Saturday, June 23, 2018

 




Hiệp Định Paris 27/1/1973
Nhị-trùng, Ðại-tá bắc Việt cộng Bùi-Tín chỉ gọi là Ðường 559, chứ không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Sau Hiệp định Paris 27/1/1973, quân đội và chuyên viên Bắc-Việt cùng các kỹ-sư Cuba làm lại con đường Đông Trường-Sơn: khởi đầu từ Khe-Cát thuộc Huyện Bố-Trạch, Quảng-Bình, vượt Sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba-lòng ở khu vực Quảng-Trị và Thừa-Thiên, qua Aluối, Ashau, rồi đi nép theo biên giới Việt-Lào phía sau đèo Hải-Vân, Bạch-Mã vào Quảng-Nam, khi đến Khâm-Đức thì vòng lên Ngọc-Hồi thuộc phần đất Kontum, vùng đất nầy vô cùng hiểm trở núi non trùng điệp và cao nhất trong miền Nam Việt Nam. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê-Thuột đang do Quân-Lực VNCH trấn giữ nên BV phải làm con đường song song thứ 2, lấy tên là 14A đi sát biên giới Việt-Lào qua phần đất của Tỉnh Kontum Pleiku và Ban Mê-Thuột, tại đây hai đường Trường-Sơn Đông và Tây chụm lại với nhau, rồi đổ xuống Bà-Rá, Phước-Thành, Bình-Long, Lộc-Ninh (trong ống kính của trục ma/quỹ nó là Xa Lộ Liên Bang Đông Dương).

 

 

 

 




Hiệp Định Paris 27/1/1973
Nhị-trùng, Ðại-tá bắc Việt cộng Bùi-Tín chỉ gọi là Ðường 559, chứ không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Sau Hiệp định Paris 27/1/1973, quân đội và chuyên viên Bắc-Việt cùng các kỹ-sư Cuba làm lại con đường Đông Trường-Sơn: khởi đầu từ Khe-Cát thuộc Huyện Bố-Trạch, Quảng-Bình, vượt Sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba-lòng ở khu vực Quảng-Trị và Thừa-Thiên, qua Aluối, Ashau, rồi đi nép theo biên giới Việt-Lào phía sau đèo Hải-Vân, Bạch-Mã vào Quãng-Nam, khi đến Khâm-Đức thì vòng lên Ngọc-Hồi thuộc phần đất Kontum, vùng đất nầy vô cùng hiểm trở núi non trùng điệp và cao nhất trong miền Nam Việt Nam. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê-Thuột đang do Quân-lực VNCH trấn giữ nên BV phải làm con đường song song thứ 2, lấy tên là 14A đi sát biên giới Việt-Lào qua phần đất của Tỉnh Kontum Pleiku và Ban Mê-Thuột, tại đây hai đường Trường-Sơn Đông, Tây chụm lại với nhau, rồi đỗ xuống Bà-Rá, Phước-Thành, Bình-Long, Lộc-Ninh (trong ống kính của trục ma/quỹ nó là Xa lô Liên Bang Đông Dương).

Kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy, nhiều khúc đường 14 từ Thừa-Thiên đến Ban Mê-Thuột đang được Cộng-quân ngang nhiên sửa chửa để chuyển quân, cạnh con đường nầy, có một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt nằm song song theo đó như từ xương Sống tiếp nối qua xương Sườn ra phía Ðông vào các vùng đông dân mà Không Quân Miền Nam, Hoa-kỳ không được quyền oanh tạc vì dựa vào điều khoản Hiệp định hòa bình Paris 1973, để chuẩn bị giai đoạn chuyển tiếp bàn giao Miền Nam cho Hà Nội. Ngoài ra phe thân Liên-Xô là Lê Duẫn đã yêu cầu Liên-Xô phụ giúp, nên Hoa-kỳ (sau Hiệp định Paris) a tòng với Liên-Xô, bí mật sắp xếp cho Cuba qua giúp CSBV, kết quả, tháng 9/1973, trong chuyến viếng thăm của Chủ Tịch Fidel-Castro tại Hà-Nội, chính quyền CSBV đã yêu cầu nước anh em XHCN Cuba trợ giúp kỹ thuật trong việc mở rộng mạng lưới Đường Mòn nầy. Theo thoả hiệp đạt được, một nhóm 43 người Việt sẽ đến Cuba vào tháng 11/1973 và sau khi được huấn luyện về các kỷ thuật xây dựng của công binh Cuba, họ đã trở về Bắc-Việt cùng với các huấn luyện viên người Cuba bắt tay vào việc. Đại-Tá Cuba, Roberto Leon sẽ làm Trưởng-Đoàn xây dựng Công-binh Cuba, gồm 23 kỹ sư cầu đường và khoảng 50 người chuyên viên Việt-Nam khẩn cấp bắt tay vào việc. Thế là bắt đầu năm 1973, Đoàn Công binh Cuba ra sức giúp mở đường giao liên cho CSBV; Đường 559 (Xa-lộ Harriman) mạng lưới gồm đường xá và hầm trú-ẩn trải dài hàng ngàn cây số, phần lớn xuyên qua rừng rậm, để giúp bộ-đội BV tiến vào xâm chiếm Miền-Nam.

