành Đinh Công Tráng, một Đại đội của Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến do Đại úy Định, tức Định con, chỉ huy cũng đã bò vào đến chân thành. Nghe tiếng súng nổ và tiếng xung phong phía bên phải, Đại úy Định cũng hô xung phong và thúc con cái xông lên. Chỉ 5 phút sau, lính của Thần Ưng đã làm chủ góc thành phía Tây Nam.

Sức kháng cự của bộ đội Cộng sản yếu dần, một số nhanh chân tẩu thoát về phía Bắc, tên nào ngoan cố không chịu ra khỏi hầm đều bị tiêu diệt bằng lựu đạn. Trời vừa hừng sáng thì toàn thể bờ thành phía Nam đã bám đầy lính của Thần Ưng và Sói Biển.

Hướng Tây Bắc Cổ thành, Trâu Điên đang theo sau đoàn cua sắt M48 ép sát vào chân thành. Trận chiến đã nghiêng chiều thắng lợi rõ ràng...

Đúng ra khi 2 Đại đội của Tiểu đoàn 6 và 3 Thủy Quân Lục Chiến tiến chiếm được cái bờ thành phía Nam thì có thể coi như đã cắm được ngọn cờ lên bờ thành ngay sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972.

Tin về đến Lữ đoàn, rồi về đến Bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở Hương Điền, Chuẩn tướng Bùi Thế Lân thức dậy ngay từ 5 giờ 3O theo dõi diễn tiến tình hình và đích thân cầm máy ra lệnh cho 2 ông Lữ đoàn trưởng 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến phải thu dọn sạch cái bánh chưng trong vòng 24 giờ đồng hồ để loan tin chiến thắng, cắm cờ vào 8 giờ sáng ngày 16. Không được cho phái đoàn báo chí vào gần hôm nay. Phòng 5 bàng kế hoạch làm sao có cái ảnh dựng cờ cho đẹp như cái cảnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ dựng cờ ở Nhật Bản năm 1945 tại đảo Iwo Jima.

Tám giờ sáng ngày 15, bờ thành phía Nam đã do 4 Đại đội của 2 Tiểu đoàn 3 và 6 làm chủ. Phía Đông, Tiểu đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến đang tiến sát vào chân thành, việc leo lên chỉ là vấn đề thời gian. Phía Tây, bên trái của Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến, đoàn chiến xa của Thiết đoàn 2O cũng ào ào lên vào sát chân thành. Bị tấn công cả 3 mặt, sức kháng cự của Cộng quân sút kém dần. Cho đến chiều thì quân ta đã thanh toán được một nửa thành phía Nam. Địch lui dần và vẫn cố thủ ở bờ thành phía Bắc. Phải xua cho hết lũ chuột trong những cái hầm chữ A ra khỏi thành đêm nay. Thượng cấp đã tuyên bố sẽ cắm cờ ngày mai, mà cờ thì phải cắm ở giữa thành và cả 4 mặt bờ thành.

*

Đại úy Thạch đứng trên bờ thành quan sát: ta đã chiếm được mấy căn hầm của nhà tù, như vậy Bộ chỉ huy của địch cũng đã chém vè, tinh thần địch đã sút kém, tù binh cho biết bị pháo mấy ngày đêm chúng chỉ muốn bỏ chạy. Quả thật như vậy, địch phần chết, phần tháo chạy, súng vất bừa bãi khắp nơi. Thạch ra lệnh cho các Trung đội trưởng chỉnh đốn hàng ngũ, lãnh thêm M72 và lựu đạn. Không thể xử dụng pháo binh lúc này đành xài M72.

M72 đồng loạt khai hỏa, lựu đạn tung vào những miệng hầm. Lính Sói Biển ào ạt xông lên. Đám lính Cộng ném súng tháo chạy như đàn vịt, tên nào chậm chân là lãnh đủ. Hàng trăm tên leo nhanh qua bờ thành, nhảy xuống sông lội qua bờ Bắc.

Trời đã về chiều, khu trục cơ đã rời vùng, chỉ còn có một chiếc L19 lờ lững trên cao. Nhìn lính Cộng đang lội qua sông, anh phi công trẻ tuổi tinh nghịch lao xuống cho phi cơ bay sát mặt sông dọa địch. Vũ khí của anh chỉ có khẩu súng lục và vài ba trái khói, làm sao mà giết giặc ?

*

Trận đánh chiếm lại Cổ thành Đinh Công Tráng coi như chấm dứt vào 8 giờ tối ngày 15 tháng 9 năm 1972. Các đơn vị thu dọn chiến trường báo cáo vũ khí thu được chưa kịp đếm. Mỗi tiểu đoàn cần vài xe vận tải 2 tấn rưỡi mới chở hết. Dựa lưng vào bờ thành, Đại úy Thạch nâng cao ly cà phê nóng, nhấp một hớp nhỏ, anh gọi người lính truyền tin ra lệnh gọi các Trung đội đi tìm cột để cắm cờ, càng cao càng tốt.

Trong suốt 48 ngày đêm, kể từ ngày thay Sư đoàn Nhảy Dù lãnh nhiệm vụ tái chiếm Cổ thành, đêm nay là đêm thứ nhất Đại úy Thạch cởi đôi giày trận và ngủ một giấc đến sáng. Khi người cận vệ đánh thức anh dậy vào sáng hôm sau, anh cảm động muốn khóc khi nhìn thấy 4 bờ tường thành hàng trăm lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ phất phới trong ánh nắng mai.

Đó là buổi sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972.

Một Cọp Biển


======================================

MX Giang văn Nhân – Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Dựng Cờ

April 20, 2012

LTS: Viết cho người binh sĩ Tiểu đoàn 3 TQLC về một chiến thắng với hình ảnh sống thực. Xin đóng góp phần nhỏ cho sử liệu về chiến thắng Cổ thành Quảng Trị năm 1972 MX Giang văn Nhân

Hành quân tìm địch trong rừng

Ngày 24 tháng 8

Sau một tháng rưởi nằm bịnh viện Lê hữu Sanh điều trị vết thương với bao kỹ niệm vui buồn của người thương bệnh binh về từ mặt trận Quảng Trị. Nhìn các người bạn đồng đội hiên ngang dũng cảm hôm nào giờ đây có người đã hiến dâng một phần thân thể cho đất nước. Có người mất hẵn ánh sáng cuộc đời, vào một ngày cuối tuần được tin báo cô bạn gái vào thăm đã vội vã nhờ anh bạn ngồi xe lăn hướng dẩn vào ẩn trốn trong phòng vệ sinh. Có người nằm im bất động, chỉ còn đôi mắt tinh anh rực sáng niềm tự hào lẫn chua xót. Có người bị cháy phỏng khắp thân hình, mình được thoa đầy thuốc mở nằm nhúc nhích trên tấm nylon. Ðó là hình ảnh những người lính TQLC tiêu biểu cho một phần nhỏ hình ảnh những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vì bảo vệ sự tự do đã chấp nhận sự hy sinh vô bờ bến. Tuổi đời son trẻ phải xa gia đình, xa những người thân yêu, xa phố phường, ngày đêm lặn lội trong rừng sâu, dãy Trường Sơn trùng điệp, hay trong vùng sình lầy, nước phèn làm hoen màu áo trận. Họ quên mạng sống mình để bảo vệ an bình cho tha nhân. Trong hoàn cảnh hiện tại nầy nếu suy nghỉ sâu xa sẽ thấy thương họ thật nhiều.

Là người lính tổng trừ bị, một năm 7 ngày phép thường niên mà bộ tổng tham mưu qui định họ có bao giờ được biết đến. Hành quân gian khổ cận kề với cái chết chỉ mong ngày Tiểu đoàn về hậu cứ có được mấy ngày phép thăm gia đình, nếu còn độc thân thì thoải mái cùng bạn gái khỏi bị mấy ông quân cảnh quấy rầy. Người dân sống an lành nơi thành thị có ai biết rằng chiếc xe cuối cùng chở người lính từ mặt trận trở về vào trong doanh trại, như một thói quen khi cửa vừa đóng lại hiện rõ bảng cấm trại 100% đã được treo lên từ lúc nào. Ðơn vị ứng chiến cho bộ Tổng Tham Mưu. Dù vậy người lính vẫn một lòng chiến đấu có người đã vĩnh viễn ra đi và đồng đội còn lại vẫn tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng tự do.

Vì nhu cầu cấp thiết của mặt trận mà sư đoàn trách nhiệm, các thương bệnh binh sau khi xuất viện được đưa thẳng về Tiểu đoàn và được bổ sung ra hành quân trong chuyến bay ngay ngày hôm sau.

