1
Trận bão lớn đổ ập vào đang tàn phá thành phố... Mưa rả rích đã tuần nay. Gió bắt đầu cuồng loạn. Từ trong phòng nhìn ra mưa bay theo chiều ngang và có cát bốc theo trắng sóa bầu trời... Tiếng sóng biển gào thét vỗ vào bờ hất tung đụn cát rồi cuộn kéo ra khơi. Núi Ngũ-hành-sơn (Non-nước) ướt át im lìm trong gió loạn mưa cuồng. Thầm nghĩ cứ thời tiết như vầy thì chẳng có chiến tranh... Lúc này những trận đánh lớn liên tiếp sảy ra... Mới đây Trung-đoàn 5 bộ binh thuộc Sư-đoàn 2 bị một trận tơi bời tại Tiên-phước... Sư-đoàn Thủy-quân-lục-chiến đang cố giữ vững thành phố Quảng-trị... Kể từ khi Thủy-quân-lục-chiến Mỹ bỏ những tiền đồn tại Khe-sanh. Quân lực Việt-nam Cộng-hòa không đủ khả năng trám vào những khoảng trống để lại... Người anh hùng mũ đỏ tên Đương đang được hàng ngày ca tụng trên radio... Sau thất bại trong trận tổng công kích tết Mậu-thân 1968, cộng sản Việt-nam đã củng cố xong lực lượng. Sự hy sinh xương máu chẳng làm giới lãnh đạo bác việt chùn tay... Những trận đánh mà "hy sinh tiếc gì thân sống" đã làm giới quân sự Mỹ và Quân-lực Việt-nam Cộng-hòa sửng sốt đôi lúc không tin bởi những chiến thuật trái ngược chiến thuật... Người ta đã buộc lòng phải tàn sát cả một đại đội lính nhẩy Dù chết chung với một tiểu đoàn quân bắc việt trên một cao điểm trận địa... Sau những trận đánh người ta lật mặt xác chết, ngậm ngùi và thương tâm trước những chiến binh bắc việt tuổi chỉ vào khoảng 14,15,16.
Hào quang Điện biên phủ dẫn vào lòng chảo Khe-sanh. Họ quần nhau với quân đội Mỹ mà chẳng tiếc gì thân sống dù rằng có vũ khí mới là xe tăng. Mưu cầu chiền lược đang nhắm vào sự tỏa hào quang như Điện-biên khi xưa... Nhưng cũng có lẽ, ý muốn thiết thực nhất vẫn là đám phản chiến tại Hoa-kỳ và hy vọng số thương vong của quân sĩ Mỹ sẽ làm Quốc-hội trói buộc phần nào giới cầm quyền... Ôi ! mình là người lính suy nghĩ chi cho nhức đầu... Dù sao cái nhìn của mình cũng chỉ từ đỉnh đầu ruồi đến lỗ châu mai. Mỉm cười với ý nghĩ đó...Bên kia Trung sĩ Thành (Trịnh công Thành) toán phó mới toanh thay thế Trung sĩ Quang, hắn trong thế nằm co co trong chăn. Miệng như mơ ngủ.
2
Hình ảnh người bạn gái mới quen trong bữa tiệc cưới người em trai của Mai. Bích-Yến con nhà tiệm tạp hóa trên đường Độc lập, Đà nẵng có họ hàng với Mai, cùng quê Phú-cam Huế...Vô tình hay cố ý nàng được chủ nhà sắp sếp ngồi cạnh tôi trong bữa tiệc...Nhan sắc trung bình nhưng nét dịu hiền và vóc dáng mảnh khảnh đã thu hút tôi. Trong câu chuyện ngồi gần nhau hỏi vu vơ...Cái giọng Huế, ôi! nó dịu dàng, truyền dẫn thanh tao lạ... Đôi lúc bên tai khe khẽ hé mở Đào nguyên. Sau bữa tiệc, lại một sự sắp sếp nữa chăng?. Cường đất bảo tôi lái xe đưa khách về tận nhà.
Đấy phút đầu gặp nhau chỉ có thế, tôi và nàng dần đi đến chỗ thân quen...Có những dịp đưa đón trước cổng trường, sao mà lãng mạng bay bổng. Hay những buổi chiều hóng mát trên ghế đá bờ sông Hàn...Lòng như dịu lại, thoát hết đi những sô bồ đời người...Như chiều nay, nhìn mấy đứa bé tắm sông, giỡn nghịch đang leo lên cành cây de ra ngoài mặt nước...Tôi nghe thấy tiếng nhẹ bên tai "Anh nì, sao không xin chỗ làm như anh Cường. Việc chi mà cứ đi hành quân hoài như rứa..." Tôi ậm ự cho qua và chỉ còn biết có một điều, lâu lâu không gặp nhau là nhớ mải mê, bần thần... Dạo bước qua những hè phố đường Quang-trung luôn rợp bóng cây. Tự dưng nàng nằm chặt tay tôi... Bên kia đường, từ quán cà phê giọng hát ngọt ngào tha thiết của Hà-thanh "Cầm tay nhau đi anh, tơ trời quá mong manh". Lòng tôi như đang du vào mộng và chợt tỉnh người trong cái "Cuộc tình lên cao vút".
Trở lại bờ sông sau khi đã lấy cuốn tập, nơi nhà người bạn...Thành phố lên đèn, bờ sông chật bóng người. Nhưng phía cuối, gần trường tiểu học Pháp. Nơi chiếc ghế cuối cùng, chúng tôi ngồi bên nhau...Ngòn đèn trên đài ra đa Sơn-chà chớp tắt. Vịnh cảng Tiên-sa lung linh ánh đèn. Gió sông lành lạnh mang mùi nước... Tay trong tay, sát gần nhau như còn muốn gần hơn nữa. Hơi thở cùng hòa nhịp. Sát bên như con chim bé bỏng cần được ấp ủ. Tôi siết chặt vòng tay và hôn lên mái tóc... Chỉ muốn thời gian ngưng lại đừng trôi nữa và xin cho tôi thêm một khoảng khắc tuyệt vời bên nhau thổn thức trong ý nguyện "Chỉ hai đứa mình thôi nhé"
3
Ba toán được điều động, thể theo lời yêu cầu của Tư-lệnh Quân-đoàn 1... Phía người Mỹ (SOG) tin rằng nơi đó có một trại giam giữ tù binh, có cả lính Mỹ... Hải Vân, Hải Sơn, Hải Yến được lệnh hành quân.
Trong phi trường Chu-lai, nơi đặt căn cứ xuất phát, sáng nay sau thuyết trình không quân, lệnh xâm nhập được ấn định vào buổi chiều... Hải Vân, Hải Yến cùng một lúc xâm nhập, sau đó trực thăng sẽ đưa Hải Sơn, toán chúng tôi lên nơi một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 2 bộ binh và toán sẽ từ điểm này xâm nhập mục tiêu.
Nắng gay gắt vào buổi chiều, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt từ sân xi măng. Sáu Kingbee cùng hai Cobra trên sân đợi lệnh xuất phát... Một người Mỹ đang đánh bài và làm cái chia xập xám với Lập lùn (thông dịch toán Hải yến) Đại úy Nhơn (cơ trưởng Kingbee) và Lợi (mê vô)... Huyên náo trong tiếng cười nắc nẻ. To nhất, tiếng nói xin đặt ké của Thiếu úy Thuần (Lưu van Thuần) toán trưởng Hải Vân... Ngồi chầu rìa vì hết tiền trên bánh trực thăng Thiếu úy Thông (Nguyễn cửu Thông) toán trưởng Hải Yến đuỗn mặt buồn so... Đoàn người túa ra từ dẫy phòng nghỉ. Đã có lệnh xuất phát... Phút chốc tiếng cánh quạt xoay dòn... Tám trực thăng đồng cất cánh... Trên sân chỉ còn lại toán tôi cùng vài người Mỹ chờ trực thăng thả xong toán trở về.
Từ vùng núi xanh thẳm ngàn sương. Những đốm đen trực thăng rõ dần, rồi đáp xuống mé bên kia phi trường để đổ xăng... Đoàn trực thăng yên vị trên sân. Từ chiếc trực thăng đầu tiên phía trên đổ ra đám người, có kẻ phải dìu mới đi được. Nhìn kỹ dáng Thiếu úy Thuần đang cà nhắc lết tới... Chúng tôi chạy đến xem có phụ giúp được gì không?. Từ chiếc trực thăng khác lại thấy ba Kingbee quần áo sốc xếch có người áo rách toạc trên vai... Nghi ngờ tôi đếm lại, thiếu một chiếc Kingbee. Xe cứu thương cũng vừa tới nơi, chuyển ngay những người bị thương đi bệnh viện. Hỏi chuyện người mê vô trên trực thăng, anh ta cho biết... Thả xong được một toán, trực thăng tiếp thả toán thứ hai, nhưng vào ngay hầm trú ẩn của địch. Bị hàng loạt đạn chiếc Kingbee đâm ngay xuống khi chỉ còn cách vài mét nữa là đáp xuống bãi... Cũng may địch đã biến mất, để lại hai xác chết bị đạn của Cobra... Chúng tôi được lệnh lên trực thăng và trong ánh chiều tà yếu ớt, hắt lên những làn gió lạnh. Toán được thả xuống Bộ chỉ huy Tiểu đoàn bộ binh đang hành quân trong rừng vùng Thượng Đức.
Sáng nay trời còn ẩm hơi sương. Núi trước mặt và rừng cây trùng điệp. Một đại đội bộ binh sẵn sàng đưa chúng tôi đến địa điểm xâm nhập... Từ lều bạt của Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Thiếu úy Điệp cùng Trung sĩ Trịnh công Thành (toán phó) ra lệnh cho toán chuẩn bị xuất phát. Mặt trời cũng đả rọi xuyên qua những cành lá. Đoàn quân di chuyển lầm lì trong tiếng hót chim ca chào ngày mới... Đi được khá lâu, một cái nhà sàn lẻ loi trên lưng chừng cây, bên dưới những ống tre đựng nước hay nấu cơm nằm lăn lóc. Một con lợn mọi xinh sắn nhìn chúng tôi xong chạy biến vào rừng, khi một người lính định bắt nó... Cảnh núi rừng âm u mờ trắng bởi những sương khói mịt mù... Bên trên tàn cây, ánh mặt trời bất lực trước cái rậm lá cành của rừng cây. Đại đội dừng lại nghỉ ngơi. Ông Đại úy Đại đội trưởng đang cùng Thiếu úy Điệp rà soát lại bản đồ... Một Covey O2 đang trên đầu tôi đã thấy Phan gia Thạnh (biệt kích quân) bật mở máy và trao ống nói cho tôi... Một ông Mỹ trên Covey bao vùng. Tôi hẹn đến khi tách khỏi đoàn quân, sẽ gọi báo cáo. Tiếng Covey nhỏ dần. Đoàn quân lại tiếp tục di chuyển, qua khỏi được con suối cạn, đang lên bờ dốc... Những đàn khỉ trên cây chực chờ nhe răng chào đón, có những con nhăn nhăn tay chỉ trỏ... Ông Đại úy bộ binh nói với Điệp trên dốc là tọa độ xâm nhập và Thiếu úy Điệp cùng đồng ý khi xem lại bản đồ.
3
Ba toán được điều động, thể theo lời yêu cầu của Tư-lệnh Quân-đoàn 1... Phía người Mỹ (SOG) tin rằng nơi đó có một trại giam giữ tù binh, có cả lính Mỹ... Hải Vân, Hải Sơn, Hải Yến được lệnh hành quân.
Trong phi trường Chu-lai, nơi đặt căn cứ xuất phát, sáng nay sau thuyết trình không quân, lệnh xâm nhập được ấn định vào buổi chiều... Hải Vân, Hải Yến cùng một lúc xâm nhập, sau đó trực thăng sẽ đưa Hải Sơn, toán chúng tôi lên nơi một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 2 bộ binh và toán sẽ từ điểm này xâm nhập mục tiêu.
Nắng gay gắt vào buổi chiều, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt từ sân xi măng. Sáu Kingbee cùng hai Cobra trên sân đợi lệnh xuất phát... Một người Mỹ đang đánh bài và làm cái chia xập xám với Lập lùn (thông dịch toán Hải yến) Đại úy Nhơn (cơ trưởng Kingbee) và Lợi (mê vô)... Huyên náo trong tiếng cười nắc nẻ. To nhất, tiếng nói xin đặt ké của Thiếu úy Thuần (Lưu van Thuần) toán trưởng Hải Vân... Ngồi chầu rìa vì hết tiền trên bánh trực thăng Thiếu úy Thông (Nguyễn cửu Thông) toán trưởng Hải Yến đuỗn mặt buồn so... Đoàn người túa ra từ dẫy phòng nghỉ. Đã có lệnh xuất phát... Phút chốc tiếng cánh quạt xoay dòn... Tám trực thăng đồng cất cánh... Trên sân chỉ còn lại toán tôi cùng vài người Mỹ chờ trực thăng thả xong toán trở về.
Từ vùng núi xanh thẳm ngàn sương. Những đốm đen trực thăng rõ dần, rồi đáp xuống mé bên kia phi trường để đổ xăng... Đoàn trực thăng yên vị trên sân. Từ chiếc trực thăng đầu tiên phía trên đổ ra đám người, có kẻ phải dìu mới đi được. Nhìn kỹ dáng Thiếu úy Thuần đang cà nhắc lết tới... Chúng tôi chạy đến xem có phụ giúp được gì không?. Từ chiếc trực thăng khác lại thấy ba Kingbee quần áo sốc xếch có người áo rách toạc trên vai... Nghi ngờ tôi đếm lại, thiếu một chiếc Kingbee. Xe cứu thương cũng vừa tới nơi, chuyển ngay những người bị thương đi bệnh viện. Hỏi chuyện người mê vô trên trực thăng, anh ta cho biết... Thả xong được một toán, trực thăng tiếp thả toán thứ hai, nhưng vào ngay hầm trú ẩn của địch. Bị hàng loạt đạn chiếc Kingbee đâm ngay xuống khi chỉ còn cách vài mét nữa là đáp xuống bãi... Cũng may địch đã biến mất, để lại hai xác chết bị đạn của Cobra... Chúng tôi được lệnh lên trực thăng và trong ánh chiều tà yếu ớt, hắt lên những làn gió lạnh. Toán được thả xuống Bộ chỉ huy Tiểu đoàn bộ binh đang hành quân trong rừng vùng Thượng Đức.
Sáng nay trời còn ẩm hơi sương. Núi trước mặt và rừng cây trùng điệp. Một đại đội bộ binh sẵn sàng đưa chúng tôi đến địa điểm xâm nhập... Từ lều bạt của Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Thiếu úy Điệp cùng Trung sĩ Trịnh công Thành (toán phó) ra lệnh cho toán chuẩn bị xuất phát. Mặt trời cũng đả rọi xuyên qua những cành lá. Đoàn quân di chuyển lầm lì trong tiếng hót chim ca chào ngày mới... Đi được khá lâu, một cái nhà sàn lẻ loi trên lưng chừng cây, bên dưới những ống tre đựng nước hay nấu cơm nằm lăn lóc. Một con lợn mọi xinh sắn nhìn chúng tôi xong chạy biến vào rừng, khi một người lính định bắt nó... Cảnh núi rừng âm u mờ trắng bởi những sương khói mịt mù... Bên trên tàn cây, ánh mặt trời bất lực trước cái rậm lá cành của rừng cây. Đại đội dừng lại nghỉ ngơi. Ông Đại úy Đại đội trưởng đang cùng Thiếu úy Điệp rà soát lại bản đồ... Một Covey O2 đang trên đầu tôi đã thấy Phan gia Thạnh (biệt kích quân) bật mở máy và trao ống nói cho tôi... Một ông Mỹ trên Covey bao vùng. Tôi hẹn đến khi tách khỏi đoàn quân, sẽ gọi báo cáo. Tiếng Covey nhỏ dần. Đoàn quân lại tiếp tục di chuyển, qua khỏi được con suối cạn, đang lên bờ dốc... Những đàn khỉ trên cây chực chờ nhe răng chào đón, có những con nhăn nhăn tay chỉ trỏ... Ông Đại úy bộ binh nói với Điệp trên dốc là tọa độ xâm nhập và Thiếu úy Điệp cùng đồng ý khi xem lại bản đồ.
4
Toán chúng tôi lẳng lặng di chuyển thẳng hướng tây, trước cái vẫy tay chào của Bộ chỉ huy đại đội bộ binh . Châu (biệt kích quân) đi đầu giờ phải vất vả mở đường. Thiếu úy Điệp đi kế, đến tôi Hải (thông dịch, biệt kích quân) Phan gia Thạnh (biệt kích quân, radio man) Trung sĩ Trịnh công Thành (toán phó) Cường nhóc (biệt kích quân) đoạn hậu.
Tiếng súng đồng loạt nổ sau lưng, có cả M79, lựu đạn. Nhưng trội hơn, cây đại liên M60 tung hoành như tiếng thét tử thần đanh đảnh.Đại đội bộ binh đang chạm địch... Chúng tôi cố thoát đi thật nhanh trong tiếng hô xung phong gào thét... Núi rừng bỗng trở nên yên lặng đến rợn người... Đại đội bộ binh đã tiền chiếm xong mục tiêu... Hay bị địch quân phục kích bắn tỉa?!
Toán đã đến được bìa rừng, phía trước là cánh đồng cỏ dễ chừng cả cây số mới tới cửa rừng bên kia... Ngồi bên Thạnh, tôi bật máy gọi Covey. Bắt được liên lạc, tôi yêu cầu xác định vị trí theo đúng trong thuyết trình. Trên Covey trả lời sẽ tới ngay... Cường nhóc tay cầm sẵn cái gương chiếu chờ đợi... Covey đang ở trên đầu, nhanh và gọn"mắt thần" lóe lên thẳng vào Covey.
-Whisky lima đây Bravo kilo, đã thấy địa chỉ, trong chốc lát tôi sẽ chuyển điện tin cho anh.
Đúng theo kế hoạch hành quân, đây là lúc toán mới biết được mục tiêu và nhiệm vụ của mình... Trong máy có tiếng gọi, tôi ghi vội bức điện bằng mật mã, rồi chuyền ngay cho Điệp mở khóa... Mục tiêu đã được xác định, hướng bắc, nhiệm vụ thám sát khu vực có bệnh viện... Chúng tôi ăn trưa quanh gốc cây, lạ một điều, thiếu hẳn tiếng súng truyền tin của địch.
Vội vàng di chuyển sau ăn trưa. Rất may cho chúng tôi mục tiêu ở về hướng bắc. Toán sẽ được che chắn bởi rừng rậm,mà không phải vượt qua cánh đồng cỏ dễ lộ tung tích. Âm thầm, mồ hôi nhễ nhại trong khu rừng chồi rậm gai góc chúng tôi chậm chạp tiến xâu vào mục tiêu... Thở phào nhẹ nhõm khi trước mặt hiện ra rừng cây cao bóng cả nhưng âm u huyền bí và đã cảm nhận được cái không khí lạnh toát ra. Sự thoải mái hiện trên từng khuôn mặt... Khu rừng tầm nhìn vừa này,không rậm chẳng thưa đã gây dễ chịu thoáng đãng... Nhìn lại mầu nắng vàng sau lưng và bóng một đám mây đen dần trôi trên cánh rừng chồi gai rậm, lòng như trút bỏ được gánh nặng... Châu ngồi thụp xuống và Điệp đưa tay ngừng lại. Qua kẽ cây lá cách khoảng áng chừng ngoài hai mươi mét. Trên phiến đá, cạnh gốc cây to, hai người mặc đồ đen, người có mái tóc dài bên trái đưa tay chỉ chỉ gì xuống đất... Bỗng một tràng cười lay động tiếng chim. Họ như vật nhau xuống, biến mất vào bên kia phiến đá... Chúng tôi nhìn nhau mắt dò hỏi. Tôi bỗng mỉm cười thốt lên "búm bùm" Một cái đá chân của Điệp và tay Cường nhóc đập vào vai tôi... Nhìn quanh mọi người đều cười trong họng và quên bẵng đi cái áp lực đang đè nặng. Thời gian chậm rãi trôi qua. Một cơn gió lốc quanh co ào ạt tiến tới mang theo những lá cây trên rớt xuống, dưới bốc lên nhanh chóng đang xoáy đến chỗ chúng tôi và cũng vừa lúc hai người kia lại xuất hiện bên phiến đá... Họ dắt tay nhau đi về phía trước biến dạng... Ngồi chờ nghe động tĩnh. Toán di chuyển trong ánh chiều tà bên hông, qua chỗ phiến đá hiện trường, Điệp đi trước cứ tò mò nhìn. Tôi phải dục " đi mau, nhìn vào sui lắm".
5
Bữa cơm chiều đánh vật với muỗi và vắt, tiếng vo ve đâm sầm váo hai tai trong khi trên lá cây rụng, đoàn xiếc vắt uốn dẻo điệu nghệ hơn cả những vũ công ba lê. Chúng tôi di chuyển trong bóng mờ mờ và chọn được một gốc cây cổ thụ... Ngồi nghe ngóng một hồi lâu. Cường nhóc và Trung sĩ Thành đi ra gài hai trái mìn claymore phòng thủ... Bóng đêm bao trùm thật nhanh. Có tiếng ho trong vạt tay áo. Dựa mình vào ba lô, tôi thoải mái đặt lưng... Âm vang núi rừng theo gió hòa cùng muông thú reo vang. Con tắc kè trên tít cây cao buông xuống năm tiếng tắc kè chậm rãi xoáy vào tai. Một chiến đấu cơ phản lực bay đêm xẹc ngang vô duyên phá vỡ cơn mơ dỗ giấc ngủ... Tôi bật dạy lắng nghe. Hình như có những tiếng động liên tục theo gió trôi dạt. Nằm im nghe ngóng, đã có những cái cựa mình của đồng đội... Quả nhiên không sai, những bước chân rõ dần đang đến thẳng chúng tôi. Hoảng kinh về sự mau lẹ, có thể sắp đạp vào nơi đây... Nó dồn dập đập đất tạo nên âm thanh chạy trốn vang động. Tiếng huýt sáo cất lên trong đêm cao vút bắt đầu bản quân hành, hòa nhịp cùng bước chân điệu nghệ trùng khớp nhịp ca... Cả toán đều biết rằng mình đang ngủ đêm gần con đường có thể chỉ là hai mươi mét chăng?!. Đoàn người dần đi xa chỉ còn nghe nhỏ tiếng bước chân... Tưởng đã hết nhưng lại tiếp tục tiếng bước chân sau như hòa nhịp cùng bước quân hành đi trước. Nghe hơi xa có tiếng ho sặc sụa nổ phổi cùng âm thanh vẻ nặng nề chậm rãi đi lên. Trăng đã lên tự lúc nào đang cố chui ra khỏi đám mây đen, tỏa một nửa ánh sáng... Đồng hồ mới chín giờ tối. Nhìn quanh chúng tôi đã thấy nhau. Bước chân bỗng im bặt ngang chỗ chúng tôi và một giọng truyền lệnh "Các đồng chí nghỉ một tí, đồng chí Phúc hãm bánh xe". Rừng đêm trỗi dậy, muông thú kêu, hú thênh thang vọng dội. Ánh trăng trắng ngà thấy cả cây đa... Hình như có tiếng chặt cây nghe bộp bịch "Thôi các đồng chí, chúng ta mau vào vị trí càng sớm càng hay". Sau tiếng hò dô ngắn rồi dần dần mất hút... Địch đang đưa pháo hay phòng không vào trận địa.
Thiếu úy Điệp đến bên tôi bàn bạc... Phải di chuyển khỏi chỗ này ngay trong đêm và đồng ý với nhau, sáng sớm mai xuất phát lúc gà gáy dồn. Nằm xuống tựa lưng vào rễ cây, tôi tạo cảm giác an toàn trong trí. Tiếng cựa mình trằn chọc phía Cường nhóc, chắc đang nghĩ tới mẹ. Nhắm mắt tưởng về bầu trời sao thăm thẳm, tôi dần thiếp đi vào giấc ngủ.
Trỗi bật dậy trong liên hồi tiếng nổ tiếng súng rền vang. Hướng đông, ngay lập tức tôi ước chừng cả cây số. Mở màn cho trận đánh vào Tiểu đoàn toán xuất phát. Mới hai giờ sáng. Tiếng đề pa của pháo nghe gần hơn và gấp rút. Sau trận pháo chắc chắn là cuộc tấn công. Tiếng nổ âm vang ấm tròn bung lên hòa vào liên tục tiếng súng lanh lảnh dòn tan. Hình dung bóng đen tử thần luẩn khuất chộp vội những sinh linh đang ngơ ngác... Trò chơi chiến tranh dẫu sai lầm nhưng vẫn là cái mãn nguyện trong hí hửng của con người. Kẻ thắng sung sướng tột cùng ứa nước mắt và người thua thường đưa tay ôm mặt cũng trong nước mắt... Cái giọt nước ngọc ngà ấy từ mọi khóe mắt đều được nhỏ ra trước mọi tình huống cuộc đời. Ôi! Thượng đế ngài xoay ngang hay dọc?!! Thêm những tiếng hò reo vang dậy có thể là một chiến thắng hay đang mở màn cho cuộc tấn công tàn sát ?! Thiếu úy Điệp ra lệnh di chuyển. Toán chuẩn bị, đã thấy Thành và Cường nhóc đang cuộn sợi dây điện đi ra gỡ mìn. Trận đánh vẫn âm vang núi rừng từng chặp dồn dập, từng chặp lai rai. Châu đang xem địa bàn. Chúng tôi di chuyển dưới ánh trăng và hỏa châu hắt đến từ trận địa.
6
Vượt vội qua con đường đêm qua địch di chuyển, vẻ âm u, chỉ có gió lạnh lùa từ hai hướng con đường, nhìn vào mặt đường những bóng đổ xoài theo nhau vào khu rừng mới... Cánh rừng thưa thấy rõ từng gốc cây, ánh trăng lốm đốm chỗ có chỗ không quanh khu vực, thầm nghĩ rất may là có bóng đêm che chắn... Thám sát mà lộ ra tung tích thì kể như bù... Toán đi được nhanh cũng nhờ vào trận địa ở một bên ầm vang không dứt, nhưng chẳng làm các chú gà rừng điếc không sợ súng theo bản năng cất tiếng gáy. Trăng cũng đã ẩn mình vào núi... Sáu cái bóng ma lầm lũi đôi khi vấp phải đá té khụy trên đất. Bên kia trận bớt tiếng súng, có lẽ thắng thua đã được phân định. Muỗi thì nhiều bay theo gió lành lạnh trong cái mờ mờ hơi sương. Châu dứng lại, báo cáo có con đường mòn trước mặt. Ngồi xuống nghe ngóng động tĩnh, chúng tôi quyết định vượt con đường, từng người một Châu đã qua trước đang trong thế yểm trợ. Điệp cũng vừa mới đến mép đường bên kia, bỗng ngã chúi, tôi thấy hắn đưa tay gỡ cái gì dưới chân và rồi đưa lên sợi dây điện thoại. Mọi người đều hiểu rằng phải nhanh chóng thoát khỏi nơi này.
Có tiếng xe chạy bên dưới dốc. Toán đang ngược lên đồi. Châu đứng lại xem la bàn, chim chóc như còn ngái ngủ lao xao trên cây. Tôi bị một cái trượt đau nhói ở đầu gối, nhìn lên gương mặt thất thần của Châu, tôi hiểu ngay có gì nghiêm trọng, hắn thụt lùi rồi nép vào gốc cây bên cạnh và sua tay đừng lên... Mọi người đều ngồi thụp xuông chờ đợi. Tôi và Điệp bò lên xem tình hình, đến được chỗ của Châu đưa mắt nhìn... Dưới dốc thoai thoải, cách khoảng ước chừng một trăm mét. Nơi đóng quân của địch. Cạnh những hầm trú ẩn địch đứng ngồi và những chiếc võng mắc vào cây, lan dài xuống phía dưới dốc có bốn chiếc xe đang đậu hàng một... Cố giữ cho êm, chúng tôi tẽ ngoặt sang bên phải, nương vào sườn dốc... Vất vả lắm mới kiếm được một bụi rậm, bên dưới tảng đá cao trên đầu người. Ngồi nghỉ cho hoàn hồn chờ Covey có lẽ cũng đã tới phiên. Ánh mặt trời lóe sáng, bóng đen của tảng đá trùm khắp chúng tôi. Thiếu úy Điệp nói nấu cơm nhanh lên... Ca nước được nấu bằng chất nổ dẻo C4 nhanh chóng reo sôi, đổ vào hai bịch gạo sấy thêm ít nước lạnh cho đủ rồi vội vàng một cữ cà phê sáng... Lấy ra điếu thuốc hỏi Điệp hút được không và bằng những cái sua tay của nhiều người, tôi nhăn nhó cất đi... Điệp vội soạn bức điện đưa cho tôi... Tiếng Covey đang trên hướng trận đánh đêm qua và gọi toán. Tích tắc tôi chuyển ngay bức điện và tiếp tục di chuyển chờ đợi lời yêu cầu oanh kích.
Toán đang di chuyển xuống con dốc thoải cây rừng và tre nứa mọc chen nhau. Đã có tầm che chắn, tôi bớt lo trong dạ. Một tiếng súng nổ chát chúa ngay bên. Cả toán ngồi thụp xuống và bò vào bụi tre gai nhưng chỉ chắn được mé trước..." Hất nó sang một bên đi, thằng nỡm". Một giọng kẻ cả đang mắng người bên cạnh... Nhìn ra bốn tên bộ đội đang cố vần con heo rừng đen thui to lớn sang một bên, cạnh là cái hố dài, có cây rừng to đặt chính giữa. Tôi hiểu ngay ra con heo rừng sa bẫy bị bắn chết và được khiêng về thịt. Cái bẫy giản dị này tôi đã thấy vài lần... Người ta đào một cái hố chữ nhật, xâu chừng một mét, bề rộng chưa đến một mét. Đặt một cây rừng hơi lớn vào giữa, đóng nọc giữ hai đầu cây cố định theo chiều dài của hố. Hai bên khoảng trống của hố, lấy tre hay cây chồi nhỏ phủ kín...Con vật nào sa vào. Càng dẫy càng bơi không khí rồi cứ vậy hét lên báo cho chủ bẫy đến thanh toán. Quả thật lúc đầu, những chuyến nhẩy toán trước tôi cứ tưởng là hầm chiến đấu... Bốn người gánh con heo rừng đi xa, chúng tôi mới cẩn trọng tiến tới
7
Châu đang đứng trước đầu một khe đá lởm chởm, cây lá cỏ che phần nào phía trên. Lấy địa bàn ra xem Thiếu úy Điệp ra lệnh Châu tiến tới. Đường đá lởm chởm thật khó đi, lại xuống dốc... Đây là một khe đá thoát nước...Covey đang ở trên đầu, tôi ra hiệu cho Thạnh và gọi Điệp dừng lại.Cái khe cạn này bốn bên rất kín đáo nhưng hở to phía trên... Nếu địch từ trên tấn công, chắc chắn không còn mạng nào... Nhưng chúng tôi muốn tiến tới mục tiêu nhanh nên đành phải chọn và thầm nghĩ chỗ nào cũng có thể chạm địch vì đang ở trong làng của họ. Covey chuyển cho toán bức điện và Điệp đang bạch hóa... Nội dung được biết không chấp nhận oanh kích, toán tiếp tục nhiệm vụ. Thầm nghĩ có thể chỉ vì những tù binh người Mỹ theo tin tức đang bị cầm giữ nơi đây...Quả cái khó bó cái khôn hay trong chính sách đổi mới về cuộc chiến Việt-nam.
Cái khe đá nhỏ đưa chúng tôi tới một con suối. Toán đang ở bên bờ bên này. Địa thế rậm rạp đủ che chắn tốt. Thiếu úy Điệp lệnh cho toán ăn trưa tuy rắng hãy còn sớm. Tôi ngán ngẩm nhìn con suối, bởi muốn vượt qua khoảng trống ước chừng bẩy tám chục mét mà không bị phát giác, quả là điều khó... Vì địch luôn hiện diện mọi nơi... Vừa lấy bịch cơm chưa kịp ăn, tiếng ơi ới gọi nhau đằng xa, tôi cố nhìn nhưng chẳng thấy gì... Ở những nơi địch đóng quân, con suối thường được coi là nguy hiểm đối với chúng tôi vì chính nơi đây người ta giải quyết mọi nhu cầu... Cất bịch cơm vào lại ba lô, ngồi nghe ngóng động tĩnh... Bên kia suối bốn người đang giặt quần áo vỗ bồm bộp vào đá. Nhìn qua bên này có một tên đang đi tới. Khu bụi rậm chúng tôi đang ẩn nấp nhô hẳn ra ngoài suối, có thể mùa mưa nước chảy nhiều đem theo đá đất trên cao lấn dần ra suối... Tên bộ đội lững thững đi tới tay cầm cái siên nhọn đâm cá, bên hông cái dây xâu mới có ba con. Mặt láo liên vào từng hốc đá, đột nhiên chạy nhanh về phía chúng tôi, còn khoảng năm sáu mét, cây siên cá đâm vào hốc đá và đưa ra con cá dẫy đành đạch... Mọi người nhìn nhau chuẩn bị tác chiến. Tôi ra dấu đánh bằng tay và cầm cục đá, mọi người hiểu và gật đầu... Tên bộ đội cho con cá vào dây xâu, chân bước về chỗ chúng tôi, mắt nhìn vào những hốc đá, chẳng thấy gì hắn dừng lại đưa tay cởi nút quần tiểu tiện. Hứng chí đưa vòi nước tiểu rẽ qua rê lại, xong miệng kêu "bùm" hất vòi nước thẳng về phía trước... Hết nước tiểu hắn ưỡn người ra sau tay điều khiển "thằng nhỏ" gật gù lễ phép như chào chúng tôi ?!. Bóng một con cá từ bờ lao thẳng ra ngoài. Tên bộ đội để cả "thằng con" tại ngoại vội lao theo, xem cá vào hốc đá nào ? Chúng tôi thở phào vì con cá đang dẫn tên bộ đội sang bờ bên kia... Lượng định tình hình và sau bàn bạc toán đều đống ý ở tại nơi này chờ tối sẽ băng suối... Vì mục tiêu ở hướng đó.