Đó cũng là lý do tướng Ngô Q Trưởng đã có chỉ thị rõ ràng: “Các anh em phi công khi thấy xe tăng, Molotova, bộ đội Bắc Việt di chuyển trên đường Hồ Chí Minh, dù trong tằm oanh kích của ta thì cũng đừng hành động gì; cứ để cho chúng tiếp tục vào Nam!” Có nguồn tin cho rằng Tướng Trưởng muốn cho họ đi qua để nhẹ áp lực Vùng-1, nhưng có người cho rằng vì áp lực của Mỹ có dính dấp đến các điều khoản đã ký trong bản hiệp định Paris. Có một lần phi tuần viên A.37 đã không tuân theo phi tuần trưởng oanh kích theo dấu đánh trái khói hướng dẩn của L-19 quan sát mà lại oanh kích vào đoàn xe nhỏ nên làm cho phái đoàn CS đàn anh bị tử thương. Viên phi công nầy bị tù trọng cấm vì không thả đúng mục tiêu như phi tuần trưởng dẩn đạo cho cuộc oanh kích; Anh giản-giải nguyên nhân thả khơi khơi trong núi phí bom đạn, khi có mục tiêu rỏ ràng sao không thả. Hậu quả anh bị tù trọng cấm nhưng không nặng lắm.

Còn Nhị-trùng, Ðại-tá CSBV Bùi-Tín thì được móm của trục Ma Quỷ nên cho rằng: “Mỹ [làm bộ] không hiểu thái độ “Trung Lập” của Cambodia, và đặc biệt của Lào, ông hoàng Sihanouk và Phouma đều nghiêng về phía Hà Nội; Hiệp định Genève năm 1962 về nền trung lập của Lào không hề ngăn Bắc Việt Nam để nhiều quân ở Nam Lào và dùng Lào để thâm nhập qua Xa lộ Harriman/đường mòn Hồ được đơn-vị Ðoàn 959 của Pathet Lào bảo vệ. Mỹ (Harriman) làm rất ít để không tác động đến Vientiane và PnomPenh trong khi Hà Nội và Bắc Kinh tranh thủ và tận dụng nền Trung lập nghiêng-ngả ấy với sự nháy mắt ngầm đồng ý của Harriman; Nếu phía Washington sớm nhìn thật rõ được những điều kể trên để có chủ trương thích hợp thì tình hình đã có thể đổi khác và sự kết thúc chiến tranh cũng không phải như chúng ta đã thấy! Ðại Tá Việt cộng Bùi Tín chỉ nói như con Vẹt do một kẻ bí mật ở sau lưng hối thúc. Làm gì Bùi Tín hiểu được sự tấn công qua Cambodia và Lào là “Một sự di tản chiến lược an toàn” qua tu chánh-án Cooper-Church 1970 (manage the defeat) và sẽ trở lại ở giai đoạn-3 màn kết (Overhauling the damage control to Roll-Back 2010-2020).

Cuối cùng thì Trung Quốc đã chia ra nhiều tiểu quốc bằng “tối huệ quốc” của Hoa Kỳ (the U.S. Freedom Support Act) cũng tái diễn lại y chang trường hợp một nước độc tài như Liên-bang-Liên Xô bị chia cắt bởi tám nước Cộng Hòa.

Dĩ nhiên là những nước Cộng Hòa tách rời nầy mực sống của người dân cao hơn dân cư sống tại thủ đô Bắc Kinh và Moscova dựa vào cái dù che “The US Freedom Support Act”.

Vì trong guồng máy chiến tranh, Mỹ đã chuẩn bị và đang phải kiểm soát lại trong kinh tế và cả trên chính-lược Mỹ để phải đè bẹp Trung quốc bằng mọi giá; Năm 1962 Tình Báo MACV báo cáo Pentagon là quân Bắc Việt đang xây dựng đường Mòn Hồ bắt đầu từ phía Tây vùng phi quân sự; Được lệnh từ viên chức đứng hàng thứ Ba của Bộ ngoại giao là Harriman (người sáng lập ra đảng-hội Skull and Bones 1920) ngầm ra mật-lệnh cho Forrestal, thành viên Hội đồng An Ninh quốc gia Hoa-Kỳ (NSC) và Leonard Unger, Đại sứ Hoa Kỳ tại Lào thông báo cho MACV không được đụng đến phần đất của Lào-quốc. Năm 1964, Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cảnh cáo Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara: Dù được lệnh như MACV không được quyền can dự ở Lào, nhưng ít ra phải để cho QLVNCH có quyền chống đở biên giới của họ chớ? Mc Namara không còn cách nào bèn cầu cứu với George Bundy, cố vấn TT Johnson để thả dây cương cho quân lực VNCH được quyền đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Dỉ nhiên TT Johnson rất bằng lòng chấp nhận ngay; Công điện đang chuyển qua MACV Saigon, thì liền sau đó có lệnh ngầm, Forrestal cảnh cáo ngay với Bundy:

- “Dù rằng TT Johnson đã ký lệnh, nhưng không có dấu “khán” của Harriman thì là một điều rắc rối: “Anh cũng thừa hiểu chữ ký của Johnson không thôi thì không có giá trị.” Bao nhiêu đó thôi thì đọc giả cũng hiểu ngay là ai nắm chính sách của Hoa Kỳ (to send the telegram without Averell w. Harriman’s approval, that the telegram was not enough).