Chiếc xe jeep Tiểu đoàn đưa Thảo và Ðại úy Anh khoá 21 Trường Võ Bị Ðà Lạt vào cổng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn lúc đường phố Sàigòn đã lên đèn. Trong sân cờ vừa điểm danh xong số quân nhân bổ sung do các tiểu đoàn gởi đến. Thảo vác ba lô theo chân họ lên phòng thuyết trình trải tấm poncho rồi đặt lưng nằm xuống. Trong phòng có khoảng 70 Chuẩn úy tốt nghiệp từ hai khoá kế cận nhau tại Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Thảo hiểu tâm trạng của họ, thật ra đó là tâm tình chung của người lính QLVNCH xuất thân cùng một quân trường hoặc một trung tâm huấn luyện, được về phục vụ cùng Sư đoàn, rồi tạm chia tay về các tiểu đoàn, nay gặp mặt đầy đủ. Chỉ còn một đêm nay thôi, đêm cuối cùng vì sẽ không bao giờ tìm lại được đông đủ như vậy. Ngày mai đây ra chiến trường sôi bỏng, mặt đối mặt cùng kẻ thù, địch quân với hoả lực hùng hậu của cả khối Cộng Sản đưa sang, đạn pháo 130 ly như cơn mưa dai dẳng trút xuống thị xã Quãng Trị biết ai còn ai mất, chuyện tử sinh là lẻ thường tình xảy ra chỉ trong khoảnh khắc không sao tránh khỏi. Họ chuyện trò quên đi giấc ngủ. Những nụ cười vô tư và hồn nhiên khi nhắc lại chuyện quân trường của những người bạn trẻ, chính những người bạn trẻ nầy đã đóng một vai trò rất quan trọng cho cuộc chiến thắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong năm 1972.

Thảo trằn trọc không ngủ được. Thảo nhớ lại những ngày đang ở bịnh viện, đại đội Thảo đã mất mát khá nhiều tại mặt trận Cổ Thành Quãng Trị. Thiếu úy Lê văn Môn hy sinh, Thiếu úy Nguyễn văn Nhái bị thương chờ phân loại, Thiếu úy Nguyễn văn San đang điều trị tại quân y viện. Hạ sĩ quan và binh sĩ thiệt hại 40% sau tuần lễ đầu hoán đổi cho Tiểu đoàn 5 Dù. Thảo nhớ đơn vị, nhớ lại khuôn mặt của những người luôn sát cận với quân đội chính qui Bắc Việt. Thảo đứng dậy ra ngoài hành lang đốt thuốc hút và nhìn bầu trời xanh đầy ánh sao. Thảo bâng khuâng nghĩ đến câu chuyện của Uyên người bạn gái và cũng là người tình về chị Chính, bạn học chung lớp trường Gia Long. Chị Chính có người yêu bị động viên vào trường Hạ sĩ quan. Anh ra trường chiến đấu dũng cảm. Trong trận phãn phục kích ở La Ngà, địch quân dù chủ động nhưng bị thảm bại, hàng chục xác để lại trên trận địa. Bạn bè anh hy sinh khá nhiều, phần chân trái anh bị gảy vụn, bác sĩ đành phải cắt bỏ. Ðám cưới đã kết thúc câu chuyện tình đẹp nhất trong thời chinh chiến nầy

– Nếu là em, em sẽ không làm như thế đâu. Em chỉ chấp nhận nếu đã là vợ chồng. Uyên nói với nụ cười mĩa mai.

Thảo chỉ biết im lặng Khoảng cách giửa hai người như mặt nước hồ bị khuấy động và làn sóng nước càng xa dần ra. Người lính Tổng trừ bị luôn luôn hiện diện tại mặt trận khốc liệt, nào ai biết được ngày mai hình hài mình sẽ ra sao? Thảo không bi quan mà cũng chẳng lạc quan chỉ biết sống tròn trách nhiệm của người đại đội trưởng, an nguy của gần hai trăm sinh mạng thì sá gì cái thân phận tầm thường cỏn con của mình. Thảo cảm thấy có bàn tay choàng vai mình và một giọng nói thật thân mật

– Chào Trung sĩ,Trung sĩ chắc phục vụ lâu năm ở binh chủng và có nhiều kinh nghiệm chiến trường có thể kể cho anh em chúng tôi để học hỏi thêm.

Thảo quay mặt nhìn người sĩ quan trẻ, chấp nhận cấp bậc mới để cho tự nhiên rồi từ tốn kể cho các bạn trẻ nghe về cuộc chiến đang diễn ra ngoài Quãng Trị. Ðịch đã tạo yếu tố bất ngờ đồng loạt tấn công. Toàn bộ Sư Ðoàn 3 Bộ Binh và Thiết đoàn 11 triệt thoái khỏi vùng hoả tuyến. Tiểu đoàn 3 TQLC cùng thiết đoàn 20 chiến xa đã chận đứng và đẩy lui các cuộc tấn công vũ bão của Sư đoàn 308 cùng 2 trung đoàn chiến xa tại Ðông Hà và trên Quốc Lộ 9 gần Cam Lộ. Chuẩn úy Hải mới ra trường là sĩ quan OJT của Ðại đội 1 đã dùng M.72 bắn thẳng vào chiếc T.54 vừa chồm lên đầu cầu bờ bắc sông Miếu Giang, sau đó các binh sĩ đồng loạt bắn M.72 . Lần đầu tiên bị kháng cự, thiết giáp địch lui lại, vài phút sau đó cầu Ðông Hà được phá hủy. – Các quan nên nhớ rằng, các quan sẽ là những trung đội trưởng với cấp số thật lý tưởng khoảng 40 người, mọi quyết định của các quan rất quan trọng, chính các quan cũng như những người lính ở tiểu đội, trung đội mới quyết định chiến trường.Các quan mà lui thì người lính sẽ lui theo, và đại đội sẽ bể, các đại đội khác bể theo và tiểu đoàn sẽ rả ra từng mảnh.

– Còn tinh thần anh em binh sĩ ra sao? Những bạn trẻ nầy hỏi

– Anh em rất vửng tâm chiến đấu. Phút đầu tiên đối diện với T.54 có hơi bối rối, nhưng nay không còn nữa. Các trung đội trang bị đầy đủ M.72, ngoài ra đại đội còn có một tiểu đội săn chiến xa với súng 202. Người Mỹ lúc nào cũng viện trợ vũ khí sau khối Cộng Sản, đó là sự thật.

Ngày 25 tháng 8

Thảo thức dậy và rời khỏi phòng thật sớm vì phải đón Ðại úy Anh tận Phú Lâm. Thảo quay mặt để tránh cảnh chia tay của người vợ với con thơ tròn tháng. Thảo lái xe lao vào trong đêm tối. Tất cả đều im lặng, mỗi người đang có tâm sự riêng vì ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Vừa vào cổng bộ tư lệnh cũng là lúc đoàn xe đang chuẩn bị lên đường.

Phi vụ C.123 đã đưa toán bổ sung xuống phi trường Phú Bài. Không khí ngột ngạt của chiến tranh như bao trùm thành phố cổ kính. Hậu trạm của các tiểu đoàn đón nhận toán quân nhân bổ sung và đưa về thành nội Huế chuẩn bị hành trang, nhận lảnh áo giáp, mặt nạ, khẩu phần lương khô để rồi nhập vào cuộc chiến. Trên quốc lộ 1, người dân An Lổ vẫn vui vẻ cày cấy, đường vào Sịa vẫn an lành. Vượt qua giòng sông Mỹ Chánh để nhìn thấy cảnh tang thương mà chỉ có những người cộng sản vô thần mới nhẩn tâm bắn giết, tàn sát cả đoàn người chạy loạn. Ðối với họ những ai sống trong vùng quốc gia đều là kẻ thù

Xác người nằm ngổn ngan, trên xe, trên bải cát trắng, có bà mẹ nằm mà tay vẫn còn ôm chặc hai đứa con thơ, tất cả đã rữa nát Trong khung cảnh nầy Thảo không biết tâm trạng của những người sĩ quan trẻ mới ra trường ra sao, nhưng với người lính dầy dạn chiến trường, cái chết là điều phải chấp nhận để tìm cái sống. Ðoạn đường nầy làm sục sôi lòng hận thù, càng nung chí phải chiến đấu để bảo vệ miền Nam, phải tiêu diệt hết người Cộng Sản sắt máu. Nhưng người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có lòng nhân đạo và tình dân tộc, thà bỏ sót cỏn hơn giết lầm. Người Cộng Sản đã biết và triệt để khai thác tình thương dân của người quân nhân miền Nam để ẩn trốn, trà trộn trong dân, đôi khi lùa dân đi trước đở đạn cho chúng rồi tuyên truyền cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.

Ðại lộ kinh hoàng năm 1972

Xe chay qua Hải Lăng, thôn Cu Hoan có bờ đê Ruộng Nhi, nơi các binh sĩ trung đội 3 của Thiếu úy Nguyễn văn Nhái bố trí yểm trợ hoả lực cho trung đội 2 của Thiếu úy Lê văn Môn tiến chiếm bờ thôn. Trung đội 1 của Thiếu úy Nguyễn văn San cặp theo bờ đê bên phải đánh vào cạnh sườn. Ðại bác không giật 106 ly trên chi đoàn thiết vận xa M.113 của Ðại úy Nghiệp Thiết Ðoàn 18 cày nát phía sau phòng tuyến. Ðạn M.79 phá tung hầm ẩn núp, tuyến địch bị chọc thủng, Trung đội 3 tràn lên chiếm bờ thôn bên trái, tiêu diệt toán bắn sẽ, giúp Tiểu đoàn 8 TQLC tiến quân ngang bên trái. Ðịch rút chạy hiện rõ trên đồng cát trắng, vào xóm Thuận Nhơn và thôn Lương Chánh. Thảo miên man hồi tưởng những đồng đội giờ đây không còn nữa, sự hy sinh của họ trải dài cho từng bước tiến ra giải thoát Quãng Trị thân yêu. Thảo vào trình diện Thiếu tá Nguyễn văn Cảnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC. Bên ngoài bộ chỉ huy, Thượng sĩ Võ Lách thường vụ đại đội và một số anh em đang chờ đón Thảo. Nhìn gương mặt họ, một niềm thương cảm dâng lên.