Thời gian chờ đợi sao chậm chạp đến khó chịu, cả buổi ngồi tê mông có đứng lên nhiều lần cũng không giảm được sự tù túng đến phát điên... Vẫn những cảnh lấy nước, giặt áo quần, tắm rửa... Trời về chiều soi hạt nắng nhảy múa theo dòng nước suối chẩy, gặp những mô đá, nước hất tung nắng lên theo... Thỉnh thoảng vẫn đâm xẹt những con cá từ hốc đá này đến kia tìm mồi. Covey bay ngang, lấy xong bức điện báo cáo rồi đi ngay... Trước tình hình mới, mọi nhu cầu trong đơn vị đều bị cắt giảm. Sự trợ lực về Không quân nay hạn chế sử dụng... Các cuộc hành quân vượt biên phải xin phép phê chuẩn. Đơn vị SOG gần như đơn độc chiến đấu. Người ta đang trói buộc nhưng cũng chính là niềm hãnh diện cho SOG... Dù nghèo đi nhưng hoạt động chẳng mấy giảm... Đơn vị vẫn cung cấp tin tình báo quân sự cập nhật mà mọi Tư lệnh đều phải thèm muốn.
8
Nhiệm vụ của chúng tôi thêm khó khăn khi địch quân tổ chức các đơn vị chống Biệt-kích, chuyên theo dõi các bãi đáp ngày đêm và họ còn có thêm cả máy dò làn sóng truyền tin... Có những toán vừa xuống đã về ngay vì lộ, hay chỉ hai ba ngày trong mục tiêu... Không chết, mất tích cũng bị thương. Ông Nixon cố tỏ mính là cọp, nhưng Bắc việt bắt bài mỉm cười nói "cọp giấy". Trời đã tối hẳn, toán đồng ý cởi giầy, xắn quần để vượt suối. Ôi! nhiêu khê chỉ một con suối rộng chẳng đáng... Bì bõm lần mò mắt dõi theo người đi trước, tai luôn dựng đứng chờ đợi. Toán cũng sang được phía bờ bên kia an toàn.
Cây rừng và đá bên dưới, thêm bóng tối vây bủa, vất vả lắm chúng tôi mới đến được quanh phiến đá rộng để mang lại đôi giầy. Đàn muỗi hò hét bên tai, đêm vắng lặng, tiếng côn trùng rên rỉ. Vài tiếng hú từ xa nghe cô đơn não nuột. Toán ngồi đợi trăng lên để định địa thế... Tiếng đề pa của xe nghe như đâu đây, rồi tiếng động cơ đều đều theo gió vọng lại. Bây giờ tiếng động cơ chạy dài xuống mé cuối... Đoàn xe đang di chuyển xuống hướng nam. Tôi nói Điệp định vị trí đoàn xe và hướng đi... Chắc chắn những sĩ quan hành quân rất thích thú về báo cáo này... Rút cục trăng cũng đã lên cùng ánh sáng vằng vặc. Qua tàn cây nhìn trăng tôi nhớ đến tết trung thu mà lòng háo hức khi còn bé... Tay càm quà bánh nhưng chẳng ăn. Tiếng của Điệp thì thầm ngắt phức cái liên tưởng ấu thơ "Châu cứ đi đúng hướng xem địa thế ra sao rồi tính".
Cây rừng, dây leo chằng chịt cản trở, Châu đi đầu cứ phải né, hắn luôn dừng lại lượng định lối đi và xem địa bàn. Âm thầm mò mẫm nhưng rất may còn có ánh trăng và thi thoảng ánh hỏa châu lan tỏa sau lưng... Ngồi nghỉ nghe động tĩnh hồi lâu bên phiền đá Thiếu úy Điệp quyết định chọn chỗ ngủ đêm... Trung sĩ Thành và Cường nhóc đã gài xong hai trái mìn claymore. Trăng đang rọi thẳng trên đầu, nhưng cũng không qua nổi tàn cây rậm trên chúng tôi. Mọi người đã yên vị, lặng thinh thưởng thức âm thanh rừng đêm. Tiếng hắng giọng của con tắc kè chậm rãi rồi buông năm tiếng tên mình... Một loạt tiếng côn trùng cất lên và được phụ họa bởi những anh hàng xóm thích đua...Âm thanh chạy dài lên phía trước... Ý nghĩ tay trong tay mềm ấm của người yêu và ngọn đèn chớp tắt trên đỉnh đài ra đa Sơn-chà. Gió hiu lạnh từ sông đưa tôi mau vào giấc ngủ.
Thức dậy sau một đêm ngon giấc, trời mờ sáng. Bên kia Trung sĩ Thành và Cường nhóc đang nhâm nhi chung ca cà phê, mỗi lần hút thuốc các hắn đều phải thở khói vào tấm áo mưa dưới đất. Điệp và Châu bên này đang ngắt từng tí chất bột dẻo từ bánh C4 chất nổ để đun nước. Tôi đứng dậy sách súng đi vệ sinh trong tiếng gáy dồn te te của lũ gà rừng mà không khi nào trông thấy chúng... Sương mù dầy đặc dăng dăng trôi theo gió làm ướt đẫm lá cây như nhỏ lệ. Gió lùa luẩn khuất mang theo cái mùi ngái nồng, hăng hắc đặc trưng của rừng cây... Mờ sương giăng mắc chẳng làm lười được lũ chim trong tiếng ca hót sớm trên cành, ngoài xa một con thú hú lên rồi gầm gừ kêu rống theo sương lạnh như hận kẻ bạc tình trong đêm.
Cường nhóc lên đi đầu thay cho Châu, tay đang cầm la bàn xem hướng. Điệp đưa bức điện báo cáo cho tôi. Toán bắt đầu di chuyển... Bến bề yên lặng lâu lâu mới có tiếng chim gọi nhau, mới đi có một chốc đã ướt đẫm hai vai và khăn thắt ngụy trang trên đầu...Những con chốt đang di chuyển và người ta muốn biết tiếng nói tường tận từng ngày, nhất là xem sự gì sảy ra! Vô danh quả là vô danh... Covey hôm nay lên sớm cùng ánh nắng, Thạnh bật máy chờ, hắn dưa ống nói cho tôi. Đứng lại tôi chuyển bức điện và nhận lại lệnh đưa cho Điệp mở mật mã... Tiếng Covey xa dần. Chúng tôi tiến bước sau cuộc bàn bạc khi Điệp thông báo lệnh... Trận không kích được ấn định vào lúc 11 giờ sáng, đồng yểm trợ để một đơn vị bộ binh tiến chiếm cao điểm chiến thuật. Chúng tôi lạc quan vì còn nhiều thì giờ.
9
Cường nhóc dừng lại báo con đướng mòn phía trước. Tôi và Điệp vội lên xem... Đường mới, sử dụng thường xuyên, rộng chừng ba mét, rất ít lá cây, dấu dép và bánh xe đạp mọi nơi... Thiếu úy Điệp chụp vài pô ảnh và đưa tay ngoắc ra hiệu vượt qua đường.
An toàn ngồi nghỉ bên gốc cây. Có tiếng húng hắng ho ở con đường mới qua và dần những bước chân nặng chịch đạp đất chẳng thương mỗi lúc một rõ. "Anh Liền ơi, ngưng lại để em vặn lại con ốc, sắp long ra rồi". Một giọng gằn gằn kẻ cả " thằng chết tiệt, ông đã bảo rồi, lấy tí vải rách lót mà xoáy nó vào " Đồng thời có vài tiếng cười nhạo " đi sau nhá, chúng tớ chẳng chờ đâu". Đoàn xe đạp thồ nhịp nhàng bước chân thình thịch đằng sau cứ tiếp nối... Tôi đề nghị , mặc kệ, toán cần di chuyển ngay... Họ việc họ, chúng tôi việc chúng tôi. Tôi cười thầm: nhưng đang sống chung một rừng.
Một địa điểm ưng ý đã được chọn, chúng tôi gài mìn phòng thủ và lựa vị trí chiến đấu. Cũng sắp tới giờ ấn định... Chúng tôi ngang tàng hút mỗi người một điếu thuốc. Nắng chếch trên đầu, vài con sóc đuôi dài thòng từ bụi cây chạy leo vút lên cây cao. Vài con gà điên gáy cả buổi trưa quanh đây. Nắng rợp trong chốc lát và đám mây đen dần trôi... Nghe tiếng Covey Thạnh bật máy chờ. Thiếu úy Điệp cùng Châu đang nhai cơm sớm. Thạnh đưa ống nghe cho tôi, nhưng tôi lại chuyển cho Điệp... Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) trên Covey. Điệp ra hiệu chiếu gương và rồi Covey vòng sang mé kia. Tiếng ầm ầm của phản lực cơ giờ vang vọng. Trên bầu trời, hai chiếc F4 Phantom chờ mục tiêu. Tôi nghe tiếng xẹt từ Covey bắn rocket khói chỉ điểm... Mục tiêu ngay ngày hôm qua chúng tôi đi qua. Lập tức đã có tiếng phòng không. Điệp vội vàng báo lên cho Covey... Con ma (Phantom) lao xuống nhanh như ma. Hai tiếng nổ liền nhau dữ dội rung động, theo sau đụn khói bốc lên cùng đất bụi cây cỏ. Chiếc thứ hai bên này vẫn ung dung chờ lệnh hay xem kết quả. Bỗng nó rít lên từ trên cao, như mũi tên vừa buông xé gió thẳng xuống trong tiếng phòng không không ngớt... Ngồi đây chúng tôi đều giật mình lo lắng, nhưng rồi nó vút lên cao và cười trêu ngươi những vệt xanh, đỏ đạn phòng không theo sau. Một tiếng nổ dậy đất, tức cả ngực và luồng kình lực như vừa đi qua đây... Hắn đã sài ngay trái 500 cân Anh... Một con ma (Phantom) như đứng khựng trên bầu trời, đầu chúc xuống bắn ra tới tấp loạt đại bác vào vị trí phòng không địch rồi từ bụng ba trái bom như áo choàng của tử thần rơi xuống. Chỉ thấy tiếng bom, có lẽ khẩu phòng không đã bị loại... Như anh em sinh đôi, hai F4 nhàn nhã trước sau bay đợi lệnh. Để ý, lúc này còn thêm một chiếc Covey nữa bay trên cao hẳn... Con ma (Phantom) bay sau, tẽ xuống thẳng mục tiêu trút loạt đại bác, rồi cất lên cao. Không nghe tiếng phòng không.
Tiếng súng liên hồi hàng loạt như pháo đêm giao thừa xen lẫn những quả pháo đùng giống tiếng bass đệm ở về hướng nam... Đơn vị bộ binh đang được hỗ trợ để tấn công tiến chiếm mục tiêu địch. Cửa ngõ vào khu A sầu khó nuốt. Hai Phantom giờ đã có mục tiêu mới... Vị trí đêm qua đoàn xe đi về hướng nam.
Bom đạn lại tiếp thêm vào trận địa, nghe rải rác có tiếng pháo của cả hai phía. Trận chiến tiếp diễn với hai F100 sơn mầu rằn ri Thủy-quân-lục-chiến Mỹ. Toán chúng tôi âm thầm di chuyển tiếp tục nhiệm vụ.
Một con dốc thoải dễ chịu và những cây chồi che chắn vừa đủ, nắng gay gắt nhiều khi chiếu thẳng bỏng vai. Gió lặng, không khí hầm hập. những cụm chuối trên chín cả buồng bám theo đàn ruồi có cả ong lang lhang sài đỡ... Thầm nghĩ cứ tiếp tục thế này chúng tôi mát khá nhiều nước! Yên lặng như tờ, xung quanh yên bình...Phía trận chiến cũng hồi kết thúc trả lại bầu trời sự nguyên thủy... Một cánh rừng râm mát như thiên đường. Chúng tôi thở dốc ngồi hưởng thụ... Bầu trời lại bị khuấy động bởi tiếng trực thăng phầm phập. Trông lên, cả đoàn sáu chiếc, Kingbee cùng Cobra sơn rằn đen quen thuộc. Phút chốc chiếc Covey lóe sáng trong tầm mắt chúng tôi. Tiếng rocket và đại liên vọng lại... Họ vừa rước toán hay thả toán.
10
Từ đầu năm 1971, tôi đã thấy và thắc mắc trong lòng về trò chơi hành quân của đơn vị...Những cuộc thả hình nộm và chiếu pháo liên tiếp diễn ra song song với toán xâm nhập. Người ta đã chế ra loại tấm nhựa có những ngăn chất nổ liên kết nhau bằng hệ thống dây cháy chậm, khi kích hoạt nổ thì cũng như bánh pháo cứ tuần tự cho đến hết. To bằng cái chiếu, phải cuốn tròn, gấp lại đưa lên trực thăng rồi thả xuống một bãi trống, không quên giật ngòi nổ... Thế rồi, nghe ra giống như một trận giao tranh ngắn ngủi... SOG đang trong kế nghi binh, mà chỉ những cấp cao mới biết được chủ đích.
Buổi chiều đi mau thật, toán qua hai con đường mòn và giờ đây trước mặt ba căn nhà sàn trên lưng chừng cây... Một hồi lâu quan sát động tĩnh, toán tẽ ngang rồi thẳng vào mục tiêu. Bóng chiều vàng ệch cố rọi những tia nắng hắt vào mặt sáu nghệ nhân Lôi-hổ. Chẳng thẩm mỹ nhưng nét oai không chê vào đâu được với sáu cái bóng chính họ in dấu một bên... Một điều nữa, cách phục sức, trang bị như những thượng khách của rừng...Mà thiết nghĩ chỉ có núi rừng mới đón tiếp họ... Đêm về tiếng côn trùng gần đây rả rích, kêu than, chim đã về tổ nhưng vượn lại hú. Bên bốn tảng đá, sáu tâm hồn cô đơn cứ mãi cô đơn với chính họ và giấc ngủ cô đơn nào lại đến... Cầu cho đừng có những giật mình trong đêm.
Đêm an bình ngon giấc, cữ cà phê với điếu Capstan giữa sương bay lãng đãng. Tiếng gà gáy dồn tạo sinh động cho rừng âm u, huyền bí. Khu vực yên lặng một cách lạ kỳ... Tiếng pháo binh vẫn thăm dò nơi hướng nam. Muông thú khởi sự dạo khúc đầu chào ngày mới. Một con khỉ cao lớn lông vàng đang thống lĩnh cả đàn khỉ bé leo qua lại những tảng đá trước mặt. Nó dừng lại, ngang nhiên, chễm chệ ngồi trên đá thách thức nhìn chúng tôi. Châu ngồi gần nhất lấy hòn đá ném đuổi đi. Thật ngạc nhiên, thằng khỉ đầu đàn cũng lượm đá dưới chân ném lại chúng tôi. Chưa hết, lũ khỉ sau lưng giạt ra, túa tìm đá để ném... Cả toán vội vàng núp vào tảng đá lớn bên cạnh trong lúc những hòn đá vẫn rớt xuống lộp cộp... Sau cuộc tấn công là những tiếng khột khịt như nói chuyện với nhau... Lại một ngạc nhiên, đàn khỉ đang tranh nhau tìm chỗ núp như chúng tôi. Thế rồi như đã có thỏa thuận ranh giới... Lũ khỉ trên kia, chúng tôi ở đây.
Toán di chuyển và đã qua được hai con đường mòn, giờ đang đứng trước dẫy hấm hố bên những gốc cây. Toán ngồi trong một bụi rậm quan sát cả giờ đồng hồ. Covey cũng đã lấy bản báo cáo từ sớm... Hoàn toàn yên lặng... Tôi bàn tính một mình ra xem dấu vết nơi những hầm trú ẩn. Điệp đồng ý và toán sẵn sàng yểm trợ. Bỏ lại ba lô, tôi lum khum nhanh từ gốc cây này sang bụi rậm khác và đến được hệ thống hầm trú ẩn... Quan sát kỹ tận mắt... Tất cả còn mới, đến những bước chân trên đất còn sắc sảo chưa bị mờ, những đầu cây củi chặt bằng dao chưa bị đen vì thời gian. Tiến thoái lưỡng nan,toán quyết định ở đây nghe ngóng động tĩnh và sau ăn trưa sớm, di chuyển ngay buổi trưa để tránh bớt sinh hoạt của địch. Trong bụng cứ thắc mắc mãi sao nơi đây địch không truyền tin cho nhau bằng tiếng súng... Chính sự yên lặng đang tạo cho chúng tôi cái áp lực nặng nề có phảng phất nét sợ hãi. Toán di chuyển cách quãng từng người yểm trợ cho nhau, lúc bụi rậm, lúc gốc cây để vượt cái địa hình khó chịu này... An toàn và giờ đây cây rừng đang che chắn chúng tôi. Tiếng gió ào ào trên cây trước mặt và cơn gió lốc đang trên đầu chúng tôi, nó đi ngang và trườn nhanh như con trăn về phía sau. Châu đưa tay ra dấu dừng lại. Tôi và Điệp lên xem... Trước mặt bên tay trái ba dãy nhà chạy dài, liền nhau... Lại một căng thẳng ập đến.
11
Toán cùng nhau bàn định. Tôi bật máy gọi Covey báo cáo khẩn, rồi chúng tôi cũng tìm được một vị trí tốt để quan sát... Trung sĩ Thành và Cường nhóc gài mìn phòng thủ... Bây giờ mọi người đã ở vào vị trí chiến đấu. Tôi đổi ba lô cho Thạnh và giữ máy truyền tin. Điệp bên cạnh luôn quan sát động tĩnh.
Ba dãy nhà sàn vẫn im lìm như ba quái vật ngủ, chỉ cách vị trí toán khoảng năm mươi mét... Thầm nghĩ nếu có dấu hiệu địch quân thì toán cũng đã trốn sang đường khác để rồi đánh dấu trên bản đồ báo cáo... Ngồi lâu rồi cũng quen dần, mọi căng thẳng tự vơi đi. Ánh chiều tà xuyên ngang thấy rõ dãy nhà như trong tranh... Mãi chẳng thấy bóng người. Hàng cây bắc sàn theo ánh nắng chiều như nhiều con mắt liếc nhìn chúng tôi. Những cầu thang bằng cây rũ xuống đất ý chờ đợi... Thiếu úy Điệp hỏi ý tôi. Đợi nhá nhem tối hai người sẽ vào thám thính khu nhà. Tôi đi thông báo cho mọi người và báo mật hiệu lúc trở về là ba tiếng kêu tắc kè... Nhắc họ nhất là Trung sĩ Thành, chỉ một tiếng sau tiếng súng chạm địch, toán mới có quyền di chuyển.
Bóng tối đồng lõa đưa hai đứa đến dãy nhà an toàn. Vẻ vắng lặng rợn người, tôi có cảm giác như có ma bên trong. Cơn gió hắt cái mùi ẩm mốc đến ghê người... Đi phía sau nhà lần mò dãy thứ hai, rồi thứ ba. Hoàn toàn vắng lặng... Trở lại đi phía trước, bên cạnh một giao thông hào chạy dài đen kịt... Vậy phải xâu lắm mà ngay đầu hào có bậc thang đi xuống... Tôi thì thầm hỏi Điệp hay đây là bệnh viện mà nhiệm vụ chúng tôi phải tìm. Thiếu úy Điệp gật đầu tán thành. Chúng tôi trở về nơi toán trú ẩn.
Đêm qua đi trong tiếng súng và pháo dồn dập... Có lúc tạm yên sau đó lại bùng lên, nơi sư đoàn bộ binh hành quân... Ngồi nhìn con rồng đỏ từ chiếc C119 (Hỏa long, Spectre) và ánh hỏa châu treo trên bầu trời tỏa sáng. Toán chúng tôi ngủ đêm trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê...
Ngồi nhìn ánh trăng chỉ còn một nửa, sắp lao vào rừng cây, hắt lên vùng trời phản chiếu những bụi mây trắng bạc. Bóng mờ mờ vì sương sớm tạo cái lạnh bất ngờ bởi luồng gió từ xâu... Như thường lệ, tôi đun ca nước sôi, mắt nhìn về hướng dãy nhà nhưng mịt mù chẳng thấy. Cảm giác yên bình đến với tôi, bởi chắc chắn rằng có sự điều động mới đang diễn ra sang hướng nam của địch quân... Trên cành cây cao chùm lan rừng hồng thắm lay động theo gió và những hạt nắng sớm li ti qua kẽ lá lung linh. Tiếng quen thuộc của Covey, tôi bật máy chờ đợi... Giọng Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) sĩ quan không thám đang gọi lập lại. Tôi chuyền ngay bức điện. Thiếu úy Điệp quyết định ở tại vị trí chờ lệnh vì nhiệm vụ đã hoàn thành, việc cuối cùng liên quan là sáng nay tôi và Điệp phải chụp cho xong những bức ảnh ba dãy nhà sàn.
Suốt cả nửa buổi sáng, giờ ánh nắng đã làm tan đi làn sương mù. Tôi và Điệp vững tin, mạnh dạn một lần nữa đột nhập... Đến được khu nhà, ngồi chờ hồi lâu. Điệp lựa một gốc cây để yểm trợ cho tôi chụp hình. Ánh nắng ban sáng thuận lợi, nếu vào buổi chiều hoặc trưa thì bóng những tàn cây cao cồ thụ sẽ làm dâm mát khu nhà... Chụp toàn cảnh,từng dãy nhà,cầu thang trước nhà, hệ thống giao thông hào phía trước, bậc thang xuống hầm... Tôi và Điệp rút êm. Trên bầu trời chiếc CH46 đang bay với tòng teng khẩu pháo vào trận... Toán ăn cơm trưa, vui vẻ hiện lên mọi gương mặt như trong buổi dả ngoại. Bức điện từ Covey được chuyển xuống. Điệp mở khóa và ra lệnh gỡ mìn di chuyển tìm bãi đáp. Nắng gay gắt, tôi nói với Châu đi vào những bóng cây lớn... Hắn cười "hết sợ rồi à" Tôi dục đi cho sớm... Trong khu vực có nhiều bãi đáp nên Covey chẳng quan tâm... Đúng vậy, gần đây chúng tôi đã tìm thấy một bãi rộng cây cỏ. núp quanh phiến đá, toán chờ trực thăng.
Ngồi chưa nóng chỗ. Covey đang trên đầu eo éo trong máy xin số nhà... Điệp đang chiếu gương.
-Chalie Romeo đây November echo, lệnh cho bạn:Toán được triệt xuất bởi chiếc Kingbee thứ hai, chiếc đầu xuống thi hành nhiệm vụ. Yêu cầu yểm trợ của bạn. Rõ, trả lời.
- November echo, rõ 5/5.
Nhìn về hướng đông, bóng trực thăng rõ dần. Chiếc Cobra dẫn đầu và chiếc kia bay ngang tầm với bốn Kingbee. Ầm ĩ cả khu vực, nơi bìa rừng bầy chim táo tác kêu lánh nạn... Châu đang phất chớp cái panel mầu vàng ấn định trong mật mã hành quân... Cobra xẹt một hàng rocket vào bìa rừng rồi bắn với loạt đại liên về phía cuối bãi. Chiếc Cobra thứ hai liền khi nhả loạt 40 ly và đại liên về mé rừng bên kia...Chiếc Kingbee ở giữa đang lù lù đáp xuống. Vừa chạm đất bóng hai người Mỹ mỗi người mỗi bọc nhảy ra đến khu đất trải vội tám nhựa như cái chiếu, cẩn thận giật chốt nổ rồi mau lẹ leo len trực thăng... Cũng vừa chiếc Kingbee thứ hai đáp xuống , đưa chúng tôi lên, trong tiếng đạn yểm trợ của Cobra. Nhìn xuống tôi chắc một điều, chỉ một thời gian đã được ấn định hẹn giờ... Như một trận đụng Biệt kích hai chiếu pháo sẽ nổ và địch tưởng rằng có Biệt kích đâu đây?!.
Trên trực thăng thầm nghĩ, gật gù: nhanh và gọn.
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/03/vo-danh.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-3312597865021694416Fri, 01 Mar 2013 01:58:00 +00002013-03-01T14:21:23.016-08:00
1
Người ta đang nói nhiều và bàn định về chính sách mới của Hoa-kỳ tại Việt-Nam, song song với việc rút quân dần dần. Người Mỹ chỉ còn hiện diện quân đội ở những thành phố lớn hay các sân bay... Chương trình "Việt-nam hóa chiến tranh" khởi động rõ hơn sau cuộc hành quân Lam-sơn 719 được triển khai dưới sự trợ lực của quân đội Mỹ. Đơn vị tôi (Task Force 1) lúc này vẫn hoạt động bình thường chỉ không còn được yểm trợ dồi dào như trước của Không-quân Mỹ! Những toán Thám-sát ngày một thêm thảm hại bởi sự cắt giảm trợ chiến đem đến nhiều tổn thất và các toán mất tích ... Sự bổ sung quân số là điều cấp thiết mà vào thời điểm này trại tuyển mộ với điều kiện dễ dàng và không còn đủ thì giờ để huấn luyện một Biệt-kích như trước mà chỉ cần sao biết sử dụng súng là sung vào toán... Vừa huấn luyện vừa ra trận, bởi họ biết rằng phần đông thành phần mới tuyển mộ đều đã được huấn luyện tại các quân trường cùa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lợi dụng sự tuyển mộ dễ dàng, rất đông người đổ dồn vào trại để thử lửa và kiếm một chỗ yên thân. Xong nhảy toán một chuyến, có được tờ giấy phép rồi đi luôn! Lính mới này, cứ thấy đi phép mà không trờ lại... Mọi người vẫn đùa gọi họ là "Lôi-hổ chuyến một" Nói như thế chẳng phải là tất cả nhưng tệ nạn trên theo tôi cũng khá đông! Hiện trạng năm 1971 là như thế... Kingbee H34 được dồn lên bay ở Kontum, Buôn-mê-thuột. Trại (TF2-TF3) Nơi đây, trại TF1- Đà nẵng. Phi đoàn 20 Hành quân đặc biệt (Air Commando) thế chỗ... Dù thuộc Không-quân, phi đoàn này không sơn phù hiệu Không-quân Mỹ, mà sơn hình con ong. Nên có biệt danh là "Green Hornets" gồm toàn những chiếc AH 1 Huey. Hộ tống bởi Huey Gunship trang bị đại bác 20 ly, Rocket và súng 40 ly tự động... Hoặc thỉnh thoảng trại được yểm trợ bởi phi đoàn trực thăng UH 1B của Sư-đoàn Dù 101 Mỹ với hình đầu bồ câu trắng và những Cobra thần kỳ Hổ-mang bành... Khi cần thả, rước Đại-đội Xung-kích (Hatchet Force) những chiếc CH 46 (Sea Knight) cũng thuộc Sư-đoàn Dù 101 đảm trách.
Thiếu vắng những chiếc Kingbee, sơn đen rằn lá cây, không phù hiệu đã làm mất đi cái vẻ bí ẩn và hãnh diện của căn cứ... Trại có hai căn cứ xuất phát. Một ở bên trong sân bay Phú-bài và một ở Quảng-trị, được gọi là Mobile Launcher Team viết tắt MLT1-Phú-bài, MLT2- Quảng-trị. Hai căn cứ này chịu trách nhiệm thả, rước các toán Biệt-kích... Nói về Kingbee, ngoài tài thả, rước toán họ còn có tài tay trái là săn thú rừng bẳng trực thăng mỗi khi tình hình cho phép. Mọi người có mặt trong căn cứ vô cùng thích thú khi một hoặc hai Kingbee câu tòng teng con nai hay heo rừng thả xuống sân trực thăng... Thế là món thịt nướng cứ lai rai suốt với củi lửa thâu đêm... Tôi quên bẵng đi những hiểm nguy lo lắng ngày mai. Ký ức chợt trỗi dậy hình ảnh những buổi lửa trại tưng bừng vui chơi thỏa thích của một thời Hương-đạo-sinh... Cùng đêm, cùng ánh lửa tí tách vang, tôi thả hồn mơ mộng nhưng tâm trạng không thể nào trờ về mái nhà xưa! Tôi nhận ra hai điểm khác hẳn là bạn bè ngồi quanh và mùi thịt nướng mà không khí lửa trại Hướng-đạo không có... Để rồi lại cô đơn bên đống lửa tàn. Một mình khơi vào lửa hồng như vực dậy dĩ vãng, nét hào hứng, cười nói khi hòn than hồng rực rỡ nổ rơi vung vãi những hạt lửa li ti... Tôi hồn nhiên, sung sướng né tránh, cùng ôm lấy bạn bè sảng khoái! Trong cái lạnh đêm nay, trời chờ sáng, nhìn quanh chẳng còn ai... Đống lửa giớ chỉ còn ít cục than như cố hống lên để làm vui cho người lính buồn mà quanh hắn bộ máy chiến tranh đang cuốn hút tất cả... Ước vong hòa bình chỉ có trong tâm trí. Khi mà phần đông những bàn tay chưa mỏi chém giết! Đống lửa chỉ còn lại tro và tí khói, cơn gió lạnh mơn man trên mặt, tôi khơi vào đống tro tàn nhờ gió cho bay đi. Tiếng nổ của Pháo-binh bắn yểm trợ cho tiền đồn như muốn chào ngày mới... Ngày của tiếp diễn hoạt động bộ máy chiến tranh.
2
Trên Câu-lạc-bộ dán thông cáo đêm nay sô ca nhạc Đại-hàn. Toán chúng tôi vừa uống mừng khao lon Thiếu-úy của Chuân-úy Liêm, toán trưởng mới thay thế cho Thiêu-úy Điệp... Khật khừ suốt cả buổi chiều bên đống lon bia trên bàn hay lăn lóc trên sàn nhà để đến một giấc ngủ li bì quên trời đất... Giật mình vì tiếng nhạc đàn nơi rạp chiếu phim. Nhìn quanh chỉ còn Cường nhóc và Hào đang ngủ vẻ mê mệt. Nhớ hồi chiều toán rủ nhau ra phố uống tăng hai nhưng tôi từ chối rồi nằm vật ra giường! Chả tắm rửa gì tôi lay gọi Cường nhóc rủ nó đi coi ca nhạc... Thứ lính này sướng thật tối có chiếu phim, lâu lâu lại có sô ca nhạc, cơm ba bữa, ngủ giường nệm nhất là lương cao. Đi huấn luyện tại Long-thành sáng điểm tâm phở, bún bò giò, bánh cuốn hay tệ lắm là bánh mì trứng gà v.v. thêm cà phê sữa nóng (tiêu chuẩn này bị cúp từ khoảng đầu năm 1970)
Tháng 11 năm 1967 trong chương trình kế hoạch vượt biên OP35 (Operation Plan 35). Đơn vị SOG (Special Operation Group) sau đó đổi tên để giữ bí mật gọi là (Studies and Observation Group) vẫn viết tắt là SOG... Thành lập ba Sở chỉ huy C&C (Command and Control) CCN (Command and Control North) tại Đànẵng. CCC (Command and Control Central) tại Kontum. CCS (Command and Control South) tại Buôn-mê-Thuột... Các căn cứ tiền phương FOB (Forward Operation Base) ở những nơi như Đức-cơ, Benhet, Quảng-lợi, Plei Jereng, Non-nước, Khâm-đức, Khe-sanh, Phú-bài...Được sát nhập vào bộ ba Sở chỉ huy trên để thống nhất hoạt động và thích ứng với "Chiến tranh ngoại lệ" được định nghĩa là "Hoạt động ngay trong lòng đối phương hay những nơi đối phương kiểm soát "Hoặc" Ba khía cạnh liên hệ mật thiết trong Du kích chiến gồm trốn tránh, đào tẩu, gậy ông đập lưng ông, chống lại đối phương..." (tài liệu) .
Với khái niệm và nhận định trên, người Mỹ thành lập Bộ-chỉ-huy Lực-lượng-đặc-biệt tại Việt-nam vào tháng 9 năm 1962 trực thuộc phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính phủ Việt-nam Cộng-hòa (MACV)
Vẻ tưng bừng hoành tráng của sân khấu ca nhạc, âm thanh rộn rã cuốn hút lòng tôi bay bổng... Người dẫn chương trình giới thiệu màn múa bụng và tay chỉ lên tiền đồn trên đỉnh núi Non-nước cạnh trại mà mọi người có thể thấy rõ nhờ ánh trăng... Một loạt đại liên nổ dòn từ tiền đồn thẳng ra biển để chào mừng và cổ vũ tiết mục... Những viên đạn chỉ điểm màu đỏ lao đi như tỏ rõ sức mạnh, vẽ lên màn ảo thuật ánh sáng dưới trăng. Mọi người cùng vỗ tay trong tiếng cười khoái trá, cuồng nhiệt... Đúng là đơn vị "Chiến tranh ngoại lệ" Đến cả cái chơi cũng ngoại lệ.
Lệnh thực tập ba ngày tại núi Sơn-chà. Toán chúng tôi chuẩn bị... Lên đường từ 10 giờ sáng, chiếc xe đưa chúng tôi tiến vào qua nơi tập bắn và huấn luyện của Đoàn 11 (Nha-kỹ-thuật). Đường đi qua đoạn ghềnh đá dài hiểm trở. Chúng tôi khó khăn lắm mới vượt qua để đến bãi cát biển lõm xâu vào núi, nơi thực tập. Toán đa phần là thành viên mới nên sự huấn luyện là cần thiết. Một Trung sĩ người Mỹ theo toán tôi làm cố vấn. Kể từ đầu năm. Trại thường xuyên tổ chức huấn luyện cho các toán Thám-sát tại núi Non-nước, Trung tâm huấn luyện Hòa-cầm, núi Sơn-chà. Còn câu dây và tụt dây ngay bãi trực thăng trại... Hành quân và huấn luyện là nhiệm vụ chính của Biệt-kích-quân.
