Diễn Hành ngày đầu năm
Toán Xâm Nhập ở cuối Diễn Hành Tết 2013, bầu trời mây mù qua cơn mưa nhẹ buổi sáng tăng thêm phần mờ ảo của những tấm hình cô đọng, như Tướng Mac Athurs đã nói "Old soldiers never die they just fade away".
Mong trong tâm trí của những thế hệ mai sau ghi nhớ hình ảnh hào hùng của những kinh kha Nha Kỹ Thuật một thời đem xương máu mình để chiến đấu cho miền Nam tự do trong 21 năm.
Mong trong tâm trí của những thế hệ mai sau ghi nhớ hình ảnh hào hùng của những kinh kha Nha Kỹ Thuật một thời đem xương máu mình để chiến đấu cho miền Nam tự do trong 21 năm.
biet-kich-nha-ky-thuat
1
Bước qua năm 1972. Nhà kho trại bắt đầu những gôm gom đồ đạc quân dụng...người Mỹ thực sự muốn rút quân khỏi Việt-nam... Vào tháng 2 năm 1971. Tư-lệnh quân đội Mỹ tại Việt-Nam ra lệnh cho các đơn vị SOG chấm dứt mọi hoạt động của toán Biệt-kích trên đất Lào, theo sự biểu quyết của Quốc-hội Mỹ và những ràng buộc ngoại giao. Các toán Mỹ trong trại chỉ còn hoạt động trong nội địa, giáp biên giới Lào-Việt. Lúc này Quân đội Bắc-việt Cộng-sản đang ở vào thế thượng phong, họ được hưởng lợi thế bởi sự dần rút quân của Mỹ... không một đơn vị cơ động nào của Mỹ còn nằm xâu trong lãnh thổ miền nam Việt-nam. Khoảng trống chiến thuật mà Quân-đội Việt-nam Cộng-hòa không thể bù đắp được từ sự rút quân ở những căn cứ Mỹ và tiền đồn tai mắt bàn giao! Quân Cộng-sản đang dần tiến về thành phố! Không ai có tinh thần chống cộng mà không chống đối trong sự đau đớn, nghẹn ngào cái bàn Hiệp-định Ba lê mà người Mỹ đang thương thảo với địch! Đưa coca cola cho cái bàn hiệp định đáng ghét đó chính là đám phản chiến tại Mỹ và Quốc hội... Đơn vị SOG phải chiến đấu trong đơn độc và nhất là mọi tài trợ đều bị cắt, trừ những gì chúng tôi sẵn có! Thật ê chề và bất mãn trong tình thế như bị bỏ rơi... nhưng cấp cao vẫn đòi hỏi tin tức tình báo nơi đơn vị! Các toán Biệt-kích của sở Bắc, được lệnh rút khỏi miền Bắc Việt-nam bằng con đường sang Lào đến căn cứ của tướng Vang Pao người Mèo mà CIA nuôi dưỡng nơi biên giới... để được đưa về Long-thành, căn cứ họ xuất phát. Còn các Biệt-kích Strata, về căn cứ Sơn chà Đà nẵng... Biệt-kích Lôi-hổ (OP35) giờ phải gồng mình hoạt động trong nhiều tổn thất... Hai phần ba là con số các toán Mỹ còn hoạt động trong nội địa và họ có quyền lựa chọn mục tiêu, để tiết kiệm xương máu theo đúng chương trình Việt-nam hóa chiến tranh... Có những chuyến toán được thả xuống đề chứng kiến và báo cáo cái căn cứ địch trống rỗng! Nhiều khi tôi có cảm tưởng chính người Mỹ mới là đồng minh của quân đội Bắc-việt... vì thời điểm này, Lôi-hổ chúng tôi có rất nhiều mục tiêu nhưng các máy bay đều đang được cho uống... bia tại phi trường! Cái khu cấm (Isolation) sát bên nhà kho, cùng các toán nằm chờ hành quân chứng kiến cảnh gom đồ sẵn sàng để rút quân... nhiều bộ mặt đã cúi xuống ngậm ngùi và bên hông sừng sững cái đài 22 mét hoang phế... chả ai thực tập xuống dây từ trực thăng. Kế hoạch OP35 cho các đơn vị C&C - Task Force trách nhiệm hành quân do thám, phá hoại hệ thống đường mòn Hồ-chí-Minh... Đang hồi kết thúc.