– Ðại úy

– Ông thầy

Tiếng gọi thật thân thương, thật ngọt ngào. Kể từ giờ phút nầy, giửa họ và Thảo nối lại mối dây liên kết. Mạng sống và binh nghiệp Thảo nằm trong tay họ, ngược lại Thảo trách nhiệm sư an nguy cho họ, phải suy tính làm sao hoàn thành nhiệm vụ mà giảm thiểu sự thiệt hại. Thảo trò chuyện với anh em để chuẩn bị tinh thần cho cuộc chiến trước mặt.

Ngày 26 tháng 8

Buổi họp thân mật cùng các trung đội trưởng, phân chia nhiệm vụ vào hoán đổi cho Tiểu đoàn 8 TQLC tại mặt trận Cổ Thành sáng ngày mai.

Th/úy Lãm, Th/úy San, Th/úy Phán, Ch/úy Ngôn Thiếu úy Nguyễn văn Lãm Ðại đội phó Chuẩn úy Trần trung Ngôn Trung đội trưởng trung đội 1 Thiếu úy Nguyễn văn Phán Trung đội trưởng trung đội 2 Chuẩn úy Lê đình Lời Trung đội trưởng trung đội 3 Chuẩn úy Khúc thừa Thế Trung đội trưởng trung đội 4 Chuẩn úy Ðỗ hữu Ðôn OJT với trung đội 2 Chuẩn úy Trần tuấn Dũng OJT tại đại đội.

Thảo luôn luôn nhắc nhở các bạn trẻ về qui luật tại Cổ Thành. Ban ngày canh gát, mở rộng giao thông hào, mọi sinh hoạt trong giao thông hào, thay phiên ngủ lấy sức. Ðịch quân từ trên bờ thành cao, dể quan sát và bắn sẻ, hạn chế tối đa ra khỏi giao thông hào. Ban đêm chuẩn bị tác chiến diệt chốt địch và bung rộng phòng tuyến mà mục tiêu chính là cắm lá quôc kỳ Việt Nam Cộng Hoà.

Ngày 27 tháng 8

Ðại đội 2 đã hoán đổi xong vị trí của Ðại úy Bùi phúc Lộc TÐ 8 TQLC. Pháo binh vẫn đều đặn bắn phá trên bờ thành. Ðại bác 130 ly địch nổ dồn dập chung quanh thị xã, nguời lính nhiều kinh nghiệm đã tránh được sự thiệt hại và an toàn trên phòng tuyến mới. Nửa đêm địch thăm dò phía trung đội 1 nhưng bị đẩy lui bằng lựu đạn.

Ngày 28 tháng 8

Thảo vừa chợp mắt khi hừng đông ló dạng, Các trung đội tuần tự báo cáo tình hình trong đêm

– Nam Giao đây 21, velo solex (vô sự)

Tựa lưng vào vách hầm chử A, Thảo rít một hơi dài điếu thuốc Ruby và nhấm nháp ly cà phê sửa nóng. Tội cho người lính chiến, trong cảnh nguy hiểm mà vẫn lo được cho ông thầy từng ly từng tí, đôi khi hơn cả người vợ, Thảo chưa có gia đình nhưng chỉ nghe lóm từ các bạn đồng ngủ. – Thiếu tá, đêm rồi địch thăm dò, nhưng bị phản ứng mạnh. Con cái mới tới chưa ổn định và nhận diện rõ được địch tình Thảo trình bày cùng Ðệ Ðức, Thiếu tá Tiểu đoàn phó. – Ði với anh tôi thấy an tâm. Mấy ông chuẩn úy mới nầy coi bộ ngon lành. Ðệ Ðức vừa nói dứt câu thì có báo cáo của trung đội 2 – Nam Giao đây 22, ông Alpha uống rượu quá độ say hết ngồi dậy rồi. Chuẩn úy Ðổ hữu Ðôn vừa lên khỏi giao thông hào để quan sát vị trí địch trên Cổ Thành thì bị địch bắn sẽ ngay đầu tử thương.. Sự ra đi đột ngột của anh Ðôn làm cả đơn vị phải cẩn thận hơn khi di chuyển ra khỏi giao thông hào.

Ngày 29 tháng 8

Cũng như mọi hôm khi màn đêm buông xuống là cuộc thanh toán được thực hiện, cả hai bên đều đã sẵn sàng. Ánh trăng lưởi liềm làm mờ ảo khung cảnh nồng nặc uế khí, nhà cửa đổ nát, các trụ đèn cong quẹo hoặc gẫy đổ. Xác chết đã rữa chỉ còn là những bộ xương trắng nằm đón sương đêm. Ðạn pháo địch rót vào vị trí như một âm thanh quen thuộc – Nam Giao đây 21. Ðịch đang bò vào Thảo chụp ngay lấy ống liên hợp – 21 đây Nam Giao, tôi nhận rõ, cho con cái xem tivi (vào vị thế tác chiến) Ðại đội sẵn sàng, đạn đã lên nòng Thảo trình với Ðệ Ðức xin hoả châu phía sau lưng địch để dể quan sát, bắn pháo binh vào các điểm tiên liệu để đàn áp tinh thần cán binh Cộng sản. Ðạn lướt qua đầu và nổ trên cao. Ánh sáng hoả châu đem lại cái ấm cúng và tự tin cho người chiến sĩ – Nam Giao đây 21, chúng tôi đã thấy địch rất rõ – 21 đây Nam Giao, cố gắng tác xạ cho chính xác Ðạn bắt đầu nổ dòn. Hoả châu liên tục rọi sáng bờ thành. Pháo binh TQLC bắn rất đẹp. Mấy con gà cồ đầu bạc (đại bác 155 ly) của quân đoàn được điều chỉnh gần 10 hoặc 15 thước rất chính xác. Ðại pháo 130 ly của địch cũng tác xạ mãnh liệt vào phía sau chạm tuyến. Có trong hoàn cảnh nầy, người lính mới biết rõ giá trị của giao thông hào. Hầu hết hầm trú ẩn tránh pháo các binh sĩ đã thiết kế chử A. Trận chiến bắt đầu lúc 23 giờ. Giờ phút đó con người sống trong sự réo gọi hỗn loạn của các loại vũ khí, cái chết thoáng hiện thoáng mất , trước mặt những bóng đen gục ngã, lựu đạn và M.79 được xử dụng tối đa. Tiếng càu nhàu giọng miền bắc của Hạ sĩ Nguyễn văn Lợi tiểu đội phó – Cho chúng mầy về với bác và đảng. Miệng nói tay làm, Lợi tặng ngay chúng 2 quả lựu đạn M.67 rất nhanh và thành thạo. Hạ sĩ nhất Nguyễn văn Dương tiểu đội trưởng vừa bắn vừa di chuyển đồng thời đôn đốc anh em cố gắng giử phòng tuyến. Ðịch bắt đầu ném beta, bắn B.40 vào phòng tuyến, và xung phong. Ba cây đại liên M 60 giờ mới được xử dụng, Ðạn M.79 nổ trên những căn nhà đổ nát, tạo nên sự sát hại mãnh liệt hơn. Xạ thủ đại liên và hai khinh binh của trung đội 4 biệt phái bị tử thương, địch tràn vào cắt đứt hai trung đội 1 và 3. Hạ sỉ Nguyễn ngọc Ninh tiểu đội trưởng cùng anh em còn lại rút về phía trung đội 1. Phòng tuyến bị bể. Ðịch tràn lên nhưng bị Trung sĩ nhất Nguyễn tấn Thành trung đội phó trung đội 1 cùng tiểu đội của hạ sĩ nhất Lê văn Hùng chận đứng. Bên phía trung đội 3, Hạ sĩ Nguyễn văn Phúc tiểu đội trưởng dùng lựu đạn tiêu diệt địch quân đang cố gắng tràn vô kẻ hở. Binh nhất Trần văn Voi, người lính mang hai giòng máu Việt Pháp, xạ thủ đại liên xiết mạnh cò, đạn bay là là trên mặt đất, một số địch bị trúng đạn nằm chết trước phòng tuyến. Ðịch quân không làm sao tiến thêm được. – Nam Giao đây 21. Ðang củng cố phòng tuyến phụ để phản kích. – 21 đây Nam Giao, cố gắng giử phòng tuyến phụ, tôi thêm kẹo và tiền cho anh. Thảo tung tiểu đội săn chiến xa của hạ sĩ nhất Ngô văn Ðáo tăng cường cho trung đội 1 và khinh binh tiểu đội súng cối của Hạ sĩ Nông văn Quang tăng cường cho trung đội 3 đồng thời chuyển đạn dược lên phía trước. Pháo binh được điều chỉnh gần hơn nữa. Hai chục thước. Mười thước. Toán pháo thủ mấy con gà đầu bạc bắn tuyệt diệu. Ðạn lướt qua đầu và nổ tung trước phòng tuyến. Ðệ Ðức báo cáo tình hình cho Chương Thiện (Thiếu tá Nguyễn văn Cảnh Tiểu đoàn trưởng) – Sao 27 (ám danh của Thảo), còn đủ tiền để đánh bài không? Chương Thiện hỏi qua điện thoại hữu tuyến. – Trình 909 (ám danh cuả TÐT), tôi vẫn đủ tiền để chơi, xin đèn cầy và phở cho thật nhiều. – Tôi bắn tối đa, cần tiền thêm cho tôi biết ngay. – Nhận rõ 909. Hai tiểu đội của Hùng và Phúc đã khoá chặc không cho địch tràn thêm vào. Alpha Trần trung Ngôn và Lê đình Lời điều động quân vá lại phòng tuyến. Pháo binh rãi đều dọc theo bờ thành, màn đêm nhạt dần. Trên bầu trời hai phi tuần A37 đánh chính xác vào mục tiêu . Sự kết hợp nhịp nhàng của không yễm và pháo binh giúp các toán quân của đại đội 2 tiến lên với hàng rào lựu đạn chiếm lai phòng tuyến – Nam Giao đây 23, chúng tôi gặp lại nhau tại mái nhà xưa (chiếm lại tuyến củ). – Nhận rõ. Cho củng cố chổ ở. Gom góp mấy chai rượu (bị thương), sẽ có người mang đi. Các pháo thủ TQLC Binh nhất Nguyễn đăng Thâu, y tá đại đội cùng toán biệt kích lên phòng tuyến di tản thương binh về sau nhà thờ Trí Bưu. Thảo báo cáo về tiểu đoàn. Tất cả thương binh được M.113 chở ngay về Ngô xá. Số quân nhân bổ sung ra thay thế sau đó đuợc đưa lên tuyến đầu. Trong cuộc chiến, khối bổ sung đã cung cấp kịp thời để thay thế số quân nhân bất khiển dụng, nhờ vậy phòng tuyến lúc nào cũng đầy đủ quân số. Người Ðại đội trưởng rất an tâm để tìm mọi phương cách hoàn thành nhiệm vụ được ủy thác. – Nam Giao đây 23, ba con chuột nằm bất động, thu 1 B.40, 2 AK 47. – Nam Giao đây 21, năm trự trong giao thông hào, tịch thu 1 RPD, 2 B.40, 3 AK 47. Ðại đội có 4 binh sĩ hy sinh và 7 người bị thương, 1 M.60 bị phá hủy cùng một số mặt nạ, áo giáp. Thảo họp bàn cùng các trung đội trưởng phân tích về trận đánh. Sự thất bại trong cuộc tấn công chứng tỏ lực lượng địch suy yếu, không mở được các cuộc tấn công kế tiếp. Nắm vững vấn đề nầy, đại đội chủ trương sẽ từng bước diệt chốt để tiến sát bờ thành.