Đã hai ngày nay nằm lì trong phòng, ngoài trời mưa không dứt và những ngọn gió từ biển cuồn cuộn trên mái tôn... Bên kia toán phó Trịnh công Thành ngủ miệng há hốc. Cái dáng thân gầy, lưng dài nằm co hai chân cao quá khổ nhô hẳn khỏi cạnh giường. Vợ Hào đang ủi mấy bộ đồ chưa khô hẳn của toán. Thiếu úy Liêm từ ngoài bước vào, khép ngay cửa phòng để tránh những hạt mưa theo gió cuộn từng cơn. Vừa cởi áo đi mưa, miệng thông báo toán tối nay lên khu cấm.
Blackbird C130 đưa toán đến phi trường Quảng-trị. Một chiếc GMC đậu sẵn đón chúng tôi về Căn-cứ xuất-phát (MLT2)... Trời nhiều mây, nắng nhẹ. Những làn gió se lạnh và làm nứt nẻ đôi môi cùng làn da như nổi vẩy! Thiếu tá Vương vĩnh Phát tươi cười đón chúng tôi, rồi lên xe ra phi trường bay không thám... Bốn chiếc Huey và ba Huey Gunship đậu hàng dài trên sân. Loại trực thăng thấp, to bè ngang so với những chiếc UH 1B. Đặc biệt khi bay tiếng động cơ giảm hẳn chỉ còn nghe tiếng rít và cánh quạt chém gió sạch sạch.
3
Vùng biển bao la bị chắn ngang bởi bức tường mây đen cao tít. Ánh nắng vàng chiếu thẳng qua cửa trực thăng tạo nên những vùng sáng tối nhảy múa trên từng gương mặt... Phía trước, nghìn trùng màu xanh thẵm núi và rừng chen nhau bao la bất tận. Ngoái lại đàng sau, chẳng còn thấy biển nhưng một mầu trời đen sì dựng đứng đe dọa! Toàn cảnh bảy chiếc Huey đang độc chiếm bầu trời... Mặt trời chỉ còn một nửa trên ngọn núi cố hắt lên thứ ánh sáng màu ngọc trai vàng bệch! Chiếc OV10 vừa mới bay ngang như muốn chui vào lòng ánh mặt trời đang treo. Tạo nên loại ánh sáng phản xạ chớp tắt từ thân phi cơ. Một bức tranh sinh động, đẹp tuyệt vời giao thoa bởi cái hiện đại và ngàn xưa rất xa! Đoàn trực thăng giờ đã hội ngộ cùng chiếc FAC đang bay bên dưới. Người Mỹ phụ trách thả toán cũng mặc đồ hành quân ra hiệu cho chúng tôi chuẩn bị... Ba người một bên cửa trực thăng, chúng tôi sẵn sàng. Cả đoàn bẩy chiếc đang lao xuống cánh rừng... Cái cảm giác khó chịu nơi bụng, nao nao hụt hẫng dán chặt chúng tôi vào sàn trực thăng. Cánh quạt chém gió đôi khi phát ra những tiếng lạ tai bởi nỗ lực gấp rút tăng công xuất... Đoàn trực thăng đang bay sát ngọn cây. Biểu diễn một màn xiếc bay đội hình thấp. Những tàng cây cao vút lao nhanh vể phía sau, đôi lúc tôi có cảm tưởng lá cây và bụng trực thăng đã chạm xẹt vào nhau. Hai chiếc Huey Gunship bay hai bên hiền lành như người dạo phố... Bỗng trực thăng dẫn đầu chở toán bất ngờ tách đoàn, chiếc Gunship theo sau sát nút... Trực thăng đáp vội xuống khoảnh trống sát bìa rừng, thả chúng tôi chỉ trong tích tắc cùng tiếng xẹt qua của hai Gunship không khai hỏa. Nhanh chóng toán biến ngay vào rừng màu đen âm u lạnh lẽo... Một màn thả toán bài bản để lừa địch. Chiếc Huey vội bay lên nhập ngay vào sau đoàn trực thăng như không hề đáp xuống... Vừa di chuyển tôi vừa báo xâm nhập an toàn lên Covey (FAC).
Bóng tối cùng đàn muỗi xây quanh làm khựng lại bước chân... Châu (Nguyễn duy Châu) đi đầu đang dò từng bước bên những cây chồi đan khít. Thiếu úy Liêm (Võ thanh Liêm) toán trưởng theo sau đang nhìn địa bàn xem hướng. Trung sĩ Thành (Trịnh công Thành) toán phó cùng Phỏng (Húa văn Phỏng) M79 lo phần sau. Tôi và Vi (Hàng văn Vi) giữ máy truyền tin, đi giữa... Đêm dần đến bao phủ, lâu lâu những tia chớp của cơn giông gần đây mới làm chúng tôi thấy rõ mặt nhau! Tiếng sấm ầm ầm chạy dài như báo hiệu cơn thịnh nộ giông tố, nhưng chẳng phải gấp rút vì gió vẫn chưa nổi lên... Một tảng đá đen sì trước mặt mời gọi, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh! Núi rừng vẫn một màn thinh lặng, huyền bí, đen tuyền một mầu và không có gió... Trung sĩ Thành mò mẫm cùng tia chớp trợ giúp đã gài xong trái mìn Claymore phòng thủ. Sáu người chia thành ba cặp quanh tảng đá im lìm, ngồi dựa lưng chờ giấc ngủ... Tiếng côn trùng than thở nghe vui tai từng chặp đôi khi lên tông thích thú. Không nghe thú gầm vượn hú nhưng chỉ tiếng kêu của chim lợn ăn đêm là rõ nhất. Sương đêm lành lạnh cho tôi biết đã vào khuya. Quanh đây những cái cựa mình trằn trọc xen lẫn có tiếng thở dài! Tôi nhắm mắt đưa khuôn mặt người yêu lên tầng trời cao vút lấp lánh ánh sao và trí óc chiêm ngưỡng cảnh trời vô giới... Cùng nhớ mùi tóc quen thuộc tỏa lan mênh mông vào giấc ngủ...
Thức giấc vào lúc gà gáy dồn dập nhưng trời vẫn mờ tối. Cơn gió lạnh đem theo những làn sương trắng bay bay. Mọi người cũng đã thức dậy hay có thể còn sớm hơn nhưng cứ yên lặng chờ đợi. Thế rồi công việc tuần tự tiếp diễn dể lo cho một ngày mới... Chóng vánh, thinh lặng và luôn cảnh giác.
Làn sương mù dầy đặc mang theo hơi nước lành lạnh. Trung sĩ Thành vừa gài xong trái mìn M14 (mìn chống người) Thiếu úy Liêm căn lại bản đồ và đánh dấu tọa độ gài mìn để báo cáo giải trỉnh! Độ này tất cả các toán đều được khuyến cáo về đơn vị chống Biệt-kích của địch. Họ nằm lì tại các nơi có khoảng trống làm bãi đáp trong khu vực hay luôn theo dõi các đoàn trực thăng để phát hiện ra bãi xâm nhập... Bộ chì huy hành quân chiến thuật (TOC) đã phải dùng đến nhiều kế nghi binh nhưng chỉ phần nào lừa được địch! Các toán Thám-sát thường bị tấn công ngay tại bãi thả hay chỉ hai ba ngày theo dõi địch sẽ tìm ra chúng tôi! Qua khỏi con suối cạn, toán ngồi nghỉ bên gốc cây, nhìn ra mọi người hai hàng lông mày đổi mầu sương trắng cùng đẫm nước nơi vai. Ánh mặt trời trên tàn cây tròn mờ như muốn bức phá qua làn sương mù mịt nhưng không nổi! Covey lên bao vùng, động cơ máy bay mỗi lúc một rõ...Hàng văn Vi đâu lưng đưa máy cho tôi liên lạc. Phút chốc bức điện báo cáo đã được gửi lên... Không có lệnh gì mới... Toán chuẩn bị di chuyển.
4
Rừng cây tương đối tạm che chắn cho chúng tôi, đường dễ di chuyển chỉ nhiều vắt và muỗi... Nắng đã chói chan trên tầng cây và gió đã mang đi bớt lớp sương mù buổi sáng. Lũ chim trên cao vẫn ca vang khúc nhạc rừng trong kẽ lá tìm sâu! Không gian thinh lặng mang lại cảm giác cô đơn tột cùng và sự sợ hãi thi thoảng đè nặng lan dần xuống sống lưng! Chiếc Covey mới vừa bay ngang rồi tất tưởi qua vùng khác. Không có tiếng súng quen thuộc trong mục tiêu mỗi chuyến hành quân mà tôi thường nghe! Địch nơi đây không truyền tin hay săn thú rừng? Chẳng lẽ họ đã có những máy móc thay thế? Tiếng nổ tròn ấm đằng sau lưng đáp trả lại những suy nghĩ của tôi. Mọi người dừng lại đưa mắt nhìn nhau, Thiếu úy Liêm nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến...Chúng tôi biết chắc rằng trái mìn M14 gài lúc sáng đã nổ, nhưng tôi mong rằng con thú nào đó bị nạn! Tôi bàn tính với Thành nên gài lại trái mìn thứ hai trước khi di chuyển... Một làn hương hoa thơm nhẹ mơn man theo gió, bất giác nhìn lên một vùng trên cao, hoa tim tím khoe mầu cùng ánh nắng thẳng chiếu làm lộ ra đàn ong lui tới dập dình! Chúng tôi di chuyển đến gặp khu rừng chồi trước mặt có những bụi tre cao ngất, ánh nắng rực rỡ chạy dài xuống thung lũng xanh rì. Thiếu úy Liêm và Châu đang nhìn địa thế và căn lại hướng đi. Địa thế mới, Châu dẫn đường phải vất vả suy tính hướng đi sao cho đúng bởi địa thế có nhiều nơi trống trải cắt ngang dọc. Tiếng heo kêu thét lên như bị thọc tiết làm chúng tôi giật mình dừng lại. Có ai đó đang hú gọi nhau xen lẫn tiếng heo giờ thì kêu chậm rãi sặc sụa! Toán ngồi đợi, giật mình vì hướng đi của chúng tôi lại đúng với tiếng heo kêu mỗi lúc một xa! Một hòn đá nhỏ ném thẳng vào tôi, ngoái đầu nhìn lại Trung sĩ Thành và Phỏng chỉ chỉ ra khoảng trống sau lưng, nhìn mãi tôi không thấy gì, vội bò lại chỗ của Thành... Gần bụi tre năm người, mặc đồ bộ đội xanh, trang bị súng AK đang ngồi nghỉ bên gốc tre có bóng mát chạy dài ra khoảng trống... Hình như họ đang tranh luận gì với nhau... Tên ngồi bìa tay chỉ trỏ về mé rừng cây rồi vạch một đường thẳng về phía chúng tôi. Nhưng một tên bỗng đứng dậy lại chỉ về bìa rừng ngang! Cả toán đều hiểu rằng đám bộ đội kia đang đi săn Biệt-kích. Bất chợt tôi ngó vào Trung sĩ Thành "anh quả là chuyên gia về xóa dấu vết!" Đám bộ đội đã đứng lên, toán hồi hộp chờ đợi hướng di chuyển của chúng và rất ngạc nhiên vì họ đi vào khu rừng sau lưng chúng tôi... Thầm nghĩ có lẽ địch không ngờ rằng chúng tôi lại đi sau đám người đi săn! Di chuyển đúng với lệnh hành quân là điều bắt buộc cho các toán thám sát vì đó là nhiệm vụ... Một phát hiện gì đó. Thiếu úy Liêm giơ tay gọi tôi . Một con đường phía trước, nằm chếch hướng đi của toán. Tôi lấy địa bàn căn hướng đi và thất vọng vì nếu đi đúng hướng toán sẽ di chuyển song song với con đường! Lại là một khó khăn nguy hiểm... Tôi đề nghị với Liêm đổi hướng tránh xa con đường rồi mới tiếp tục theo hướng vào mục tiêu.
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/02/xung-kich.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)1tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-1310416025994257385Wed, 20 Feb 2013 21:25:00 +00002013-02-20T13:25:14.842-08:00Rừng cây tương đối tạm che chắn cho chúng tôi, đường dễ di chuyển chỉ nhiều vắt và muỗi... Nắng đã chói chan trên tầng cây và gió đã mang đi bớt lớp sương mù buổi sáng. Lũ chim trên cao vẫn ca vang khúc nhạc rừng trong kẽ lá tìm sâu! Không gian thinh lặng mang lại cảm giác cô đơn tột cùng và sự sợ hãi thi thoảng đè nặng lan dần xuống sống lưng! Chiếc Covey mới vừa bay ngang rồi tất tưởi qua vùng khác. Không có tiếng súng quen thuộc trong mục tiêu mỗi chuyến hành quân mà tôi thường nghe! Địch nơi đây không truyền tin hay săn thú rừng? Chẳng lẽ họ đã có những máy móc thay thế? Tiếng nổ tròn ấm đằng sau lưng đáp trả lại những suy nghĩ của tôi. Mọi người dừng lại đưa mắt nhìn nhau, Thiếu úy Liêm nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến...Chúng tôi biết chắc rằng trái mìn M14 gài lúc sáng đã nổ, nhưng tôi mong rằng con thú nào đó bị nạn! Tôi bàn tính với Thành nên gài lại trái mìn thứ hai trước khi di chuyển... Một làn hương hoa thơm nhẹ mơn man theo gió, bất giác nhìn lên một vùng trên cao, hoa tim tím khoe mầu cùng ánh nắng thẳng chiếu làm lộ ra đàn ong lui tới dập dình! Chúng tôi di chuyển đến gặp khu rừng chồi trước mặt có những bụi tre cao ngất, ánh nắng rực rỡ chạy dài xuống thung lũng xanh rì. Thiếu úy Liêm và Châu đang nhìn địa thế và căn lại hướng đi. Địa thế mới, Châu dẫn đường phải vất vả suy tính hướng đi sao cho đúng bởi địa thế có nhiều nơi trống trải cắt ngang dọc. Tiếng heo kêu thét lên như bị thọc tiết làm chúng tôi giật mình dừng lại. Có ai đó đang hú gọi nhau xen lẫn tiếng heo giờ thì kêu chậm rãi sặc sụa! Toán ngồi đợi, giật mình vì hướng đi của chúng tôi lại đúng với tiếng heo kêu mỗi lúc một xa! Một hòn đá nhỏ ném thẳng vào tôi, ngoái đầu nhìn lại Trung sĩ Thành và Phỏng chỉ chỉ ra khoảng trống sau lưng, nhìn mãi tôi không thấy gì, vội bò lại chỗ của Thành... Gần bụi tre năm người, mặc đồ bộ đội xanh, trang bị súng AK đang ngồi nghỉ bên gốc tre có bóng mát chạy dài ra khoảng trống... Hình như họ đang tranh luận gì với nhau... Tên ngồi bìa tay chỉ trỏ về mé rừng cây rồi vạch một đường thẳng về phía chúng tôi. Nhưng một tên bỗng đứng dậy lại chỉ về bìa rừng ngang! Cả toán đều hiểu rằng đám bộ đội kia đang đi săn Biệt-kích. Bất chợt tôi ngó vào Trung sĩ Thành "anh quả là chuyên gia về xóa dấu vết!" Đám bộ đội đã đứng lên, toán hồi hộp chờ đợi hướng di chuyển của chúng và rất ngạc nhiên vì họ đi vào khu rừng sau lưng chúng tôi... Thầm nghĩ có lẽ địch không ngờ rằng chúng tôi lại đi sau đám người đi săn! Di chuyển đúng với lệnh hành quân là điều bắt buộc cho các toán thám sát vì đó là nhiệm vụ... Một phát hiện gì đó. Thiếu úy Liêm giơ tay gọi tôi . Một con đường phía trước, nằm chếch hướng đi của toán. Tôi lấy địa bàn căn hướng đi và thất vọng vì nếu đi đúng hướng toán sẽ di chuyển song song với con đường! Lại là một khó khăn nguy hiểm... Tôi đề nghị với Liêm đổi hướng tránh xa con đường rồi mới tiếp tục theo hướng vào mục tiêu.
Nắng đã đứng bóng, chúng tôi tạm nghỉ để ăn trưa. Vẫn không nghe tiếng súng nào của địch. Sự yên lặng lạ kỳ và sự xuất hiện của địch sáng nay đã làm tôi thấp thỏm, cảm giác đang đi vào cái bẫy làm cho miếng cơm như nghẹn nơi cổ! Nhìn quanh những bộ mặt nét căng thẳng lộ rõ, đuôn đuỗn với nhau! Lệnh hạn chế sử dụng liên lạc trong vùng hành quân vì có nhiều dấu hiệu hoặc sự việc đã sảy ra cho các toán để kết luận rằng địch được trang bị máy dò làn sóng trong những đơn vị chống Biệt-kích... Những cuộc tấn công ngay tại bãi xâm nhập thường sảy ra chứng tỏ địch rất quan tâm đến những bãi trống trong khu vực và tổ chức phục sẵn chờ đợi... Hay họ thiết lập các chốt trên cao để phát hiện trực thăng thả toán rồi theo dõi và tấn công... "Bóng ma biên giới" giờ trở thành đúng nghĩa với cả đen lẫn bóng! khi mà số thiệt hại của chúng tôi càng gia tăng... Có những toán bốc hơi chỉ trong một đêm và không để lại dấu tích... Tỉ lệ cho thấy toán Biệt kích chỉ hoạt động được trong vùng ít khi qua nổi ngày thứ ba! Đơn vị chống Biệt-kích của địch tỏ ra rất hữu hiệu và xuất sắc trong việc theo dõi, bao vây, diệt gọn... Để chống lại các toán chúng tôi "trốn tránh, đào tẩu, gậy ông đập lưng ông"
5
Khu rừng già trước mặt, nắng đã chếch ngọn cây. Covey mới lên rồi lại sang khu vực khác bao vùng. Làn gió lạnh từ trong rừng hắt ra đem theo tôi cảm giác rờn rợn và một mầu đen tối âm u đe dọa! Tôi quay người ngắt một lá cây rồi đưa vào miệng nhai... Đó là cái thuật trị vắt mà khi còn ở đại đội người Thượng họ đã dậy cho tôi. Đường đi dễ dàng và êm ái bởi lá cây rụng dầy, cây chồi non vừa đủ để che chắn chúng tôi... Vì là đầu rừng nên Trung sĩ Thành phải đi giật lùi để xóa dấu vết, ít nhất là năm mươi mét mới yên tâm. Nắng đã ngang tầm nhìn theo địa thế di chuyển lúc ẩn lúc hiện... Chỉ còn khúc nhạc rừng trong âm u, lạnh lẽo với vắt quyện dưới chân và muỗi gào thét quang tai! Vài con sóc đuôi dài, xoe mắt nhìn chúng tôi rồi leo phắt lên cây cao. Ngồi nghỉ bên gốc cây to, rễ nổi tỏa ra bốn hướng, Thiếu úy Liêm lệnh cho toán ăn cơm chiều. Rừng cây yên lặng và gió đã đi đâu mất, đến nỗi tôi còn nghe rõ tiếng nhai cơm lép chép của cặp Thành, Phỏng... Mùi lá cây mục nơi này thật khó chịu, nó nồng nồng ngai ngái hắt lên như xót cho hai lỗ mũi bởi không có gió hòa quyện! Tiếng súng đầu tiên của địch nổ ở phía ngang chúng tôi... Mọi người nhìn nhau dò hỏi! Tôi cảm thấy trong lòng giải tỏa cái thắc mắc bị địch săn lùng... Kế nghi binh đã có hiệu quả? Nhưng tôi nghĩ và giật mình với ý ngược lại... Tiếng súng được bắn để lừa chúng tôi vào cái bẫy đang giăng... Hay là lời đe dọa!
Toán di chuyển, nắng cũng đã tắt và cái lạnh của rừng làm tôi rùng mình. Sáu người âm thầm lặng lẽ bước đi. Chỉ có trí óc là làm việc căng thẳng, luôn tự nhắc phải tỉnh táo trong cuộc chơi cân não mà quyền lựa chọn không phải là chúng tôi. Đêm đến thật nhanh và sương mù tự lúc nào đang vây quanh. Lần từng bước và nghe ngóng cẩn thận Châu đang để ý tìm chỗ ngủ đêm. Phía sau Trung sĩ Thành có nhiều thì giờ để xóa dấu vết! Thiếu úy Liêm và Châu đang bàn tính tay chỉ về gốc cây thật lớn ngang bên hông toán trong bóng tối mờ mờ... Quanh gốc cổ thụ, chúng tôi chia nhau chỗ ngủ... Hai trái Claymore đã được gài và Liêm thông báo cho toán hướng thoát hiểm là trái mìn Hứa văn Phỏng gài trước mặt và cái bấm mìn đã được giao cho Thiếu úy Liêm... Trong tình huống toán bị tấn công, trái mìn đầu tiên nổ sẽ là hiệu lệnh mở con đường máu và sau đó trái mìn của Trung sĩ Thành sẽ che chắn cho toán đào thoát.
Một đêm yên lành trong cái poncho ướt đẫm bởi sương mù. Tôi ngồi yên chờ trời sáng trong tiếng gà gáy dồn dập... Những tiếng động nhẹ, chứng tỏ đồng đội có người đã thức giấc. Không gian thinh lặng chỉ còn tiếng gà gáy vang...Làn sương sớm, nặng hơi nước theo gió nhẹ quanh quẩn lạnh buốt tận xương! Trung sĩ Thành và Phỏng đang nấu nước... Tiếng côn trùng rân vang chạy dài như muốn kết thúc mau chóng cái bổn phận tạo hoạt cảnh đêm rừng? Công việc thường lệ buổi sáng hành quân đã xong. Toán sẵn sàng di chuyển sau khi Thành và Phỏng gỡ xong hai trái Claymore. Thiếu úy Liêm đưa bản báo cáo bằng mật mã cho tôi và đang cùng Châu xem lại bản đồ để định hướng đi... Xóa xong những dấu vết, êm ái và âm thầm... Toán xuất phát.
Trong cái ánh sáng mờ mờ đục trắng hơi sương. Châu dừng lại, Thiếu ùy Liêm đưa tay ngoắc tôi... Đi lên thấy ngay con đường sát bên Châu đang ngồi quan sát. Nép vào gốc cây bên đường tôi cẩn thận nghe ngóng từ phía hai đầu đường và xem xét bề mặt với những dấu tích mới mẻ thường xuyên sử dụng... Nhưng đây chỉ là con đường nhỏ dành cho người và có vết xe đạp in trên đất... Toán vượt qua con đường bằng những bước chân trên lá cây, tránh để lại dấu vết... Ánh mặt trời tự lúc nào tròn đục trong sương trắng trên đầu cây cao làm tăng thêm sự huyền ảo, bí hiểm mà tiếng chim tìm mồi trên cành như mời gọi khám phá hoặc vẻ cười nhạo chúng tôi! Covey đã lên bao vùng, động cơ quen thuộc làm tôi có cảm giác thêm bạn đồng hành và ý chí! Châu đã dừng lại để tôi liên lạc, Thiếu tá Phát (Vương-vĩnh-Phát) đang gọi và tôi chuyển ngay bức điện. Không có lệnh gì mới từ Covey... Toán di chuyển trong tiếng máy bay xa dần và đang lên con dốc thoải trứơc mặt trong làn gió mát rượi cuồn cuộn lốc lên những lá cây rụng trên đồi... Qua được con dốc chúng tôi đang nhàn nhã xuống đồi mà bên hông ánh nắng chói lọi tỏa dài khắp đồng cỏ một mầu vàng rực rỡ. Thiếu úy Liêm và Châu căn lại hướng đi để đúng mục tiêu... Rừng già và cây chồi cũng phần nào che chắn. Châu đã phải chọn lựa nơi rậm rạp để ẩn mình nên dễ mất phương hướng... Một dẫy đá lớn liền nhau sừng sững cùng những gốc cổ thụ bao quanh và cơn gió trên cao vẹt cành lá tạo nên khoảng sáng trong tối chiếu nham nhở trê bề mặt tảng đá... Châu đưa tay dừng lại. Thiếu úy Liêm nhìn tôi ý muốn cùng lên quan sát... Ra hiệu cho Trung sĩ Thành yểm trợ, tôi lê chỗ Châu đang ngồi với vẻ mặt căng thẳng!
6
6
Trước mặt những màu áo xanh bộ đội đang vắt hong phơi trên những cành cây chồi, rải rác rất đông địch quân đứng ngồi bên chiếc võng mắc như giăng cửi cạnh những hầm trú ẩn nhô cao chạy xuống con dốc mà chắn ngang bởi tám chiếc vận tải Motorola đậu hàng dài từ Bắc xuống Nam... Những làn khói tỏa lên từ bếp nấu cơm thấy thật rõ nhưng có lẽ không đủ sức để bốc lên khỏi tàn cây rậm. Địa thế trên cao cho phép chúng tôi nhìn rõ trong khoảng cách chỉ chửng một trăm mét...thêm vào mọi cây chồi địch đã chặt để lấy khoảng trống... "Rút ngay, tẽ sang hướng khác, tìm chỗ để liên lạc Covey!" Tôi nói và Thiếu úy Liêm đồng ý... Toán cẩn thận, êm ái di chuyển sang mé bên kia đồi.
-Zulu One đây Lima kilo... anh chuẩn bị nhận điện tin, rõ trả lời...
Toán bên những tảng đá lập đôi hình tác chiến. Thiếu úy Liêm và tôi chuẩn bị cho bức điện và căn lại tọa độ địch quân... Tiếng Covey nghe rõ nhưng còn ở xa. Bắt được liên lạc, tôi đề nghị Thiếu tá Phát Covey không nên đến khu vực toán và lập tức chuyển ngay bức điện... Một con Nai dẫn con tới gần rồi ngơ ngác nhìn chúng tôi, mắt tròn xoe quay sang hướng khác! Covey đang gọi toán và tôi sẵn sàng nhận lệnh... "Tiếp tục nhiệm vụ. Mọi sự cần thiết sẽ dành ưu tiên cho toán" Lời yêu cầu oanh kích đã không được chấp thuận! Cơn gió lốc đang ào ạt dữ dằn đẩy những cành lá vung văng nhanh chóng tiến gần đến từ cánh đồng cỏ lau, tranh trải dài mầu vàng nắng... nó đi qua và để lại cái mùi ẩm mục của lá cây rụng... khó ngửi và bệnh hoạn!
Đi men theo từng bụi rậm, chúng tôi cố thoát xa nơi địch đóng quân và rất cẩn thận... kiêng dẻ từng tiếng động, xóa kỹ dấu vết... vì biết chắc rằng lộ diện trong lúc này toán chỉ còn nước lên gặp... Thượng-đế! Ngoái lại đàng sau Trung sĩ Thành vẫn tích cực xóa dấu vết và đang khép sửa khép lại những cành cây chồi... Nắng cũng gần trên đầu, không gian lặng lẽ một mình im tiếng. Ngoài đàn chim lao xao từng lúc to nhỏ trên cành, hôm nay không rựng mỡ đuổi đánh nhau miệng kêu thét bay xà xuống thấp. Thiếu úy Liêm quay nhìn tôi tay chỉ những tảng đá bên gốc cây, tay kia vỗ vào bụng ý muốn cho toán ăn trưa.... chia ra ba góc, lựa chỗ ẩn nấp và tác chiến, chúng tôi ngồi nghe động tĩnh rồi ăn cơm... Một đám mây đen làm tối xầm bầu trời nhưng ngoài kia... đồng cỏ vẫn một mầu nắng ánh!
Gió từng cơn đưa cái nóng hiếm hoi của nắng như ban tặng làm cơn buồn ngủ giấc trưa chợt đến với hai mắt nặng trĩu! Tiếng ho rồi tiếng cười từ mé phải rất gần và đang lên... "Chờ tớ với, đi gì như ma đuổi, mấy thằng nỡm" một giọng Bắc từ xa và giọng cười đùa vừa đến... Chúng tôi đang ở gần con đường! "Đi cái gì chậm như thằng bị tiêm la, không mau chúng ông bỏ lại cho mà biết!" Bước chân nhanh trên đường và rồi mất hút cứ như bị gió lốc đi. Họ đang xuống con dốc và áng chừng năm bẩy người. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng chóng qua, cơn lo lắng bất chợt ập đến bởi tình trạng tứ bề thọ địch làm tôi băn khoăn không khỏi sợ hãi. Sự yên lặng và không gian âm u vây chặt, níu giữ... tạo một áp lực ghê sợ dai dẳng! Vừa di chuyển, vừa thầm nghĩ đến những tình huống xấu có thể sảy ra bất cứ lúc nào... quả thật không ai có thể an dạ trong tình cảnh thế này! Những đốm sáng mặt trời từng nơi rải rác trước mặt phô bày và cho tôi một sự hưng phấn... cảm giác thoát khỏi đường hầm đen tối bỏ lại sau lưng làm trong dạ nhẹ hẳn đi... Châu và Thiếu úy Liêm dừng lại quan sát địa thế mới... tôi cũng vừa lên, nhắc trông một cái hố bom khổng lồ mà chung quanh những gốc cây ngã vật cùng xa hơn hàng cây nghiêng ngả dạt hẳn về một chiều tạo nên một sự ngổn ngang...tàn phá khốc liệt. Nhưng cây chồi bên dưới đang đua chen làm ra sức sống sau bao ngày bị phủ bởi cành cây, đất đá... Trái bom loại 15.000 cân Anh được thả từ vận tải cơ C130... Toán di chuyển vào khoảnh rừng mà bên hông này là cánh đồng lau, tranh bên kia là khoảng trống hố bom... Châu dừng lại đưa tay ra dấu có con đường trước mặt, tôi vội lên xem... Có tiếng Covey trên vùng... Con đường cắt ngang hướng di chuyển, sử dụng cho người tôi đưa mắt quan sát tìm dấu vết và giật bắn mình vì ở về mé phải một cây cổ thụ thân cao vút sát với con đường, bậc thang đầu tiên được tạo dựng rồi kế tiếp nương theo thân cây và những dây leo to như cổ đùi lần lượt được buộc kết nối vào nhau tạo bậc thang lên đến tận ngọn cây... phía trên cao những cành cây cũng được chặt tỉa để lấy khoảng trống quan sát cho cái chòi nằm trên chạng cây núp bóng trong tàn lá cao nhất xum xuê tỏa rộng... Tôi nhớ lại toán người gặp lúc trưa nay. Họ có thể trở lại cái chốt gác này sau ăn trưa và nghỉ ngơi! Không còn đường lựa chọn, toán vội vã và cương quyết băng ngang đường tiếp sâu vào ẩn mình trong rừng tránh xa nơi đe dọa nguy hiểm này... Chúng tôi như tháo chạy trong không khí luôn thắt chặt cuống tim mà nhiều khi từ bụng dâng lên cái nắc cục nơi cổ nhưng chẳng thoát ra... nó lùng bùng, nghèn nghẹn buộc tôi phải nuốt nước miếng rồi ấn xâu vào dạ dày!
7
7
Chiếc OV10 (FAC) đang bay trên đầu, mặc kệ tôi đưa tay bảo Thiếu úy Liêm cứ đi, lát nữa liên lạc cũng chả muộn... Nhưng Covey chỉ bay ngang rồi tiếng động cơ nhỏ dần. Quá mệt toán ngồi nghỉ, nhìn những gương mặt biểu lộ nét căng thẳng mà làn da bóng lưỡng như giãn ra tỏa mùi thuốc trừ muỗi. Cái khăn xanh mầu lá cây trên trán thắt ngăn từ trên hàng mi để giữ gọn tóc và ngụy trang đã làm cho khuôn mặt ai cũng vẻ khó coi, ngắn cũn quái dị! Một tiếng hú vang vọng nơi vọng gác mà chúng tôi vừa bỏ lại... sau lưng tiếp liền một giọng hú dài ngân nga ở xa hơn, nó rung rung luyến láy như ca sĩ truyền cảm... Quả thật người hú có công lực cao thâm hay trời cho chất giọng đặc biệt! Địch đang truyền tin cho nhau... bất giác tôi ngó về phía Trung sĩ Thành đưa tay sờ soạng dưới lá ra dấu hỏi và yên tâm khi Thành gật gật đầu tỏ ý việc xóa dấu vết rất cẩn thận. Toán tiếp tục di chuyển sau khi gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Đường đi rất khó vì rừng cây chồi mọc đan khít. Châu thật vất vả để mở đường và mồ hôi đã thấy trên khuôn mặt dưới ánh nắng mặt trời chếch ngang. Covey đã trở lại, tôi bật máy chờ đợi. Quả nhiên có tiếng gọi toán và giọng Thiếu tá Phát xin số nhà.
-Yankee papa, anh bay về hướng 9 giờ sẽ dễ dàng cho tôi... trả lời.
Covey đảo vòng và Trung sĩ Thành lấy ánh trời chiều vào gương... rồi đưa lên máy bay.
- Tango Romeo, nhận rõ... xin tạm biệt.
Một tiếng súng tiếp sau chiếc Covey vừa đi khỏi... Địch đang báo động trong khu vực? Kế nghi binh chỉ lừa được địch trong những ngày đầu hay chỉ tạo cho họ sự bán tín bán nghi... như vậy có thể nghĩ rằng trái mìn M14 nồ sáng ngày thứ hai hành quân là do thú rừng dẫm phải. Nếu là địch chắc chắn họ đã túa ra lùng sục chứ chẳng để yên cho chúng tôi! Nhìn quanh những bộ mặt căng thẳng vẻ day dứt, tôi đi lại chỗ Thiếu úy Liêm và ngoắc Trung sĩ Thành lại nói ra những ý nghĩ vừa qua để mọi người cùng bàn bạc... Kết luận chỉ là cảnh giác cao, luôn phải ẩn nấy dấu mình, di chuyển nhẹ nhàng và cần thiết nhất giao cho Trung sĩ Thành và Phỏng... xóa dấu vết thật kỹ.