Phi đoàn 219 (bay cho SOG) nay với những trực thăng UH thay thế H34 đen rằn bất hủ, đã từng một thời gắn bó trên mọi gian nguy, chiến trường liều lĩnh... Sự đổi thay này đã không làm vui lòng người lính Lôi-hổ... tôi tin rằng hầu như tất cả trong nỗi buồn xâu sắc lính Biệt-kích chúng tôi đều muốn thấy... sự trở lại của H34 oanh liệt và tin cậy. Với quá khứ bất tử mang danh Thần-phong.
Sự rút quân của người Mỹ được thấy rõ hơn bằng việc họ đang gấp rút huấn luyện cho Sở-Công-Tác, vừa mới thành lập... mà sau này có các Đoàn 11, 71, 72 đóng tại Đà-nẵng, Đoàn 75 tại Pleiku và Đoàn 68 tại Sài-gòn. Các toán Sở-công-tác được huấn luyện chuyên về Biệt-kích xâm nhập bằng đường không hay đường bộ vào lãnh thổ Bắc Việt-nam hoặc dọc theo biên giới Việt-Lào... SOG đang chạy đua với thời gian để cố gắng giúp đàn em Nha-kỹ-thuật, trước khi cuốn cờ! Thật là xui rủi trong huấn luyện, một chiếc C46 của SOG chở các toán thực tập đã vì sương mù nên đâm vào núi làm thiệt mạng toàn bộ mấy chục người.
Những cuộc hành quân khẩn được theo dõi từng chuyến và do các toán Nha-kỹ-thuật đảm trách vượt biên... sự phối hợp giữa Nha-kỹ-thuật và SOG từ lâu nay vẫn là đế tài bàn luận... SOG chỉ huy và điều hành toàn bộ sự phối hợp, chia sẻ phần nào tin tức tình báo có được... Nha-kỹ-thuật chỉ làm những công việc thụ động mang tính thứ yếu... "Ai chi địa thì chỉ huy!" SOG lập ra đơn vị SCU (Special Commando Unit) : Đoàn Biệt kích cảm tử... phần lớn tuyển mộ từ những dân tộc thiểu số như Nùng, Thượng, Miên, người thiểu số di cư: Thái, Mường, Tày v.v. người Việt-nam chỉ có một số ít trong đơn vị này. Tất cả được tuyển trực tiếp bởi người Mỹ và các cán bộ Nha-kỹ-thuật trợ giúp giới thiệu... SOG trả lương, huấn luyện và trực tiếp chỉ huy... còn Nha-kỹ-thuật chỉ làm những công việc theo yêu cầu và nhu cầu cần thiết. Nhưng kể từ năm 1970 người Mỹ mới chấp thuận giao quyền chỉ huy toán Thám-sát cho những cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật, kể cả đại đội Hatchet Force... mười toán thám sát Nha-kỹ-thuật được thành lập, trong số trên ba mươi toán của trại (TF1) để chuyên trách cho những mục tiêu tại Lào mà người Mỹ có lệnh không được phép vượt biên! Người ta không lạ gì khi một toán Lôi-hổ thuộc chỉ huy của những cán bộ Nha-kỹ-thuật lại có đến 3/4 quân số là Biệt-kích-quân (SCU) người Mỹ duy trì tình trạng này cho đến ngày giải tán 30 tháng 4 năm 1972... dù cho từ năm 1971 SOG phải hoạt động với nhiều khó khăn, luật lệ. Nên phần lớn phải dựa vào các toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật để nhẩy vào Lào, Cam-Bốt bằng thành phần hai cán bộ Nha-kỹ-thuật (1 sĩ quan, 1 hạ sĩ quan) và sáu Biệt-kích-quân (SCU) mà trong đó người Thông-dịch được coi là quan trọng vì trách nhiệm liên lạc với FAC (Covey) phần đông do người Mỹ đảm trách bay không thám.