Quảng Trị năm 1972

Ðịch rãi mỏng từng chốt nhỏ, bố trí trong các căn nhà đổ nát khó nhận biết. Các chốt nầy được sự yểm trợ của đại bác 82 không giật trên bờ thành. Thảo và các trung đội trưởng thảo luận để đi đến phương thức: 1. Chọc phá để xác định vị trí chốt 2. Tổ chức các toán diệt chốt 3. Ðồng loạt tấn công các vị trí chốt 4. Dùng pháo binh để làm tê liệt các khẩu 82 ly không giật 5. Xử dụng lựu đạn 6. Ðánh vào ban đêm



Ðịch trong Cổ thành đang bị cô lập. Ðường về Triệu Phong bị Tiểu đoàn Trâu Ðiên khoá kín tại đập đá qua chợ Sải. Ðường xuôi thượng nguồn sông Thạch Hãn bị các đơn vị Dù kiểm soát ở Như Lệ. Ðường duy nhất là vượt sông Thạch Hãn đang bị pháo binh và không quân oanh tạc. Nhờ các yếu tố đó, sự kháng cự của địch rất yếu ớt. Lần lượt các chốt bị bứng đi, phòng tuyến được mở rộng. Màn đêm vừa buông xuống là anh em ôm lựu đạn bò đi diệt chốt. Thùng lựu đạn từ tiểu đoàn chuyển lên hàng ngày, đây là món khoái khẩu nhất tặng cán binh Cộng sản. Ngày 7 tháng 9 Trung úy Nguyễn kim Chung xuất viện về lại tiểu đoàn, anh em đều có thơ đọc và tán gẩu trong giao thông hào, mặc cho đại pháo 130 ly hay đại bác 100 trực xạ từ chiến xa . Cuộc sống của người lính tác chiến thật hào hùng nhưng giờ phút nầy thấy họ hiền lành, ngây thơ như trẻ nhỏ. – Nhã Ca, uống nữa đi. Ðệ Ðức rót rượu từ chai Hennessy do bà xả gởi ra. – Cám ơn Thiếu tá, thế là ấm giò rồi. Ly nầy là ly cuối. – Phải chi có Thạch Sanh thì chai nầy không đủ đó Ðại úy. Chuẩn úy Lý hồng Phát delo pháo binh cũng là em vợ của Nguyễn kim Chung ngỏ lời.

Ngày 9 tháng 9

Phóng đồ hành quân phản công chiếm lại thị xã Quãng Trị bày ra trước mặt. Ðệ Ðức hút thuốc ngồi ngắm . Ánh sáng vàng vọt từ cái bóng đèn chỉ còn là sợi dây tóc đỏ, nó đã mòn mõi cháy suốt đêm. Ðịch quân bắt đầu pháo dữ dội, cả đại đội sẵn sàng vị thế chiến đấu. Ðạn nổ dòn phía đại đội 1 và đại đội 3. Thảo chỉ nghe tiếng la, tiếng gọi pháo binh của Ðại úy Phạm tuấn Anh. Anh Ðào điều chỉnh pháo thật táo bạo. Bổng dưng đại đội 1 im lặng vô tuyến. Mươi phút sau có tiếng nói – Chương Thiện đây Thạch Sanh, Anh Ðào say rượu rồi Ðại úy Anh được tản thương gấp về bịnh viện. Chiều hôm đó Ðại úy Anh đã vĩnh viễn ra đi để lại người vợ với đưa con tròn tháng mà trong buổi chia tay vẫn còn đậm nét nơi tâm hồn Thảo. Ðời người lính Tổng trừ bị là thế đó! Ðài phát thanh và báo chí có đề cập đến một đơn vị của Tiểu đoàn 6 đã vào được cổ thành.

Ngày 11 tháng 9 Chi đội chiến xa của thiết đoàn 20 vào tăng phái cho tiểu đoàn. Thiếu úy Quyền khoá 24 Võ Bị danh hiệu Tố Quyên đưa một M.48 lên đại đội 2. Chuẩn úy Khúc thừa Thế trung đội trưởng súng nặng hướng dẩn xe vào vị trí ẩn núp an toàn vào ban đêm.

Ngày 12 tháng 9 Mấy hôm rày cánh quân của Tiểu đoàn 6 bất động. Ðiểm đóng quân của một đơn vị thuộc Tiểu Ðoàn 6 mà ban 3 Tiểu Ðoàn 3 cho Thảo lại là đơn vị Bắc Việt, nơi xuất phát các cuộc đánh phá đơn vị Thào. Sau mấy lần cho các toán nhỏ bò lên dò xét tình hình, đêm nay sẽ tiến lên tiêu diệt, mở rộng đường tiến sát vào cổ thành. Hai giờ sáng các toán diệt chốt đã bao quanh mục tiêu. Máy vô tuyến thỉnh thoảng sè sè tiếng nói. – Chương Thiện đây Nhã Ca, Tất cả đã vào vị trí – Nhã Ca đây Chương Thiện, anh ráng làm sao cho tốt đẹp – Nhận năm trên năm. Những người lính nằm chờ đợi trong đêm, tất cả chong mắt thật sáng, tay nắm chặc quả lựu đạn M.67 hay con cóc mìn Claymor. Tuy trời đêm trở lạnh nhưng mồ hôi toát ra. Tiếng quân Cộng sản Bắc Việt đổi gác, tiếng ho và vài câu nói vớ vẩn

Thiết đoàn 20 chiến xa

– Ðồng chí canh gác cẩn thận, đồng chí chánh trị viên cho biết quân Ngụy quyết đánh cổ thành. Làm sao có thể diển tả được cảm giác của người chiến sĩ trong lúc nầy, vì bảo vệ tự do, chống lại sự xâm lược và bành trướng của chế độ Xã hội chủ nghĩa nên đành phải ra tay. Cánh quân của trung đội 2 bò về hướng Nam chiếm khu nghĩa địa ngăn chận đơn vị địch đến viện binh cho toán chốt.