Trời đã về chiều, mặt trời chỉ còn cách ngọn núi xa mờ chừng vài thước, cố ánh lên tia nắng đổi mầu, xuyên lên những đụn mây đen và hắt xuống cái mầu ảm đạm hòa cùng núi rừng cố hữu xẫm mầu xanh lá mà nhìn quanh với sáu con người như lẻ loi, lạc lõng không đủ để giảm cái áp lực cô đơn xen lẫn nét sợ hãi bất chợt thường gặp nhất là trong lúc này... cảnh giữa tối và sáng... để rồi vòng tay to lớn đen xì của trời đêm ôm lấy từng người! Cái tưởng tượng ấy đến phát khiếp mà hai chân trong đôi Jungle boots tự run run như cái lạnh có mồ hôi! Thiếu úy Liêm cho toán nghỉ ăn cơm chiều... trong mờ mờ cái bóng có hơi sương mà gió mang đến tự lúc nào đang len lén xây quanh... miếng cơm nhai vội trong miệng và tai luôn dựng đứng nghe ngóng xung quanh. Mọi sự có vẻ ổn, chúng tôi lặng lẽ đi tìm chỗ ngủ qua đêm. Sương mù đột nhiên lấp đầy và làn gió mang theo cái lạnh, tôi thấy gai gai trên mặt và chợt rùng mình.
Ngày lại ngày... Tiếng gà gáy đanh đảnh làm tôi thức giấc. Một đêm an bình trong cái poncho ấm áp đã bù lại sức lực và khỏe tâm trí! Cái đồng hồ nhựa màu xanh đậm phát hành quân mặt dạ quang chỉ năm giờ. Hàng văn Vi cạnh tôi ngủ đang mơ miệng lắp bắp "Thu Hà em ơi. Anh là Quang đây! Có gì mà giận..." Tôi phì cười, đưa tay lay gọi... hắn choàng tỉnh miệng cự nự. Bên kia và bên này, tiếng sột soạt của áo mưa... hẳn là mọi người đã thức giấc. vẫn sương mù giăng trắng nhưng không dầy để có thể nhìn được xa. Ánh lửa từ mẩu C4 (loại chất nổ bột dẻo, có thể dùng để nấu nướng) đun ca nước tỏa làn lửa xanh xem vui mắt và mùi cà phê lan tỏa đem đến sự sảng khoái tâm hồn!
Công việc buổi sáng cũng đã xong. Toán chuẩn bị di chuyển. Trung sĩ Thành và Phỏng đang gỡ mìn Claymore và cẩn thận xóa dấu chân đi. Không gian thinh lặng, chỉ thi thoảng tiếng thú kêu xa rời rạc. Châu tay cầm địa bàn xem hướng và bước đi cái bước chân đầu tiên...phía sau Thành và Phỏng đang xóa dấu vết ngủ đêm. Âm thầm trong lặng lẽ cùng sương sớm luẩn quẩn theo gió, sáu con người lẻ loi chậm bước, đơn côi với chính mình, bởi không thể xuất ra bằng lời nói...có chăng chỉ là những tiếng thì thầm nhưng cũng phải hà tiện và đúng lúc. Đàn chim đang lao xao trên cành và nhìn lên...vắt vẻo đôi mông chai lì uốn éo nhịp đi cùng phô diễn cái đuôi ngoắc ngoắc của đàn khỉ quanh một con xếp đàn chễm chệ tựa lưng vào thân cây, tay chỉ xuống chúng tôi miệng khụt khịt. Mặt trời đã ló dạng, từ đụn mây trắng bấu chặt vào đất... tóe lên không gian ánh sáng mầu hồng ửng, nhưng không xuyên suốt được bầu trời xanh thẳm cao vợi... cùng những đám mây trôi lạc lõng chờ tan.
8
Động cơ của chiếc FAC nghe quen thuộc đang dần đến. Thiếu úy Liêm cho toán dừng lại để tôi liên lạc Covey. Vừa mở máy đã nghe tiếng gọi.
-Tango golf đây Alpha eight gọi.
Tôi trả lời và nhận lệnh từ Covey, đưa cho Thiếu úy Liêm mở khóa... "Di chuyển ra bãi đáp hướng đông chờ lệnh... "Bỏ khu rừng rậm chúng tôi ra khu đồng cỏ lau, tranh bằng những bước chân vội vã, trong lòng thoải mái vì đã hoàn thành công tác. Covey cũng đã sang bao vùng khác. Có tiếng súng nơi vị trí đóng quân của địch và rải rác bốn tiếng bắn đáp lại, một ở ngay sau lưng chúng tôi! Địch đang báo động hay truyền lệnh gì cho nhau? Toán cũng đã tới bìa rừng và tôi liên lạc báo cho Covey.
Ánh nắng ban sáng dịu mát hắt những tia nắng vàng trên gương mặt và tối xầm lại vì đám mây đen trôi dạt. Covey ở trên đầu và xin mở cửa sổ (ý muốn thấy vị trí toán) Trung sĩ Thành đang chiếu gương lên Covey... ngạc nhiên vì hai chiếc F4 thấy rõ nơi ánh mặt trời.
Tango golf đây Alpha eight. Oanh kích sẽ được thực hiện ngay lập tức... bạn chuẩn bị ẩn nấp, căng panel vàng và điều chỉnh mục tiêu.
Chiếc Covey (FAC) bắn ra trái rocket khói vào ngay vị trí đóng quân của địch mà hôm qua toán cho tọa độ và xin oanh kích.
- Alpha eight, rất chính xác xin tiếp tục.
Một cú múc thẳng lên cao và chiếc OV10 đang làm xiếc, lật hai vòng biểu diễn trên không... cho quân địch xem rồi ung dung, tà tà lật lại... hình như cười ha hả?! Theo sau chiếc F4 nhập trận bằng ba trái bom, cùng lúc tiếng phòng không gầm gừ từng chặp, chắc nịch mà tiếng động cơ phản lực không át nổi. Mặt đất rung chuyển và lửa khói bốc cao rồi gần chạm vào chiếc F4 thứ hai đang vút lên theo chiều thẳng đứng với tiếng gầm của động cơ phản lực mà theo sau làn đạn đỏ nhọn lao đuổi theo nhưng không kịp... Một tiếng nổ long trời mà cường độ dữ dội hơn lần bom trước, như có một kình lực vừa đi qua chúng tôi! Loại bom 500 cân Anh.
- Alpha eight đây Tango golf... phòng không đã lên tiếng, về hướng tây và hướng nam mục tiêu.
- Tango golf... tôi đã thấy, rất cám ơn.
Loạt đại bác từ Phantom F4 thay nhau lao xuống chất lửa và thép đặc kín nhắm thẳng vị trí hướng tây của khẩu phòng không cùng lúc với vệt đạn lửa đỏ từ đất quanh phi cơ đang gấp rút phóng lên mà theo sau là tiếng đại bác của chiếc F4 thứ hai bắn ra một lưới lửa vun vút thay nhau lao chụp nhắm thẳng vào khẩu phòng không. Hai chiếc F4 giờ đang quần ngự trên cao còn chiếc OV10 vòng vòng quan sát... chiếc F4 tách ngang lao xuống mục tiêu nhả ra trái bom và bay dựng đứng lên cao... không nghe tiếng phòng không và rồi bom nổ tạo sự chấn động cùng lửa khói bốc cao.
- Tango golf đây Alpha eight, anh chuẩn bị nhận lệnh, rõ trả lời.
Tôi trả lời và nhận bức điện từ Covey. Thiếu úy Liêm đang mở mật mã và đọc nội dung: Thi hành phương án dự trù, phối hợp với đơn vị Hatchet Force hành quân tấn công mục tiêu. Mọi người đều ngẩn ngơ trước cái lệnh mới này... thông thường toán chỉ còn chờ trực thăng rước về! Tiu ngỉu tôi ngồi phịch xuống đất... hết biết!
- Tango golf, hãy ra khoảng trống tạo bãi đáp, căng panel vàng chỉ điểm.
- Alpha eight... nhận rõ.
Hai F4 vẫn thay nhau trút xuống mục tiêu bằng hỏa lực của mình và một ánh lửa bùng lên, lên cao... trong cột khói đen sì như những cái nấm bốc lên che kín khoảng trời. Tiếng địch quân la hét tạo hình dung cảnh hỗn loạn, trước mặt khói vẫn bốc lên liên tục kèm theo những lưỡi lửa đùn đẩy như muốn thoát ra khỏi cột khói đen sì bầu trời. Chiếc F4 vừa bay ra khỏi đụn khói kèm theo tiếng bom nổ xa hơn về hướng nam. Hai chiếc A1 cũng đã xuất hiện. Tôi đã nghe tiếng trực thăng, nhìn về hướng đông, ánh mặt trời soi rọi rõ những đốm đen dần tới.
- Tango golf... anh chuẩn bị cho trực thăng hạ cánh, bãi đáp rất tốt... Toán được đặt dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Hatchet Force.
Bốn chiếc Cobra đến trước đang bay quanh bãi đáp xem xét, chờ lệnh. Theo sau bốn CH46... Chiếc A1 nhập trận bằng loạt bom chùm(cluster) như đậu vãi trong lúc những chiếc Cobra bắn phá nơi bìa rừng yểm trợ cho chiếc C46 đáp xuống bãi... Trung sĩ Thành cầm panel đứng ra hiệu cho trực thăng... Người Mỹ đầu tiên xuống đất, trang phục hành quân, kế đến cả Trung-đội... vừa xuống đã tạo ngay vòng bảo vệ bãi đáp. Hai người Mỹ dáng bệ vệ dừng ngay nơi toán tôi hỏi ai là thông dịch và bắt tay chào hỏi qua lời giới thiệu từng người của tôi. Điều ngạc nhiên đơn vị Đại đội Hatchet Force này không phải từ trại của tôi... Task Force 1... vì đại đội Thượng trong trại đã được chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật, chỉ huy bởi những cán bộ Việt-nam. Lạ hơn nữa, những người lính Biệt-kích mới đến trên cổ thắt cái khăn mầu đỏ... trái hẳn với kỹ thuật ngụy trang hành quân. Riêng các cố vấn người Mỹ không thắt khăn... Những điều trên làm tôi nhớ đến khi còn ở Tiểu-đoàn Phi-hổ Nùng (Haymaker Force) CCN- Đànẵng... người Mỹ đã chấp nhận lập ngay trong trại miếu thờ của người Nùng gọi là Sính-gề... được cúng vái hàng tháng... thờ vị thần hoàng của họ, mà mỗi lần hành quân họ đều mang theo để phù hộ! Người Biệt-kích Nùng nào khi hành quân mang cái khăn vàng trên người và nơi đầu súng buộc một mẩu khăn đỏ (chỉ một người)... Đó là người mang Thần-hoàng hành quân. Chắc hẳn rằng người Mỹ rất khó chịu trước cảnh đang đêm người giữ Thần-hoàng nhẩy múa, kêu la hay hét lên... trong khi bốn cái poncho được căng ra che phủ đi ánh sáng của những cây nến và bó nhang đốt quanh người... gọi là thần linh! Nhưng không sao át nổi mùi hương nhang đi xa trong đêm...Cái tinh thần tôn trọng tự do của người Mỹ quả thật được thể hiện đúng mức... vô giới hạn hay trong trường hợp này họ bị ràng buộc bởi một lý do nào đó?!
9
9
Chiếc CH46 thứ hai cũng vừa xuống, Tiểu đội đi đầu chỉ huy bởi một người Mỹ ra lệnh di chuyển mở đường thẳng hướng mục tiêu... đang khói lửa cháy ngút trời! Bộ chỉ huy đứng gần chúng tôi gồm năm người theo Trung đội của chiếc trực thăng thứ ba đổ xuống đã cùng toán di chuyển. Ngoái lại chiếc thứ tư vừa xuống bãi trong tiếng rocket và đại liên của Cobra xây quanh... cuộc xâm nhập cấp Hatchet Force thật bài bản, nhanh, gọn và Đại đội tuần tự theo đội hình... Nhìn lên chiếc A1 vẩn tung vào trận hỏa lực của mình, không còn nghe tiếng phòng không, nhưng từng chặp tiếng nổ của súng đủ loại mổi khi máy bay xuống oanh kích... Nắng buổi sáng đã chếch ngang mặt, đôi lúc bị những đám mây hay đụn khói nhanh chóng che khuất. Chiến trận vẫn tiếp tục bằng những lần tấn công của hai chiếc Skyraider trắng bạc, không phù hiệu từ NKP của SOG quen thuộc. Đại đội tiếp tục tiến xâu vào trận. Vị Đại-úy chỉ huy (tôi nghe một người Mỹ gọi như thế) xem lại bản đồ và ra lệnh gì đó. Tiếng phản lực đang bay, tôi bất giác nhìn lên. Hai chiếc F100 sơn mầu Thủy quân lục chiến Mỹ bay ngoài xa và bên này hai A1 đang sát với ánh mặt trời chói lọi...cùng với chiếc O2 (FAC) cũng sơn mầu rằn ri... có lẽ sẽ thay chiếc OV10... Xa xa đoàn trực thăng nhỏ dần về hướng đông còn chúng tôi cứ thẳng hướng tây nam... trực chỉ trận địa.
Tầng cây cao che hẳn ánh mặt trời và một không gian đường hầm sặc mùi bom đạn theo gió lùa quanh quanh không lối thoát như vây chặt chúng tôi! Tiếng bom lại nổ dậy đất nơi phía trước... hai chiếc F100 (Super Sabres) tham gia trận chiến. Đoàn quân lặng lẽ di chuyển. Đại-úy Đại đội trưởng luôn ra lệnh và rất bận rộn với cái máy truyền tin... Khu rừng thưa bên hông có những ánh nắng vàng rực rỡ, nhìn lên mặt trời đứng trên đầu cây chói lòa mà bất ngờ làn khói đen là đà bay ngang. Tiếng phản lực gầm rú và bom đạn vẫn được trút xuống mục tiêu, gần sát với chúng tôi... Tiếng súng ầm vang nơi phía trước... tôi nghe tiếng chỉ huy hạ lệnh tấn công và Trung đội hai được lệnh tiến chiếm mục tiêu, trong trợ lực của Trung đội đi đầu... Một hỏa pháo mầu đỏ ra hiệu cho máy bay đã được bắn lên... theo sau, chiếc F100 bay thấp xạ kích loạt đại bác hòa cùng tiếng súng vang dậy bên dưới . Đoàn quân vẫn di chuyển... vị Đại úy đã đổi ba lô và trực tiếp đeo máy chỉ huy. Quang cảnh tàn phá bởi bom đạn từ phía trước bất ngờ đập vào mắt tôi... Cây cối gẫy đổ và những vùng bom tàn phá giăng giăng... bên hố bom lớn đào khoét xâu vào lòng đất, tôi có cảm tưởng như làn khói nhẹ vừa bốc lên từ đáy. Hai Trung đội đi đầu vẫn tiến trong tiếng súng và thi thoảng hỏa pháo được bắn lên ra hiệu cho máy bay trợ chiến... Một vạt cây rừng cháy xém buông rũ lá mà bên dưới những hầm chiến đấu giăng mắc rải rác nhiều tử thi... Lần đầu tiên tận mắt chứng kiến cảnh tàn phá của bom napalm...
Sau loạt xạ kích của chiếc F100 về phía trước... Những tiếng thét tấn công kèm theo súng nổ vang dậy... trận chiến đã đến hồi say máu!? Chúng tôi vẫn tiến, dọc đường đã có những Biệt-kích bị thương đang được săn sóc và xác chết... trên cổ còn đeo khăn đỏ. Vị Đaị úy chỉ huy tay cầm ống nghe truyền tin, tay kia giơ hiệu number one cho mọi người thấy, trong nét mặt cười rạng rỡ. Ông quay sang nói với người Mỹ đi bên cạnh "Robert đã chiếm được tám chiếc Motorola" Cuộc đột kích táo bạo theo yếu tố bất ngờ đã làm địch quân tán loạn khi mà đang chịu nhiều tổn thất và chống đỡ với hàng loạt oanh kích rất chính xác của máy bay. Hai F100 vẫn yểm trợ ... Sự phối hợp tác chiến giữa bộ binh và không quân diễn ra thật tuyệt vời bởi những sĩ quan xuất sắc mà chắc rằng đã được tuyển chọn và đào luyện kỹ càng. Nhìn theo cánh rừng thoải phía trước... cảnh tan hoang cây đổ dưới ánh nắng chói chang trong khu rừng râm mát mà ngày hôm qua chúng tôi phát giác vị trí đóng quân của địch và xin oanh kích. Dần theo bước chân... nơi những hầm trú ẩn, xác chết nằm ngổn ngang đây đó. Vài cái võng đang đu đưa trong cơn gió lùa, có cái tả tơi một nửa rơi trên đất... Quanh những hố bom còn xông lên mùi khét lẹt!
Sau loạt xạ kích của chiếc F100 về phía trước... Những tiếng thét tấn công kèm theo súng nổ vang dậy... trận chiến đã đến hồi say máu!? Chúng tôi vẫn tiến, dọc đường đã có những Biệt-kích bị thương đang được săn sóc và xác chết... trên cổ còn đeo khăn đỏ. Vị Đaị úy chỉ huy tay cầm ống nghe truyền tin, tay kia giơ hiệu number one cho mọi người thấy, trong nét mặt cười rạng rỡ. Ông quay sang nói với người Mỹ đi bên cạnh "Robert đã chiếm được tám chiếc Motorola" Cuộc đột kích táo bạo theo yếu tố bất ngờ đã làm địch quân tán loạn khi mà đang chịu nhiều tổn thất và chống đỡ với hàng loạt oanh kích rất chính xác của máy bay. Hai F100 vẫn yểm trợ ... Sự phối hợp tác chiến giữa bộ binh và không quân diễn ra thật tuyệt vời bởi những sĩ quan xuất sắc mà chắc rằng đã được tuyển chọn và đào luyện kỹ càng. Nhìn theo cánh rừng thoải phía trước... cảnh tan hoang cây đổ dưới ánh nắng chói chang trong khu rừng râm mát mà ngày hôm qua chúng tôi phát giác vị trí đóng quân của địch và xin oanh kích. Dần theo bước chân... nơi những hầm trú ẩn, xác chết nằm ngổn ngang đây đó. Vài cái võng đang đu đưa trong cơn gió lùa, có cái tả tơi một nửa rơi trên đất... Quanh những hố bom còn xông lên mùi khét lẹt!
Tám chiếc Molotova đậu trên con đường rộng, chạy một hàng dài cách quãng nhau mà những cái bạt phủ đã được vất sang bên, lộ ra toàn thùng gỗ, kẽm... xe chở vũ khí, đạn dược. Tiếng súng nổ ác liệt quanh phía trên. Một người Mỷ chỉ huy đang điều động hai khẩu cối 60 ly và bắt đầu với trái đạn đầu tiên theo tiếng hét ra lệnh của Đại úy Đại-đội-trưởng. Súng nổ vang trời đủ loại. Tôi vừa nhìn vội thấy chiếc A1 cất lên tiếp sau loạt bom chùm nổ giăng mắc... Skyraider đã lên thay hai chiếc F100 và qua gốc cây tôi đang nấp, chiếc OV10 màu ánh bạc vừa bay ngang, cạnh tôi vị Đại úy ra lệnh vang vang cho Trung đội lâm chiến phía trước trong khi trái cối 60 ly tuần tự được phóng đi tỏa làn khói trắng khét lẹt... Hai người Mỹ đang chụp ảnh đoàn xe bằng đủ mọi góc cạnh, có bốn người lính tay cầm cây sắt lấy trong xe đang mở thùng gỗ để chụp ảnh... nhác trông toàn là súng, đạn. Tôi nói với Thiếu úy Liêm cho toán ăn cơm trưa vì chắc chắn rằng Đại đội Hatchet Force này họ đã chuẩn bị cho cái bao tử từ trước khi nhập trận... Người ta đang gài mìn vào những chiếc xe... rồi bắt đầu di chuyển... Loạt bom napalm bùng lên nơi phía trước với lửa và khói lan rộng... Đoàn quân di chuyển tương đối chậm vì còn cáng theo nhửng Biệt kích bị loại khỏi vòng chiến! Có một điều rất lạ mà tôi mãi thắc mắc là địch quân sao không phản công mạnh mà chỉ cầm chừng rồi rút như để bảo toàn lực lượng. Khu trục cơ A1 vẫn thi nhau bắn phá... Hai khẩu phòng không đã câm miệng từ lâu hay được chuyển sang nơi khác bảo toàn! ? Trung đội Biệt kích theo lệnh vẫn hung hoăng lục soát cố tìm ra khẩu phòng không về hướng nam... trên đường di chuyển ra bãi đáp, được dọn dẹp thật kỹ bởi hai Skyraider. Đi theo bộ chỉ huy Đại đội, toán tôi thật nhàn nhã dự phần... Người Mỹ có bổn phận gài mìn vào những chiếc Motorola đang cùng ông Đại úy bàn tán và nhìn đồng hồ... thật chuẩn xác... tiếng nổ vang dậy hất tung nhiều thứ lên cao mà tôi chứng kiến cảnh khói lửa bùng phát dữ dội...Một địa ngục nơi trần gian và trong lòng nao nao khó tả là vui hay phật ý... cảm giác tủi hờn len lén thoáng qua! Bất ngờ nóng mặt trước trò chơi mang tính bạo tàn trên thân phận con người. Từ những nơi yên bình an hưởng cuộc sống, sao lại phải đem nhau vào núi rừng khắc nghiệt xa xăm đầy hiểm nguy, gian khổ để một mất một còn nghiêng ngả với thời gian... Tay rũ rượi và chân bước run run khi nghĩ đến nền văn minh và tiến bộ thế kỷ!
Nắng đã chếch về tây, súng vẫn nổ và phi cơ lên xuống trợ lực theo sự điều không của Đại đội Hatchet Force... Tám chiếc Motorola chở vũ khí đạn dược của địch giờ đây tan tành! Chỉ còn tiếng nổ lẻ tẻ sau lưng.. Đại đội đã ra tới bãi đáp và nắng chiều in dấu từng người chen lấn ngang dọc... cũng là lúc đoàn trực thăng ầm ầm xuất hiện... đến trước hết vẫn là bốn hổ mang bành (Cobra)
- Tango golf đây Alpha eight.
Tôi vội chụp lấy ống nói từ tay Hàng văn Vi...
- Alpha eight tôi Tango golf... sẵn sàng.
- Ok Tango golf, trực thăng đầu tiên sẽ bốc hết toán... bạn chuẩn bị.
Bốn CH46 (Sea Knight) và bốn UH trên bầu trời...
Hỏa lực của Skyraider và bốn Cobra theo hướng dẫn của Covey (FAC) đang tung những đợt xạ kích chận phía sau bảo vệ cho Đại đội nơi bãi đáp. Có tiếng phản lực cơ, nhìn lên hai F4 bay song song từ hướng đông đang lao thẳng vào trận... chắc chắn là thế chỗ cho hai Skyraider... Những chiếc Cobra bay thấp đang xạ kích vào những điểm nghi ngờ quanh bãi. Đại úy Đại đội trưởng lúc này mới rảnh, đến bắt tay từng người chúng tôi với vẻ vui chiến thắng... bẩy cái poncho xác chết và tám Biệt kích bị thương ngồi cạnh toán tôi, trong số có một người Mỹ... nơi cổ với băng quấn coi dị hợm! Chiếc F4 vừa đến đúng là thế chỗ cho hai Skyraider... đang bay dọc hướng trận đột kích dưới ánh nắng chiều tà rọi thẳng như phô lên lời đe dọa tới địch quân! Chiếc trực thăng UH1B đầu tiên đang xuống bãi... Vị Đại úy vỗ vai Thiếu úy Liêm tay giơ hiệu number one tiễn chúng tôi... Trực thăng chở toán tôi dấn lên cao, rồi vòng vòng chờ lệnh... Nhìn phía dưới, tuần tự những chiếc CH46 đứng thật lâu dưới bãi trong khi bốn Cobra bảo vệ ngoài xa... Hai chiếc F4 đến chỉ để làm kiểng và trái khói mầu để kết thúc không vận được người Biệt kích cuối cùng lên trực thăng thả xuống... trong ánh vàng rực lên từ mặt trời như sắp lao vào ngọn núi mờ xa hướng tây.
Hỏa lực của Skyraider và bốn Cobra theo hướng dẫn của Covey (FAC) đang tung những đợt xạ kích chận phía sau bảo vệ cho Đại đội nơi bãi đáp. Có tiếng phản lực cơ, nhìn lên hai F4 bay song song từ hướng đông đang lao thẳng vào trận... chắc chắn là thế chỗ cho hai Skyraider... Những chiếc Cobra bay thấp đang xạ kích vào những điểm nghi ngờ quanh bãi. Đại úy Đại đội trưởng lúc này mới rảnh, đến bắt tay từng người chúng tôi với vẻ vui chiến thắng... bẩy cái poncho xác chết và tám Biệt kích bị thương ngồi cạnh toán tôi, trong số có một người Mỹ... nơi cổ với băng quấn coi dị hợm! Chiếc F4 vừa đến đúng là thế chỗ cho hai Skyraider... đang bay dọc hướng trận đột kích dưới ánh nắng chiều tà rọi thẳng như phô lên lời đe dọa tới địch quân! Chiếc trực thăng UH1B đầu tiên đang xuống bãi... Vị Đại úy vỗ vai Thiếu úy Liêm tay giơ hiệu number one tiễn chúng tôi... Trực thăng chở toán tôi dấn lên cao, rồi vòng vòng chờ lệnh... Nhìn phía dưới, tuần tự những chiếc CH46 đứng thật lâu dưới bãi trong khi bốn Cobra bảo vệ ngoài xa... Hai chiếc F4 đến chỉ để làm kiểng và trái khói mầu để kết thúc không vận được người Biệt kích cuối cùng lên trực thăng thả xuống... trong ánh vàng rực lên từ mặt trời như sắp lao vào ngọn núi mờ xa hướng tây.
Hai Cobra và hai UH tách đoàn đưa toán tôi về thẳng Căn cứ xuất phát Quảng Trị... nhìn xa đoàn trực thăng chở Đại đội Hatchet Force mất dần theo hướng bay ngược lại... Tôi chả biết Đại đội Xung kích đi về đâu?! Điều chắc chắn là họ mang khăn đỏ nơi cổ và có dáng dấp dân tộc thiểu số.
Tóan Xâm Nhập ở cuối Diễn Hành Tết 2013, bầu trời mây mù qua cơn mưa nhẹ buổi sáng tăng thêm phần mờ ảo của những tấm hình cô đọng, như Tướng MacAthur's đã nói " Old soldiers never die they just fade away".
Mong trong tâm trí của những thế hệ mai sau ghi nhớ hình ảnh hào hùng của những kinh kha Nha Kỹ Thuật một thời đem xương máu mình để chiến đấu cho miền Nam tự do trong 21 năm.
Mong trong tâm trí của những thế hệ mai sau ghi nhớ hình ảnh hào hùng của những kinh kha Nha Kỹ Thuật một thời đem xương máu mình để chiến đấu cho miền Nam tự do trong 21 năm.
1
Bước qua năm 1972. Nhà kho trại bắt đầu những gôm gom đồ đạc quân dụng...người Mỹ thực sự muốn rút quân khỏi Việt-nam... Vào tháng 2 năm 1971. Tư-lệnh quân đội Mỹ tại Việt-nam ra lệnh cho các đơn vị SOG chấm dứt mọi hoạt động của toán Biệt-kích trên đất Lào, theo sự biểu quyết của Quốc-hội Mỹ và những ràng buộc ngoại giao. Các toán Mỹ trong trại chỉ còn hoạt động trong nội địa, giáp biên giới Lào-Việt. Lúc này Quân đội Bắc-việt Cộng-sản đang ở vào thế thượng phong, họ được hưởng lợi thế bởi sự dần rút quân của Mỹ... không một đơn vị cơ động nào của Mỹ còn nằm xâu trong lãnh thổ miền nam Việt-nam. Khoảng trống chiến thuật mà Quân-đội Việt-nam Cộng-hòa không thể bù đắp được từ sự rút quân ở những căn cứ Mỹ và tiền đồn tai mắt bàn giao! Quân Cộng-sản đang dần tiến về thành phố! Không ai có tinh thần chống cộng mà không chống đối trong sự đau đớn, nghẹn ngào cái bàn Hiệp-định Ba lê mà người Mỹ đang thương thảo với địch! Đưa coca cola cho cái bàn hiệp định đáng ghét đó chính là đám phản chiến tại Mỹ và Quốc hội... Đơn vị SOG phải chiến đấu trong đơn độc và nhất là mọi tài trợ đều bị cắt, trừ những gì chúng tôi sẵn có! Thật ê chề và bất mãn trong tình thế như bị bỏ rơi... nhưng cấp cao vẫn đòi hỏi tin tức tình báo nơi đơn vị! Các toán Biệt-kích của sở Bắc, được lệnh rút khỏi miền Bắc Việt-nam bằng con đường sang Lào đến căn cứ của tướng Vang Pao người Mèo mà CIA nuôi dưỡng nơi biên giới... để được đưa về Long-thành, căn cứ họ xuất phát. Còn các Biệt-kích Strata, về căn cứ Sơn chà Đà nẵng... Biệt-kích Lôi-hổ (OP35) giờ phải gồng mình hoạt động trong nhiều tổn thất... Hai phần ba là con số các toán Mỹ còn hoạt động trong nội địa và họ có quyền lựa chọn mục tiêu, để tiết kiệm xương máu theo đúng chương trình Việt-nam hóa chiến tranh... Có những chuyến toán được thả xuống đề chứng kiến và báo cáo cái căn cứ địch trống rỗng! Nhiều khi tôi có cảm tưởng chính người Mỹ mới là đồng minh của quân đội Bắc-việt... vì thời điểm này, Lôi-hổ chúng tôi có rất nhiều mục tiêu nhưng các máy bay đều đang được cho uống... bia tại phi trường! Cái khu cấm (Isolation) sát bên nhà kho, cùng các toán nằm chờ hành quân chứng kiến cảnh gom đồ sẵn sàng để rút quân... nhiều bộ mặt đã cúi xuống ngậm ngùi và bên hông sừng sững cái đài 22 mét hoang phế... chả ai thực tập xuống dây từ trực thăng. Kế hoạch OP35 cho các đơn vị C&C - Task Force trách nhiệm hành quân do thám, phá hoại hệ thống đường mòn Hồ-chí-Minh... Đang hồi kết thúc.
Phi đoàn 219 (bay cho SOG) nay với những trực thăng UH thay thế H34 đen rằn bất hủ, đã từng một thời gắn bó trên mọi gian nguy, chiến trường liều lĩnh... Sự đổi thay này đã không làm vui lòng người lính Lôi-hổ... tôi tin rằng hầu như tất cả trong nỗi buồn xâu sắc lính Biệt-kích chúng tôi đều muốn thấy... sự trở lại của H34 oanh liệt và tin cậy. Với quá khứ bất tử mang danh Thần-phong.
Sự rút quân của người Mỹ được thấy rõ hơn bằng việc họ đang gấp rút huấn luyện cho Sở-Công-Tác, vừa mới thành lập... mà sau này có các Đoàn 11, 71, 72 đóng tại Đà-nẵng, Đoàn 75 tại Pleiku và Đoàn 68 tại Sài-gòn. Các toán Sở-công-tác được huấn luyện chuyên về Biệt-kích xâm nhập bằng đường không hay đường bộ vào lãnh thổ Bắc Việt-nam hoặc dọc theo biên giới Việt-Lào... SOG đang chạy đua với thời gian để cố gắng giúp đàn em Nha-kỹ-thuật, trước khi cuốn cờ! Thật là xui rủi trong huấn luyện, một chiếc C46 của SOG chở các toán thực tập đã vì sương mù nên đâm vào núi làm thiệt mạng toàn bộ mấy chục người.
Những cuộc hành quân khẩn được theo dõi từng chuyến và do các toán Nha-kỹ-thuật đảm trách vượt biên... sự phối hợp giữa Nha-kỹ-thuật và SOG từ lâu nay vẫn là đế tài bàn luận... SOG chỉ huy và điều hành toàn bộ sự phối hợp, chia sẻ phần nào tin tức tình báo có được... Nha-kỹ-thuật chỉ làm những công việc thụ động mang tính thứ yếu... "Ai chi địa thì chỉ huy!" SOG lập ra đơn vị SCU (Special Commando Unit) : Đoàn Biệt kích cảm tử... phần lớn tuyển mộ từ những dân tộc thiểu số như Nùng, Thượng, Miên, người thiểu số di cư: Thái, Mường, Tày v.v. người Việt-nam chỉ có một số ít trong đơn vị này. Tất cả được tuyển trực tiếp bởi người Mỹ và các cán bộ Nha-kỹ-thuật trợ giúp giới thiệu... SOG trả lương, huấn luyện và trực tiếp chỉ huy... còn Nha-kỹ-thuật chỉ làm những công việc theo yêu cầu và nhu cầu cần thiết. Nhưng kể từ năm 1970 người Mỹ mới chấp thuận giao quyền chỉ huy toán Thám-sát cho những cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật, kể cả đại đội Hatchet Force... mười toán thám sát Nha-kỹ-thuật được thành lập, trong số trên ba mươi toán của trại (TF1) để chuyên trách cho những mục tiêu tại Lào mà người Mỹ có lệnh không được phép vượt biên! Người ta không lạ gì khi một toán Lôi-hổ thuộc chỉ huy của những cán bộ Nha-kỹ-thuật lại có đến 3/4 quân số là Biệt-kích-quân (SCU) người Mỹ duy trì tình trạng này cho đến ngày giải tán 30 tháng 4 năm 1972... dù cho từ năm 1971 SOG phải hoạt động với nhiều khó khăn, luật lệ. Nên phần lớn phải dựa vào các toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật để nhẩy vào Lào, Cam-Bốt bằng thành phần hai cán bộ Nha-kỹ-thuật (1 sĩ quan, 1 hạ sĩ quan) và sáu Biệt-kích-quân (SCU) mà trong đó người Thông-dịch được coi là quan trọng vì trách nhiệm liên lạc với FAC (Covey) phần đông do người Mỹ đảm trách bay không thám.