Thế nên, Tôi tự cho rằng đây là Xa lộ Harriman! Đến khi vì quá sốt ruột đem lại sự chiến thắng tự vệ cho người dân miền nam, Tướng Westmoreland đòi hỏi ngay vị Tổng tư Lệnh quân đội Mỹ là TT Johnson xin TT cho lệnh quân đội Mỹ đánh sang Lào thì ông bị triệu hồi về Mỹ ngay. Sau nầy SOG xin phép được hành quân qua Lào và Cambodia để cấp cứu đồng đội lâm nạn nhưng vẫn bị từ chối; Vì thế Tôi tự cho rằng Đường 559 đả trở nên Xa Lộ Harriman từ dạo đó, Nó đã có ống dẩn dầu huyết mạch chạy song song với nó. Năm 1967-68 khi tôi đang học khóa Chỉ huy Tham Mưu tại Air University Maxwell Montgomery, Alabama Hoa-kỳ - Lúc nầy chiến tranh VN đang thời khốc liệt vào Tết Mậu-Thân, Cứ mỗi lần ‘coffee-break’ Tôi bị bao quanh bởi các bạn Mỹ, và sĩ quan Đồng minh cùng khóa, kể cả các giảng viên. Họ luân phiên hỏi Tôi về chiến tranh VN, Tôi còn nhớ rõ, Tôi chỉ đáp lại là: “phòng thủ Nam Việt Nam trở thành vô nghĩa khi lại nhường cho địch vùng biên giới với các quốc gia Lào và Cambodia. Tôi không phản đối gì việc ngăn ngừa Cộng Sản bành trướng, nhưng chẳng thấy chiến lược nào đang áp dụng lại có triển vọng thành công; tuy nhiên, lòng yêu nước của tôi mạnh hơn nỗi bất mản về chiến lược lãnh đạo kém!”

Một viên chức cao-cấp về địa dư của quân đội Hoa Kỳ, ông John-Collins, ghi nhận rằng: Ðường Trường Sơn nầy cũng chẳng có gì lạ, ngoài một chuổi dài rừng núi bao la hiểm trở, có những đoạn đường Mòn dài cả chục cây số, lá rừng dầy đặt che khuất ba tầng đến nổi không thấy được ánh mặt trời. Dưới đó, nhứt là thời kỳ chống thực dân Pháp, biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ yêu nước hy sinh cả đời mình cho cuộc kháng chiến chống Pháp; hằng ngày họ phải cồng lưng khuân vác những trang cụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến; người Pháp với phương tiện không thám nghèo nàn và lỗi thời thì làm cách nào mà phát hiện nỗi. Ngoài ra kháng chiến quân ăn uống kham khổ, không cần tiếp tế như một đạo quân dả chiến, nên khó bị phát hiện. Trang bị vũ khí cướp được của Pháp hay những vũ khí mà họ tự tạo thô sơ qua các Công binh xưởng, ráp nối như đồ chơi trẻ con mà John. Collins cho là Rube-Goldberg Toys.

Giữa năm 1950, lực lượng Việt Minh bắt đầu khai mở Ðường Trường Sơn, tuy nhiên chỉ hoạt động cầm chừng, lẻ tẻ từng toán nhỏ giao liên, nhưng chỉ xuyên qua những đoạn đường thuộc phần đất thực dân Pháp tạm chiếm của các thành phố lớn như: Nha Trang, Qui Nhơn, Ðà-Nẳng, Huế, Quảng Trị… còn lại họ di-chuyển xuyên qua các vùng đồng bằng, cận đông của Dãy Trường Sơn do lực lượng Việt-Minh kiểm soát. Hiệp định Genève ngày 20 tháng bảy, 1954, Cộng Sản bị đẩy ra Bắc, ngoài vĩ-tuyến 17,

Quân đội Cộng sản buộc phải lên tàu của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, như Ba-lan, Hungary… từ các hải cảng như Quy Nhơn…Nhưng Cộng sản vẫn gài lại một số cán bộ nằm vùng. Ở những Làng Huyện cận sơn như Minh Long, Ba tơ, Gia Vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Cán bộ Cộng sản lấy vợ Thượng, chịu hội nhập phong tục “Cà răng căng tai” đóng chốt tại chỗ. Cộng sản chôn dấu một số vũ khí để mai phục về sau khi phát động tái vỏ trang xâm lược miền Nam; Một số cán bộ nồng cốt được đưa ra Bắc nhưng quyết không từ bỏ ý đồ trở lại thôn tính miền Nam bằng vũ lực vì mắc mớ gia đình còn kẹt lại tại Miền Nam. (Từ 1943 khi Harriman đang làm Ðại sứ Mỹ tại Liên Xô đã có ý đồ dời chiến tranh qua Triều-Tiên rồi Việt Nam (theo mô hình chia đôi thành hai nước như sẽ kết thúc chiến tranh và chia Đức ra làm hai theo chương trình “Aid to Russia 1941-1946 Plan) Sau khi móc nối được Cụ Hố Chí Minh vào Service of War Information 1943 (tôi tạm dich “Sở tin Chiến tranh ở Côn-Minh, chắc chắn thế hệ thứ tư thứ năm sẽ nói rõ những sự kiện nầy ra vì các sữ-gia luôn luôn sẽ làm sáng tỏ và công minh cho lịch sử VN sau nầy với vô số tài liệu bất thần lộ ra như cuốn DVD sự thật HCM).

Vì thế Ðường Trường Sơn được đổi tên lại là Ðường Mòn HCM do Nhóm tham mưu học giả của Harriman tung tin ra từ các nước Tây phương với mục tiêu chính trị, Họ muốn vinh danh HCM để bù đáp lại sự phản bội vì quyền lợi buộc Họ phải lừa gạt để kéo dài chiến tranh cũng như Họ tìm cách đưa tên HCM vào danh nhân thế giới tại UNESCO, Liên Hiệp Quốc sau nầy, nhưng thất bại vì sự đả phá của nhân dân Miền Nam chưa thấu hiểu.