Ðịch quân có loại CKC nòng dài, thêm máy nhắm trở thành khí cụ bắn sẽ rất chính xác nên khi trời mờ sáng địch ơ hờ vì biết ta không tấn công vào ban ngày. Pháo đội TQLC bắt đầu bắn vào cổ thành. Delo Lý hồng Phát theo sự điều chỉnh của các Alpha cho gần lại 50 thước đến khi đạn nổ sát bờ thành, pháo đội 20 tràng cày nát các vị trí yểm trợ cho chốt địch. Quả đạn đầu tiên thoát khỏi nòng đại bác trên M.48 nổ trên bờ thành là khẩu lệnh tấn công. Lựu đạn như những nắm cát tung vào mặt kẻ thù. Ðịch trở tay không kịp, hai chốt địch bị tiêu diệt – Nam Giao đây 21, nhiệm vụ hoàn tất, hạ sát 8 tên tịch thu 2 CKC , 2 B.40 và 3 AK.47. Gia đình có hai nằm (tử thương), ba ngồi (bị thương) Đơn vị bên nghĩa địa được địch điều sang tiếp viện. Ðạn từ 3 khẩu M.79 nổ mãnh liệt. Vùng đất an nghĩ nầy là mồ chôn xác giặc. Ðịch mất tinh thần, rút chạy vào bên trong cổ thành. – Nam Giao đây 22. Ðã diệt 20 chuột, thu 12 AK, 3 B40, 2 RPD, 2 SKS. Gia đình có 3 nằm và 5 ngồi. Thảo báo cáo về Tiểu đoàn – Nhã ca đây Chương thiện, anh cho thừa thắng xông lên dựng cờ đi. Ðịch vào Cổ thành cố thủ và chống trả. Lấy vị trí địch làm công sự, các toán quân bố trí và cố gắng lục soát tìm tài liệu. – Trình Nam Giao, gia đình 21 lấy được bức tranh (bản đồ) của chuột – Trình Nam Giao, gia đình 22 lục soát tử thi có một tên là chính trị viên. Không khí tanh mùi máu và thuốc súng như men chiến thắng, anh em cùng cảm thấy ngày dựng cờ chiến thắng đang chờ phía trước Thảo nhìn chai Hennessy còn nằm đó như một sự thách thức. Cuộc chiến càng ác liệt thì nhiệm vụ của người y tá đại đội càng cần thiết và nguy hiễm nhiều hơn nữa. Binh nhất Nguyễn đăng Thâu y tá biệt phái cho đại đội lắng nghe trên máy truyền tin, nơi nào có người say rượu là anh phóng đi ngay. Có thể bảo rằng anh Thâu là người duy nhất biết rõ hết các ngả ngách của giao thông hào, và đã đi vòng quanh tuyến đại đội không biết bao nhiêu lần. Ngày nào mà chẳng có người bị thương hoặc chết. Nhìn Thâu, Thảo chợt nghĩ không có một huy chương nào xứng đáng để tưởng thưởng công lao. Mà thật sự điều Thâu ước muốn là anh em thương binh được an lành và trở về. Người chiến sĩ ngoài trận tuyến không bao giờ nghĩ đến cấp bậc, huy chương, và họ cũng không bao giờ để tâm đến mặt trái của cấp bậc, mặt trái của tấm mề đay do xin xõ, bè phái hoặc luồn cuối. Lúc bây giờ, nơi chiến tuyến tình người biểu hiện một cách trọn vẹn, cao quý nhất. Chốt của địch nay trở thành tiền đồn của ta.

Không ảnh thành Ðinh công Tráng nhìn từ Trí Bưu

7 giờ tối Thảo cùng các đại đội trưởng về họp tại bộ chỉ huy Tiểu đoàn, Trung tá Nguyễn xuân Phúc Lữ đoàn phó Lữ đoàn 147 hiện diện và chủ toạ cuộc họp. Thiếu tá Nguyễn văn Cảnh trình bày vị trí của các đại đội cùng thành quả đã đạt được. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn phải chiếm cho bằng được Cổ thành trụớc thời hạn mà vị Nguyên thủ quốc gia đã ra lệnh trong ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1972 là phài lấy lại các vùng đất đã bị địch kiểm soát trong 3 tháng. – Các anh cần gì tôi sẽ yểm trợ tối đa để hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta chỉ còn 6 ngày nữa thôi. Thiếu tá Cãnh dứt lời. Nhìn thẳng các đại đội trưởng, Trung tá Phúc tiếp lời – Các anh đánh đấm thế nào vậy. Tiểu đoàn 6 đã vào được một toán nhỏ từ lâu rồi, mà các anh vẫn chưa làm được gì cả. Ðây là lệnh, ai không thi hành sẽ trả lời trước toà án quân sự. Vị Robert lửa người mà báo chí thường ca ngợi cũng như khoá 16 trường Võ bị Ðà Lạt hãnh diện đang ở trước mặt chúng tôi. Có thể vậy sao! Thảo chăm chú nhìn vào tấm không ảnh mới nhất mà tự hỏi thầm. Cổ thành nằm trước mặt, chung quanh là hào nước. Làm sao mà Tiểu đoàn 6 của Trung tá Tùng có đơn vị vào trong đó được. Lại thêm nữa đã được báo chí và đài phát thanh truyền đi khắp nơi thì họ ẩn trốn nơi đâu vì địch sẽ lục soát góc thành dễ dàng. Làm sao nhận tiếp tế lương thực. Ðã chọc thủng vào được, sao trung đội, đại đội không bám theo rồi đánh bung rộng ra. Ðây phải chăng là một hình thức chiền tranh tâm lý với người không am tường quân sự. Thảo nghĩ đến những người lính đại đội 2 đã hy sinh mở rộng phòng tuyến đẩy lui địch tận sát bờ thành. Thảo mạo muội lên tiếng – Thưa Trung tá, anh em chúng tôi đã chiến đấu nhiệt tình, thiệt hại cũng khá nhiều. Nếu Tiểu đoàn 6 có đơn vị nằm góc thành, xin cho tôi được phép dẩn đại đội theo đường đó vào ngay trong đêm nay. Câu nói của Thảo đã làm vị Lữ đoàn phó bộc phát vài chử không đẹp ngoài ý muốn và trút cơn giận dữ lên các sĩ quan có mặt trong phòng họp Rời bộ chỉ huy Tiểu đoàn, Quảng Trị (Trung úy Nguyễn văn Dương ÐÐT đại đội 4) chưởi thề cho vơi cơn bực tức, Thạch Sanh (Ðại úy Nguyễn văn Thạch ÐÐT đại đội 3) nhún vai như chẳng cần đời, Cần Thơ ( Trung úy Nguyễn kim Chung ÐÐT đại đội 1) chỉ mĩm cười gượng gạo, Thảo thì im lặng lầm lũi cùng hai cận vệ chạy trở về vị trí dưới cơn mưa pháo. Thảo về tới hầm chử A thì nhận công điện mật của Chương Thiện đại đội phải tiếp tục đánh vào Cổ thành đêm nay. Ngày 13 tháng 9 Hai trung đội 21 và 22 vẫn là nổ lực chính, xuất phát vào lúc 1 giờ sáng. Thiếu úy Lãm điều động 2 trung đội dò dẫm từng bước thật nhẹ nhàng tránh gây tiếng động. Cánh quân vượt qua các tổ tiền đồn và tới sát đường Duy Tân.

Toán tiền sát của trung đội 1 là Hạ sĩ Nguyễn văn Lợi, Binh nhất Nguyễn báu Quí, binh nhất Ngyễn Cân sẽ chiếm cầu vào ngay cửa Hữu. Toán của trung đội 2 là Hạ sĩ Dư minh Chiếu,Binh nhất Thạch Rong, binh nhì Huỳnh ngọc Lanh sẽ lội qua hào nước. Hai toán chạy nhanh qua đường Duy Tân. Ðạn AK nổ rền. Pháo hiệu (Signal) đỏ bay vút lên cao. Ðó là hiệu lệnh báo động của quân phòng thủ. Ðạn từ trên bờ thành rải xuống mặt đường. Lựu đạn nổ dưới hào nước làm mặt đất run chuyển nhẹ. Kế hoạch bị địch phát hiện. Thảo đành cho cánh quân lui về vị trí. Cả ngày mệt mỏi từ mờ sáng chập tối, thêm vào đó hơn nữa tháng thức trắng đêm chống chọi với địch, diệt chốt, mở rộng đường tiến sát mục tiêu. Thảo biết anh em đã thấm mệt, Thảo xin Chương Thiện cho được hoán đổi về cánh A. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng chấp thuận nhưng Thảo phải để lại hai trung đội tăng cường cho Ðại úy Thạch. Các trung đội của đại đội 3 bắt đầu thế tuyến cho trung đội 21 và 24. Riêng trung đội 22 và 23 vẫn còn ở lại tăng phái giữ phòng tuyến cùng các toán tiền đồn. Buổi chiều mưa rét, Thảo về nhà thờ Trí Bưu chỉ là đống gạch đổ nát, chui dưới sàn nhà tâm hồn Thảo cảm thấy yên vắng khác lạ, có lẽ vơi bớt đi sự lo lắng và tù túng trong căn hầm chử A chật hẹp.

Ngày 14 tháng 9

(Binh sĩ ÐÐ2 dựng cờ ngày 15 tháng 9 năm 1972)

4 giờ sáng. Máy truyền tin vẫn im lặng, thỉnh thoảng lại vang lên báo cáo của Trung úy Trà đã gìàn quân dọc theo đường Duy Tân (cặp theo các căn nhà đổ). Ðịch báo động từ chập tối bắn vu vơ đang mõi mắt đợi chờ.

5 giờ sáng. Pháo binh bắn quấy rối rỉ rả như mọi đêm để đánh lừa địch. Cùng lúc đó các toán nhỏ lội nhè nhẹ qua hào nước. Cơn bảo Elsie gầm thét, giọt mưa như thác đổ làm bức màn che các toán cảm tử bò lên bờ thành đổ nát. Lựu đạn nổ đồng loạt trên thành, tiếng la xung phong vang dậy trong đêm. Trung úy Trà cùng hai trung đội của Thiếu úy Văn tấn Thạch vá Thiếu úy Vũ duy Hiền như cơn sóng thần ập vào thành. Tiểu đoàn 3 đã phá vở phòng tuyến địch nơi cửa Hữu. Thảo thức giấc và chăm chú theo dõi từ lúc toán tiền sát bò lên thành. Thảo đã cho cả đại đội sẵn sàng tiếp ứng cho đại đội 3

– Nhả ca đây Ðệ Ðức, cho con cái lên đánh canh bạc chót. – Nhận Ðệ Ðức năm trên năm. Thảo truyền lệnh các trung đội tiến lên theo đội hình 22, 23 ban chỉ huy đại đội, 21, 24. Pháo binh 130 ly và đại bác 100 ly trực xạ từ Ái Tử không cản được đoàn quân. Trung đội 22 chiếm cổng chính cửa Tiền đường Lê văn Duyệt. Tinh thần cán binh Cộng Sản đã suy sụp, chống cự yếu ớt và rút về cố thủ ở cửa Tả đường Phan đình Phùng. Chai Hennessy được khui ra và chuyền tay cho các binh sĩ. Bên cánh trái Tiểu đoàn 6 bắt đầu tràn lên thành và tác xạ về phía Tiểu đoàn 3. Ðệ Ðức tức giận gào to trong máy truyền tin – Chương Thiện bảo mấy đứa con của Thái Dương (Trung tá Tùng TÐT) còn bắn cái con mẹ gì nữa. Sói Biển đầy cả thành rồi. Có mấy đứa say rượu nè. Bố chúng nó.