2
Kể từ cuối năm 1971, sự bấn loạn trong các toán Mỹ có phần nặng hơn cho dù mục tiêu nằm trong nội địa. Thiệt hại nặng về nhân mạng kéo dần khi mà cuộc chiến được chuyển về thành phố! Lợi dụng sự rút quân của quân đội Mỹ bỏ lại nhiều lỗ hổng chiến thuật... địch gia tăng chuyển quân để tấn công vào Quảng-trị... Tỉnh cực bắc của miền nam Việt-nam, nằm sát khu phi quân sự. Một toán người Thượng mới đây, gồm ba người Mỹ cùng năm Biệt-kích Thượng mất tích... Một tuần sau Covey mới nhận được tín hiệu và cứu được một người Thượng đem về. Anh ta khai bị bắt cùng toán nhưng lại được địch quân thả về!? Quân đội Bắc-việt đang được điều động ở cấp độ lớn... Những Sư-đoàn quân Việt-cộng tạo thành thế trận địa chiến sẵn sàng lâm trận trước sự làm ngơ của Không-quân Mỹ. Sư-đoàn 3 bộ binh, quân đội Việt-nam cộng-hòa mới thành lập đang bị bao vây trong chiến đấu gần như đơn độc... đã anh dũng cho đến lúc không còn lối thoát! Lối đầu vào Quảng-trị, hừng hực máu lửa... Địch quân nhắm vào thành phố bên này sông Thạch-hãn. Cục diện chiến trường lúc này đang là cái giá của chính sách tiết kiệm xương máu (Việt-nam hóa chiến tranh) và sai lầm kiểu "đi đêm" của những chính khách Mỹ, để cố rút một chân còn lại trong bãi lầy! Các toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật nhẩy vượt biên sang Lào... có phần nhẹ. Trong khi các toán Mỹ mục tiêu nội địa lại thảm hại quá mức! Toán Colorado vừa xuống vào buổi chiều đã đụng địch. Toán trưởng Trung sĩ nhất Bookout cùng hai Biệt-kích quân người Việt thiệt mạng, không lấy được xác. Một toán người Nùng bị xóa sổ êm ru qua ngày hôm sau xâm nhập. Trung đội Thượng (Hatchet Force) lên tăng cường cho đài Hickory vì áp lực có thể bị tấn công nay mai! Trong khi nhà kho trống lốc vì được di chuyển hàng đêm. Đúng lúc này toán tôi được lệnh hành quân.
Một chiếc C130 chở đầy binh sĩ thuộc Sư-đoàn 101 dù quân đội Mỹ phù hiệu mang hình đầu bồ câu trắng và toán tôi rời Đà nẵng đến Phú-bài, đang đáp xuống sân bay... Cửa máy bay vừa mở, chiếc xe jeep đậu ngay đuôi, một người Mỹ đón toán đưa về căn cứ xuất phát, nằm ngay trong phi trường. Toán tôi bốn người hành quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy hành quân chiến thuật (TOC) gồm Toán trưởng Thiếu úy Liêm, Toán phó Trung sĩ Trần văn Bảo thay thế Trung sĩ Trịnh công Thành chuyển lên Kontum (TF3AE) cùng hai Biệt-kích quân là tôi Nguyễn văn Hải, Thông dịch và Thái thành Minh.
Trận pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường đêm qua, làm mọi người mất ngủ từ hai giờ sáng. Tiếng còi báo động và những trái hỏa châu quanh phi trưởng rực sáng. Trực thăng cũng đã lên và đang xạ kích vào vị trí địch quân. Sự pháo kích quấy rối có vẻ nhỏ so với bộ máy kềnh càng phòng thủ phi trường. Một suy nghĩ chợt đến và trong thâm tâm tôi cảm phục và ngưỡng mộ tinh thần chiến đấu của nghững người lính mang danh Việt-cộng! Những trái hỏa tiễn 122 ly đâu phải đễ dàng đến được vị trí phóng vào phi trường... nghĩ đến hành trình vận chuyển thôi... công bằng mà nói, riêng tôi đã phải ngả mũ chào và phục sát đất... điều hãnh diện chợt lại đến... họ cũng là người Việt-nam như tôi! Quanh nhửng người Mỹ đang sì là sì lồ dưới ánh hỏa châu. Có chăng sự chọn lựa sai lầm phút đầu không tỉnh táo trước những lời nói hoang tưởng hứa hẹn... sự lừa bịp thấy ngay trước mắt, sao nhiều người cứ u mê không nhận ra kể cả từ anh cù đinh lên tận giới trí thức... Người ta làm ngơ và sẵn sàng ủng hộ không đòi hỏi hay xét đến bằng chứng để chứng minh trước những lời nói mê hoặc Cộng sản ! Mà may thay cũng còn có những người theo Quốc-gia cho là tuyên truyền dụ dỗ... nhưng là một con số khiêm nhường so với nhân lực của dân tộc. Câu nói khéo, ngọt ngào, hớp hồn xuất ra từ cái miệng dẻo kẹo, bao giờ cũng có cái kết quả tốt ban đầu! Cái con chữ Cộng-sản đang là những gì mới mẻ dễ thu hút lòng người... hơn là chữ Quốc-gia, hiền từ và chẳng có gì mới! Tâm lý trăm năm nô lệ ngoại bang đang là cái mức chôn chặt trong đầu, khó gỡ bỏ xuống để có được sự nhận định đúng đắn. Cái chết của anh em Ngô-tổng-Thống đang là cái gương cảnh tỉnh...Một con người đạo đức, nhân hậu, lễ giáo không thể nào đối địch hay luôn có phần thua thiệt trước tính xảo quyệt, nham hiểm, ác tâm và nhất là vô thần! Mọi người đều biết, biết hết nhưng cứ giả mù, điếc lác! Ôi ý trời... Ngài xoay ngang hay dọc.
Từ căn phòng chờ sát với phòng thuyết trình. Đoàn người phi hành vội vã lên xe để đến bãi trực thăng nằm ở mé bên kia vài dẫy nhà. Địa thế chật hẹp trong khu vực không cho phép bãi trực thăng luôn thuận tiện trước phòng hành quân như ở căn cứ Quảng-trị. Tiếng động cơ trực thăng rít lên rồi cánh quạt tăng xoay, đoàn trực thăng sáu chiếc cất cánh...dẫn đầu vẫn là hai Cobra đang chờ đoàn...rồi tất tả bỏ lại sau lưng mặt trời đỏ rực, to như cái nia bên dưới cột ăng-ten trong phi trường. Đứng gần tôi Đại úy Ginh (Trần-trung-Ginh) Sĩ quan không thám nói "Toán Habu sáng sớm nay đụng địch, hai chết một bị thương..." Tiếng đại bác bắn yểm trợ từ căn cứ ngoài phi trường nghe ấm lạ nhưng dội vào lòng tôi bát nước lạnh và một mùi lạ theo gió phát ra cạnh tôi... mùi căn nhà bạt toán đang ở và những ghế bố vải nhà binh!
Hai toán Hải Yến và Hải Vân, vừa xâm nhập Lào năm ngày nhưng gặp toàn căn cứ trống lốc, chỉ phát hiện hậu cần canh tác nhỏ lẻ của địch... mà không phải đối mặt với những toán truy nã (Tracker Teams) của quân đội Bắc-việt... Sự chuyển quân rầm rộ của địch sao qua khỏi con mắt tình báo Mỹ... Được lợi thế từ hai ông thầy Liên-sô và Trung-cộng... Bắc-việt đang gia tăng chiến tranh quyết chiếm lấy miền nam Việt-nam. Trước hai cái gai, nhất là Trung-cộng có thể lăm le xâm chiếm Việt-nam... Người Mỹ buộc phải dùng chiến tranh nhưng không muốn thắng! Chính sách "gà nuốt dây thung" ngăn chặn và thẩm lượng... Rất bực bội và bó tay thật chặt các cấp chỉ huy chiến trường... Ấn tưởng Nga-Tầu ám ảnh không thôi Hoa-kỳ!
Thiếu úy Liêm và Trung sĩ Bảo vừa dự thuyết trình. Toán chuẩn bị sẵn sàng bất cứ lúc nào tình hình cho phép xâm nhập. Đoàn trực thăng đã về cứu được hai người, một Mỹ một Thượng. Người ta đang đếm lỗ đạn nơi chiếc trực thăng và hai Cobra... họ chỉ cứu được hai hai Biệt-kích trong số sáu người của toán Habu! Bữa cơm trưa ãn vội vã nơi nhà bếp dã chiến, rồi một giấc ngủ cần thiết để lại sức... Nắng như đổ lửa, bầu trời trong xanh không một bóng mây. Đàn chim trắng nhẩn nha vỗ cánh bay theo hình chữ V... mũi nhọn là một con to trội dẫn đầu... lùi lại phía sau một con đang cố bay vượt lên theo đoàn, cạnh một Vận tải cơ C130 đang đáp xuống phi trường. Làn gió mát bất ngờ và hiếm hoi tê mê mát rượi nơi mặt, tôi dần vào giấc ngủ trong cái nóng lưng trên giường vải bố quân đội mùi hơi khét!
Phi đoàn trực thăng Green Hornets đến thay thế vào buổi chiều... Sáu chiếc trực thăng đậu hàng dài trên sân. Phi hành đoàn đang được thuyết trình Không quân. Một chiếc xe Jeep nhiệm vụ chờ toán qua sân trực thăng chờ xuất phát. Ánh nắng đã nhạt và mặt trời đang dần vào dẫy đồi mé Tây... Một sĩ quan ngưởi Mỹ ngồi giữa trực thăng, nhiệm vụ thả toán còn chúng tôi hai người một ngồi hai bên cửa... Trực thăng dần lên, bên dưới một mầu xanh ngát chập chùng, càng bay vào xâu đồi núi càng cao chen nhau không ranh giới! Đoàn trực thăng bay rất cao, có vẻ để tránh phòng không...gió vun vút quất vào cửa như trực thăng bay chậm đi và tôi thấy rát trên mặt. Mặt trời đứng gần với núi cao, thảnh thơi chứng kiến trận oanh kích của hai chiếc F100 đang nhắm vào ngọn đồi bên dưới, chiếc Covey đang vòng ngoài xa và rồi bầu trời bỗng yên ả hẳn đi khi hai chiếc F100 không còn gầm rú... Kết thúc trận không kích, theo đúng kế hoạch hành quân. Mặt trời đã biến mất tự lúc nào và giờ sau cái vỗ vai vào tôi của sĩ quan thả toán...Trực thăng lao xuống...tôi có cảm tưởng cái đầu của mình như bị ai kéo lui ra xa! Nhưng thân mình thì dính chặt vào sàn trực thăng. Mặt đất bỗng dâng lên mầu xanh cây lá, lùi rất nhanh sau trực thăng và rồi càng máy bay xuống dần, cũng là lúc chúng tôi đưa chân chạm đất... Mùi khét thuốc súng sộc vào mũi khi trực thăng bốc lên. Cảnh cây ngã đổ ngổn ngang và bên kia một hố bom còn đất đỏ au, cạnh một tảng đá lớn đen xì án ngữ... Tôi báo xâm nhập an toàn và rồi núi rừng im lìm, nằm im quanh co bất động! Một cơn gió mạnh hất tung cây lá trong tiếng ào ào cây đổ. Con chim lợn kêu thét lên mỏ hướng thẳng xuống chúng tôi... làm dạ kinh hoàng dâng lên sự sợ hãi bất an! Bóng đêm dần khép lại, chặn hẳn đường đi. Trung sĩ Bảo mở đường vấp té bằng tiếng đổ người xuống đất... tôi nghe khe khẽ tiếng chửi thề nặng giọng Huế! Minh đi sau tôi cũng vừa trượt ngã và chân tôi chạm hẳn vào những hòn sỏi nhỏ cả đống trải dầy trên bề mặt đất núi...chắc hẳn từ cái hố bom bên cạnh tung lên. Toán lầm lũi tiến trong bóng đêm... Lệnh hành quân khuyến cáo, chóng tôi phải di chuyển càng xa càng tốt bải xâm nhập... Bữa ăn chuẩn bị từ chiều, giờ dạ dầy trống rỗng. Tôi nói nhỏ vào tai Thiếu úy Liêm cho toán nghỉ mệt... ai thấy đói thì ăn cơm. Bầu trời sáng dần và hiện ra con trăng đang thập thò một nửa nhô lên từ núi. Mùi bom đạn hòa cùng cành, thân cây gẫy đổ...theo gió hắt vào mũi gây khó thở, khiến miếng cơm nơi miệng khó nuốt! Ánh trăng nhanh chóng đã cho chúng tôi nhìn rõ mặt nhau. Nhìn lên trăng tròn, sáng ngời có thể là trăng 14, 15 gì đó... Tôi bôi thêm thuốc muỗi vào mặt và dục Trung sĩ Bảo di chuyển. Bữa cơm vội vàng trong đêm có hương vị tô bún, mắm mỡ trên vỉa hè, mỗi khi buổi chiều chơi hết tiền, tối đến đói bụng tìm ăn! Trăng đã lên cao, tỏa ánh sáng dịu, rõ như riêng tặng cho trường hợp chúng tôi. Có tiếng ì ì bên dưới và chân có cảm giác đất rung rung. Toán dừng lại ngồi xuống, chợt ngó về hướng tiếng động... một vài làn ánh sáng đèn pin quét ngang dọc và từ phía trên, bên dưới có những ngọn đèn loang loáng đi dần vào giữa nơi mà tiếng động cơ xe giờ gầm rú như loạn trời đêm... Chiếc xe đang bị lầy hay hỏng hóc ngay giữa đoàn vận chuyển, trên con đường dưới hông ngọn đồi. Hòa cùng động cơ từng lúc nhỏ to... tiếng người xôn xao theo gió và tiếng chạm của kim khí giữa sắt thép sắc nhọn bay xa. Thiếu úy Liêm đã cho toán di chuyển... vài cây cổ thụ mọc thưa thớt nhưng cũng đủ để che bớt ánh trăng càng khuya càng trắng ngà! Tiếng xào xạc từ chân bước chạm lá cây rụng, bởi mùa hè nắng dữ nơi rừng thưa... trong đêm, nghe như có người đuổi theo... hoặc từ nơi trắng sáng, vòng tay đen xì chờ đợi đoàn tôi bước tới... Tôi thầm cầu sự yên lành nơi bóng đen xung quanh! Tiếng con chim lợn ăn đêm trên tàn cây cổ thụ nghe thê lương nhưng xen lẫn sự thích thú vì gặp mồi ngon. Trung sĩ Bảo đứng lại xem địa bàn... cái bóng người ngắn ngủn dưới chân, tôi nhìn đồng hồ đã 12 giờ đêm. Không gian yên tịnh... nhưng chỉ xen lẫn từng lúc, nhạt hơn tiếng động cơ xe bên dưới dẫy đồi. Một trận ho sặc sụa phát ra từ bên hông và giờ đây đang gằn gằn ho tiếp trong tiếng làu bàu của ai đó bên cạnh. Tôi vội lên chỗ Thiếu úy Liêm và Bảo... ngoái nhìn Minh đang ngồi thủ thế nòng súng hướng thẳng tiếng ho.
4
Sau khi đã hội ý, toán vội vã lên đường như trốn chạy mà lòng bấn loạn trong cái lành lạnh nơi gáy! Một điều chắc chắn toán đang nằm ngay vị trí đóng quân của địch.
Mặt trăng đã chếch về tây, chúng tôi ngồi nghỉ bên tảng đá có bóng đen che khuất. Sương đêm lạnh, bắt đầu những làn gió nhẹ từ dẫy đồi bên dưới. Muỗi thì nhiều vô kể tha hồ vây quanh gào thét. Tôi nhìn lại bốn người quanh tảng đá mà lòng sợ hãi bởi trùng điệp núi rừng vây chặt trong tiếng gà gáy the thé như xé lòng kẻ cô đơn độc hành! Ánh trăng ngã mầu vàng không còn trong sáng. Núp trong bờ tối tảng đá, dựa hẳn cái ba lô có cái máy PRC 77 nặng nề với hai hộp pin, gấp đôi số pin của PRC 25... Một đêm mất ngủ và tinh thần căng thẳng đã làm cơ thể mệt nhoài... ngồi xuống chẳng muốn đứng lên. Thiếu úy Liêm đứng tiểu tiện... đổ xuống cái bóng mình và vòng nước như dây câu... tựa như bức tượng thằng nhỏ đái biểu diễn nơi hồ nước công viên. Sau khi bàn bạc và đồng ý kiếm một nơi rậm rạp... đồng hồ đã chỉ hai giờ... Di chuyển thẳng vào khu rừng chồi rậm bên hông để tìm chỗ nghỉ chân chợp mắt.
Nắng đã rọi qua hàng cây bao quanh tảng đá. Thiếu úy Liêm đang nấu nước, Bảo và Minh vẫn còn ngủ vẻ mê mệt. Tiếng chim trên cao hòa cùng gà gáy ráng làm không khí vẻ yên bình dân dã! Dãy đồi bên dưới chen nhau phủ phục như chầu quanh ngọn núi án phía mặt trời đang lên... Tiếng súng đầu tiên từ phía sau lưng không xa... địch truyền tin hay đi săn sớm. Thiều úy Liêm đang xem bản đồ, dùng địa bàn căn lại tọa độ con đường xe chạy đêm qua. Minh và Bảo cũng vừa thức dậy... mùi cà phê thơm phức làm sảng khoái tâm hồn cùng cái say lâng lâng đem đến từ sự thèm thuồng điếu Capstan hút hơi thật dài, đậm và ém trọn nơi cổ. Tôi đê mê quên đời cùng làn gió lạnh mang chút sương sớm và trở về thực tại khi nhận ra tiếng Covey (FAC) quen thuộc.
Mọi sự chuẩn bị cho cái bao tử trong ngày đã xong và bữa cơm sáng chóng vánh. Minh gỡ trái mìn Claymore phòng thủ và đang loay hoay xóa dấu vết... Liêm nói hướng đi cho Bảo, còn tôi bức điện đã được chuyền lên Covey.
Nắng giờ cũng đã làm ngắn đi cái bóng của tảng đá. Toán di chuyển thật khó nhọc bởi khu rừng dầy, cây chồi đan khít và dây leo chằng chịt. Bất chợt có tiếng người hú nơi phía hông và phía sau có tiếng đáp lại... toán tạm dừng để nghe ngóng và tôi có cảm giác gọng kìm từ từ khép! Trung sĩ Bảo đứng dậy theo lệnh di chuyển, đang vẹt cây... Vài giọng nói từ xa vọng lại... nơi tiếng người hú lúc nãy... càng lúc bước chân càng rõ. Thiếu úy Liêm quay lại tôi như dò hỏi... tôi vội lên và nói nhỏ: Con đường mòn trước mặt, chờ rồi tính! Một chất giọng xứ Nghệ lơ lớ cất lên thánh thót, tôi nghe mà chả hiều nói gì nhưng một giọng Bắc trầm ấm, nhẩn nha nhưng gằn từng tiếng " Sao, cứ nhanh lên... đón đầu chắc phải gặp" Sự kinh hoàng thoáng qua hiện lên trên mọi gương mặt... nhưng chưa đổi mầu! Recon (Thám-sát) đang gặp Tracker (Người truy lùng)... Hay nói cách khác, toán theo dõi dấu vết của địch (Tracker Teams) đang tìm kiếm toán thám sát (Recon Team)...Những bước chân vội trên đường, cách nơi toán ẩn nấp chỉ vào khoảng hai mươi mét. Một ý nghĩ táo bạo đến với tôi nếu không muốn mất thời gian... Tôi đề nghị với toán phải vượt ngay tức khắc qua con đường. Mọi người suy nghĩ và đều đồng ý. Trung sĩ Bảo dẫn đầu... đồng thời một con đường mòn hiện ra trước mặt. Tôi lên một mé ngang tầm với Bảo và quan sát hai đầu... Ngoắc tay ra hiệu cho Bảo qua trước và chỉ với khoảng gần ba mét bề ngang... toán trong tích tắc vượt qua, rồi dừng lại ở mé bên kia để Minh có thể xóa dấu vết kỹ hơn và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Yên tâm, chúng tôi di chuyển chậm nhưng thật cẩn thận dò bước và nghe ngóng. Có thể địch chẳng ngờ rằng chúng tôi di chuyển cả ban đêm... Nhất là từ khi vào khu rừng thưa đầy lá rụng... Chắc chắn rằng địch quân mất dấu chúng tôi từ đấy!
5
Rừng rậm và dây leo giăng mắc đã cản trở bước chân, bù lại địch rất khó phát hiện ra chúng tôi. Thiếu úy Liêm cho toán nghỉ... Trung sĩ Bảo vẻ mệt nhoài ngồi dựa lưng vào tảng đá. Ánh nắng mùa hè chói chan khắp nơi và gió, gió đi đâu mất! Cái nực nội và mồ hôi trên lưng qua khe, dài kéo xuống tận mông. Tiếng phản lực cơ ầm ầm lúc rõ lúc mất và tiếng bom đạn nổ từ xa yểm trợ cho chiến trường tận xâu trong nội địa. Minh đưa tay chỉ lên trời, mắt tôi vừa nhìn chiếc phản lực chiến đấu đang lao tới, kéo theo cột khói đen phía sau và chiếc dù vừa bung... nó cứ tiến tới và tạo một vòng cung khói lửa... lao xuống thật nhanh... ầm và vài tiếng nổ phụ rồi cột khói đen bốc lên thẳng như sợi chỉ, chắc vì im gió! Xa hơn cái dù bé tí đen như hạt đậu lủng lẳng trên không bên cạnh vài chiếc phi cơ bay là đà theo dõi. Tiếng bom ầm ầm từ xa và như một mũi tên một chiếc F phản lực khác... giờ giống con ong bay khỏi tổ để phát hiện và sẵn sàng tấn công kẻ phá tổ ấm! Thiếu úy Liêm căn lại bản đồ để đúng tọa độ mục tiêu và thông báo hướng đi cho Bảo. Nắng vẫn thiêu đốt và hừng hực oi bức trong không gian thiếu gió. Trung sĩ Bảo đang thắt lại cái khăn trên đầu rồi lom khom chui rúc mở đường...Liêm đi cạnh trợ giúp vẹt cây... đàng sau tiếng ầm của máy bay vẫn lúc rõ lúc mất nhưng đôi khi tiếng bom làm rung rung đất. Mùi lá cây mục, dầy cả tấc dưới chân bốc lên thật khó ngửi cùng cái nồng nắng hè làm bức rức cơ thể đôi lúc cảm thấy chẳng còn sức lực ở tứ chi!? Đầu óc thì rỗng tuếch nhưng bên ngoài đẩm mồ hôi, chẩy ròng ròng. Bảo và Liêm bỗng dừng lại đang cùng ngồi quan sát... một làn gió nhẹ mát rượi từ phía trước, tôi đưa mặt hứng lấy và cái mát lạnh ào chụp mơn man qua giòng mồ hôi từ trán đổ xuống. Ôi, sao mà sảng khoái thế! Tôi chợt đứng lên như muốn đón làn gió thứ hai nhưng thất vọng chẳng có... Nhìn ra tầng cây cao phía trước và một chiếc máy bay không thám lẻ loi, cô đơn phía trên. Địa thế sắp sửa thay đổi... cái hiểm nguy gì nơi phía trước... nhưng dù sao tôi cũng thở phào nhẹ nhõm khi vượt qua được khu rừng rậm chồi non đầy ánh nắng bỏng da và cây gai, leo chằng chịt.
Bóng mát tỏa từ tàn cây cao đem đến cho tôi một sự thoải mái, người bỗng nhẹ tâng cùng tiếng chim đua nhau trên cành làm rộn lòng kẻ lữ hành cô đơn! Bốn con người phải xử dụng ngôn ngữ bằng tay, họa hoằn lắm mới thì thào vào tai nhau. Thiếu úy Liêm căn lại bản đồ lấy hướng đi... Một vài con chồn ngơ ngác đứng nhìn chúng tôi rồi co giò bỏ chạy. Trung sĩ Bảo đứng đưa tay vào tay áo tìm con vắt... có lẽ đã ăn no... miệng làu bàu! Nắng đã ở gần đỉnh đầu, tỏa những hạt kim cương lấp lánh theo khe lá... và gió, gió nhẹ lùa thi thoảng từng cơn mơm man trên da mặt cùng làm khô đi cái áo trận giờ xuất hiện những đường trắng mồ hôi, loang lổ chỗ đậm chỗ nhạt... mà ngồi xuống lúc này, cái mùi cơ thể hòa cùng đồ quân đội đang mang trên người... hai cái mùi vẻ xung khắc nhau lại tạo nên dễ ngửi so với thân thể của các nường tại các quán bar nơi đường Thành Thái Đà nẵng... ảm mùi rượu, thuốc lá! Một tiếng súng nổ nơi phía sau chúng tôi lúc đang nhai cơm và một tiếng hú vọng dài bên hông như báo hiệu cho nhau hoặc lệnh truyền gì đó? Cảm giác bị bao vây và viễn ảnh diệt gọn tác động thoáng qua trong trí, để lại sự sợ hãi trong lòng, làm miếng cơm đang nhai nhẽ ra phải rất ngon... nhai với thịt hộp ba lát làm ruốc. Một cơn gió từ xa mang theo cái lạnh và tiếng ồn ào bắt đầu chuyển động kéo theo va chạm của sắt thép, đanh nhọn đi xa. Bốn con người bất động, quên cả miếng cơm trong miệng với nhiều vẻ căng thẳng... vểnh hẳn hai tai! Một công trường bắt đầu làm việc hay sự chuyển quân? Chỉ có tí nữa mới biết được... nhưng dù sao, sau lúc bình tâm trở lại và bữa cơm bỏ dở cũng xong... trong tiếng phản lực đang bay vang dội vòng sang mé bên sát gần ngọn núi hướng tây.
6
Động cơ xe ì ì đều đặn xen lẫn những tiếng hô hoán của người và rồi dần dần như bị hút về phía trước... giờ càng lúc càng xa! Thiếu úy Liêm giở bản đồ, chấm tọa độ đoàn xe và hướng đi. Trung sĩ Bảo sửa soạn di chuyển... Toán chúng tôi đều biết rằng mục tiêu đang ở gần đây, có thể ngay trước mặt. Covey mới vừa bay ngang, quần vài vòng rồi sang vùng khác. Sự hạn chế liên lạc tùy thuộc vào mục tiêu mà khi thuyết trình toán được khuyến cáo...TOC (Trung tâm hành quân chiến thuật) rất e ngại với các máy dò làn sóng của địch... Tin tình báo cho thấy quân đội Bắc việt nay được trang bị và đã đưa vào trận địa loại hỏa tiễn SAM còn bộ binh được trang bị hỏa tiễn vác vai A72 cùng pháo cao xạ hạng nặng. Nắng chiều đã nhạt, chiếu nghiêng xuyên qua đoạn cây chồi giăng giăng quanh những cây cổ thụ. Con suối cạn chúng tôi vừa đi qua và ở bên suối Minh đang ngối xóa đi những dấu vết và gài thêm trái mìn M14 chống theo dõi. Sự cẩn thận và những sáng kiến theo kinh nghiệm là cái bảo vệ mạng sống hữu hiệu nhất đối với một toán thám sát! Đường lên dốc thật khó đi... cái máy truyền tin sau lưng như ghì tôi lại, khom lưng và vận sức vào đôi chân bước đi nặng nề, cùng tay vịn vào cây hay dây leo kéo trợ lực... Bảo đã lên được trên đồi nhưng đạp rớt cục đá nhỏ đang lăn xuống, tạo ra những tiếng động làm tôi phải e dè! Làn gió mát rượi từ phía dưới đồi tới tấp như kéo tuột đi những oi ả bao quanh từ mé đồi phía sau. Một không gian khác hẳn làm sảng khoái tâm hồn khi không còn cái mùi ẩm mục nồng nặc nơi khu rừng lòng chảo khuất gió và chan nắng! Muỗi bắt đầu kéo đến khi con mồi đang ngồi yên nghỉ mệt. Tôi bôi thêm thuốc muỗi vào mặt và yên tâm hai tay mang găng... Ánh chiều tà chiếu thẳng tia sáng vàng chóe theo kẽ lá nhảy múa trên những gương mặt bóng lưỡng. Thiếu úy Liêm lệnh toán ăn cơm chiều... bịch cơm sấy và bao ruốc thịt... chiều nay sao mà ngon thế! Điếu Capstan sau cùng lâng lâng, lòng tôi dâng lên hào hứng yêu đời trong thế ngồi dựa lưng vào gốc cây, ngửa mặt nhìn lên thách thức lũ khỉ thấy ăn cơm kéo đến và đã mấy lần ném quả chín vào chúng tôi...Mặt trời đã đi xâu vào đất trong cái yên lặng nguyên thủy của rừng cây. Toán di chuyển để kiếm chỗ ngủ qua đêm...những bước chân theo con dốc thoải nhẹ tâng mà đôi lúc phải ghìm lại. Bóng tối mờ mờ và đêm đen bao phủ rất nhanh. Một cái lạnh bất chợt ào đến như tiên đoán đêm rừng trở gió. Quanh một gốc cổ thụ toán dừng lại và lập vị trí ngủ đêm... Minh và Bảo vừa gài xong trái mìn Claymore phòng thủ... hướng thoát hiểm được định là trái mìn của Trung sĩ Bảo nhắm thẳng hướng dưới đồi. Ngồi nghe ngóng một hồi lâu, cảm thấy yên tâm tôi tháo dây nịt đạn và hai quai ba lô cho thoải mái, nhưng vẫn cẩn thận để hai vật bất ly thân yên vị sau lưng mà trong trường hợp khẩn cấp chỉ cần một động tác, tôi đã mang ngay chúng vào người! Không gian thinh lặng ngoài tiếng thú kêu đêm và những cái cựa mình của đồng đội. Bầu trời bỗng mờ sáng báo hiệu đêm trăng. Một con tắc kè hắng giọng trên cây rồi chậm rãi buông kêu sáu tiếng tên mình! Lắng tai nghe cho rõ hơn... những tiếng động từ hướng bắc... không còn nghi ngờ gì nữa... Động cơ xe nghe nặng nề giãn dần trong không khí và lan tỏa đi xa. Phía trước mặt hướng đông con trăng đang dần nhú lên từ tàn cây cao, soi rõ đám mây đen mỏng nhưng nặng nề bất động. Tiếng xe mỗi lúc một rõ như trực chỉ chúng tôi...Ngoài xa rất xa về hướng nam, hai chiếc vòi lửa theo ánh sáng hỏa châu trút đạn xuống bên dưới từ hai chiếc Hỏa-long (Spectre C119) yểm trợ chiến trường. Ánh trăng tròn lẳn chiếu thẳng vào gốc cây như chỉ điểm chỗ ần núp của chúng tôi làm thấy rõ mặt nhau... tuy chẳng sợ bị phát hiện, nhưng cảm giác nhồn nhột mong sao ánh trăng lên cao để tàn cây che khuất! Đúng lúc tôi đang trở mình đề duỗi thẳng hai chân... Mặt đất rung rung theo đôi mông dán sát tê tê lay động... Tiếng bom nổ từ hướng tây càng lúc càng dầy tỏa lên cao những ánh chớp sáng đục chạy dài lên hướng bắc... kiệt tác của B52.
7
Đoàn xe di chuyển bên dưới dần tiến sát chúng tôi... mặc tiếng bom liên hồi phía sau. Thiếu úy Liêm nhích lại bên tôi nói "Mục tiêu con đường đang ở trước mặt, phải làm sao tiếp cận... "Tôi suy nghĩ và bằng vào những kinh nghiệm, đưa ra một ý kiến" Cứ thoải mái ngủ đêm ở đây, đợi sáng khoảng ba giờ... di chuyển thẳng đến con đường trước khi trời sáng" Tiếng lao xao của người hòa lẫn động cơ xe ngay mé dưới đồi. Thấp thoáng loang loáng ánh đèn pin chiếu sát đất... Như vậy toán chỉ còn cách địch quân ước chừng năm sáu trăm mét... Ánh trăng giờ đã che phủ chỗ ngủ và bốn người im lìm quanh gốc cồ thụ nghe tiếng động cơ xe xa dần về hướng nam. Tiếp nối tiếng lao xao của đoàn quân đi bên dưới... đôi khi xuất hiện qua khoảng trống có ánh trăng cùng vài ánh đèn chợt hiện chợt tắt mà những bước chân trong đêm trường lặng gió len lỏi vào đôi tai! Lại con tắc kè hắng giọng trên cây cùng những vệt sáng li ti từ khe lá. Tôi đảo mình cố tạo thoải mái cho giấc ngủ trong tiếng xa dần của đoàn quân địch, trả lại đêm rừng nét nguyên sinh thú kêu, vượn hú và côn trùng dẫy dụa kêu than đua chen dưới lá cây mục... Tôi cố tưởng tượng mình đang trên lưng ngựa, phi nước đại qua dẫy đồi nơi thảo nguyên bao la đồng cỏ trùng điệp, lộng gió dưới đêm... ánh trăng trải khắp vô tận. Đưa mình vào một nơi xa xăm, tít mù... cố dỗ giấc ngủ!