Từ tháng Tư 1959, Bộ chính trị Cộng sản Hà Nội triệu tập một cuộc họp bí mật thứ 15 do áp lực ngầm của trục Ma Quỷ, để rồi Lê Ðức Thọ cương quyết đưa hàng ngàn cán bộ CS miền Nam trở về nằm vùng mai phục chờ chỉ thị mới của Bộ chính trị Trung ương Ðảng (trong khi Hồ đã ra lệnh rút 100.000 vế Bắc) Ðể thực hiện ý đồ nầy: Theo lệnh trục Ma/Quỷ, Lê Đức Thọ chỉ thị thành lập một đơn vị Mới để chuyên trách đưa người và tiếp liệu vào Nam. Ðó là “Ðoàn chuyển vận 559” do Tướng một sao Việt cộng Vỏ Bam chỉ huy. Quân đội Bắc Việt đặt tên là Đường 559 – Trong hồi ký của Ðại tá Việt cộng Bùi Tín “From Enemy to Friend” Paris, tháng 10-2003, chỉ gọi là Ðường 559. Phía Hà-Nội không bao giờ gọi là Ðường Mòn Hồ. Sự thật HCM đả bị anh em Lê Ðức Thọ và Mai Chí Thọ cùng Lê Duẩn trở về Hà Nội nắm quyền, cách ly HCM, ngày ngày Hồ chỉ lo vui thú điền-viên qua vun tưới cây “Vú-Sửa” Miền Nam và chỉ làm cảnh khi phải đón tiếp phái đoàn ngoại giao mà thôi.






 

 photo poster_zpskz4iphji.jpg  photo bathing_in_the_purple_rain__by_magnesina_zpsxz2pbuux.jpg Nước Tầu và Việt Nam

Người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chúa Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!

Trước hết, nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập” nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu. Các "vân đất” chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong.

Những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc.

Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm.

Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách di dân là:

1- Một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu. Họ dùng số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nền kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương.

2- Di dân còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng dòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay, cho nên chúng tôi nói: Trên 90% người Hoa Nam đi di dân từ thời nhà Minh.

3- Dù bất cứ ông vua nào khi "thống nhất" đất nước Tàu họ đều nghĩ ra phương thức hay phương pháp đồng hóa người Bách Việt và tìm cách xâm lăng Việt Nam..

4- Những cuộc chiến về văn hóa rất thâm độc nữa. Cuộc chiến tranh văn hóa lâu dài này khiến đa số người Việt chúng ta mắc phải một thứ bệnh: Bệnh này do sự cai trị lâu dài trải qua hàng ngàn năm của người Tàu đối với đất nước, dân tộc Việt Nam Họ đem cái "Hán Nho" của người Tàu vào Việt Nam và họ đã làm đảo lộn nếp sống, xã hội Việt Nam.

Có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thần thánh hơn nhiều và siêu linh hơn nhiều, một cuộc chiến tranh mà trong chúng ta ít biết hay nói đến - "chiến tranh siêu linh" - chuyện Cao Biền trong cuộc chiến tranh trấn yểm linh địa Việt Nam. Cuộc chiến tranh về trấn yểm giữa người Tàu đối với Việt Nam là cuộc chiến tranh hiển hiện từ ngàn xưa đã xảy ra và ngày hôm nay vẫn tiếp tục xảy ra. Cao Biền đã trấn yểm ở dòng sông Tô Lịch, đó là khoảng năm 865 trước đời nhà Đường và sau đời nhà Đường họ cũng vẫn tiếp tục như thế. Các học giả Việt Nam những người tinh thông về địa lý phong thủy như: Lưu Chi, Thiền Sư Định Không, Đinh Hương, Thiền Sư Thông Thiện v. v… họ là những người Việt Nam (Bách Việt) biết trước vụ Cao Biền qua Việt Nam, biết trước vụ Cao Biền sẽ trấn yểm các nơi linh địa, cũng như các Long Mạch trên đất Việt. Riêng La Quý An (852-936), ông là một người kiệt xuất và tinh thông về khoa địa lý phong thủy, La Quý An là học trò của Thiền Sư Thông Thiện, ông có thừa tài để phá các thế trấn yểm của Cao Biền. La Quý An mất với tuổi ngoài 80, ông đã để lại cả một gia sản đồ sộ về khoa phong thủy và địa lý, nhân văn cho đời sau. Vậy những môn học bí truyền này có còn lưu truyền hay tồn tại đến ngày hôm nay chăng? Chỉ những hậu thế và những ai có "duyên" mới có thể lãnh hội được đầy đủ những tinh hoa của tiền nhân.

Khi nhà Minh thống nhất Trung Quốc, thì Hoàng Phúc làm quân sư của nhà Minh (Hoàng Phúc sau này đã bị Vua Lê Lợi bắt sống, sau được trả về Tàu).

Trong cùng thời của Hoàng Phúc thì Việt Nam chúng ta lại xuất hiện những anh hùng tài ba như: Thiền Sư Không Đạo, Đức Vua Lê Lợi, hay thầy dạy của Nguyễn Văn An. Nguyễn An hay Nguyễn Văn An bị bắt đem về Tàu năm 11 tuổi, nhưng ông đã tinh thông về khoa thiên văn, phong thủy, địa lý. Năm 17 tuổi ông đã giúp nhà Minh xây dựng thành Bắc Kinh còn tồn tại đến ngày hôm nay. Thành Bắc Kinh được xây một phần lớn cũng có sự phác họa của Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn là một người tinh thông về khoa tướng số, phong thủy, dịch lý nên ông hiểu rằng sau khi giúp Chu Nguyên Chương thống nhất nước Trung Hoa, thì họ Chu sẽ tiêu diệt các công thần để trừ hậu họa. Sau này quả đúng như ông đã dự đoán và sau này duy chỉ có một mình họ Lưu trốn thoát (vì tinh thông dịch lý và tướng số nên Lưu Bá Ôn đã trốn thoát. Điều này cũng tương tự như Cụ Lý Đông A năm xưa, khi bị Cộng Sản bao vây ở Nga My và Hòa Bình, ông và một số đồng chí cũng đã trốn thoát) còn tất cả các công thần khác đều bị Chu Nguyên Chương giết sạch (có thể vì thấy thần đồng Nguyễn Văn An thông minh nên có lẽ họ Lưu cũng đã "góp sức" với Nguyễn Văn An để trấn yểm thành Bắc Kinh để trả thù nhà Minh?). Nguyễn Văn An đã khôn ngoan nghe lời thầy Việt Nam dặn và ông đã trấn yểm một số linh huyệt của nước Tàu, đồng thời ông đã phá được thế phong thủy trong thành Bắc Kinh. Khi Hoàng Phúc sang Việt Nam đã mang theo cuốn sách địa lý, phong thủy của Cao Biền. “Cuốn Cao Biền Kiểu Tự Tấu Thư" là một tấm bản đồ chi chít ghi rõ địa hình địa vật, nhân văn, kể cả những loài thảo mộc của nước ta).