Ðịch xử dụng tất cả hoả lực còn lại để tàn sát đoàn quân chiên thắng. Tiểu đoàn 7 đã tiến ngang bên dưới đường Lê văn Duyệt, một số cán binh Cộng Sản chui ra đầu hàng. Ðạn pháo và bóng đêm cũng như sự mệt mõi không làm người chiến sĩ dừng bước, họ chiến đấu liên tục, tiêu diệt các tàn quân địch còn cố thủ. Sau gần 24 giờ chiến đấu không nghĩ, những người lính đại đội 2 Tiểu đoàn 3 TQLC đã dựng ngọn cờ trên cổng thành cửa Tả vào mờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972. Trung sĩ Trương văn Hai trung đội phó trung đội 22 đã hy sinh trong giây phút hào hùng nầy.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã chiến thắng, chiếm lại Quảng Trị trước hạn định 3 ngày. Sự thành công nầy là do đóng góp của Sư đoàn Dù (Tích tường, Như Lệ), Biệt Ðộng Quân (Liên đoàn 7 ở chợ Sãi), Không quân, Hãi quân, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, Thiết đoàn 20 chiến xa, Thiết đoàn 18 kỵ binh, Pháo binh 155 ly… và Sư đoàn TQLC là nổ lực chính.

Chiến thắng cổ thành Quãng Trị đã được nhiều người viết do tưởng tượng phong phú hoặc do nghe người khác thuật lại. Tôi là một trong những chứng nhân và cùng các chiến hữu TÐ 3 TQLC tham dự chiến thắng hào hùng nầy. Nhưng sự thật đã bị đão ngược, những trung đội trưởng chạy đặc cách đều bị loại, một số huy chương cấp bậc rơi rớt trên vai trên ngực những người đánh giặc Tâm lý chiến hoặc bè phái. Biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh đã hy sinh vì bảo vệ tự do. Sự hy sinh cũa các vị anh hùng đó đem lại bổng lộc vài cá nhân. Ðể phù hợp việc tô bóng một cá nhân, thay đổi tên họ cũng như đơn vị của các anh em binh sĩ trong hình dựng cờ. Việc làm đó lịch sử sẽ phê phán.

Trích hồi ký “ Người lính Tổng trừ bị”

MX Giang văn Nhân

https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2012/04/20/mx-giang-van-nhan-ti%E1%BB%83u-doan-3-th%E1%BB%A7y-quan-l%E1%BB%A5c-chi%E1%BA%BFn-d%E1%BB%B1ng-c%E1%BB%9D/


Người Lính Không Có Số Quân Posted on March 29, 2014 by HieuLe

Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm,cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.

Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ đã lên nắm Đại đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến…,

có lẽ họ vẫn còn đang thực tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không phải vì mình tài giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội xử lý là một Chuẩn úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi Đại đội thì tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 thì một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đã là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.

Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tàm gọi là đủ lông, đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước đó, ông đã thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh chính ngôn thuận.

Nói về tối đầu tiên tôi dẫn ĐĐ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học Tiểu học:

- Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?

- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi còn Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó. - Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó thì còn đánh đấm gì được.. - Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.

- Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao mình báo cáo.

Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:

- Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện gì thì sao?

- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.

Nở thực hiện lời”em biết chứ”, vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.

Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ thì Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn ai không biết chữ gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở về dậy họ học,”ngày mãn khóa”, tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ ngày đó.

Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.

Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:

Long Xuyên, ngày…

Anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.

Em, Ba.

Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi như không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử. Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách nhiệm hoạt động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3. Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên vì tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn, tôi chạy lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp cò, nhả từng loạt đạn về hướng địch. Như tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở đây, đợi đêm xuống có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả. Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần mục tiêu và có gò đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn. Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của các nơi khác(!)

Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ đình Hà. Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mã Lai, tôi còn gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ thì vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối lui nhưng không kịp, chị ta làm gạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy hình như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta bảo: có vẻ như vậy Trung úy. Tôi gọi Nở lên: - Vợ cậu có bầu phải không? - Dạ, thưa Trung úy. - Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu bì rồi đi theo ĐĐ mãi sao được, phải lo sức khỏe cho cô ta. - Dạ, em cũng tính tháng này lãnh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa nó về gởi bà già. - Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây. Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục kich ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên bị bắn hạ, số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn công nên sau một hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại liên vì tôi thấy nó nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng: - Gì vậy Nở? Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào: - Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi! Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ đứng lên: - Chết rồi Trung úy. Tiếng thằng Năm trong toán đại liên: - Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy. Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần này tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi, sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng tình cờ đọc được lá thư chị viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho chị đi theo ĐĐ như vậy. Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà cái hòm không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên cấp chỉ vì chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN. Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học, Nở đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ đóng quân mà không có vợ bên cạnh. Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.

Một lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ lên câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết ở chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.

Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để khơi động lòng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời xa chủ nghĩa CS.. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15 năm trong phòng bào chế thuốc, và vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng lên làm dược sĩ vì quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học bổ túc văn hóa vì anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm này trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội mình năm xưa không, hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê. Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như nhau, nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết chị, chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.

Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm giết người ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được kết nạp đảng, đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì không, thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn thì mới có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ dân, chúng đem những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng? Thùy Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế hay làm Giám đốc một bệnh viện nào đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.

Cũng là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp, có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.

Bốn mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người, Thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đã có vợ khác, xin được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù, thật không xứng đáng với sự hy sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải vì hèn kém, không chiến đấu, mất nước vì bị phải mất nước.

Quên kể cho chị nghe, mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30 nặng chình chịc chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những người đã hy sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.

Trần như Xuyên



Những biến động và cuộc rút quân tại vùng III Duyên-Hải

Điệp Mỹ Linh

Trích Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp Mỹ Linh

Huy hieu BTL HQV3DH. TVQ Collection

Tình hình Vùng III Duyên-Hải sôi động kể từ khi tuyến Phan-Rang vỡ! Sau khi Phan-Thiết thất thủ và Hàm-Tân mất thì Vũng-Tàu bị đe dọa nặng nề!

Theo tin tình báo, khoảng 18 Sư-Đoàn Bắc quân đang có mặt trên toàn lãnh thổ Nam Việt-Nam; và năm Sư-Đoàn nữa đang trên đường vào Nam!

Trong khi đó, tất cả đại đơn vị V.N.C.H. di tản từ Vùng I và Vùng II vào chỉ có Lực-Lượng Thủy-Quân Lục-Chiến là còn nguyên vẹn! Chính phủ có ý định gom tất cả quân nhân của những đơn vị rã hàng để thành lập những đơn vị tân lập. Nếu dự định ấy được thực hiện tốt đẹp thì lực lượng đôi bên vẫn chênh lệch: Một quân nhân V.N.C.H. phải chống lại bốn tên Việt-Cộng!

Lúc này thành phố Vũng-Tàu đông nghẹt đồng bào và quân nhân di tản. Để tránh gây tình trạng náo động hơn trong địa phận của mình, Tư-Lệnh Quân-Đoàn III, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Thị-Trưởng Vũng-Tàu không cho phép Hạm-Đội Hải-Quân “đổ” số lượng khổng lồ quân, dân tỵ nạn từ Vùng I và Vùng II Chiến Thuật vào Vũng-Tàu. Do đó, Hạm-Đội Hải-Quân được lệnh đưa số người di tản ra Phú-Quốc.

Hầu hết LST đều chuyển quân và đồng bào ra Phú-Quốc. Những chiến hạm khác được điều động về Saigon; một số vào sửa chữa tại Hải-Quân Công-Xưởng; số còn lại lẩn quẩn trong hải phận Vũng-Tàu. Chỉ có hai chiến hạm sau đây nhận trọng trách khác:

  • HQ 406, sau khi trả Cảnh-Sát Dã-Chiến lại Cát Lỡ, được lệnh đi Năm-Căn đón Địa-Phương-Quân và Hải-Quân rồi ra An-Thới “bốc” thêm quân từ những đơn vị rã hàng từ Vùng I và Vùng II, đem về tăng cường cho mặt trận Vùng III.

Lúc chuyển quân từ Năm-Căn ra biển, HQ 406 bị Việt-Cộng bắn ba hỏa tiễn. Hai trái trúng phòng lái, một trái trúng mũi chiến hạm. Năm nhân viên bị thương.

Hai van ham Hau Giang HQ.406..