Lũ gà gáy dồn dập the thé quanh tai, ánh trăng ngả vàng tự lúc nào đang treo ngay trên tàn cây. Kim dạ quang nơi đồng hồ chỉ bốn giờ sáng... Bảo và Minh tháo xong mìn phòng thủ nhưng gài lại nơi xuất phát trái mìn M14 chống người. Trung sĩ Bảo chả cần phải dùng địa bàn định hướng... lệnh cứ thẳng con đường đêm qua địch chuyển quân. Bốn con người đi sau cái bóng mình dưới ánh trăng mỗi lúc một ngả mầu và quanh quanh gà gáy như thúc dục báo trời sắp sáng! Sương đêm phảng phất cùng làn gió nhẹ quanh quẩn tạo khí mát rượi thoải mái... Tận hướng nam vẫn ầm ì tiếng súng đại bác nhưng không có mặt không quân. Trung sĩ Bảo dừng lại... Liêm cũng vừa ngồi xuống nghe ngóng, tay ngoắc tôi và ra thủ hiệu Minh yểm trợ phía sau. Tôi và Thiếu úy Liêm lên sát con đường... dưới ánh trăng chỉ thấy được một nửa bên kia nhưng bên mờ bóng cây không tối lắm, cũng đủ ước định con đường rộng khoảng năm sáu mét. Tôi nhìn đồng hồ mới năm giờ sáng, đủ thì giờ cho chúng tôi kiếm một địa thế rậm rạp dọc theo con đường để quan sát lâu dài. Tôi bàn định với toán nên vượt sang bên kia sẽ thuận tiện...bởi ánh mặt trời và mặt trăng ít khi thẳng vào nơi ẩn nấp!
Trời sáng dần, làn mây mù mỏng bất chợt kéo đến mang theo hơi nước trên da mặt. Một vị trí được chọn sau di chuyển dọc theo con đường... Khu rừng chồi rậm sát bên có những hàng đá rải rác tiện cho tác chiến... Tôi và Thiếu úy Liêm chọn vị trí gần đường để dễ bề quan sát. Trung sĩ Bảo và Minh lùi về phía sau canh giữ hai phía trên dưới con đường...Thiếu úy Liêm gài trái Claymore và thông báo hướng thoát hiểm khi mìn nổ. Trời hừng sáng và ca nước đã được nấu xong cho hai bịch gạo sấy và cữ cà phê sảng khoái... Sự êm ả buổi sáng theo làn sương tan để bắt đầu ngày mới của rừng... chim hót líu lo và thỉnh thoảng vài con gà sung sức cất tiếng, dù rằng ánh bình minh đã ló dạng xuyên qua thân cây rừng rậm mé sau lưng... mà xa xa về hướng nam tiếng ầm ì đạn pháo vẫn âm vang. Tôi lựa vài cục đá nhỏ để ném truyền tin cho Minh vá Thiếu úy Liêm cũng làm như thế để báo động cho Bảo khi cần thiết. Liêm đưa cho tôi bức điện báo cáo...mặt trời đã cao trên tàn cây nhưng bề mặt con đường vẫn tối ù, yên lặng...Vài con chồn chạy qua lại trên đường như chơi trò cút bắt! Động cơ quen thuộc của Covey, tôi mở máy đã nghe tiếng gọi... Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) trên Covey... nhận xong bức điện rồi đi ngay. Tôi ngưng nhai miếng cơm trong miệng, một làn gió nhẹ mang đến những tiếng động chân đi cùng tạp âm kèm theo... lũ chim trên cao phụ họa bằng hàng loạt tiếng kêu... mỗi khi gặp của lạ! Mặt đường loang lổ ánh nắng nhưng phần nhiều râm mát. Cầm cái máy chụy ảnh từ tay Liêm, tôi tìm cách nhắm thẳng ra đường nhưng thất vọng vì bị che khuất bởi tàn cây nên tối ù... nếu mặt trời lên cao chút nữa thì tốt biết mấy! Nhoài người ra sửa lại vài cành cây nhỏ để lấy khoảng trống và tiếng chân nghe thật rõ bởi lỗ tai tôi gần sát đất. Sự căng thẳng dần tăng trong cái đợi chờ cân não hiện ngay trên hai gương mặt. Bàn tay của Thiếu úy Liêm có dấu hiệu bất tuân và đang run run...chả lấy gì ngạc nhiên vì đây là chuyến nhảy toán thứ hai của Liêm.
8
Tiếng chuyện trò và cười nói râm ran sau đám bộ đội đi đầu xuất hiện mà trên cái nón cối là cành cây lá ngụy trang... bộ đồ màu xanh, đi giầy vải thay cho dép râu thường gặp nhưng nổi bật nhất vẫn là cái dây nịt lưng mầu nâu và cây AK liền bên. Họ đi ngang qua chỗ chúng tôi... bình thản và tự nhiên. Tên mang cây thượng liên nồi, người cao lớn, mắt cứ nhìn chăm chăm vào bụi rậm nơi chúng tôi đang nấp! Khoảng cách ước chừng hơn hai mươi mét nhưng sao thấy gần quá. Tôi nghe rõ tiếng đập của tim và không thể chế ngự được... trước ánh mắt ấy. Một tên mang cặp da bên hông còn bên kia khẩu K54 không cây lá ngụy trang, đứng tiểu tiện nơi mép đường... xong cẩn thận gật gù như vẫy chào chúng tôi! Tiếng hát cất lên ngay giữa đoàn quân, giọng thanh cao vút "Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng... "và tự nhiên tiếng bắt nhịp vang vọng, kèm theo ai đó "hoan hô cô Tin, phải đó... đang buồn chết đi được." Tôi còn nhìn rõ tên đứng tiểu tiện quay lưng ra đi nhưng miệng mỉm cười vẻ đắc ý. Nhịp chân theo tiếng hát đi xa. Tôi sững người giật mình và rồi thấp thỏm trong lòng khi nghe cái âm trầm nhưng mạnh mẽ nhẩn nha, khẳng định, cương quyết... "Là người tôi chết cho quê hương ... "Đoàn xe đạp thồ nối tiếp, thật sự tôi không lạ gì cảnh này nhưng ngạc nhiên ở đây là những người dắt chiếc xe thồ hàng... toàn là bộ đội thay vì thường gặp dân quân hay lực lượng thanh niên xung phong... Lặng lẽ chỉ có những tiếng ho hay bảo nhau gì đấy, không ồn ào cười nói. Hai người một xe bước đi với đôi chân chịu nặng! Kiện hàng vuông vắn từ dưới, chì cách mặt đất chừng hai gang tay lên cao qua đầu người... Tôi chợt hiểu ra vì sao bên trên họ không ngụy trang cây lá... chưa cần thiết vì đây là khu rừng già vả lại con đường được dấu kỹ dưới những tàn cây cao rậm. Ánh nắng đã lên cao, một khoẳnh đường được soi rõ... vụt qua thêm, cứ hai người một cây rừng gánh những hàng được buộc ở giữa... có cái thì gọn gàng, đâu chừng vài thùng đạn ngoài bọc kẽm nhưng cũng có cái cồng kềnh đeo buộc lắc lư. Lại một đoàn bộ đội tiếp nối theo sau trên lưng đeo lỉnh kỉnh đồ dủng, ngụy trang thêm cây lá... ồn ào tiếng nói cười chọc ghẹo nhau. Thiếu úy Liêm vừa viết xong bức điện khẩn báo tình hình. Trên đường lúc này vắng vẻ, vài chiếc lá rơi vào khu ánh mặt trời chiếu sáng, chao đảo rồi mất hút... Tháo cây antenna lúa, gắn cây antenna gấp cao gần hai mét vào máy. Tôi bật gọi Covey... Loại PRC 77 này hoạt động bằng hai tép pin... tức gấp đôi số pin cho chiếc PRC 25 thông dụng...to, nặng nhưng bù lại tôi có thể gọi liên lạc bất cứ lúc nào... hoặc Covey nhận được hoặc đài tiếp vận kiểm thính Hickory sẽ nhận ngay và điều phối. Một tin tức nóng hổi phối hợp với các máy điện tử trong vùng... Các sĩ quan hành quân yên tâm hoạch định kế hoạch sao cho đúng với tình hình thực tế! Nhưng vào thời điểm này, họ chỉ muốn biết chứ chẳng làm gì cả! Có chăng một nét gạch bằng bút chì mỡ trên bản đồ hành quân tác chiến (TOC).
Thiếu úy Liêm bắt đầu thực hiện việc tiếp cận con đường để chụp ảnh. Đeo cây CAR 15 trên lưng, bỏ hai băng đạn vào túi hông quần, bên này vài trái lựu đạn... Liêm đang vẹt cây kiếm lối ra thẳng con đường. Nắng vẫn chiếu rọi chỗ râm chỗ sáng và mùi ngái nồng cây lá ẩm mục quanh quẩn bốc lên theo những làn gió từ hướng đông... Chợt mùi thuốc lá ập vào mũi khích thích ngay cơn thèm! "Đồ con khỉ...đúng là thằng Minh, đã dặn rồi, khi nào gió mạnh hãy hút,gió thoảng như vầy thì khỉ thật!" Tôi lấy cục đá ném ra phía sau nơi Minh án ngữ... ý cảnh cáo. Liêm cũng ra được sát đường và đang chụp ảnh... xong lom côm bò vào lại... Tiếng bom nổ từ xa làm rung hai mông ngồi dán đất. Tiếng phản lực nghe lúc được lúc mất, trận địa đang đi về hướng đông nơi thành phố. Tiếng chim lao xao từ xa, tôi đưa mắt nhìn Liêm, tay làm dấu hiệu thận trọng coi chừng... giây lát tiếng bước chân theo không khí lặng rõ dần... Từ hướng nam ngược với đoàn quân di chuyển lúc nãy... soạt, một hòn đá nhỏ ném vào ngay chúng tôi báo động... Lấy cục đá ném ra sau trả lời Minh, tôi yêm tâm chờ đợi và nhìn chếch qua những cây chồi bụi rậm... Sáu tên bộ đội di chuyển trên mé đường bên kia... mà bước chân là nhìn rõ nhất, tên đi sau cùng mang cây thượng liên... tất cả đều vẻ thận trọng, mắt nhìn xuống mép đường quan sát như tìm kiếm vật gì, với những đôi dép râu nhẹ nhàng ít tiếng động. Họ đi ngang chúng tôi nhưng chú ý về phía bên kia con đường. Tôi phập phồng lo sợ, không biết lúc gần sáng đem qua, trước khi vượt con đường Minh đã xóa kỹ dấu vết theo thông lệ chưa ?!
9
Không gian lại lặng lẽ... nhìn ra con đường im lìm trơ mặt đối diện với tàn cây và mặt trời đẩy ánh nắng chiếu rọi về mé bên này. Hình như có con chim nào đó vụt bay ngang dể lại bóng mình biến rất nhanh vào bóng mát! Lòng tôi như bấn loạn, dù rằng địch quân đã đi qua nhưng vì những cử chỉ như tìm dấu vết làm tôi không khỏi suy nghĩ băn khoăn... Cũng rất may sáng nay khi sang được bên kia đường, tôi còn dặn Minh xóa kỹ dấu vết và gài lại trái mìn M14 chống người. Tôi nói khẽ vào tai Liêm "nếu trái mìn nổ, toán phải di chuyển ngay..."
Ánh nắng trưa hè chói lọi vàng óng in trên dãy núi đồi trước mặt. Đám mây đen đang từ dưới lao lên sắp đến lưng chừng đi vào khe núi... Bữa cơm trưa cũng vừa xong... Không có lệnh gì mới, vì từ lúc điện báo khẩn đến giờ máy đã trực tiếp kết nối chờ đợi, trong thời gian lệnh hành quân qui định. Tôi tháo cây antenna gấp và thay vào antenna lúa để dễ bề hành động... Thiếu úy Liêm lấy ra cái poncho và cơn thèm hút thuốc rạo rực trong lòng. Điếu Capstan hút khói ém chặt, thở vào cái poncho dưới đất đậy khói không cho loang rộng, làm tôi ngất ngây quên đời! Một cơn gió lốc xoay tròn bốc tung tóe lá cây lên cao đang xoay chạy dần đến chỗ chúng tôi...tiếng ào ào cây lá nhưng không mạnh, đủ để Liêm giở tung cái poncho đầy khói thuốc lá... thật là vừa việc và yên tâm!
Nắng ban chiều đã lảm con đường tối hẳn. Ánh mặt trời không thể xuyên ngang hàng cây chồi, sự vắng lặng mang đến cái cảm giác cô đơn, lạc lõng trong không khí oi nồng, nực nóng! Vài tiếng súng đi săn bắn quanh vùng chẳng làm chúng tôi quan tâm. Nắng chiều đổi màu thật nhanh và cảnh vật bỗng chốc kéo màu thê lương cùng khắp! Dãy đồi núi trước mặt giống như con bệnh nằm ngửa dưới ánh chiều tà vàng vọt màu ảm đạm buông xuôi... Tiếng chim lao xao gọi nhau về tổ nhưng cũng còn đôi con hứng chí bay đánh đuổi nhau kêu to dáo dác xà xuống thấp rồi lại vụt tung lên cao. Ngồi lâu tê mông, tôi đổi thế nằm dựa đầu vào ba lô, mắt trực diện con đường. Mặt trời đã khuất sau núi. Thiếu úy Liêm vừa ăn cơm chiều và bóng tối dần buông mờ mờ theo tiếng ì ì động cơ xe từ xa hướng bắc con đường... Lại một cuộc chuyển quân mới! Rà soát lại những thiếu sót gì nơi ẩn nấp, tôi vững tâm chờ đợi tình hình và phần nào bình thản. Vài con chim lợn bay cao ngang qua kêu xuống tiếng sắc nhọn ai oán... đủ để kinh động khu rừng và còn lan tỏa đi xa! Về hướng nam tiếng pháo binh vẫn ầm ầm từng chập... Địch quân đang gấp rút chuyền quân và tiếp liệu chi viện cho chiến dịch Xuân-hè nhắm vào Quảng-trị. Con đường nổi danh số 9 từ khu vực Tchepone bắt đầu nhộn nhịp và giống như con cọp thức giấc ra đi kiếm mồi... Quân Bắc-việt gia tăng chuyển vận trên các trục đường 92- 922 cùng vô số con đường mới được lực lượng dân quân, thanh niên xung phong đêm ngày tạo dựng. Những cuộc ném bom B52 chẳng ngăn chặn được bước tiến quân của địch... trong lúc đà rút quân của quân đội Mỹ như một món quà tặng cho địch quân!
Những bước chân rầm rập nện đất lớn dần và tiếng động cơ xe nặng nề theo sau. Một làn gió mạnh ào ạt đi qua cây lá rồi nhanh chóng nhập bọn cùng đoàn người sắp đến. Phía sau lưng vùng ánh sáng mờ bắt đầu cho đêm trăng. Nhìn đồng hồ mới chín giờ tối... Tiếng chân bước giờ át hẳn tiếng thú kêu đêm và lũ côn trùng khôn ngoan cụp đuôi chạy trốn! Đoàn người đi đầu đã đến ngang chúng tôi... Nằm sát đất, nhìn vào con đường tối trước mặt và nhận ra những bóng đen ngang qua tất tưởi, nhảy múa lao về phía trước. Tiếng va chạm của vật dụng mang trên người tạo thành nhịp lúc lắc, khua dồn trong tiếng đệm âm trầm động cơ nặng nề từ xa. Bầu trời sáng hẳn và con trăng treo một nửa trên tàn cây, mang theo thứ ánh sáng chiếu nghiêng qua cành cây lá đan chen bóng hình... tạo nên hoạt cảnh khi ẩn khi hiện... ma trơi đùa nghịch! Một vài tiếng nói từ đoàn quân nhưng bị những bước chân dẫm nát nghe mơ hồ, lạc lõng. Ánh trăng lên cao chiếu rõ từng khoảng đốm sáng trên con đường hiện ra nhấp nhô số người di chuyển kèm với cây lá đi theo vụt qua vùng sáng rồi nhanh chóng xuất hiện những ánh kim cương lay động chiếu nhận diện trên từng con người lao qua. Quay nhìn lại, tôi yên tâm với vùng tối ánh trăng chiếu trên tàn cây cao đổ xuống như che phủ nơi chúng tôi ẩn nấp... Tự thưởng cho cái quyết định chọn vị trí tuyệt vời, tôi doãi hai chân cho thoải mái và bình thản xem kịch!
10
Đoàn người lặng lẽ âm thầm tiến bước, nối tiếp nhau, khác hẳn với những cuộc chuyển quân mà tôi thường gặp...họ cười nói lao xao. Dưới ánh trăng ẩn hiện như đoàn âm binh nơi địa phủ ? Chiếc xe đầu tiên cũng vừa tới nơi... chậm chạp và dềnh dàng như chẳng muốn đi tới! Cành lá ngụy trang phía trên tạo một hình thù quái dị sinh động dưới ánh trăng, cùng lô nhô con người rồng rắn hai bên lăng xăng trợ lực. Nó bắt đầu qua vạt ánh trăng chiếu trên đường và xuất hiện thêm khẩu pháo phía sau, dù được phủ bằng lá cây dầy nhưng hình thù thì không thể nào sai... Xe tải đạn pháo và khẩu pháo đang đi vào trận địa.
Đêm đã vào khuya, ánh trăng thẳng đứng trên đầu... chiếc Motorola thứ năm qua khỏi và đoàn người theo sau cũng vừa biến mất... xa dần, để lại đêm rừng vắng lặng dưới ánh trắng sáng ngời và bầu trời đầy sao. Ngồi nghe động tĩnh một lúc lâu, đợi Thiếu úy Liêm viết xong bức điện báo cáo... trong ánh đén pin và chiếc poncho được trùm kín vào người. Lấy ra cây ăng ten gấp thay cho ăng ten lúa... Tôi gọi thẳng đài Hickory và chuyển bức điện khẩn trong đêm.
Giật mình vì có ai đó lay động, tôi thức giấc trong bàn tay Liêm giật mạnh... tiếng xôn xao đến gần theo bước chân rầm rập, nhưng chẳng làm sợ được lũ gà rừng gáy vang vang. Ánh trăng đã ngả màu, không còn trăng thanh và cái mầu vàng đục chiếu nghiêng qua cây cành in dấu trên lá rụng mầu ngọc trai soi hắt chiếu thẳng vào phía chúng tôi! Nhìn ra rất nhiều khoảng sáng pha lẫn những vệt đen cây cao in mầu đen thui ngã xoài theo chiều ngang con đường. Bước chân và con người đầu tiên xuất hiện rõ trên đường... đổ dài bóng mình chếch về phía trước cùng tiếp sau những bóng đen tạo thành chấn song khung cửa dần hiện, tiếp nối và nhẩy múa cùng bóng cành cây lá đặc kín bên mé đường, lay động, lung linh ánh trăng lắc lư theo nhịp đi. Tiếng cười nói âm thanh vừa phải, chẳng làm náo động trời đêm... Nhưng cũng đủ để át hẳn tiếng não nuột, thê lương thú kêu, vượn hú hoặc loài chim ăn đêm báo nhau về tổ! Đoàn xe đạp thồ xuất hiện, hai người một xe, phục sức dân quân, nón tai bèo in rõ dưới trăng và hàng cây lá cắm trên cao tỏa bóng vất hẳn đi xa gần mép đường tạo hình thù nhẩy múa, khập khiễng theo bánh xe và sức đẩy dồn của người phía sau. Cơn gió lạ trong đêm nhè nhẹ... đem đến cái mùi có chút hơi ấm và sự pha trộn mùi hương nồng nồng thứ cơm nấu bị cháy! Vài con chim lợn sau một đêm tìm mồi bay trở về khoan khoái bụng no nên tiếng kêu quái dị giờ có vẻ êm, thanh và ngon ngọt, với đôi cánh trắng đục xòe rộng chớp vẫy, thân lao đi như tên bắn.
Dẫy đối núi trước mặt im lìm nằm dài xa tít dưới ánh trăng bây giờ váng đục to như cái nia ửng mầu hồng... như sắp bắt tay nhau. Đoàn quân đã đi hết mang theo những tiếng làu bàu, tức giận, quát nạt... một tên nói giọng còn âm vang "Đi nhanh lên, cố lên để kịp tập kết trước giờ sáng!"
Tôi gọi đài tiếp vận Hickory và chuyển bức điện thứ hai trong đêm. Tháo cây ăn ten gấp, Thiếu úy Liêm vừa từ hai nơi ẩn nấp của Bảo và Minh vể... đang vội nấu ca nước đổ gạo. Trời mờ sáng dần quanh quanh gà gáy vang vang...Một không khí êm ả, thanh bình dân dã chợt đến trong cái tĩnh lặng chân quê mộc mạc! Công việc mỗi buổi sáng cũng đã xong. Mặt trời ánh lên, sáng chiếu rọi xuyên suốt tầng mây, gợn sóng ánh sáng từ phía chân trời lên tầng trời cao. Trung sĩ Bào và Minh đã tháo xong hai trái mìn phòng thủ. Chúng tôi di chuyển trong kẽ lá mặt trời phóng tia nắng chói lọi, mãnh liệt xuyên suốt qua mọi cây rừng và làm cho lũ gà tham lam vội cất tiếng gáy to, khỏe, giọng cao vút! Cũng vẫn âm vang về phía Nam tiếng pháo binh ầm ì thi thoảng gây khủng bố tinh thần. Đàn chim di trú trắng muốt bay tít tận trên cao như muốn tránh xa nơi bên dưới đầy tử khí... mùi khét lẹt và trùng điệp cạm bẫy!
Tiếng Covey đã nghe thấy rõ, mặt trời lên chừng một con sào chiếu rọi vào chiếc OV10 từ khoảng xa trên trời hướng Đông... Nhắc vừa trông một gốc cây cổ thụ mé bên, tôi nói Thiếu úy Liêm tạm nghỉ để liên lạc Covey. Nắng chiếu bên này gốc cây chúng tôi lựa ngồi bên kia ánh rợp che chắn. Vừa mở máy, một ông tây trên Covey đang gọi...tôi xưng danh và nhận ngay bức điện đưa cho Thiếu úy Liêm mở khóa mật mã. Covey đảo vòng về hướng Nam ... có điều lạ là bay rất cao. Không lầm vào đâu được, tiếng động từ phía nơi chúng tôi vừa đi qua và thoáng chốc tên bộ đội lăm lăm cây AK dò dẫm theo dấu vết...vừa nhìn thẳng vào gốc cây cổ thụ, rồi dừng lại tay ngoắc về phía sau.
11
Khoảng trống ánh nắng ngăn cách chúng tôi và địch quân... Thiếu úy Liêm mở nắp bao đựng bi đông nước và ra hiệu chơi lựu đạn, xong rồi đưa tay chỉ thoát về hướng Nam. Năm tên địch dàn hàng ngồi lăm lăm súng yểm trợ. Tên đi đầu bỗng đi rất nhanh về cây cổ thụ... Bốn cây Car 15 nổ dòn, tên địch bật ngửa lãnh trọn băng... cùng lúc địch khai hỏa, đạn cày vào gốc cây. Thiếu úy Liêm hét to "chơi đi"... vừa thay băng đạn mới, tôi mở lựu đạn và cố lấy sức ném về phía địch và ngồi xuống cạnh Minh, bất ngờ phát hiện từ vai trở xuống giòng máu thấm đẫm với vết đạn dài xuống ngực và Minh bất động chết nằm dựa hẳn người vào rễ cây. Mắt mở trừng như nhìn vào quân địch! Loạt lựu đạn nổ ầm ầm, kèm theo tiếng Liêm nhắc nhở "rút" Đưa tay vuốt mắt cho Minh, tôi theo sau bén gót đồng đội và buộc phải bỏ lại Minh... đó cũng là cái số phận nghiệt ngã mà mọi người lính Lôi Hổ chúng tôi đều phải chấp nhận! Mệt quá Bảo và Liêm nghỉ lại bên tảng đá. Vội vàng tôi liên lạc Covey.
- Tango zulu đây yankee papa gọi.
- Yankee papa. Tôi Tango zulu nghe anh đây.
Báo cáo thẳng không cần mật mã, tôi xin ngay trợ giúp và yêu cầu triệt xuất khẩn cấp.
- Yankee papa, hãy chờ chốc lát, tôi sẽ đến ngay với bạn.
Tôi đề nghị Liêm cho gài mìn Claymore và hai trái M14 chống người vì chắc chắn địch sẽ đuổi theo chúng tôi! Nhìn lại địa điểm này, rất tốt cho tác chiến với những tảng đá chen nhau dễ ẩn nấp.
- Yankee papa đây Tango zulu.
- Tango zulu, Yankee papa nghe đây.
- OK Yankee papa . Lời yêu cầu đã được chấp nhận...bạn chuẩn bị bãi đáp. Báo cho bạn biết trong vòng năm phút nữa, trận oanh kích sẽ mở màn... mục tiêu chiến thuật... khi nào cần tôi gọi bạ sau... rất bận!
Trung sĩ Bảo tháo xong trái Claymore nhưng để lại hai trái M14. Toán di chuyển tìm bãi đáp. Nắng đã lên khỏi ngọn cây, chiếu tia nắng chói chan cùng lúc tiếng ầm vang của động cơ phản lực... Nhìn lên trời bốn chiếc F100 sơn rằn Thủy-quân lục-chiến Mỹ bay cách quãng về hướng Đông đợi lệnh. Tiếng bom liên tục nhắm vào hai mục tiêu dưới dốc đồi chạy dài xuồng thung lũng ngàn xa! Khói lửa bốc lên dần về hướng Đông-nam. Chiếc Covey ở trên cao lững lờ điều không. Toán chúng tôi nỗ lực tiến về khoảng trống chạy dài mà hai bên toàn rừng già bao bọc... Một đồng cỏ tranh và cây non ánh vàng dưới mặt trời nóng bỏng! xa tít bên dưới đang diễn ra cảnh bom đạn kinh hoàng... Thêm bốn chiếc A1 đang vòng ngoài xa như những con ong thám thính! Trận oanh kích trải dài từ Bắc xuống Nam và một mục tiêu ở giữa chếch về hướng Tây. Một cái dù bung, xuất hiện trên bầu trời, kéo theo đám khói đen kịt lao vụt về hướng Nam , mất hút bên dưới! Đúng lúc này nhiều tiếng động khả nghi từ bìa rừng nơi chúng tôi vừa đi qua. Không còn nghi ngờ gì nữa...địch đang đi tìm. Tôi ghé sát tai Trung sĩ Bảo đề nghị gài ngay trái Claymore rồi rút nhẹ, bò ra phía gốc cây, chuẩn bị tác chiến... Mọi việc đều được thực hiện nhanh chóng và chúng tôi sẵn sàng chờ đợi tình huống... trong khi tôi báo toán đụng địch ngay lên Covey. Nổ băng đầu, Thiếu úy Liêm rút trái lựu đạn, súng nổ lan tràn và địch quân xuất hiện dăng ngang từ mọi gốc cây đúng váo tầm sát thương của trái mìn Claymore... lố nhố, lom khom nhiều cái lưng di động. Thiếu úy Liêm khoắc tay, chúng tôi đồng ngồi dậy sau tiếng nổ của trái Claymore... Bảo vẫn chạy đầu theo sau là Liêm và tôi...chạy thục mạng, bất kể, chỉ muốn càng xa càng tốt... Tiếng Covey đang gọi từ ống nghe gài nơi vai. Bên ngoài nắng vẫn trải dài xuống đồi cỏ tranh, bao bọc bởi rừng già xanh thẳm! Tiếng bom đạn không ngớt từ vùng oanh kích với những cột khói bốc cao. Covey đang bay trên đầu. Thiếu úy Liêm chỉ tảng đá nơi bìa rừng và chúng tôi nhanh chóng lập ngay vị trí chiến đấu. Tôi liên lạc Covey.
-Tango zulu,Yankee papa. Tôi đã chạy ra được bãi đáp... địch đang đuổi theo phía sau... xin trợ giúp khẩn cấp.
-Yankee papa, mở cửa sổ nhà bạn.
-OK Tango zulu, sẽ có ngay.
Thiếu úy Liêm ra phía ngoài trống và đang lấy điểm hội tụ ánh sáng vào gương... cùng lúc chiếc Covey bay vòng.
-Yankee papa, tôi đã thấy bạn... cố gắng di chuyển thêm khoảng 500 mét, hướng đông, đến đầu rừng, sẽ dễ dàng cho triệt xuất...bởi hai cánh bìa rừng, trực thăng rất dễ bị ăn đạn... OK cố lên!
Toán di chuyển, giật mình vì tiếng súng sau lưng và rồi nơi mé trái trong khu rừng tiếng súng đáp lại nhưng còn hơi xa. Bên hông trận oanh kích vẫn tiếp diễn với tiếng phòng không, cạnh những bom đạn không dứt, khói lửa ngập trời!
12
Yankee papa đây Tango zulu gọi.
Vừa nghe tiếng máy, Liêm dừng lại để tôi liên lạc... Cánh rừng rậm bên hông càng lúc càng xa như chúng tôi đang đi về hướng ngược lại. Đồng cỏ tranh vẫn óng vàng trong ánh mặt trời và gió chỉ hiu hiu, se se trên mặt.
-Tango zulu, Yankee papa, tôi nghe.
-OK Yankee papa. Anh cho ngay số nhà và hướng di chuyển. Tôi có thể trợ giúp anh bằng hỏa lực sẵn có... Tôi mới lên thay bao vùng và anh yên tâm.
Thiếu úy Liêm chiếu gương và chiếc Covey quay ngoắt lại.
-Tango zulu đây Yankee papa, tôi di chuyển về hướng Đông, đến đầu rừng...địch đang đuổi theo phía sau và cánh trái trong khu rừng rậm.
-OK Yankee papa, rõ mọi chuyện, anh sẽ nhận sự trợ giúp ngay tức thời... yên tâm ra phía đầu rừng.
Chiếc Covey bổ xuống theo tiếng động cơ hết tốc... vẻ thật hung hãn, lúc lắc bên phải lúc bên trái và cây đại liên sáu nòng tuôn ra loạt đạn vãi, cùng với tiếng súng vang vọng bên dưới bắn lên. Loại OV10 thám thính nay được võ trang và biệt phái riêng cho SOG... đã tỏ ra hết sức hữu hiệu, như trong trường hợp hiện tại. Chúng tôi yên tâm di chuyển và đã đến được bìa đầu rừng. Toán đang trên đồi, phía sau lưng là rừng già cây rậm, còn đưới kia ánh nắng chói chan trên những bụi cỏ lau rạp mình trong gió, bên dưới cỏ tranh vàng óng phe phẩy qua lại và đôi lúc làn sóng chạy dài theo cơn gió mạnh lùa từ dưới đồi dần lên... Tiếng súng nổ vang trời, khi chiếc Covey lao xuống tác xạ. Nắm vững không ở vào vị trí đặt súng phòng không...chiếc Covey như người làm xiếc, tha hồ thi thố tài năng.
-Tango zulu... địch bắn lên anh như mưa. Ở phía sau tôi và cánh trái trong rừng.
Tinh hình thật nguy ngập, toán không còn mìn Claymore phòng thủ... lựa được ba gốc cây, chúng tôi chuẩn bị cho cuộc chiến sắp gần đến chỉ bằng tiều liên CAR15 và lựu đạn mini.
-Yankee papa, bạn để panel vàng nơi khoảng trống... chốc lát Hổ mang (Cobra) sẽ mau chóng tiếp trợ... tôi cầm chừng ở phía sau quanh vị trí.
Trung sĩ Bảo vừa căng xong tấm panel vội vào ngay chỗ ẩn nấp trong tiếng súng địch quân bắn lên Covey... giờ càng gần chúng tôi! Chiếc OV10 vút lên cao và tôi đã nghe tiếng trực thăng theo gió ào đến... ngước nhìn lên trời phía sau lưng, những đốm đen xuất hiện trên khoảng xanh không gian...trong khi chiếc Covey lại lao xuống tạo ra hàng lửa thép rất gần chúng tôi, bởi có những cánh cây gẫy đổ nhào. Một chiếc dù của phi công lại bung trên trời và không thấy cảnh máy bay nào bị hạ! Trận oanh kích lại trở nên phước tạp, khi người ta phải lo tiếp cứu phi công. Hai Cobra đến như tia chớp, hùng hổ bay ngang rồi vòng lại... Chiếc Covey (FAC) giờ ung dung trên cao chỉ huy. Súng nổ vang trời, đón chiếc Cobra đang xả một lúc bốn hỏa tiễn (khói mầu tím) loại rocket đinh nhọn chống biền người quanh mỏm rừng, nơi có chúng tôi và chiếc panel vàng. Chiếc Cobra thứ hai tiếp tục với loạt 40 ly tự động nghe xôn xao và nổ ầm ầm bên dưới. Súng địch vẫn bắn lên nhưng ít hơn và họ có vẻ chựng lại.
-Yankee papa đây Tango zulu... Lệnh cho anh chạy thẳng khoảng trống hướng Nam, để lại tấm panel chỉ điểm... mau lên.
Tôi gọi Thiếu úy Liêm và Bảo truyền lại lệnh... Chúng tôi tức khắc lộ nguyên hình, di chuyển gần như là chạy trên cánh đồng cỏ tranh nắng vàng! Hai chiếc Cobra xa luân chiến nơi bìa rừng với rocket và đại liên sáu nòng. Nhìn lên bốn UH đang ở trên cao, đoàn trực thăng hỗ trợ biệt phái từ Sư đoàn 101 nhầy dù Mỹ... với đầu con ó trắng nhưng hiền lành giống bồ câu! Tiếng súng nổ sau lưng và những lằn đạn nghe rõ tiếng đi... mặc, ba đứa tôi cứ cắm cổ chạy... Một hàng đá không cao lắm án phía trước như cái phao cứu sinh. Chúng tôi tất tưởi ào vào, miệng thở gấp hổn hển... Cobra thấy rõ tình hình, một chiếc đổi hướng tấn công trực diện vào bìa rừng. Tôi hét lên "Liêm, khom lưng chạy mau, đã có hàng đá bảo vệ phía sau" Có tiếng Covey gọi, tôi chạy chựng lại.
-Yankee papa đây Tango zulu...bạn chuẩn bị, trực thăng đến ngay trên đầu bạn OK.