Mỗi một thời người Tàu mạnh lên dù về mặt trí tuệ hay về mặt quân sự thì đều có những người Việt Nam tài giỏi đáp ứng hoặc trước, hoặc sau. Những người Việt tài ba này đều có sức mạnh về mặt trí tuệ, hoặc về mặt quân sự như lịch sử đã dẫn chứng.

- Thời nhà Đường có Cao Biền thì nước Nam có Thầy Định Không.

- Đến thời nhà Minh có Hoàng Phúc (người rất am tường về Dịch Lý, phong thủy. Hoàng Phúc cũng học các sách của Cao Biền trong việc trấn yểm Việt Nam), thì nước Nam có Sư Đạo Không, anh hùng áo vải Lê Lợi và Lê Lợi am tường nhiều binh thư, trong đó có khoa địa lý và phong thủy.

- Cho đến thời nhà Mạc chúng ta có Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Đến thời Lê - Trịnh chúng ta có tiến sĩ Hòa Chính Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao mà dân gian quen gọi ông là Ông Trạng Tả Ao.

Đây không phải là vấn đề lý số vớ vẩn, nhưng đây là khoa Huyền Học. Khoa Huyền Học này chứng tỏ cho thấy:

- Mỗi thời người Tàu mạnh về mặt trí tuệ, họ đều muốn sang để trấn yểm các long mạch Việt Nam, thì thế nào họ cũng gặp một số đối thủ người Việt có trình độ cao hơn, có như vậy người Việt mới phá được những thế trấn yểm thâm độc của Tàu tại Việt Nam. Ngoài việc đánh nhau với Tàu trên mặt Huyền Học, chúng ta còn đụng với Tàu về mặt quân sự qua những cuộc chiến tranh nơi chiến trường được thể hiện trong bốn bài học lịch sử mà người Việt Nam chúng ta đều đã nằm lòng mà chúng tôi đã có dịp nói qua trong bài "Cuộc Quật Khởi Của Toàn Dân Việt".

Cao Biền đã trấn yểm khi xây thành Đại La đồng thời phá cái thể phong thủy của nước Việt Nam trên sông Tô Lịch. Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La, viện cớ là thấy rồng bay lên cho nên ông đổi tên từ Đại La ra thành Thăng Long (Thăng Long có nghĩa là Rồng bay lên, như vậy vua Lý Thái Tổ biết chắc chắn rằng mình đã phá được các thế trấn yểm của Cao Biền năm xưa, nên cái lưới "Đại La” đã không còn linh nghiệm để có thể nhốt được con Rồng Việt nay đã bay lên "Thăng Long”).

Trong thực tế, Lý Khánh Vân và Lý Khánh Đản đã giúp Lý Công Uẩn phá hết các thế trấn yểm của Cao Biền trong thành Đại La. Những gì Cao Biền trấn yểm trên 13 thế kỷ thì cách đây chưa đầy một năm đã hoàn toàn bị phá hủy. Bị phá hủy ra sao? Xin thưa: Nơi dòng sông Tô Lịch bao quanh Hà Nội cách đây gần một năm đã nổi lên một lần ba cái xác người mà năm xưa Cao Biền đã cho chôn dưới dòng sông (do những đồng tiền cổ lấy được trong miệng từ các xác người này, người ta mới khẳng định là chính Cao Biền đã dùng các xác chết này để trấn yểm long mạch trên sông Tô Lịch). Một thời gian sau đó lại nổi lên thêm bảy xác nữa. Sự kiện này cho thấy: "Thế trấn yểm của Cao Biền ở 13 thế kỷ trước tại dòng sông Tô Lịch đã hoàn toàn bị phá hỏng".

Điều thứ hai chúng ta cần lưu ý là khi thành Thăng Long cổ xây cất từ thời nhà Lý mới đây vừa được khai quật, thì theo luật trấn yểm khi ánh sáng mặt trời chiếu vào sẽ làm mất đi âm khí, thì hiệu quả của thế trấn yểm do Cao Biền đặt trước đây đã bị Tán (nghĩa là bị phá tan).

Lăng Hồ Chí Minh hiện nay nằm ngay Soái Kỳ của Nhà Lý ngày xưa, điều này chứng tỏ rằng: "Các tay phong thủy và địa lý người Tàu đã giúp cho Cộng Sản Hà Nội một lần nữa trấn yểm lại Thành Thăng Long như Cao Biền đã làm ngày xưa, nhưng phúc cho dân tộc Việt Nam, là kinh đô Thăng Long đã hiện ra, như vậy thế trấn yểm của người Tàu cũng thật sự đã bị phá tan". Cho nên lần phát biểu trước đây, tôi có nói về chuyện lăng Hồ Chí Minh là "lăng trấn yểm” Tàu đã dùng những phương cách khác nhau và mượn ông "thầy bói" nào đó xúi cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ yểm xác Hồ Chí Minh tại đó (lăng Ba Đình).