2
Kể từ cuối năm 1971, sự bấn loạn trong các toán Mỹ có phần nặng hơn cho dù mục tiêu nằm trong nội địa. Thiệt hại nặng về nhân mạng kéo dần khi mà cuộc chiến được chuyển về thành phố! Lợi dụng sự rút quân của quân đội Mỹ bỏ lại nhiều lỗ hổng chiến thuật... địch gia tăng chuyển quân để tấn công vào Quảng-trị... Tỉnh cực bắc của miền nam Việt-nam, nằm sát khu phi quân sự. Một toán người Thượng mới đây, gồm ba người Mỹ cùng năm Biệt-kích Thượng mất tích... Một tuần sau Covey mới nhận được tín hiệu và cứu được một người Thượng đem về. Anh ta khai bị bắt cùng toán nhưng lại được địch quân thả về!? Quân đội Bắc-việt đang được điều động ở cấp độ lớn... Những Sư-đoàn quân Việt-cộng tạo thành thế trận địa chiến sẵn sàng lâm trận trước sự làm ngơ của Không-quân Mỹ. Sư-đoàn 3 bộ binh, quân đội Việt-nam cộng-hòa mới thành lập đang bị bao vây trong chiến đấu gần như đơn độc... đã anh dũng cho đến lúc không còn lối thoát! Lối đầu vào Quảng-trị, hừng hực máu lửa... Địch quân nhắm vào thành phố bên này sông Thạch-hãn. Cục diện chiến trường lúc này đang là cái giá của chính sách tiết kiệm xương máu (Việt-nam hóa chiến tranh) và sai lầm kiểu "đi đêm" của những chính khách Mỹ, để cố rút một chân còn lại trong bãi lầy! Các toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật nhẩy vượt biên sang Lào... có phần nhẹ. Trong khi các toán Mỹ mục tiêu nội địa lại thảm hại quá mức! Toán Colorado vừa xuống vào buổi chiều đã đụng địch. Toán trưởng Trung sĩ nhất Bookout cùng hai Biệt-kích quân người Việt thiệt mạng, không lấy được xác. Một toán người Nùng bị xóa sổ êm ru qua ngày hôm sau xâm nhập. Trung đội Thượng (Hatchet Force) lên tăng cường cho đài Hickory vì áp lực có thể bị tấn công nay mai! Trong khi nhà kho trống lốc vì được di chuyển hàng đêm. Đúng lúc này toán tôi được lệnh hành quân.
Một chiếc C130 chở đầy binh sĩ thuộc Sư-đoàn 101 dù quân đội Mỹ phù hiệu mang hình đầu bồ câu trắng và toán tôi rời Đà nẵng đến Phú-bài, đang đáp xuống sân bay... Cửa máy bay vừa mở, chiếc xe jeep đậu ngay đuôi, một người Mỹ đón toán đưa về căn cứ xuất phát, nằm ngay trong phi trường. Toán tôi bốn người hành quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy hành quân chiến thuật (TOC) gồm Toán trưởng Thiếu úy Liêm, Toán phó Trung sĩ Trần văn Bảo thay thế Trung sĩ Trịnh công Thành chuyển lên Kontum (TF3AE) cùng hai Biệt-kích quân là tôi Nguyễn văn Hải, Thông dịch và Thái thành Minh.
Trận pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường đêm qua, làm mọi người mất ngủ từ hai giờ sáng. Tiếng còi báo động và những trái hỏa châu quanh phi trưởng rực sáng. Trực thăng cũng đã lên và đang xạ kích vào vị trí địch quân. Sự pháo kích quấy rối có vẻ nhỏ so với bộ máy kềnh càng phòng thủ phi trường. Một suy nghĩ chợt đến và trong thâm tâm tôi cảm phục và ngưỡng mộ tinh thần chiến đấu của nghững người lính mang danh Việt-cộng! Những trái hỏa tiễn 122 ly đâu phải đễ dàng đến được vị trí phóng vào phi trường... nghĩ đến hành trình vận chuyển thôi... công bằng mà nói, riêng tôi đã phải ngả mũ chào và phục sát đất... điều hãnh diện chợt lại đến... họ cũng là người Việt-nam như tôi! Quanh nhửng người Mỹ đang sì là sì lồ dưới ánh hỏa châu. Có chăng sự chọn lựa sai lầm phút đầu không tỉnh táo trước những lời nói hoang tưởng hứa hẹn... sự lừa bịp thấy ngay trước mắt, sao nhiều người cứ u mê không nhận ra kể cả từ anh cù đinh lên tận giới trí thức... Người ta làm ngơ và sẵn sàng ủng hộ không đòi hỏi hay xét đến bằng chứng để chứng minh trước những lời nói mê hoặc Cộng sản ! Mà may thay cũng còn có những người theo Quốc-gia cho là tuyên truyền dụ dỗ... nhưng là một con số khiêm nhường so với nhân lực của dân tộc. Câu nói khéo, ngọt ngào, hớp hồn xuất ra từ cái miệng dẻo kẹo, bao giờ cũng có cái kết quả tốt ban đầu! Cái con chữ Cộng-sản đang là những gì mới mẻ dễ thu hút lòng người... hơn là chữ Quốc-gia, hiền từ và chẳng có gì mới! Tâm lý trăm năm nô lệ ngoại bang đang là cái mức chôn chặt trong đầu, khó gỡ bỏ xuống để có được sự nhận định đúng đắn. Cái chết của anh em Ngô-tổng-Thống đang là cái gương cảnh tỉnh...Một con người đạo đức, nhân hậu, lễ giáo không thể nào đối địch hay luôn có phần thua thiệt trước tính xảo quyệt, nham hiểm, ác tâm và nhất là vô thần! Mọi người đều biết, biết hết nhưng cứ giả mù, điếc lác! Ôi ý trời... Ngài xoay ngang hay dọc.