  • HQ 400 nhận chỉ thị chuyên chở binh sĩ, gia đình và dân chúng từ Bình-Tuy về Cát Lỡ.

Ngày 1 tháng 4, đài kiểm báo 301 được dời về Vũng-Tàu.

Ngày 3 tháng 4, HQ 404 đưa Tướng Ngô Quang Trưởng và Thủy-Quân Lục-Chiến từ Cam-Ranh về đến hải phận Vũng-Tàu.

Tình trạng sức khỏe của Tướng Trưởng sa sút trầm trọng. Trên HQ 404 có hai bác sĩ cũng di tản từ miền Trung vào. Hạm-Trưởng HQ 404, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đại Nhơn, nhờ hai bác sĩ chẩn bệnh cho Tướng Trưởng. Cả hai bác sĩ đều bảo Tướng Trưởng bị kiệt sức, cần chuyền “nước biển” để giúp sức khỏe của Tướng Trưởng hồi phục.

Hạm-Trưởng HQ 404 mời tất cả sĩ quan cao cấp di tản từ miền Trung vào, lập biên bản, đồng ký tên chấp thuận để hai bác sĩ chuyền “nước biển” cho Tướng Trưởng.

Khi HQ 404 đến Nhà-Bè, mọi người thấy nhiều tàu nhỏ chở đầy quân nhân Nhảy-Dù đi theo hộ tống HQ 404.

HQ 404 cặp cầu trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, bến Bạch-Đằng. Trên cầu tàu, ngoài Đô-Đốc Chung Tấn Cang trong quân phục Tiểu-Lễ, Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức và một số sĩ quan cao cấp Hải-Quân và Nhảy-Dù, còn có Bà Ngô Quang Trưởng.

Hai Van Ham Huong Giang HQ404.

Ngày 17 tháng 4, sau khi hoàn tất cuộc chuyển quân và dân về Cát lỡ, HQ 400 sang Thành Tuy-Hạ lãnh đạn để tiếp tế cho những chiếc WHEC và PCE biệt phái Vùng III Duyên-Hải.

Ngày 21 tháng 4, vừa mới đại kỳ xong, HQ 6 được biệt phái ra Vũng-Tàu và đặt dưới sự điều động của Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải.

Ngày 22 tháng 4, trong khi tấn công Long-Hải, Việt-Cộng dùng đại bác 105 ly bắn ra HQ 6, nhưng đạn chỉ rơi quanh chiến hạm.

Ngày 23 tháng 4, lúc Việt-Cộng tiến vào Long-Hải cũng là lúc cù lao Thu bị uy hiếp nặng nề. Phụ Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, chỉ thị HQ 6 và HQ 11 ra tiếp cứu cù lao Thu.

Trên hải trình tiến ra cù lao Thu, nhân viên của HQ 6 và HQ 11 thấy một phi cơ Hoa-Kỳ xuất hiện, chiếu quang hiệu – chứ không liên lạc vô tuyến – ra lệnh cho cả hai chiến hạm phải quay lui, nếu không, khu trục ấy sẽ tấn công! HQ 6 trình về Bộ- Tư-Lệnh Hải-Quân xin chỉ thị. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh HQ 6 và HQ 11 trở lại Vũng-Tàu.

Ngày 24 tháng 4, Mỹ kéo vào vùng biển Vũng-Tàu nhiều xà-lan với bao cát chất đầy hai bên. Hơn mười thương thuyền Hoa-Kỳ, tối, vào neo cách bãi Trước khoảng hai mươi dặm về phía Cần-Giờ; sáng, nhổ neo đi. Phía Việt-Nam thì, một đoàn ghe Thiên Chúa Giáo, tối, từ Bến-Đá, thắp đèn đi ra biển; sáng lại trở về.

Ngày 25 tháng 4, Sư-Đoàn 3 Sao Vàng tấn công Bà-Rịa.

Ngày 26 tháng 4, sau khi trả lại 800 tấn đạn cho Thành Tuy-Hạ, HQ 505 ra Vũng-Tàu với nhiệm vụ di chuyển nhân viên và gia đình Đài Mẹ Việt-Nam ra Phú-Quốc.

Trong thời gian này, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng được chỉ thị phải chiếm Saigon trước cuối tháng để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 5. Do đó, Văn Tiến Dũng cho mở những cuộc tấn công quy mô từ phía Bắc Saigon với các đơn vị sau đây:

  • Vài thành phần của Sư-Đoàn 341 cùng với công trường 6 và công trường 7 Việt-Cộng “cầm chân” Trung-Đoàn 43 tại Xuân-Lộc.
  • Tiểu đội 75 Pháo-Binh Việt-Cộng nã hỏa tiễn 130 ly vào phi trường Biên-Hòa.
  • Hai Sư-Đoàn 304 và 325 Việt-Cộng tràn về Long-Thành, với ý đồ cắt đứt tỉnh lộ 15, con đường huyết mạch Saigon Vũng-Tàu.

Ngày 27 tháng 4, trong khi tại Saigon đã có gần 8.000 người Việt được Mỹ “bốc” khỏi Saigon thì ngoài khơi…

Ho tong ham Dong Da HQ.07, photo by Rod Allen.jpg

…Mặc dù đã cạn nhiên liệu và đạn dược, HQ 7 vẫn bị điều động vào bắn yểm trợ quận Đất-Đỏ trong khi các Tiểu-Đoàn Nhảy-Dù đang giao tranh ác liệt với địch tại đây. Nhiên liệu và đạn tiếp tế cho HQ 7 được LCU chuyển vận từ bờ ra.

HQ 400 được lệnh cập xà-lan phía ngoài Cát Lỡ, nhận hơn 600 người.

Ngày 28 tháng 4, Lữ-Đoàn I Nhảy-Dù từ Phước-Tuy rút về Vũng-Tàu và lập phòng tuyến tại căn cứ Cát-Lỡ.

Qua hệ thống truyền tin, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư-Lệnh Quân-Đoàn III, chỉ thị Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư-Lệnh Sư-Đoàn III – từ Đà-Nẵng vào – đưa quân của Sư-Đoàn III và Thiết Giáp từ Vũng-Tàu mở tỉnh lộ 15 về Biên-Hòa. Và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn sẽ đích thân đem quân đi ngược lại. Hai bên sẽ gặp nhau tại cầu Cỏ-May. Khi cuộc điện đàm vừa dứt, Việt-Cộng pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Một trái đại bác rớt trúng đài “vi-ba” khiến mọi liên lạc viễn liên bị gián đoạn.

Sau khi Việt-Cộng ngưng pháo kích, trực thăng đưa Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt và Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào từ HQ 5 đáp xuống Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Tại đây, Phó-Đề-Đốc Đào chỉ thị Hải-Quân Thiếu-Tá Võ Duy Hội, Tham-Mưu-Phó yểm trợ tiếp vận Vùng III Duyên-Hải, đưa một toán Người Nhái lên giật sập cầu Cỏ May. Nhưng khi toán Người Nhái và Thiếu-Tá Hội đến nơi thì Thủy-Quân Lục-Chiến đã giật sập cầu Cỏ May rồi.

Cầu Cỏ May sập, Việt-Cộng cướp ghe dân ở Phước-Tỉnh, vượt qua cầu Cỏ May, cầu Cái Khế, tiến vào Vũng-Tàu.

Phó-Đề-Đốc Đào ra lệnh Thiếu-Tá Võ Duy Hội đem nhân viên đi dời đài kiểm báo 301 ở Dakoo về Vũng-Tàu. Phó-Đề-Đốc Đào cũng chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Văn Dinh, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Duyên-Phòng, đem một WPB vào bãi Dâu đón nhân viên đài kiểm báo.

Khi WPB do Trung-Tá Dinh chỉ huy đến bãi Dâu, Việt-Cộng pháo ngay vào chiến đỉnh. Một sĩ quan chết, một sĩ quan bị thương. Sau khi báo cáo lên Phó-Đề-Đốc Đào, Trung-Tá Dinh đưa vị sĩ quan bị thương ra HQ 802 với hy vọng được cứu chữa; nhưng nhân viên HQ 802 không cho nhập hạm!

Cùng lúc đó, hai nhân viên của Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lỡ bị thương vì pháo kích cũng được Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lỡ, Trung-Tá Cơ-Khí Nguyễn Minh Thơ, đưa ra HQ 802. Nhân viên HQ 802 chỉa súng, không cho lên chiến hạm. Đến khi nhân viên chiến hạm nhận ra sự hiện diện của Hải-Quân Đại-Tá Vương Hữu Thiều trong toán tải thương thì nhân viên cho mọi người nhập hạm.

Chiều 28 tháng 4, HQ 505 đang neo tại Vũng-Tàu để nhận dụng cụ Đài Mẹ Việt-Nam, bỗng Phó-Đề-Đốc Đào ra lệnh ngưng, để nhận gia đình binh sĩ.

Mờ sáng 29 tháng 4, Việt-Cộng tấn công đơn vị Nhảy-Dù phòng thủ cầu Cỏ May. Đơn vị Nhảy-Dù này không chống cự được!

Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, có một cuộc họp hành quân tại Vùng III Duyên-Hải.

Ngay sau khi họp xong, Hải-Quân Đại-Tá Vũ Trọng Đệ, Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải, ban hành lệnh di tản.

Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô-Sanh, Chỉ-Huy-Phó Hải-Đội 3 Duyên-Phòng, đích thân đến từng hố chiến đấu và trạm gác để thông báo về lệnh di tản.