Việc ướp xác này là hình thức trấn yểm mới của bọn Tàu đối với Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã đi Nga để yêu cầu Nga giúp Hà Nội bảo vệ xác chết của Hồ Chí Minh. Điều đó có nghĩa là: Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục làm công việc phản dân hại nước là dùng xác chết Hồ Chí Minh trấn yểm nơi linh thiêng của dân tộc ngay tại Soái Kỳ của Triều Lý ngày xưa.

Nhưng Hà Nội phải hiểu rằng "phúc đức” của họ đã không còn, nên cho dù họ có cố gắng dùng xác chết của Hồ Chí Minh trấn yểm ngay tại Thăng Long thì cũng vô hiệu quả. Đó là điều chúng ta phải thấy. hình thức chiến tranh đặc thù của Á Châu, nó chỉ xảy ra giữa người Tàu và người Việt, nhưng không xảy ra giữa người Tàu và người Nhật, hay người Tàu với người Triều Tiên. Cho nên tôi mới phán quyết lý do tại sao người Tàu mỗi một khi thống nhất đều phải đánh Việt Nam là vậy.

Nhà máy thủy điện Sơn La, vì vùng đó được coi là con mắt trái của Việt Nam. Khi xây nhà máy Sơn La thì Tàu có ý đồ thâm độc muốn đục thủng con mắt trái đó. Như vậy, nước Việt Nam bị mù một con mắt. Nếu con mắt phải là Hà Nội (Thăng Long) mở ra, thì con mắt trái lại bị mù. Đó là sự thật để cho mọi người Việt Nam chúng ta nhìn thấy sự thâm độc trong từng đường lối chi tiết của người Tàu đối với Việt Nam. Cuộc chiến tranh trấn yểm này là cuộc chiến tranh rất quan trọng chúng ta cần lưu ý. Cho nên chúng ta đi đến kết luận: Hà Nội là tay sai của Bắc Kinh, điều này không ngoa.

Thời Bát Quốc Liên Minh chống nhà Thanh, Từ Hi Thái Hậu có cho gom tất cả sách vở Trung Hoa lại để viết thành hai bộ sử ký, hai bộ sách này ghi lại tất cả lịch sử từ thiên văn, địa lý, phong thủy, chính trị, quân sự, tình báo, gián điệp v. v… cho đến cây kim sợi chỉ của nước Tàu từ xa xưa cho đến nay. Bà Từ Hi Thái Hậu đem một trong hai bộ sử ký nói trên tặng lại cho Hoa Kỳ. Tôi nghĩ rằng trong thời gian đó, người Mỹ không đủ sức để nghiên cứu đến sự thâm sâu trong nền văn minh Đông Phương. Bởi vì nền văn minh La Mã (Rome) kéo dài đến ngày nay là nền văn minh thiên về vật chất. Và cho dù về mặt tinh thần họ cao đi nữa, nhưng họ không nắm vững được cái tinh túy thật sự của văn minh Phương Đông; mà văn minh Phương Đông trong đó chính là văn minh Bách Việt.

Cho đến khi các Cụ Mỹ và các Cụ Việt Nam do thời thế xoay vần, đã gặp nhau và các tài liệu đó được đem ra xem xét mổ xẻ đến nơi đến chốn. Khi mổ xẻ đến nơi đến chốn thì những kế sách được mang ra áp dụng. Kế sách được gài như sau: Ai cũng biết rằng khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949, thì việc đầu tiên là Mao nghĩ đến là việc xâm lăng chung quanh (thí dụ chiếm Tây Tạng). Khi phương Tây giúp cho Tàu phát triển lên, thì lẽ đương nhiên người Tàu sẽ có tham vọng bành trướng bá quyền. Họ sẽ không từ bỏ mục tiêu tối hậu giống như lời nguyền - không thể bỏ được - của người Tàu đó là phải xâm lăng nước Việt Nam. Cho nên khi biết mục tiêu đầu tiên của họ Mao là xâm lăng Việt Nam, thì "người khác" họ cũng tương kế tựu kế và trấn yểm lại địa lý nước Tàu. Đứng về mặt phong thủy mà nói, thì khi người Tàu xây đập Tam Khẩu và cho xây một loạt đập nước trên thượng nguồn sông Cửu Long cùng vùng Lạng Sơn, thì điều này đã làm thay đổi phong thủy của nước Trung Hoa một cách rất tai hại. Tàu khi họ chận sông Dương Tử thì họ đã phá cái phong thủy của nước Tàu rồi. Khi họ xây dựng những đập trên thượng nguồn sông Cửu Long, tức là thêm một lần nữa họ đã phá phong thủy nước Tàu.

Nhưng cái đó chưa hay bằng chuyện nước Trung Hoa trúng thầu tổ chức thế vận hội Olympic năm 2008 tới đây. Các Cụ Mỹ - Việt đã bàn thảo tới việc "để” cho Tàu được trúng thầu tổ chức thế vận hội. Việc Tàu đang xây thế vận hội Olympic là một lần nữa làm cho họ tự phá phong thủy (linh địa) của thành Bắc Kinh (tương tự như Nguyễn Văn An đã nghe lời Thầy Việt Nam dặn là phải phá cho được cái thế phong thủy của nước Tàu cách đây 600 năm, cái khác là năm xưa chính Nguyễn Văn An tự vẽ kiểu xây và ngầm trấn yểm thành Bắc Kinh do sự đồng ý của Lưu Bá Ôn, còn bây giờ thì các Cụ Mỹ- Việt tạo điều kiện cho Tàu trúng thầu Olympic 2008 để cho giới lãnh đạo Tàu xây các công trình Olympic vào năm 2008 để Tàu vô tình phá phong Thủy của nước Tàu).