Từ căn phòng chờ sát với phòng thuyết trình. Đoàn người phi hành vội vã lên xe để đến bãi trực thăng nằm ở mé bên kia vài dẫy nhà. Địa thế chật hẹp trong khu vực không cho phép bãi trực thăng luôn thuận tiện trước phòng hành quân như ở căn cứ Quảng-trị. Tiếng động cơ trực thăng rít lên rồi cánh quạt tăng xoay, đoàn trực thăng sáu chiếc cất cánh... dẫn đầu vẫn là hai Cobra đang chờ đoàn...rồi tất tả bỏ lại sau lưng mặt trời đỏ rực, to như cái nia bên dưới cột ăng-ten trong phi trường. Đứng gần tôi Đại úy Ginh (Trần-trung-Ginh) Sĩ quan không thám nói "Toán Habu sáng sớm nay đụng địch, hai chết một bị thương..." Tiếng đại bác bắn yểm trợ từ căn cứ ngoài phi trường nghe ấm lạ nhưng dội vào lòng tôi bát nước lạnh và một mùi lạ theo gió phát ra cạnh tôi... mùi căn nhà bạt toán đang ở và những ghế bố vải nhà binh!
Hai toán Hải Yến và Hải Vân, vừa xâm nhập Lào năm ngày nhưng gặp toàn căn cứ trống lốc, chỉ phát hiện hậu cần canh tác nhỏ lẻ của địch... mà không phải đối mặt với những toán truy nã (Tracker Teams) của quân đội Bắc-việt... Sự chuyển quân rầm rộ của địch sao qua khỏi con mắt tình báo Mỹ... Được lợi thế từ hai ông thầy Liên-sô và Trung-cộng... Bắc-việt đang gia tăng chiến tranh quyết chiếm lấy miền nam Việt-nam. Trước hai cái gai, nhất là Trung-cộng có thể lăm le xâm chiếm Việt-nam... Người Mỹ buộc phải dùng chiến tranh nhưng không muốn thắng! Chính sách "gà nuốt dây thung" ngăn chặn và thẩm lượng... Rất bực bội và bó tay thật chặt các cấp chỉ huy chiến trường... Ấn tưởng Nga-Tầu ám ảnh không thôi Hoa-kỳ!
Thiếu úy Liêm và Trung sĩ Bảo vừa dự thuyết trình. Toán chuẩn bị sẵn sàng bất cứ lúc nào tình hình cho phép xâm nhập. Đoàn trực thăng đã về cứu được hai người, một Mỹ một Thượng. Người ta đang đếm lỗ đạn nơi chiếc trực thăng và hai Cobra... họ chỉ cứu được hai hai Biệt-kích trong số sáu người của toán Habu! Bữa cơm trưa ãn vội vã nơi nhà bếp dã chiến, rồi một giấc ngủ cần thiết để lại sức... Nắng như đổ lửa, bầu trời trong xanh không một bóng mây. Đàn chim trắng nhẩn nha vỗ cánh bay theo hình chữ V... mũi nhọn là một con to trội dẫn đầu... lùi lại phía sau một con đang cố bay vượt lên theo đoàn, cạnh một Vận tải cơ C130 đang đáp xuống phi trường. Làn gió mát bất ngờ và hiếm hoi tê mê mát rượi nơi mặt, tôi dần vào giấc ngủ trong cái nóng lưng trên giường vải bố quân đội mùi hơi khét!