Một chiếc trực thăng xuất hiện đang xả súng vào bìa rừng mà tôi không hề hay biết! Nó đáp xuống chận ngay bước chạy khom lưng và một người Mỹ đưa tay vội kéo chúng tôi vào khoang tầu... Trực thăng bốc lên và quay ngược đổi hướng, vội lên cao... Tôi cũng vừa nhìn thấy hai bên... Cobra bay song song như người dạo phố đang thân mật trò chuyện. http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/02/biet-kich-nha-ky-thuat.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-8752029589319637735Wed, 21 Nov 2012 07:39:00 +00002012-11-21T18:52:42.027-08:00
Động cơ Phản Lực F4 Fantom trền đất Lào
Đạn Súng Cối
PT76 Tank Chinese build trên đường mòn HCM
Bên trong Tank PT76 để lại trên đường mòn HCM
Xác máy bay Trực Thăng trên đất Lào
Vũ Khí tịch thu trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719
Xác máy bay Trực Thăng trên đất Lào
Vũ Khí tịch thu trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719
Tham Khảo Tài Liệu Việt Cộng sưu tầm trên Báo Tuổi Trẻ
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
TT - Đó là những con đường nhận và vận chuyển hàng hóa vào miền Nam trong những năm đất nước trải qua chiến tranh. Bên cạnh đường mòn Hồ Chí Minh, đường Hồ Chí Minh trên biển hay con đường ống xăng dầu, những con đường đặc biệt này được mở ra theo những tuyến lạ lùng chưa từng có, vì mục tiêu số một: chi viện khẩn cấp cho miền Nam.
Những câu chuyện độc đáo về các tuyến đường này lần đầu tiên được kể lại một cách có hệ thống trong cuốn sách 5 con đường mòn Hồ Chí Minh của giáo sư Đặng Phong (Viện Kinh tế VN) do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành tháng 8-2008.
Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
Cổng vào cảng Sihanoukville |
TT - Bước sang những năm 1960, nhu cầu chi viện vật tư, hàng hóa và vũ khí cho miền Nam tăng lên. Những nguồn viện trợ của Liên Xô, nhất là vũ khí, chiếm phần lớn nhất và quan trọng nhất trong viện trợ, lại gặp khó khăn trong việc vận chuyển qua đất Trung Quốc. Do đó, VN phải tìm một con đường khác để nhận và vận chuyển hàng viện trợ, nhất là vũ khí vào Nam. Con đường đó chỉ có thể là đường thủy. Hướng được lựa chọn là Campuchia.
Mở tuyến
Để củng cố mối quan hệ tối cần thiết này, ngay từ cuối thập kỷ 1950 phía VN đã cử giáo sư Ca Văn Thỉnh sang làm đại sứ tại Phnom Penh. Ca Văn Thỉnh vốn là đốc học tỉnh Bến Tre từ thời Pháp, sau đó trở thành thầy giáo dạy trường trung học tại Sài Gòn mà thái tử Sihanouk là học trò. Quan hệ thầy trò chắc chắn đã góp phần rất quan trọng vào việc thắt chặt mối quan hệ VN - Campuchia.
Với quan hệ tốt đẹp giữa hai nước và trước những đe dọa của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, thái tử Sihanouk sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho VN trong việc vận chuyển vũ khí. Từ đó, đã mở ra con đường thủy để chuyên chở vũ khí thẳng từ Liên Xô tới cảng Sihanoukville. Rồi sau đó đưa về những kho đặt rải rác dọc biên giới. Từ các kho này hàng được vận chuyển về các địa điểm khác nhau trong vùng căn cứ.
Xe tải trên đường từ cảng Sihanoukville về biên giới VN |
Từ năm 1966, cường độ chiến tranh tăng lên mức ác liệt. Chi viện bằng đường bộ không đủ. Con đường vận tải trên biển bị kiểm soát gắt gao từ sau "vụ Vũng Rô” (tháng 2-1965). Con đường qua cảng Sihanoukville càng trở thành trọng yếu.
Tháng 7-1966, Trung ương Cục quyết định thành lập Đoàn hậu cần 17, chuyên trách việc tổ chức tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc qua cảng Sihanoukville, rồi từ đó qua nhiều tuyến vận tải khác nhau vào tới tận B2, tức Nam bộ. Hàng hóa do nước bạn viện trợ khi chở đến cảng này được chuyển vào một kho riêng, mà các bạn Campuchia hay gọi là "kho Việt cộng". Từ đây, có các "đường dây" của Ban Kinh tài đến nhận và chuyển về vùng giải phóng.
Đặt cơ sở
Người phụ trách chính công tác này tại Phnom Penh là ông Nguyễn Gia Đằng, tức Tư Cam, ủy viên Ban cán sự Việt kiều Campuchia (bí danh là Ban cán sự K). Có những thời kỳ phải chấp nhận mức giá "lót đường" cho một số tướng tá Campuchia rất cao: tiền lót đường được tính theo giá 2 đôla/kg vũ khí và 1 đôla/kg các loại hàng khác. Mức giá này luôn thay đổi, tùy theo tuyến đường nào và viên tướng nào quản lý tuyến đường đó. Có những thời kỳ các viên tướng không chịu lấy tiền mà đòi đổi vũ khí. Cũng theo ông Tư Cam, có trường hợp phải chấp nhận chia cho họ 30% số vũ khí quá cảnh.
Bản thân quốc vương Sihanouk sau này cũng kể lại với sử gia Pháp Jean Lacouture về việc này và với nội dung khá trung thực: "Vũ khí chở đến cảng Sihanoukville được chia 1/3 cho chính phủ của tôi, 2/3 cho phía Việt Minh, chưa kể còn những khoản hối lộ khác cho tướng tham mưu trưởng Lonnol".
Báo cáo tổng kết công tác ngoại hối 1964-1975 có đề cập việc vận chuyển theo tuyến này như sau: "Từ 1966-1969, việc đưa vũ khí và vật tư hàng hóa cho chiến trường từ Liên Xô qua đường sắt liên vận gặp trắc trở, ta đã vận dụng sách lược với chính quyền Sihanouk và Lonnol, đưa hàng từ Liên Xô vào cảng Sihanoukville, sử dụng cảng và địa bàn K để đưa vào miền Nam. Nhờ vậy chiến trường đã nhận được 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấn quân trang, 731 tấn quân y, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối". |
Trong hệ thống tổ chức của đoàn 17 có Công ty thương mại vận tải Hắc Lỷ. Công ty này được chính quyền Campuchia cấp giấy phép kinh doanh trong các tỉnh và thủ đô Phnom Penh. Đoàn vừa làm nhiệm vụ thu mua khai thác các nguồn hàng hóa tại Campuchia, vừa tổ chức tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương qua cảng Sihanoukville, tiếp chuyển hàng về khu vực thuộc chiến trường B.52. Biên chế của đoàn chỉ có 84 người nhưng sử dụng lực lượng ngoài biên chế là 564 người, chủ yếu là Việt kiều và hàng trăm nhân dân, binh lính, sĩ quan Campuchia hoạt động cho ta.
Đây là chuyến vận tải hoàn toàn bằng cơ giới, có tới 150 ôtô vận tải, có lúc thuê mướn thêm 300 ôtô, 500 canô để vận chuyển hàng hóa đi các hướng, nên đã vận chuyển và khai thác được một khối lượng hàng lớn và quan trọng. Ngoài ra, đoàn còn có các cơ sở kinh doanh mua bán sản xuất, sửa chữa tại các thành phố của Campuchia như xưởng sửa chữa xe đạp, thực phẩm, may mặc quần áo...
Trong cuốn Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại (Nhà xuất bản Trẻ, 2004), đại tá Nguyễn Việt Phương kể: "Một cán bộ đầy tài năng của Tổng cục Hậu cần là Đức Phương được cử vào đóng vai nhà tư sản kinh doanh, làm chủ Công ty thương mại Hắc Lỷ. Đức Phương có dáng người to cao, đường bệ, nước da ngăm nâu, trán hói…, đủ điều kiện để đóng vai một ông chủ hãng buôn lớn xứ chùa tháp.
Miền Bắc đã cung ứng cho Đức Phương đủ vàng và ngoại tệ mạnh để hoạt động kinh doanh. Ông đã mở rộng quan hệ với các quan chức cao cấp ở Campuchia, trong đó có tư lệnh thành phố Phnom Penh là Unxiut. Unxiut đã nhanh chóng kết thân với Đức Phương. Viên sĩ quan phụ tá của Unxiut cũng được Đức Phương ưu ái nên tận tình giúp đỡ. Với mối quan hệ đó, Công ty Hắc Lỷ có thể thuê cả một đoàn xe nhà binh của quân đội Campuchia chở vũ khí và hàng hóa từ cảng Sihanoukville về đến tận biên giới VN.
Đức Phương còn chơi thân với bộ trưởng an ninh của Chính phủ Campuchia. Có lần nhân sinh nhật vị bộ trưởng này, Đức Phương đã gửi một món quà tặng đặc biệt: một chiếc Mercedes mới. Để đáp lễ, bộ trưởng an ninh đã tặng lại Đức Phương chiếc xe cũ mình đang đi làm kỷ niệm. Với chiếc xe này, Đức Phương và các cán bộ của Hắc Lỷ đi đến đâu cảnh sát cũng không đụng tới, chỉ nhìn thấy chiếc xe và số hiệu là đã giơ tay chào. Chính Đức Phương đã tổ chức những chuyến xe đặc biệt chở hàng Z, tức tiền Sài Gòn, vào cho Trung ương Cục".
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
Một lớp y tá được đào tạo cấp tốc của tuyến đường 1-C |
TT - Phần việc không kém khó khăn và phức tạp là đưa số hàng tại các kho ở biên giới vào chiến trường miền Nam. Khâu tiếp nhận và vận chuyển vũ khí về các kho ở biên giới là do đoàn hậu cần 17 phụ trách.
Từ các kho biên giới, đoàn 17 phân bổ hàng hóa theo nhiều ngả khác nhau về miền Nam: tuyến vận chuyển về Tây Ninh do đoàn 18A phụ trách; tuyến vận chuyển về Khu VIII (Long An, Đồng Tháp) do đoàn P100 của Quân khu VIII phụ trách; tuyến vận chuyển về Quân khu IX, tức miền Tây Nam bộ, do đoàn 195 phụ trách.
Thành lập đoàn thanh niên xung phong
Đoàn 195 do Quân khu IX thuộc miền Tây Nam bộ tổ chức từ năm 1966. Nhiệm vụ của đoàn 195 là tiếp nhận vũ khí từ biên giới Campuchia đưa về miền Tây. Trưởng đoàn là một trong những cán bộ rất thông thạo công việc này, đó là ông Phan Văn Nhờ, tức Tư Mau.Trụ sở của đoàn đóng tại huyện lỵ huyện Túc Mía, thuộc tỉnh Cam Pốt, Campuchia. Phương thức vận chuyển chủ yếu là thuyền nhỏ bằng gỗ. Chính ông Tư Chức, Việt kiều ở Campuchia, đã giúp đoàn 195 mua gỗ từ Phnom Penh chuyển về Sóc Chuốc và lập tại đây một xưởng đóng xuồng gỗ.
Tháng 9-1966, Khu ủy miền Tây ra nghị quyết về việc thành lập đoàn thanh niên xung phong, phục vụ trên tuyến vận tải 1-C (là tuyến đường hai chiều từ biển Đông lên và từ biên giới xuống). Phương thức vận chuyển qua nhiều công đoạn khác nhau. Trước hết là xe của đoàn 17 chở hàng hóa tới bến Lò Vôi thuộc thị trấn Túc Mía. Mỗi xe có trọng tải 10 tấn, khoảng 2-3 ngày có 2-3 xe đưa hàng tới bến Lò Vôi. Đoàn 195 dùng tàu của Việt kiều chở xuôi sông về bến Sóc Chuốc, tức trạm 95.
Từ trạm Sóc Chuốc, kho 95 phân phối hàng cho những chiếc thuyền nhỏ của thanh niên xung phong thuộc tuyến đường 1-C. Mỗi đợt lấy hàng ở kho trạm 95 có tới 30-40 thuyền, mỗi thuyền chở 200-300kg đi qua biên giới về kênh Vĩnh Tế và đi tiếp vào các trạm tiếp theo. Đây chính là chặng đường gian nan vất vả nhất. Nhiều đoạn không có kênh rạch, có những đoạn có kênh rạch nhưng lại bị đồn bót và tàu thuyền của đối phương kiểm soát nghiêm ngặt, nên chỉ có cách vượt qua kênh rạch trong chớp nhoáng rồi lẩn vào sình lầy. Có nhiều đoạn đội thanh niên xung phong phải ngâm mình dưới nước, phủ cỏ và bèo cả người lẫn xuồng và đẩy đi trên những đoạn dài 20-30km.
Có những đợt vận chuyển phải đi liên tục 28-29 ngày trong một tháng. Những đợt vận chuyển đó hầu hết thanh niên xung phong đều bị ghẻ lở, hắc lào, đặc biệt là bệnh thối móng chân do ngâm bùn quá lâu. Lại cũng do phải ngâm người trong nước, không được tắm rửa, không được thấy ánh nắng mặt trời nên hầu hết phụ nữ đều bị rụng tóc. Đoàn phải tự tổ chức những lớp đào tạo y tá để chăm sóc những chiến sĩ ốm đau, bị thương...
Từ đầu năm 1959, đối phương đã phát hiện con đường này nên tổ chức ngăn chặn bằng mọi giá. Trên không, máy bay B52 thường xuyên giội bom những khu rừng bị nghi là có các đoàn vận chuyển vũ khí. Một số không ít chiến sĩ đã hy sinh trong các trận oanh tạc này.
Trên các kênh rạch, đặc biệt là kênh Vĩnh Tế, các đoàn tàu tuần tiễu lùng sục suốt 24/24 giờ. Máy bay Mỹ còn rải những "cây nhiệt đới" để thu tiếng động của các đoàn vận tải. Đến cuối năm 1969, kênh Vĩnh Tế bị phong tỏa chặt chẽ tới mức không thể nào vượt qua được. Trong rất nhiều trường hợp, đoàn thanh niên xung phong và các chiến sĩ của đoàn 195 buộc phải nổ súng chống trả những cuộc càn quét đó.
Tổng kết lại, trên tuyến đường này từ năm 1967 cho tới năm 1974 đã vận chuyển được 13.650 tấn vũ khí cho miền Tây, đưa đón hơn 30.000 lượt người gồm bộ đội, cán bộ ngược xuôi từ Trung ương Cục về miền Tây. Con đường vận chuyển từ cảng Sihanoukville chỉ tồn tại đến khoảng năm 1970. Sau đó, ngày 18-3-1970, Mỹ đã giúp nhóm Lonnol và Sirik Matak tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Sihanouk nhằm xóa bỏ nền trung lập của Campuchia. Từ đó, nguồn tiếp tế quan trọng này bị cắt đứt.
Quá cảnh không qua cảng Sihanoukville
Bản đồ đường mòn từ cảng Sihanoukville vào chiến trường miền Nam |
Nói nguồn hàng bị cắt đứt không có nghĩa là tuyến đường vận tải tối quan trọng này đã ngừng lại. Điều khác trước chỉ là thay đổi nguồn hàng: thay vì vận chuyển vũ khí bằng đường biển tới cảng Sihanoukville rồi chuyển về biên giới, từ nay phải lấy nguồn hàng trên tuyến đường Trường Sơn của đoàn 559. Để mở được tuyến đường này, vấn đề là phải tạo ra một vùng đất ngoài vòng kiểm soát của chính quyền Lonnol.
Quân giải phóng đã khéo léo liên minh và phối hợp với những lực lượng chống đối chính quyền Lonnol ở Campuchia, tiến hành những chiến dịch để giải phóng các tỉnh ở miền Đông sông Mekong trên đất Campuchia, chủ yếu gồm các tỉnh Stung Treng và Siem Reap. Sau khi giải phóng tuyến đường này, con đường vận tải của đoàn 559 từ Nam Lào bắt đầu đưa vũ khí vào đất Campuchia và về biên giới.
Để mở con đường này, tháng 7-1970, tức là chỉ bốn tháng sau cuộc đảo chính của Lonnol, Bộ chỉ huy Miền đã quyết định thành lập đoàn 770 chuyên trách việc tiếp nhận và vận chuyển hàng từ đông bắc Campuchia về Nam bộ. Vì đây là nguồn hàng rất lớn nên đoàn 770 có quân số tới 3.377 người, chia thành năm cánh, sử dụng phương tiện cơ giới vận tải khối lượng lớn.
Sang năm 1971, cầu tiếp nhận này kéo dài tới bờ sông Mekong trên đất Campuchia, đoàn này do đoàn 340 phụ trách. Đoàn 340 là đoàn hậu cần lớn nhất trong các đoàn hậu cần của Trung ương Cục, quân số vào thời điểm cao nhất lên tới 4.189 người, gồm bốn cánh quân nhu, ba tiểu đoàn vận tải, năm liên trạm đường dây nối liền từ Stung Treng xuống tới bắc Kratie. Để phục vụ số quân rất lớn kể trên, ngoài lực lượng vận tải, đoàn 340 còn có bốn bệnh viện lớn, một tiểu đoàn công binh để làm đường, bắc cầu...
Riêng trong các năm từ 1970-1972, trên tuyến đường này 26.147 tấn vũ khí các loại đã được vận chuyển. Cùng với vũ khí, tuyến đường này đã đưa hàng nghìn cán bộ và chiến sĩ từ miền Bắc vào tăng cường cho chiến trường Nam bộ.
ĐẶNG PHONG
TT - Tại B2 và các địa bàn khác do Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo, có đơn vị kho quỹ là C.32 trực thuộc Ban Kinh tài (BS.107) của Trung ương Cục miền Nam. Đó là đầu mối, là tổng quỹ tiếp nhận các nguồn tiền mặt từ trung ương phân bổ vào theo đường chuyển tiền mặt AM và do Ban tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (N.2683) cung cấp theo con đường chuyển ngân FM.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
Kỳ 3- Quá cảnh đường hàng không
Máy bay Li-2 cất cánh từ sân bay Cát Bi đi làm nhiệm vụ - |
TT - Miền Bắc thời kỳ này rất tiết kiệm trong việc sử dụng đường hàng không đối với lĩnh vực dân dụng. Hầu hết cán bộ và học sinh, sinh viên đi Trung Quốc, Liên Xô, các nước Đông Âu... đều phải theo đường sắt liên vận.
Nhưng để chi viện cho miền Nam, ngành hàng không của miền Bắc không tiếc sức người sức của. Có hai con đường vận chuyển hàng không lúc đó: quân sự và dân sự.
Đoàn 919
Về con đường quân sự, để vận tải khẩn cấp những hàng hóa nặng, không quân VN đã thành lập riêng một đoàn vận tải đặc biệt mang tên đoàn 919. Từ năm 1960, đoàn 919 đã đảm đương vận chuyển một phần của tuyến đường Trường Sơn, nhằm rút ngắn thời gian vận chuyển và cũng đỡ được một đoạn đường bộ dài hàng nghìn kilômet từ miền Bắc vào miền Nam.
Giải pháp này được đề xuất và thực thi như sau: cuối tháng 2-1960, đại tướng Võ Nguyên Giáp vào Đồng Hới làm việc với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, đặc khu Vĩnh Linh, sư đoàn 325, lữ đoàn 341. Đại tướng ngồi máy bay trực thăng quan sát khu vực Làng Ho, Vitthulu thuộc phía đông Trường Sơn. Sau chuyến khảo sát đó, đại tướng gợi ý khả năng sử dụng máy bay để tạo "chân hàng" cho các tuyến vận tải, nhằm phục vụ cấp bách tình hình đang sôi động của chiến trường.
Sau đó những máy bay của đoàn 919 đảm nhận công việc này. Điểm xuất phát của những máy bay này là sân bay Cát Bi ở Hải Phòng, sân bay Vinh, sân bay Đồng Hới. Từ đó, các máy bay chuyển hàng vào Làng Ho, Vitthulu. Một thời gian sau, khi đã mở con đường Trường Sơn Tây, máy bay của đoàn 919 bay thẳng sang Hạ Lào. Ban đầu do chưa bố trí được sân bay thích hợp nên phải dùng phương pháp thả dù hàng hóa xuống một số địa điểm quy định như Mường Phìn, Mường Phalan...
Thậm chí có những lúc không có dù để thả hàng thì các phi công phải dùng phương pháp hạ thật thấp độ cao rồi thả thẳng hàng xuống mặt đất. Sau đó, do đã bố trí được sân bay Tà Khống thuộc tỉnh Xê Pôn, Nam Lào nên các máy bay có thể hạ cánh để đưa hàng và đưa quân tập kết ở đây. Từ sân bay này, bộ đội hành quân vào Nam. Còn hàng hóa thì đoàn 559 vận tải tiếp vào các tuyến phía trong, tới các trạm Tăng Noong thuộc Quảng Nam, Đắc Lan thuộc Kontum...
Nhà văn Trần Đình Vân, tác giả Sống như anh, kể: "Vào đầu thập kỷ 1960, tôi đi B bằng máy bay, từ Hà Nội sang Phnom Penh. Khi đến sân bay Gia Lâm, chỉ vài phút trước khi ra máy bay, tôi được thông báo mình phải nhận trách nhiệm áp tải một chuyến hàng đặc biệt của trung ương gửi sang Phnom Penh. Tôi nhìn thấy đó là khoảng 20-30 bó hàng vuông vắn giống như những lô hàng rau quả hộp xuất khẩu. Đương nhiên, tôi không biết đó là hàng gì và tôi cũng thừa hiểu mình không có quyền được biết, nhưng tôi vẫn cứ áp tải theo máy bay sang đến Phnom Penh. Khi đến sân bay, tôi là người nhận hành lý ký gửi. Ngay sau đó có xe đưa cả tôi và số hàng đó về một ngôi nhà dành riêng ở Phnom Penh, tức một cơ sở của ta ở bên đó. Sau đó xe chở ngay những "đồ hộp xuất khẩu" đó đi, theo đường bộ bí mật vào vùng giải phóng. Nhiều năm sau sống ở vùng giải phóng, tôi mới biết hóa ra chính mình từng là chủ một kiện hàng mấy triệu đôla, dù chỉ là lúc ở trên trời". |
Trong ba năm từ 1960-1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của đoàn 919 phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào.
Tuy nhiên tuyến vận tải máy bay quá cảnh sang Lào chỉ tồn tại đến trước thời điểm chính phủ liên hiệp ba phái ở Lào bị xóa bỏ (1963). Từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tây Trường Sơn được nữa. Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về VN, nhiều vùng giải phóng hợp pháp đã hình thành ở miền Nam, hình thức vận chuyển hàng không quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi. Tính từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 4-1975, đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa quân sự...
Dùng Air Cambodia và Air France
Vận tải hàng không dân sự là hình thức vận chuyển công khai nhưng lại tuyệt mật. Đó chính là tuyến vận tải hàng không dân dụng bình thường của Vương quốc Campuchia (Air Cambodia) bay từ Phnom Penh đi Hà Nội, hoặc từ Phnom Penh đi Quảng Châu, Hong Kong rồi theo đường sắt hoặc đường hàng không về Hà Nội. Sở dĩ công khai vì nó sử dụng một loại đường bay thương mại bình thường như mọi đường bay khác.
Nhưng cũng là tuyệt mật vì nó gài vào trong đường bay bình thường những "hành khách" không bình thường. Máy bay của Air Cambodia được quyền bay ngang lãnh thổ miền Nam VN, cũng như máy bay của Nam VN được phép bay từ Sài Gòn qua không phận Campuchia để đi Bangkok, Tây Âu. Con đường này rất an toàn, vì nó là sự mạo hiểm được bọc lót dưới một hình thức công khai hợp pháp.
Tất nhiên đó là sự mạo hiểm được tổ chức rất chu đáo: từ căn cước giả, tên giả, đến lai lịch giả đều có một bộ phận chuyên trách thu xếp, sử dụng đến những phương tiện hiện đại bậc nhất lúc đó. Khi đã có đủ giấy tờ hợp pháp, lại phải bọc lót suốt từ khâu soát vé đến khâu kiểm tra hành lý. Tại đây đều có người của "Ban cán sự K". Loại nhân viên này thường không phải là cán bộ cách mạng mà là những nhân viên có lý lịch rõ ràng, không có chút gì khả nghi. Thường đó là người Hoa, người Ấn, người Lào, người Khơme... có cảm tình với cách mạng VN. Đã có hàng ngàn cán bộ cao cấp đi ra đi vào miền Nam bằng con đường này, tức là bay qua không phận của miền Nam VN, mà chưa xảy ra một vụ nào rắc rối.
Con đường này cũng đã đảm nhiệm vận chuyển những tài liệu, khí tài quan trọng như máy móc, điện đài, hàng triệu đôla để chi viện cho miền Nam. Những gia đình và con em cán bộ miền Nam cũng đi ra Bắc bằng con đường này. Đặc biệt là việc di chuyển hàng ngàn học sinh Trường Nguyễn Văn Trỗi ra Bắc theo tuyến hàng không này. Những bệnh binh, thương binh, những người ốm nặng... thường cũng được đưa theo con đường này để kịp thời ra Bắc chạy chữa, an dưỡng...
Một trong những nhân viên lữ hành (người làm khâu quan trọng và nguy hiểm nhất như kiểm tra vé, căn cước, visa, nhận diện, cân hành lý...) ở sân bay Pochentong là ông Check Nguyễn Cang, một người Ấn Độ lai VN. Ông có cha là một thương gia lớn người Ấn Độ tại Sài Gòn từ lâu đời, lấy vợ VN và có nhiều con. Ông Cang đã bí mật hoạt động cho Việt Minh từ thời kháng chiến chống Pháp, dưới cái vỏ là một viên chức làm cho Air France ở Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève, đến năm 1955, ông sang Phnom Penh làm cho Air Cambodia với cái tên hoàn toàn Ấn Độ là Check Kesath. Với một lý lịch như thế ông không bị ai để ý. Nhưng ông là một trong những đầu mối chính lo các giấy tờ, đồng thời cũng là nhân viên cửa ga.
Ông hoạt động ở đó suốt những năm chiến tranh, cho đến tháng 3-1975 không may ông bị chính quyền Pol Pot phát hiện và thủ tiêu. Em ruột của ông Nguyễn Cang là Kamal Nguyễn, bác sĩ tại bệnh viện thành phố Lille (Pháp), cũng là chủ tịch Hội Việt kiều tại đây, kể lại: "Anh tôi đã hoạt động cho Việt Minh ngay từ những năm 1950, chuyên lo việc đưa người của mặt trận lọt qua hệ thống kiểm soát của sân bay để bay về Hà Nội và từ Hà Nội bay sang Phnom Penh, rồi từ đó bí mật đi vào vùng giải phóng".
ĐẶNG PHONG
____________________
Trước khi Lonnol tiến hành đảo chính, ông ta đã tính tới việc đổi tiền để vô hiệu hóa số tiền riel lớn được lưu giữ trên đất VN. Một sứ mệnh được đưa ra: "giải cứu" số tiền đó trước khi diễn ra đảo chính.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
Những ngày trên giường bệnh, ông Mười Phi vẫn cố gắng hoàn thành những tư liệu kể về cuộc chuyển tiền ngược chiều |
TT - Trước khi chấm dứt tuyến đường vận chuyển quá cảnh trên đất bạn, Ban cán sự K đã phải giải quyết một việc vô cùng hệ trọng, mà có thể coi đó là một kỳ công đáng ghi vào lịch sử.
Đó là việc cứu được một số rất lớn tiền riel trước khi diễn ra cuộc đảo chính của Lonnol. Ông Mười Phi, trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục, bí danh là N.2683, đã kể cho tác giả biết toàn bộ vụ việc và trao lại cho tác giả tất cả những tư liệu liên quan.
Âm mưu của Lonnol
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, miền Bắc chi viện cho miền Nam không chỉ có vũ khí mà còn cả một khối lượng rất lớn tiền để chi tiêu cho sự nghiệp kháng chiến. Số tiền đó gồm nhiều loại: đôla Mỹ, tiền Sài Gòn, tiền baht Thái và đặc biệt là tiền riel của Campuchia, mang bí danh là tiền R. Tiền R có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của tất cả các bộ phận kháng chiến của miền Nam. Lúc đó tiền R được dùng để mua sắm những nhu yếu phẩm như gạo, thực phẩm, quần áo, thuốc men, hóa chất... từ đất Campuchia tiếp tế cho Trung ương Cục miền Nam và từ đó cung cấp cho các khu. Vì thế, tại kho tiền trong căn cứ nội địa của Trung ương Cục luôn có một khối lượng tiền R rất lớn, đảm bảo thường xuyên cung ứng cho các đơn vị kinh doanh trong việc mua sắm trên đất Campuchia.
Trước khi Lonnol tiến hành đảo chính Sihanouk, Lonnol đã tính tới việc đổi tiền để vô hiệu hóa số tiền riel được lưu giữ trên đất VN. Chắc chắn Lonnol không biết cụ thể số tiền đó là bao nhiêu, nguồn gốc từ đâu đến, nhưng ông ta có đủ những thông tin để biết rằng phía VN dùng rất nhiều tiền riel để giải quyết những nhu cầu trên đất Campuchia, trong đó có việc mua chuộc binh lính, sĩ quan, mua sắm hàng hóa… Chủ trương đổi tiền được giữ bí mật và chỉ công bố vào ngày bắt đầu đổi tiền là ngày 24-2 và kết thúc vào 10-3-1970 (trước khi đảo chính một tuần). Cùng với lệnh đổi tiền là lệnh phong tỏa toàn tuyến biên giới Việt - Miên để "bóp chết" toàn bộ số tiền R trên đất VN.
Để tiến hành đổi tiền, Lonnol phải in những giấy tờ liên quan đến đổi tiền như các bảng thông báo, các bản quy định, tờ khai... Nhân viên của Lonnol đến một cơ sở in hiện đại mà họ tin tưởng nhất, đó là xưởng in Wath Phnom để in những giấy tờ này. Thật may mắn là Nhà in Wath Phnom lại là một cơ sở của Ban cán sự K. Người quản lý nhà in là một thanh niên Việt kiều tên Trần Chí Năng. Cha của Trần Chí Năng là ông Trần Quang Mẫn, quê tại huyện Tân Châu, tỉnh An Giang.
Ông đã sống lâu năm trên đất Campuchia rồi trở thành một viên chức cao cấp trong Kho bạc Quốc gia của Vương quốc Campuchia nên rất được chính quyền sở tại tin cẩn. Cả ông Mẫn và con trai đều là cơ sở của Ban cán sự K, và đều là đảng viên. Chí Năng sinh năm 1948, tức là năm 1970 mới 22 tuổi. Trước đó Ban cán sự K đã tính đến chuyện đưa Chí Năng vào vị trí trọng yếu trong nhà in Wath Phnom để vừa kinh doanh, vừa in ấn những tài liệu bí mật của ban. Vì thế ban đã gửi Năng đi học ba năm tại Hong Kong về kỹ thuật in, đặc biệt là kỹ thuật in offset để làm bản kẽm (cliché). Khi trở về, Năng đã có vị trí như một chuyên gia hàng đầu của nhà in này. Năng có một bạn gái người Campuchia tên Peou Lun, cùng học Trường trung học Sisowath ở Phnom Penh và sau đó trở thành vợ chồng. Nhờ đó phía chính quyền Campuchia coi anh như đã "đồng hóa" rồi.
"Giải cứu"
Bằng Tổ quốc ghi công liệt sĩ Trần Chí Năng |
Khi nhân viên của Lonnol đến đặt in bí mật những tờ thông báo đổi tiền, cũng theo "thông lệ" chung là đòi một món tiền hoa hồng hậu hĩnh. Năng thực hiện đúng thủ tục đó và nhận lời cho in gấp. Ngay lúc đó quân lính Lonnol đã vây chung quanh nhà in để đảm bảo bí mật của kế hoạch này.
Riêng vợ Năng là người Campuchia thì có thể ra vào bình thường. Năng trao cho vợ tin mật để báo ngay về Ban cán sự K. Peou Lun lẳng lặng ra đi tay không và đến ban K để báo gấp tin dữ. Ngay lập tức tin này được báo về Trung ương Cục, và toàn bộ số tiền R ở căn cứ Trung ương Cục đã được đưa gấp trở lại đất Campuchia trước khi Lonnol phong tỏa biên giới và trước khi lệnh đổi tiền được ban hành.
Khi lệnh đổi tiền được công bố ngày 24-2-1970, toàn bộ số tiền của Trung ương Cục đã được phân phối cho các cơ sở trên toàn đất Campuchia, để đổi một cách bình thường sang tiền R mới. Sau khi đổi xong, số tiền mới đã được các ông Mười Phi và Lữ Minh Châu là trưởng và phó ban N.2683 đang có mặt trên đất Campuchia, cùng với ông Tư Cam tổ chức chôn giấu tại một kho hàng của Công ty Hắc Lỷ. Mọi việc xong xuôi mới nổ ra cuộc đảo chính của tướng Lonnol và biên giới bị phong tỏa.
Đến lúc đó lại nảy ra vấn đề nan giải: làm sao chuyển được tiền về? Số tiền đã đổi bị chôn chân trên đất Campuchia luôn bị đe dọa bởi sự kiểm soát của Chính phủ Lonnol. Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng chỉ thị cho N.2683 phải bằng mọi giá đưa được tiền về. Chấp hành chỉ thị này lại là một kỳ công nữa: chính các ông Mười Phi, Lữ Minh Châu, Tư Cam đã nảy ra sáng kiến đóng tiền vào những bao nilông lớn, lồng một bao khác bên ngoài và đổ đầy mắm "bù hóc" lên trên.
Hai xe tải lớn của hãng buôn Hắc Lỷ vẫn thường chở loại mắm này sang bán ở đồng bằng Nam bộ lại đi một chuyến mắm nữa như thường lệ, nhưng cố tình chọc thủng nhiều lỗ trên miệng túi để xe chạy xóc thì mắm trào ra xe bốc mùi sặc sụa. Theo trinh sát cho biết, con đường sang Tây Ninh dẫn tới Trung ương Cục đã bị khóa chặt. Chính ông Mười Phi là người bố trí đường dây an toàn đi theo hướng qua Túc Mía để xuống Tây Nam bộ.