Cuộc "chiến tranh trấn yểm" về phong thủy và địa lý này là cuộc chiến tranh phải xử dụng rất nhiều mưu kế, mà những người biết xử dụng mưu kế này, có thể nói họ là những thánh nhân mới có thể áp dụng một cách hoàn hảo như vậy ("trời sinh Du sao còn sinh Lượng" là vậy). Vì quá tham lam người Tàu đã tự phá mình, khi thế phong thủy này bị phá thì nước Tàu không thể thống nhất được trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi có thể xác định! Lưu Bá Ôn là quân sư cho Chu Nguyên Chương đời nhà Minh, tức Minh Thái Tổ. Khi Lưu Bá Ôn và Chu Nguyên Chương thống nhất Trung Hoa để thành lập nhà Minh, Lưu Bá Ôn đã cho quật mồ Khổng Minh và Lưu Bá Ôn tìm thấy một cái hộp "cẩm nang"chứa đựng những câu sấm do Khổng Minh viết. Trong cẩm nang này có một đoạn viết về “nước Trung Hoa như sau:

“Trung Hoa sau này sẽ do một người tên là Lưu Bá Ôn thống nhất". Tức là:* - Thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn.

Sau đó Lưu Bá Ôn viết ra bộ "Trung Quốc Nhị Thiên Niên Dự Ngôn" (nghĩa là những điều đoán trước cho nước Trung Quốc sau thế kỷ 2000). Bộ sách này được coi là một "mật thư" của Trung Quốc chỉ dành cho những người nằm trong giới lãnh đạo cao cấp nước Trung Hoa được quyền xem mà thôi. Trong bộ sách này nói rõ là kể từ năm 2000 trở đi Trung Quốc bị chiến tranh, ly tán và tan vỡ, cũng từ năm 2000 thì dân Nam (Việt Nam) sẽ trở thành quốc gia hùng mạnh. Chính Lưu Bá Ôn đã ghi rõ trong bộ sách nói trên và khuyên người Tàu, khuyên giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là nên giao hảo với Việt Nam.

Nhưng giao hảo với Việt Nam nào? Chắc chắn không phải là Việt Nam dưới chế độ Việt cộng hiện nay. trong bộ sách này, Lưu Bá Ôn đã nói rõ là: Trung Quốc sẽ bị Bách Việt vây đánh và rồi cuối cùng nước Tàu sẽ đi đến tan rã. Cho nên những dữ kiện này thuộc về mật thư mà chính các giới lãnh đạo người Tàu ở trung cấp cũng không được quyền biết đến.

Một cuộc chiến tranh rất cao, mà ta tạm gọi là cuộc "chiến tranh siêu hình". Một cuộc đụng độ về trí tuệ giữa hai phía: Một bên là người Tàu Hán tộc phương Bắc, một bên là Bách Việt phương Nam.

Tôi không đi sâu trong việc phân giải vì các sấm truyền Việt Nam đã có nói rồi. Tôi biết một điều là Trung Quốc đã phạm quá nhiều sai lầm không thể sửa chữa được. Trong khi những cơ hội cho Việt Nam tiến lên lại đang rất gần kề và rất sáng lạn.

Bây giờ chúng ta cần phải trở lại vấn đề tình hình hiện nay. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Hoa Kỳ đã chuyển Bộ Tư Lệnh Chỉ Huy một lộ quân từ tiểu bang Washington (Hoa Kỳ) đến phía Nam của Tokyo (Nhật Bản). Biến động tại Miến Ðiện vừa qua đã làm cho giới lãnh đạo Bắc Kinh âu lo và hơn ai hết Trung Cộng hiểu rất rõ là: Nếu Hoa Kỳ có thể Pre-emptive (đánh phủ đầu) nước khác, thì Hoa Kỳ cũng có thể đánh phủ đầu nước Tàu nếu cần thiết và nếu Hoa Kỳ hành động thì Trung Quốc cũng phải có khả năng để Pre-emptive Hoa Kỳ (nhưng Tàu không có khả năng Pre-emtive Hoa Kỳ), hoặc là Trung Cộng có thể bất ngờ tấn công một vùng nào đó ở Á Châu, mà Trung Cộng nghĩ rằng họ có thế mạnh nhất. Ðã nhiều lần trên làn sóng này chúng tôi đã có trình bày cùng quý vị là: "Mặt trận chính vẫn là Đông Dương, mà Việt Nam vẫn là điểm chiến lược chính của Tàu để họ có thể ra tay”. Và ngày hôm nay, ai cũng hiểu rằng cán bộ tình báo Trung Cộng đã có mặt tại Việt Nam với một con số không nhỏ.

Các nguồn tin cho biết con số cán bộ tình báo người Tàu ở Việt Nam hiện tại đã lên đến một triệu người hay ít nhất cũng trên 500 ngàn. Một nguồn tin đáng tin cậy khác cũng cho biết rằng Trung Cộng đã tập trung khoảng 20 triệu người dọc theo biên giới Việt-Hoa, con số 20 triệu người này là bọn du thủ du thực (thành phần bất hảo) và bịnh hoạn đang được giam giữ trong các nhà tù khắp nơi bên Trung Quốc.

Họ được lệnh di chuyển về các vùng phía Nam Trung Quốc để chuẩn bị tràn sang Việt Nam khi tình hình biến động (rõ ràng là người Tàu đang áp dụng kế sách của nhà Minh ngày xưa khi xâm chiếm Việt Nam, họ đang xử dụng đám “Dân Binh” để đồng hóa và pha loãng dòng máu người Việt với người Tàu. Trung Cộng đang âm thầm xâm lăng, đồng hóa và diệt chủng dân tộc Việt Nam một cách có hệ thống.

1- Điều trước tiên chúng đánh nước Việt Nam bằng cách trấn yểm các linh địa trên đất Việt, phá phong thủy của nước Việt.