Sau đó, khoảng 11 giờ, Thiếu-Tá Ngô-Sanh xuống PCF cuối cùng để rời nhiệm sở. Khi liên lạc được với chiếc WPB có chở vợ con của Ông, Thiếu-Tá Sanh sang WPB.

Chiếc WPB vừa ra khỏi Căn-Cứ Cát-Lở khoảng vài trăm thước liền bị nhiều loại súng nhỏ, từ phía Trung-Tâm Huấn-Luyện Cán-Bộ Xây-Dựng Nông-Thôn, bắn xối xả. Đạn trúng đài chỉ huy. Trung-Úy Tuân, Trung-Úy Phước, Trung-Úy On bị thương; Thủy-Thủ Quý thiệt mạng! (*)

Phó-Đề-Đốc Đào cùng một nhóm thân tín rời nhiệm sở lên HQ 802.

Tại Bộ Tư-Lệnh Vùng III Duyên-Hải, Đại-Tá Vũ Trọng Đệ ra lệnh HQ 16, HQ 7 và HQ 12 tác xạ trục lộ Bà-Rịa, Cát-Lỡ, Vũng-Tàu để yểm trợ Thủy-Quân Lục-Chiến; vì Thủy-Quân Lục-Chiến đang bị Việt-Cộng đánh dạt ra bãi Trước.

Từ xã Long-Sơn, Việt-Cộng dùng đại bác bắn vào Vũng-Tàu. HQ 7 phản pháo. Nhưng khi đặt ống dòm quan sát, Hạm-Trưởng HQ 7, Hải-Quân Thiếu-Tá Trần Nam Hưng, mới phát giác ra là những trái đạn do HQ 7 bắn lên đều không nổ! Thì ra số đạn mới do LCU tiếp tế là đạn lép! Thiếu-Tá Hưng ra lệnh bắn ba viên đạn mới – đạn lép – thì chèn một viên đạn cũ.

Cả ba chiến hạm HQ 16, HQ 7 và HQ 12 đều bị trọng pháo Việt-Cộng bắn ra dữ dội. Nhờ hải pháo có tầm bắn xa, ba chiến hạm đều ở ngoài tầm đạn của địch, làm point rất chính xác, bắn trả. Tuy vậy, đạn đại bác Việt-Cộng vẫn rơi quanh ba chiến hạm, tạo nên những khối nước phun khổng lồ.

Ho tong ham Ngoc Hoi HQ12

Tình trạng kỹ thuật của HQ 12 không được tốt, chỉ còn chạy được một máy. Khi bị Việt-Cộng bắn rát quá, HQ 12 chạy ra khơi.

Khoảng 12 giờ 30 cùng ngày, chiếc WPB chở Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô-Sanh cùng gia đình binh sĩ và những người bị thương đến bãi Trước. Thiếu-Tá Sanh gọi cấp cứu trên máy truyền tin nhưng không đơn vị nào đáp lại.

Sau khi làm lễ thủy táng đúng nghi lễ Hải-Quân cho Thủy-Thủ Quý, Thiếu-Tá Ngô-Sanh gọi một PCF, chỉ thị PCF này đưa ba sĩ quan bị thương vào bờ để tìm phương tiện cứu chữa.

Xế trưa 29 tháng 4, xe tăng Việt-Cộng xuất hiện tại bãi biển Vũng-Tàu và hạ nòng bắn ra HQ 505. HQ 505 vội nhổ neo, lui ra. Sau đó, nhiều trực thăng của Không-Quân V.N.C.H. bay ra và hai chiếc đáp xuống HQ 505.

3 giờ chiều, HQ 400 đang neo tại bãi Trước, bị Việt-Cộng pháo kích xối xả. Chiến hạm nhổ neo khẩn cấp, tránh tầm đạn.

5 giờ chiều, từ Long-Khánh, các lực lượng Nhảy-Dù, Biệt-Động-Quân, Bộ-Binh, Địa-Phương-Quân, v. v… rút về Vũng-Tàu. Tại đây, không còn một lực lượng nào “tiếp hơi”, những lực lượng tinh nhuệ đó tan hàng!

6 giờ chiều, lệnh từ Vùng III Duyên-Hải: Tất cả chiến hạm “tự do vận chuyển”!

Tối 29 tháng 4, một người Mỹ mặc thường phục, nói tiếng Việt rất lưu loát, tìm đến chiến hạm Hải-Quân Việt-Nam xin di tản. Khi gặp Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển, người Mỹ này cho hay rằng ông ta có tần số liên lạc với Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ. Nhiệm vụ của người Mỹ này là đón học sinh Trường Thiếu-Sinh-Quân tại Vũng-Tàu; nhưng Ông không thi hành được vì học viên tản mác hết, tìm không ra.

HQ 16 cùng HQ 7 và HQ 12 vẫn tiếp tục phản pháo cho đến khi bất ngờ nhận ra rằng Cơ-Xưởng-Hạm Vĩnh-Long HQ 802 không còn neo tại bãi Trước nữa. Cả ba vị Hạm-Trưởng cố liên lạc với giới chức thẩm quyền Vùng III Duyên-Hải, nhưng không gặp được ai cả.

Hạm-Trưởng HQ 12, Hải-Quân Trung-Tá Lê Xuân Thu, yêu cầu HQ 7 yểm trợ về Saigon. Hạm-Trưởng HQ 16 cũng muốn về Saigon. Nhưng ngay lúc đó, Hạm-Trưởng HQ 505 liên lạc với cả ba vị Hạm-Trưởng và cho biết Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải đã cho lệnh “tự do vận chuyển”! Cả ba vị Hạm-Trưởng đều bỏ ý định trở về Saigon.

Biết được lệnh “tự do vận chuyển” và ý định không trở về Saigon của Hạm-Trưởng HQ 7, Trung-Úy T. và một số nhân viên phá tàu và dùng vũ khí uy hiếp Hạm-Trưởng, buộc Hạm-Trưởng phải đưa HQ 7 về Saigon.

Tuy vợ con còn kẹt lại Saigon, nhưng Hạm-Trưởng HQ 7 biết không thể nào sống được với Việt-Cộng, Ông khéo léo giàn xếp nội bộ. Hạm-Trưởng lấy hết tiền trong quỹ dự trữ tặng cho những người muốn trở về, rồi cho chiến hạm chạy sát vào cửa Đại, thả Wizard và bè xuống cho họ vào bờ. Một số Thủy-Quân Lục-Chiến được HQ 7 vớt quanh Vũng-Tàu cũng muốn về. Hạm-Trưởng HQ 7 cho thả bè, cung cấp nước ngọt và lương thực cho nhóm này về luôn.

Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên HQ 7 thì trên HQ 16, Hạm-Trưởng cũng bị một nhóm thủy thủ uy hiếp bằng vũ lực; vì Hạm-Trưởng muốn đưa chiến hạm đến đảo Tamassu đón vợ con của Ông, nhưng nhóm nhân viên này lại chỉ muốn đi thẳng ra Côn-Sơn.

Lúc này, HQ 17 từ Trường-Sa đang trên đường trở về. Khi còn cách bờ khoảng ba mươi hải lý, Hạm-Trưởng liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải, hỏi địa điểm “đổ” quân; nhưng không được giải đáp thỏa đáng. Hạm-Trưởng HQ 17 yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải. Phó-Đề-Đốc Vũ Đình Đào, từ HQ 802, “lên” máy và đáp: “Tùy anh.”

https://i1.wp.com/i39.tinypic.com/a1r6z8.jpg

Đến gần bờ, thấy ghe thuyền ồ ạt ra khơi, HQ 17 vẫn ngược dòng, cố trở về Saigon. Nhưng, từ mỏm đá phía Nam Vũng-Tàu, Việt-Cộng dùng đại bác 150 ly bắn xối xả ra chiến hạm. HQ 17 thừa sức phản pháo, nhưng vì thấy ghe thuyền đen nghịt trên mặt sông, Hạm-Trưởng HQ 17 ngại, nếu hai bên “đối đáp” bằng đại bác, dân sẽ chết oan. Và, nếu chiến hạm chìm, cửa sông sẽ bị nghẽn. Vì hai lý do đó, Hạm-Trưởng HQ 17 cho chiến hạm quay mũi ra khơi.

Vừa đưa chiến hạm khỏi tầm đạn của Việt-Cộng, Hạm-Trưởng HQ 17 lại phải đương đầu với sự rối loạn nội bộ! Vợ con và gia đình của nhân viên chiến hạm đều bị kẹt, cho nên, một số nhân viên muốn đón ghe về Saigon, một số muốn ra khơi – dù chưa ai biết để làm gì và sẽ đi đâu! Số Địa-Phương-Quân mà HQ 17 “bốc” từ Trường-Sa về, đã xa gia đình chín, mười tháng, nay, trong cơn nguy biến, tất cả đòi về. Hạm-Trưởng phải khéo léo dàn xếp, kiếm ghe cho những ai muốn về thì về.

Thời điểm này, HQ 400 chở đầy đạn và đầy người. Hạm-Trưởng xin chỉ thị từ Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, để vất đạn xuống biển. Trung-Tá Uyển không quyết định được. Cuối cùng, Trung-Tá Uyển thông báo với các Hạm-Trưởng là Ông từ chối trách nhiệm!

ĐIỆP-MỸ-LINH

https://bienxua.wordpress.com/2016/04/26/nhung-bien-dong-va-cuoc-rut-quan-tai-vung-iii-duyen-hai/

No comments:

Post a Comment