140 chiến sĩ đã được huy động để bảo vệ hai xe "bù hóc" này bằng cách phục kích bí mật ở những nơi có trạm gác. Nếu gặp rắc rối không cho qua thì chiến đấu, nếu cần phải trả bằng máu, quyết không để mất món "mắm" có ý nghĩa sống còn đó. Mắm "bù hóc" vốn rất nặng mùi, không quen thì từ xa đã không chịu nổi. Khối lượng hai xe tải lớn, lại bị "rò rỉ” nhiều nên bốc mùi nồng nặc, làm cho ngay cả lính Lonnol cũng phải lảng tránh.
Cuối cùng, đến ngày 10-4, tức 20 ngày sau đảo chính, toàn bộ số tiền đó đã được chuyển qua Túc Mía rồi vượt biên giới an toàn về ngả An Giang, tập kết trở lại ở kho tiền của Trung ương Cục tại Tân Biên, tây bắc Tây Ninh, không mất một đồng nào. Rất may là mấy hôm sau khi tiền đã được chở về, quân đội Sài Gòn phối hợp với Chính phủ Lonnol tổ chức một chiến dịch càn quét lớn suốt từ An Giang vượt qua biên giới. Địa điểm yết hầu Túc Mía đã bị đốt phá tan tành.
Sau đó hai vợ chồng Trần Chí Năng cũng bí mật rút về căn cứ của Trung ương Cục. Nhưng rất không may, trong một chuyến công tác Trần Chí Năng đã hi sinh. Vợ Trần Chí Năng từ đó mang tên chồng. Sau ngày giải phóng, chị cùng hai con gái sống hẳn ở miền Nam. Gia đình có bằng Tổ quốc ghi công và bằng chứng nhận liệt sĩ của Trần Chí Năng.
ĐẶNG PHONG
--------
Để chi viện tiền cho miền Nam một tổ chức mới ra đời, hoạt động theo cách: lấy công khai làm bình phong cho bí mật, mọi hoạt động bí mật đều lấy danh nghĩa công khai.
Kỳ tới: “Quỹ ngoại tệ đặc biệt”
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
Ông Mai Hữu Ích - người tổ chức con đường AM (chuyển tiền mặt) - |
TT - Từ giữa thập kỷ 1960, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc. Từ đây, việc đưa viện trợ vật chất vào Nam, cả bằng đường Trường Sơn lẫn đường biển đều khó khăn hơn trước.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
Bộ Chính trị đã giao cho ông Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng Chính phủ, phụ trách vấn đề chi viện miền Nam. Đến năm 1965, ông Phạm Hùng đề xuất với Bộ Chính trị một quyết định có ý nghĩa lịch sử: lập riêng tại miền Bắc một "quỹ ngoại tệ đặc biệt" (B.29), lấy từ các nguồn viện trợ quốc tế để trực tiếp chi viện cho miền Nam.
Bí mật và công khai
Về hình thức hoạt động công khai chính diện, "quỹ ngoại tệ đặc biệt" có danh nghĩa Cục Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia VN để khi cần thiết có thể làm các thủ tục hợp pháp. Còn về điều hành, nó không phải là một đơn vị trong ngân hàng quốc gia. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật và an toàn, quỹ này chịu sự chỉ đạo đơn tuyến. Nét độc đáo trong cách tổ chức này là: lấy cái công khai làm bình phong cho cái bí mật, mọi hoạt động của cái bí mật đều lấy danh nghĩa của cái công khai.
Như vậy, trong thực tế B.29 tồn tại và hoạt động như một "ngân hàng ngoại hối đặc biệt", phục vụ riêng cho việc chi viện chiến trường bằng ngoại tệ. Người trực tiếp điều hành hoạt động của B.29 là ông Mai Hữu Ích, lúc đó là phó cục trưởng Cục Ngoại hối, đồng thời là ủy viên Ban Viện trợ miền Nam.
Tài sản ngoại tệ thuộc "quỹ ngoại tệ đặc biệt" là dành riêng cho miền Nam nên được điều hành một cách hoàn toàn độc lập, không liên quan gì đến vốn ngoại tệ công khai của Nhà nước tại miền Bắc. Vốn của B.29 được gửi tại Vietcombank. Đến lượt mình, Vietcombank lại gửi vốn đó ở nước ngoài, tại các ngân hàng đại lý quốc tế lớn đáng tin cậy. Như vậy, B.29 được coi như "khách hàng gửi tiền đặc biệt" và "ngân hàng đại lý đặc biệt" trong quan hệ với Vietcombank. Cách hạch toán của B.29 cũng rất đặc biệt: dùng đồng đôla Mỹ làm đơn vị tiền tệ để hạch toán cân đối tổng hợp chung theo phương pháp kế toán kép.
Xưa nay, trong nghiệp vụ ngân hàng, chung quy chỉ có hai phương thức thanh toán: tiền mặt và chuyển khoản. Để chi viện cho miền Nam, B.29 dùng đến cả hai phương thức: chuyển tiền mặt, được gọi là AM; chuyển khoản, được gọi là FM.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, để thắng và "vượt mặt" một đối phương không những mạnh về quân sự mà còn rất thành thạo về tài chính - tiền tệ, hơn nữa còn là kẻ khống chế cả hệ thống tiền tệ quốc tế, thì AM và FM là ký hiệu của cả một guồng máy rất tinh vi, liên kết giữa hậu phương với tiền tuyến, có mạng lưới trong nước và quốc tế. Trong đó ta vừa vận dụng những nghiệp vụ ngoại hối cổ điển của ngân hàng, vừa kết hợp với những kỹ thuật quân sự, tình báo mà xuyên suốt những hoạt động đó là ý chí cách mạng, là niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.
"Chế biến" tiền từ ngoài nước
Chiếc vali ngoại giao mang nhãn hiệu “Lukse” do Liên Xô sản xuất mà các cán bộ hải ngoại đã dùng để chuyển đôla về Hà Nội |
Tại các chiến trường miền Nam, nhu cầu tài chính bằng tiền mặt chủ yếu gồm hai loại là tiền Sài Gòn (mật danh lúc đó là tiền Z) và đôla Mỹ. Ngoài ra, còn có nhu cầu chi phí tại một số địa bàn các nước lân cận là Campuchia, Lào, Thái Lan theo yêu cầu của công cuộc kháng chiến, nên cũng cần một lượng nhất định tiền mặt bằng đồng riel, kip và baht.
Từ những năm đầu thập niên 1960, để đáp ứng yêu cầu của chiến trường, Trung ương Đảng và Chính phủ có đặt vấn đề với Trung Quốc viện trợ cho miền Nam một số ngoại tệ bằng tiền mặt đôla Mỹ. Trung Quốc còn giúp lập một cơ sở ngân hàng tin cậy tại Hong Kong. Tại đó, đôla viện trợ được "chế biến", tức là lấy một phần đôla đó mua gom một số biệt tệ khác như tiền Sài Gòn, riel Campuchia, baht Thái Lan và kip Lào, rồi cùng tiền mặt đôla Mỹ được đưa về nước.
Ông Nguyễn Nhật Hồng, người trực tiếp phụ trách B.29, giải thích về chuyện đổi tiền mặt các loại: "AZ là đổi đôla Mỹ thành tiền Sài Gòn. AK là đổi thành tiền kip Lào, AR là đổi thành tiền riel Campuchia, AB là đổi thành baht Thái Lan, chuyển vào các chiến trường có nhu cầu thích hợp với từng loại tiền. Việc đổi tiền này được thực hiện tại Hong Kong, rồi đưa tiền về Quảng Châu, từ Quảng Châu đưa về Hà Nội, từ Hà Nội chuyển đến các chiến trường miền Nam".
Chi phí "chế biến" ra các biệt tệ nói trên đương nhiên là tốn kém, vì phải chịu thua thiệt về tỉ giá và các chi phí khác (tới khoảng 3% trị giá tiền cần mua). Việc "chế biến" đó được thực hiện bởi một cơ sở ngân hàng ở Hong Kong, được quy ước gọi là "Anh Bảo".
Mai Hữu Ích nói: "Tôi có quan hệ với ông Trang Thế Bình, sau là tổng giám đốc Ngân hàng Trung Quốc (BOC) ở Hong Kong. Ông Bình đã giúp chúng ta mở L/C với BOC và nhiều ngân hàng khác tại Hong Kong. Lúc đầu, chủ yếu phục vụ phát triển ngoại thương, sau đó ông Bình giúp ta chuyển đổi USD lấy tiền Sài Gòn và nhiều biệt tệ khác, gọi tắt là "chế biến" hoặc chuyển khoản đặc biệt vào miền Nam để phục vụ chiến trường".
Tiền mặt các loại do "Anh Bảo" chuẩn bị được tập trung về cơ sở của BOC tại Quảng Châu. Đây chính là nơi tập kết các nguồn tiền mặt của đường dây. Từ đây, cán bộ biệt phái hải ngoại của B.29 dùng đường điện cơ yếu của Bộ Ngoại giao thông báo từ Bắc Kinh về cho B.29 ở Hà Nội. B.29 cử người sang Quảng Châu nhận về.
Để phối hợp thật chính xác mọi công tác đổi tiền, chuyển tiền, nhận tiền, tại Bắc Kinh có một cán bộ đặc nhiệm. Người này chính là ông Lê Văn Châu, sau này là phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chủ tịch Hội đồng chứng khoán quốc gia. Ông Châu là "trung tâm của ba trung tâm": làm đầu mối liên hệ giữa "Anh Bảo" ở Hong Kong, BOC ở Quảng Châu và B.29 ở Hà Nội. Để đảm bảo bí mật và thông suốt, những thông tin được chuyển bằng mật mã qua hệ thống cơ yếu của ngành ngoại giao và quốc phòng.
Đối với các nguồn viện trợ quốc tế tại các nước Âu - Mỹ, bằng rất nhiều loại bản tệ khác nhau như bảng Anh, franc Pháp, franc Thụy Sĩ, lira Ý, krone Đan Mạch... việc "chế biến" ra tiền mặt đôla Mỹ được giao cho đại diện Vietcombank Paris tiến hành ngay tại Pháp và Thụy Sĩ, rồi bằng "giao thông ngoại giao" đưa qua đường Matxcơva về Hà Nội.
----------
Từ đây bắt đầu đưa các loại tiền từ Hà Nội vào Nam. Để tiếp nhận, “chế biến” rồi phân phối được tiền đến đúng mục tiêu sử dụng là một hành trình được gọi là kỳ lạ
Đối với các vùng căn cứ thuộc miền núi và cao nguyên hẻo lánh mà hệ thống ngân hàng không vươn tới được buộc phải dùng phương pháp thủ công: người mang tiền đi. Còn đối với các vùng căn cứ gần các thị trấn hoặc thị xã, phương pháp chuyển ngân đã được sử dụng. Với phương pháp này, C130 bố trí các đầu mối trong thị trường tiền tệ quốc nội của Nam Việt Nam để chuyển tiền từ N.2683 tới các thị trấn, thị xã. Ở đó có người của các khu căn cứ tới nhận.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
Hòm sắt cỡ lớn B.29 dùng để chuyển tiền vào miền Nam |
TT - Tiền của "Quỹ ngoại tệ đặc biệt" được cất giữ nghiêm ngặt tại tầng hầm Ngân hàng Nhà nước trung ương, 49 Lý Thái Tổ, Hà Nội, do "Quỹ ngoại tệ đặc biệt" (B.29) quản lý.
Nghe đọc nội dung toàn bài: |
Đến thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng và chở đi. Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng":
Tiền được đặt trong "vali ngoại giao", hoặc nếu nhiều thì đóng vào các thùng nghi trang như đồ hộp xuất khẩu, đi theo tuyến hàng không Hà Nội - Phnom Penh hoặc Hà Nội - Quảng Châu - Phnom Penh.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: Quỹ ngoại tệ đặc biệt
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: Quỹ ngoại tệ đặc biệt
Tiếp nhận và "chế biến" tại chỗ
Con đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận đôla vẫn là tuyến đường Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Hành trình của các loại tiền kể trên từ Hà Nội vào Nam được phân bổ theo từng phân đoạn, theo quy định của trung ương: tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Trung ương phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây nguyên, Nam bộ (B2)... Tại từng khu vực nói trên, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng đảng bộ, với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các ban tài chính hoặc ban kinh - tài trực thuộc.
Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số do trung ương đã đổi và chuyển vào không đủ, phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc "chế biến" này được thực hiện theo phương pháp phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn, bởi từ sau năm 1970 sự mất giá của tiền Sài Gòn xảy ra liên tục, tỉ lệ mất giá ngày càng cao). Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại ban kinh - tài hoặc cơ quan ngân tín được đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.
Từ năm 1964-1965 chi phí cho miền Nam tăng lên rất nhiều, phương thức AM càng thêm khó khăn, tốn kém, kể cả sự hi sinh xương máu. Trong tình hình mới nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Thứ nhất, Mỹ ra sức đánh phá các con đường trên bộ và trên biển, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Thực tế đã xảy ra một số lần đối phương ném bom trúng xe chở hàng, trong đó có các thùng đựng tiền, vỏ thùng đựng tiền tuy không bị cháy nhưng sức nóng của lửa đã làm phân hủy số đôla bên trong. Từ giữa thập kỷ 1960 tình hình chính trị của Campuchia bất ổn, đặc biệt từ khi có đảo chính của Lonnol thì con đường này cũng chỉ có thể được sử dụng một cách rất hạn chế. Thứ hai, việc "chế biến" lần thứ hai từ đôla ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn, không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một số tiền quá lớn trên thị trường miền Nam.
Phương pháp mới
Ông Mười Phi (trái) gặp ông Mai Hữu Ích tại Phnom Penh bàn về triển khai phương pháp mới FM. |
Từ 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành để bám trụ. Hai cán bộ là Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, tức Dân Sanh) đã nảy ra ý định "chơi theo luật chơi", nghĩa là sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng.
Phát hiện bất ngờ này được đề xuất với trung ương. Sau đó được trung ương chấp thuận cho thực thi, gọi là phương pháp mới, ký hiệu là FM. FM là phương thức chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản. Chuyển khoản có hai chiều: nhận và trả.
Khâu nhận: Tiền Z (tiền Sài Gòn) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (tức N.2683), sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng đôla. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn, có mật danh là C.130 do Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu.
Tiền Z được giao tại những nơi quy ước là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ôtô đem đi. Phương pháp này được mang ký hiệu là FM vì FM vừa là tên gọi một kênh phát sóng ngắn hơn AM, vừa là chữ viết tắt của phương pháp mới (F: phương pháp; M: mới). Phương pháp này có nhiều thuận lợi hơn phương pháp AM: có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình đầy rủi ro của phương pháp AM, an toàn hơn, kín đáo hơn, không bị thiệt thòi do vấn đề tỉ giá, mà có trường hợp còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi suất này trong mười năm tính ra tới gần 25 triệu đôla).
Để thực hiện FM cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí. Tại Hà Nội, bộ phận B.29 thuộc Vietcombank dùng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền, chuyển tiền. Bộ phận đó vẫn do ông Mai Hữu Ích điều hành và trưởng phòng thanh toán Nguyễn Nhật Hồng (còn gọi là Ba Hồng) trực tiếp phụ trách.
Ở trong Nam, một bộ phận có bí danh là N.2683 do ông Mười Phi làm trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận đặt tại Sài Gòn. Cơ sở này trực thuộc Trung ương Cục, gọi là Ban Công tác đặc biệt. Nó là một "đối tác" đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài.
Ông Mười Phi nhận định: "Đây cũng là một loại đường mòn Hồ Chí Minh nhưng không dùng ôtô, tàu thủy, máy bay hay đường ống nên không có vết chân nguời. Chỉ có những lệnh chuyển tiền thôi. Anh Phạm Hùng cho tôi danh sách năm người để tôi chọn. Tôi chọn anh Ba Châu và nhắc anh Phạm Hùng nên cho anh Ba Châu đi học thêm tiếng Khơme, học tình báo rồi hãy vào Phnom Penh giúp chúng tôi".
Ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) - phó Ban N.2683 - kể lại: "Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. Với biện pháp FM, nói cách khác, với hoạt động ngân hàng đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ tại miền Nam, chúng tôi "Ban Công tác đặc biệt" trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với các loại bí số D.270 và N.2683, mà tôi là phó trưởng ban, anh Mười Thăng Long là trưởng ban, đã cung cấp các loại tiền nhanh chóng, đủ và đúng theo yêu cầu của Cục Hậu cần miền Nam".
ĐẶNG PHONG
---------------------------------------
Khâu tiếp theo rất quan trọng và đầy rủi ro là chuyển tiền về các vùng căn cứ. Phải tổ chức một loạt đường vận chuyển hợp pháp để kết hợp chở hàng, chở khách với việc chở tiền.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
Bà Đỗ Thị Lệ Hồng kể lại công việc chuyển tiền |
TT - Sau khi lấy được tiền Sài Gòn, một khâu rất quan trọng nhưng lại đầy rủi ro là chuyển về các vùng căn cứ. Quy ước là chỉ nhận tiền lớn và đã đóng gói, có dấu của ngân hàng để đỡ mất công đếm.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
Sau khi nhận, tiền được cất trong các kho phân tán tại các cơ sở rải rác khắp nội thành, do Tư Trần An (một Hoa kiều chuyên nhập vàng từ Hong Kong về bán cho các chủ tiệm vàng ở Sài Gòn) sắp đặt và Dân Sanh (Nguyễn Thanh Quang) quản lý. Cũng chính Dân Sanh là người tổ chức vận chuyển. Tiền giấy chở nhiều rất nặng, Dân Sanh phải tổ chức một loạt đường vận chuyển hợp pháp để kết hợp chở hàng, chở khách với việc chở tiền. Đây cũng là cả một kỳ công.
Đảm bảo bí mật
Ông Mười Phi kể: "Trần An đã thiết lập những kho chứa kiên cố, bí mật để giấu tiền chờ giao, chờ chuyển, xe hơi có thể ra vào chở hàng thuận tiện. Phía Dân Sanh cũng có hệ thống kho của mình. Dân Sanh tổ chức thêm xe tải chở đậu vào Chợ Lớn bán rồi mua phân tro tải về Suối Sâu. Năm Đậu tải phân đồng thời tải luôn cả tiền về giao cho Ba Công để chuyển tiền về R. Dân Sanh đã tự tạo cho mình một cơ cấu bình phong dày đặc gồm một đoàn xe tải, hai tàu đi buôn về miền Trung, làm nhiều thứ việc, phối hợp với Phương Mai, Thu Hương, Dân Cường.
Về sau C.130 (biệt danh của nhà cung cấp tiền Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam - N.2683, do Dân Sanh đảm nhiệm) đã có cả đoàn 40 xe tải mua bán gạo với cao nguyên và Trung bộ, giao tận đại lý gạo tại Buôn Ma Thuột. Nơi đó, Khu VI cử người đến nhận lại tiền, giấu trong gạo. Đồng thời có hai chiếc tàu Phương Mai và Thuận Phong mua bán bia từ Sài Gòn chở ra Huế, Đà Nẵng. Trên đường ra miền Trung, tàu dừng lại Vũng Rô (Phú Yên) ban đêm chờ bộ đội giải phóng ra khơi nhận tiền, đưa lên núi cho Khu V".
Tiền mặt các loại, chủ yếu bằng đôla Mỹ và tiền Sài Gòn, theo cả hai phương thức chi viện AM và FM cuối cùng đều được tập trung về các vùng căn cứ kháng chiến, do các cơ quan tài chính và ngân tín trực tiếp quản lý, điều hành phân phối theo các nhu cầu kháng chiến.
Về việc vận chuyển tiền cho các căn cứ, một trong những người trực tiếp tham gia là bà Đỗ Thị Lệ Hồng, nay là phó giám đốc Ngân hàng Ngoại thương tỉnh Cần Thơ, kể lại: "Trước khi về miền Tây, tôi là lính của anh Trần Dương, tức anh Ba Thái, Ban Kinh tài Trung ương Cục. Tôi được phân công vào một nhóm có nhiệm vụ chuyển tiền từ Campuchia về cho các đơn vị thuộc Trung ương Cục.
Chúng tôi sắm những con thuyền có gắn máy, đóng vai đi buôn gạo, buôn trái cây dọc sông Mekong, vận chuyển hàng từ Phnom Penh về Nam bộ. Có khi một tháng một lần, khi vài tháng một lần. Bên dưới đáy thuyền có giấu tiền. Chúng tôi phải bố trí những chuyến hàng rất cẩn thận vì đó là tài sản của Đảng, của bao nhiêu đơn vị đang cần đến nó cho công cuộc kháng chiến. Tiền chở về được đưa về những địa chỉ nhất định, có người tiếp nhận.
Tuy là cấp dưới của anh Trần Dương nhưng trong thời kỳ chiến tranh chưa bao giờ tôi biết mặt anh ấy. Chúng tôi đi về, gặp nhau, giao nhận tiền... thường đều bịt kín mặt, chỉ thấy con mắt. Trong hoàn cảnh ác liệt lúc đó, đảm bảo bí mật là yêu cầu tối quan trọng. Phải không ai nhận được mặt nhau, để lỡ đối phương bắt được ai cũng không dễ lần ra đầu mối.
Trong số những anh em đến vùng căn cứ, có không ít người hoạt động ở nội thành. Những người đó lại càng phải giữ bí mật, không ai nhận diện được. Có những trường hợp chúng tôi thậm chí không nhìn thấy người nhau, không thấy dáng đi của nhau, mỗi người một bên bức vách bằng lá, trao đổi với nhau một số điều cần thiết, để lại tài liệu, thỏa thuận những mật hiệu và những con số..., sau đó mỗi người một ngả. Chính vì vậy đối phương khó có thể phát hiện và tìm ra manh mối của các cơ sở cách mạng, cả trong thành lẫn ngoài vùng căn cứ".
Nhà thầu khoán
Nhà thầu khoán Lữ Văn Buối trong thời kỳ làm “xây dựng” ở miền Tây |
Một trong những tuyến chuyển ngân quan trọng nhất là chuyển từ C.130 tại Sài Gòn về các tỉnh miền Tây. Đối với miền Tây, từ sau cuộc Đồng khởi, việc thu đảm vụ (từ giữa thập niên 1960, Trung ương Cục có chủ trương huy động sự đóng góp của nhân dân cho cuộc kháng chiến dưới hình thức thuế gọi là "đảm vụ”, chủ yếu là thu ở các hộ kinh doanh công thương nghiệp và những hộ nông dân có thu nhập cao) tại chỗ ngày càng eo hẹp. Quân đội đối phương lấn chiếm và quản lý rất chặt chẽ các vùng nông thôn. Do đó không có khả năng tự túc về tài chính mà phải nhờ sự chi viện từ trung ương thông qua Trung ương Cục, cụ thể là qua tuyến C.130 rót về.
Người đảm đương công việc này chính là thân phụ của Lữ Minh Châu (phó trưởng ban N.2683): ông Lữ Văn Buối, một cán bộ lão thành cách mạng hoạt động từ thời tiền khởi nghĩa. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ông đóng vai trò một doanh nhân người Hoa (gia đình ông vốn là dòng họ Minh Hương đã sinh sống ở Cà Mau 3-4 thế kỷ trước). Ông chuyên kinh doanh ngành xây dựng. Lĩnh vực của ông là thầu xây dựng các khu chợ thuộc các thị xã và thị trấn ở miền Tây Nam bộ, suốt từ Sài Gòn đến Cà Mau.
Ông có phong độ chững chạc của một doanh nhân lớn, công việc của ông lại rất rõ ràng và cụ thể, không ai có thể nghi ngờ. Khi nhận được "chỉ thị” từ con trai, ông cho chuyển các khoản tiền của C.130 về điểm quy ước là chợ Cà Mau.
Ở Cà Mau có một cơ sở kinh doanh của ông nhận khoản chuyển ngân đó. Họ rút ra thành tiền mặt. Lượng tiền mặt đó được đóng thùng như những thùng hàng bình thường rồi chuyển tới các sạp hàng ngay giữa chợ Cà Mau. Người của các quân khu VIII, IX nhận được mật hiệu thì đến đó để nhận "hàng". Giữa một khu chợ sầm uất, đông đúc và ồn ào như chợ Cà Mau, việc có người đem tới những thùng hàng nào đó và có người khác tới nhận mang đi là chuyện hoàn toàn bình thường, không ai để ý, cũng không ai có thể ngờ việc chuyển giao những khối tiền lớn cho các căn cứ kháng chiến lại được thực hiện ở đây.
Từ đó cho tới ngày giải phóng miền Nam, tuyến đường chuyển ngân qua tay ông Lữ Văn Buối là tuyến đường quan trọng nhất, là nguồn dinh dưỡng tài chính cơ bản cho toàn miền Tây Nam bộ. Sau ngày giải phóng miền Nam, ông Lữ Văn Buối đã trút bỏ "phần đời" của một nhà thầu khoán, sống cuộc đời thanh bạch của một chiến sĩ cách mạng lão thành trong lĩnh vực tài chính của miền Nam.
ĐẶNG PHONG
--------------------------------------
Một hôm, ông Hai Xô cho gọi năm anh em bảo vệ đến giao nhiệm vụ. Ông nói đại ý: "Hiện có một số hàng cần bảo quản giữ gìn, đây là bí mật quốc gia, các chú phải coi trọng và bảo vệ an toàn tuyệt đối cho dù phải hi sinh cả tính mạng". Không có các thủ tục xuất, nhập, giấy tờ, biên bản. Làm sao để giữ?
Kỳ tới: Cất giữ "kho báu"
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 8 Cất giữ "kho báu"
C.32 đón đoàn xe vận chuyển hàng và tiền từ Bắc vào |
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
Bí mật quốc gia
Ông Nguyễn Thành Nguyên, người phụ trách kế toán của C.32, kể: "Tôi là trưởng kế toán và quản lý kho bạc, ký hiệu đơn vị tôi là B1/C32/BS107. Anh Hai Cảnh phụ trách kho quỹ. Tôi được phân công theo dõi toàn bộ khoản tiền trung ương chi cho B qua hai con đường. Tiền đôla được trung ương chuyển theo đường bộ qua đường dây của đoàn 559 (Trường Sơn) vào thẳng đến C.32. Tiền Sài Gòn, riel Campuchia, kip Lào được giao chuyển từ nhiều con đường đến C.32... Số cán bộ của C.32 lo "chế biến" có các anh Lý Hồng, Thanh Châu, anh Giàu, Năm Hải, Ba Hài. Các anh này là cán bộ phụ trách, mỗi chốt đều có thêm một số đồng chí khác cùng làm việc...
Mỗi lần trung ương gửi tiền mặt đôla hoặc chuyển khoản đôla đều có điện báo vào C.32, tôi đều vào sổ để đối chiếu số liệu với các bộ phận liên quan. Hằng tháng, quý, năm, kế toán chúng tôi đều có lập báo cáo viết và bản cân đối kế toán nộp lên Ban Kinh - tài. Ông Trần Dương là phó ban, ông Hai Xô, thường vụ Trung ương Cục, là trưởng ban".
Thượng tá an ninh Phạm Bạn - nguyên chiến sĩ cận vệ Trung ương Cục miền Nam - nhớ lại: "Một hôm, ông Hai Xô cho gọi năm anh em bảo vệ (trong đó có tôi) đến giao nhiệm vụ. Ông nói đại ý: Hiện có một số hàng cần bảo quản giữ gìn, đây là bí mật quốc gia, các chú phải coi trọng và bảo vệ an toàn tuyệt đối cho dù phải hi sinh cả tính mạng. Không có các thủ tục xuất, nhập, giấy tờ, biên bản. Chúng tôi chỉ biết đào hầm bí mật chắc chắn để chứa những hòm sắt dài độ 50cm, dày khoảng 20cm, nặng chừng 12kg, trong ruột có một hộp gắn thiếc nặng chừng 3kg. Bình thường các hộp đó để trong hầm, được canh gác nghiêm mật ngày đêm. Khi có động thì anh em tháo bỏ vỏ, cho các hộp vào balô con cóc, mỗi người mang bốn hộp bí mật chuyển cất giấu ở các cứ dự phòng. Chúng tôi làm công việc thầm lặng này một cách tự giác và nghiêm mật, tôi cảm thấy ngoài ông Hai Già (tức ông Hai Xô) và Ba Thái thì không còn ai biết "kho báu" cất giấu ở chỗ nào.
Một buổi chiều mùa khô năm 1972, hàng chục trực thăng quần đảo và đổ bộ xuống trảng, sát cứ kinh tài Miền. Nguy cơ bị "chụp" chỉ còn trong gang tấc. Anh em cảnh vệ đã tính đến phải mở đường máu để cứu nguy thủ trưởng hoặc chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ "kho báu". Song chính lúc đó, nhờ sự bình tĩnh và dày dạn kinh nghiệm chiến trường của ông Hai, chúng tôi đã giữ bí mật lực lượng cho đến khi màn đêm sập xuống, đối phương không dám nống ra.
Thời cơ ấy cho chúng tôi cắt rừng chuyển cứ suốt đêm, đảm bảo người và tài sản an toàn đến nơi ở mới. Sau này, giải phóng miền Nam, chúng tôi mới được biết mình đã từng bảo vệ "kho bạc" có đến hàng triệu đôla trong bom đạn không hề suy suyển một xu. Trong số năm người thì bốn người đã qua đời vì chất độc da cam và các căn bệnh hiểm nghèo, nay chỉ còn lại mình tôi. Còn ông Hai Già - người thủ trưởng năm xưa của chúng tôi - nay đã ở tuổi 91".
Những cái "kho"
Dưới nền căn nhà lá này là “kho báu” (người ngồi võng là Phạm Bạn, chiến sĩ cận vệ Trung ương Cục miền Nam), tại cứ R năm 1973 - Ảnh tư liệu |
Trong hệ thống phân phối tiền từ Trung ương Cục tới các phân khu, có hệ thống các kho quỹ của khu và tỉnh. Nói đến chữ kho, người ta thường hình dung những ngôi nhà kín cổng cao tường với những két sắt kiên cố...
Nhưng cái gọi là kho của các khu và các tỉnh thời kỳ này thật ra chỉ là một hòm sắt. Bà Đỗ Thị Lệ Hồng sau khi làm công tác vận chuyển tiền, năm 1970 được phân công phụ trách kho quỹ của Khu IX. Bà kể lại: "Cơ ngơi kho quỹ của tôi chỉ là một chiếc bàn nhỏ và một chiếc hòm sắt, vốn là thùng đựng đạn đại bác, có nắp kín, không thấm nước. Tiền để trong đó. Công việc tôi được giao là cấp phát tiền theo lệnh của khu cho các đơn vị. Tiền đó chủ yếu để chi tiêu cho các đơn vị như mua sắm, trả tiền thuê mướn, vận chuyển. Còn tiền lương thì tất cả miền Tây lúc đó không có, chỉ có sinh hoạt phí. Mức sinh hoạt phí của mọi người như nhau.
Bản thân tôi cũng như tất cả các đồng chí khác, từ lãnh đạo khu cho tới nhân viên đều được hưởng một khoản sinh hoạt phí mà tôi không nhớ là bao nhiêu, chỉ nhớ rằng tính ra hằng tháng chỉ mua được một ống kem đánh răng và một bàn chải. Còn cái "kho" của tôi thường xuyên phải dìm xuống sình 3-4 lần một ngày. Mỗi lần có máy bay, có đại bác bắn thì người phải chui vào hầm, "kho" thì dìm xuống sình để nếu lính càn tới không tìm thấy tiền, bom đạn bắn phá cũng không bị hư nát. Khi có người đến lãnh tiền, giao tiền lại phải kéo "kho" lên. Kéo lên xong thì rửa tay cho sạch. Làm xong công việc lại đưa kho xuống sình. Tay tôi vì thế suốt ngày lấm lem vì sình" .
Tại chiến trường Liên khu V, nguồn tiền trung ương đưa vào được ngân tín Khu V, thuộc Ban Tài - mậu Liên khu ủy, tiếp nhận, quản lý và phân phối. Nếu phải "chế biến" từ đôla Mỹ ra tiền Sài Gòn thì ngân tín các tỉnh được giao trách nhiệm thực hiện chế biến phân tán lẻ, theo sự chỉ đạo về số lượng và tỉ giá tối thiểu của tài - mậu khu ủy V... Ông Võ Văn Kiểu, người phụ trách ngân tín Bình Định, cho biết: "Năm 1968 tôi được Ngân hàng Trung ương cử đi B1, phụ trách trưởng tiểu ban ngân tín, trực thuộc Ban Tài - mậu Tỉnh ủy Bình Định. Nguồn tiền mặt đôla Mỹ, trung ương giao cho khu, khu giao cho tỉnh quản lý và chế biến. Số lượng đôla cần chế biến ra tiền Sài Gòn cũng như tỉ giá tối thiểu giữa đôla và tiền Z đều do khu ủy chỉ đạo.
Tiền đôla từ căn cứ chiến khu cần chuyển tới vùng ven thành phố Quy Nhơn, do cán bộ ngân tín phụ trách. Còn các cán bộ hoạt động hợp pháp trong thành phố thì liên hệ với các cơ sở thương nhân để đặt yêu cầu, xác định số lượng và tỉ giá. Nguyên tắc là "tiền trao cháo múc". Lấy "Núi Bà” vùng ven chiến khu làm nơi giao nhận tiền. Từ đây, tiền Sài Gòn tiếp tục do các cán bộ ngân tín đưa về căn cứ các nơi theo chỉ đạo của tỉnh và khu ủy. Trong những cán bộ ngân tín làm nhiệm vụ này, hiện ở Bình Định còn nhiều người đang công tác tại các ngành. Như anh Thao, giám đốc Vietcombank Quy Nhơn hiện thời, đã từng làm nhiệm vụ trên, khi đó anh Thao mới 17, 18 tuổi".
ĐẶNG PHONG
------------------------
No comments:
Post a Comment