2- Điều thứ hai chúng dùng loại vũ khí sinh học và hóa học để giết người dân Việt Nam vô tội. Người Tàu xử dụng các loại hóa chất hay vũ khí sinh học như: Tẩm hóa chất độc vào các loại thực phẩm, ngũ cốc, thức uống một cách rất khôn khéo, để che mắt thế giới. Gần đây trong một bản báo cáo của một số bệnh viện Hoa Kỳ, nơi có đông người Việt sinh sống thì: Ða số các người Việt từ Việt Nam trở sang Hoa Kỳ hay một số người Việt từ Việt Nam sang đây sinh sống trong một thời gian gần trở lại đây, thì có 75% những người này đều mang mầm bệnh “viêm gan" hay đang mang trong người một loại bệnh lạ. Điều này người Mỹ họ biết rất rõ, nhưng họ vẫn im lặng để nghiên cứu tìm xem những chứng bịnh lạ này xuất xứ từ đâu. Với nền khoa học kỹ thuật tân tiến và tinh vi của họ, chỉ trong một thời gian ngắn, thì họ đã tìm ra nguyên nhân và chưa đầy vài tháng sau họ đã có loại thuốc trị giải. Một lý do khác tại sao Mỹ nghiên cứu các chứng bệnh lạ này là để họ tìm cách đối phó những trường hợp cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam dùng cộng đồng người Việt và Tàu ở Mỹ để phá hoại đời sống, dân sinh của xã hội Hoa Kỳ.

==============================================

 photo camou BQ_zpsa2zjiu8c.jpg

https://i682.photobucket.com/albums/vv190/doublenguyennguyen/doublenguyennguyen001/camou%20BQ_zpsa2zjiu8c.jpg

 photo camou BQ_zpswt4fk5rm.jpg

https://i682.photobucket.com/albums/vv190/doublenguyennguyen/doublenguyennguyen001/camou%20BQ_zpswt4fk5rm.jpg" border="0" alt=" photo camou BQ_zpswt4fk5rm.jpg

Apostrophe The Punctuation guide

http://www.thepunctuationguide.com/apostrophe.html

Apostrophe The apostrophe ( ’ ) has three uses: contractions, plurals, and possessives. Contractions Contractions (e.g., let’s, don’t, couldn’t, it’s, she’s) have a bad reputation. Many argue that they have no place at all in formal writing. You should, of course, observe your publisher’s or instructor’s requirements. An absolute avoidance of contractions, however, is likely to make your writing appear stilted and unwelcoming. If you are unsure where to insert the apostrophe when forming a contraction, consult a good dictionary. Avoid the most common contraction–apostrophe error: the contraction of it is is it’s; without the apostrophe, its is the possessive form of it. Example: It’s often said that every dog has its day. In informal writing, it is acceptable to indicate a year with only the last two digits preceded by an apostrophe (e.g., the class of ’85, pop music from the ’80s). Plurals The apostrophe is seldom used to form a plural noun. Incorrect: Since the 1980’s, the Thomas’s, both of whom have multiple PhD’s, sell old book’s and magazine’s at the fair on Saturday’s and Sunday’s. Correct: Since the 1980s, the Thomases, both of whom have multiple PhDs, sell old books and magazines at the fair on Saturdays and Sundays. The rare exception to the rule is when certain abbreviations, letters, or words are used as nouns, as in the following examples. Unless the apostrophe is needed to avoid misreading or confusion, omit it. He received four A’s and two B’s. We hired three M.D.’s and two D.O.’s. Be sure to cross your t’s and dot your i’s. Do we have more yes’s than no’s? For this last example, the trend is to instead write yeses and noes. Possessives The formation of possessives is treated in different ways by different authorities. The rules below are based on The Chicago Manual of Style, 16th edition, and are appropriate for most writing. Associated Press style, used by most newspapers, is slightly different. See the essay on style for more information. The general rule for forming possessives The general rule is that the possessive of a singular noun is formed by adding an apostrophe and s, whether the singular noun ends in s or not. the lawyer’s fee the child’s toy Xerox’s sales manager Tom Jones’s first album Jesus’s disciples Aeschylus’s finest drama anyone’s guess a week's vacation The possessive of a plural noun is formed by adding only an apostrophe when the noun ends in s, and by adding both an apostrophe and s when it ends in a letter other than s. excessive lawyers’ fees children’s toys the twins’ parents the student teachers’ supervisor the Smiths’ vacation house the boys’ baseball team the alumni’s fundraising someone with twelve years’ experience Exceptions to the general rule Use only an apostrophe for places or names that are singular but have a final word in plural form and ending with an s. Beverly Hills’ current mayor the United States’ lingering debt problem Cisco Systems’ CEO Nouns that end in an s sound take only an apostrophe when they are followed by sake. for goodness’ sake for conscience’ sake A proper noun that is already in possessive form is left as is. T.G.I. Friday’s menu was recently changed. Shared or individual possessives Joint possession is indicated by a single apostrophe. Robert Smith and Rebecca Green’s psychology textbook. (they coauthored the book) Stanley and Scarlett’s house. (they share the house) Individual possession is indicated by apostrophes for each possessor. France’s and Italy’s domestic policies are diverging. Chris’s and John’s houses were designed by the same architect. Avoid awkward possessives Correct but awkward: St. Patrick’s Cathedral’s Fifth Avenue entrance. Better: The Fifth Avenue entrance for St. Patrick’s Cathedral. The apostrophe with other punctuation The apostrophe should never be separated from the word to which it attaches by adjacent punctuation. Correct: The house on the left is the Smiths’, but the house at the end of the street is the Whites’. Incorrect: The house on the left is the Smiths,’ but the house at the end of the street is the Whites.’

No comments:

Post a Comment