Phi đoàn trực thăng Green Hornets đến thay thế vào buổi chiều... Sáu chiếc trực thăng đậu hàng dài trên sân. Phi hành đoàn đang được thuyết trình Không quân. Một chiếc xe Jeep nhiệm vụ chờ toán qua sân trực thăng chờ xuất phát. Ánh nắng đã nhạt và mặt trời đang dần vào dẫy đồi mé Tây... Một sĩ quan ngưởi Mỹ ngồi giữa trực thăng, nhiệm vụ thả toán còn chúng tôi hai người một ngồi hai bên cửa... Trực thăng dần lên, bên dưới một mầu xanh ngát chập chùng, càng bay vào xâu đồi núi càng cao chen nhau không ranh giới! Đoàn trực thăng bay rất cao, có vẻ để tránh phòng không...gió vun vút quất vào cửa như trực thăng bay chậm đi và tôi thấy rát trên mặt. Mặt trời đứng gần với núi cao, thảnh thơi chứng kiến trận oanh kích của hai chiếc F100 đang nhắm vào ngọn đồi bên dưới, chiếc Covey đang vòng ngoài xa và rồi bầu trời bỗng yên ả hẳn đi khi hai chiếc F100 không còn gầm rú... Kết thúc trận không kích, theo đúng kế hoạch hành quân. Mặt trời đã biến mất tự lúc nào và giờ sau cái vỗ vai vào tôi của sĩ quan thả toán... Trực thăng lao xuống... tôi có cảm tưởng cái đầu của mình như bị ai kéo lui ra xa! Nhưng thân mình thì dính chặt vào sàn trực thăng. Mặt đất bỗng dâng lên mầu xanh cây lá, lùi rất nhanh sau trực thăng và rồi càng máy bay xuống dần, cũng là lúc chúng tôi đưa chân chạm đất... Mùi khét thuốc súng sộc vào mũi khi trực thăng bốc lên. Cảnh cây ngã đổ ngổn ngang và bên kia một hố bom còn đất đỏ au, cạnh một tảng đá lớn đen xì án ngữ... Tôi báo xâm nhập an toàn và rồi núi rừng im lìm, nằm im quanh co bất động! Một cơn gió mạnh hất tung cây lá trong tiếng ào ào cây đổ. Con chim lợn kêu thét lên mỏ hướng thẳng xuống chúng tôi... làm dạ kinh hoàng dâng lên sự sợ hãi bất an! Bóng đêm dần khép lại, chặn hẳn đường đi. Trung sĩ Bảo mở đường vấp té bằng tiếng đổ người xuống đất... tôi nghe khe khẽ tiếng chửi thề nặng giọng Huế! Minh đi sau tôi cũng vừa trượt ngã và chân tôi chạm hẳn vào những hòn sỏi nhỏ cả đống trải dầy trên bề mặt đất núi... chắc hẳn từ cái hố bom bên cạnh tung lên. Toán lầm lũi tiến trong bóng đêm... Lệnh hành quân khuyến cáo, chóng tôi phải di chuyển càng xa càng tốt bải xâm nhập... Bữa ăn chuẩn bị từ chiều, giờ dạ dầy trống rỗng. Tôi nói nhỏ vào tai Thiếu úy Liêm cho toán nghỉ mệt... ai thấy đói thì ăn cơm. Bầu trời sáng dần và hiện ra con trăng đang thập thò một nửa nhô lên từ núi. Mùi bom đạn hòa cùng cành, thân cây gẫy đổ...theo gió hắt vào mũi gây khó thở, khiến miếng cơm nơi miệng khó nuốt! Ánh trăng nhanh chóng đã cho chúng tôi nhìn rõ mặt nhau. Nhìn lên trăng tròn, sáng ngời có thể là trăng 14, 15 gì đó... Tôi bôi thêm thuốc muỗi vào mặt và dục Trung sĩ Bảo di chuyển. Bữa cơm vội vàng trong đêm có hương vị tô bún, mắm mỡ trên vỉa hè, mỗi khi buổi chiều chơi hết tiền, tối đến đói bụng tìm ăn! Trăng đã lên cao, tỏa ánh sáng dịu, rõ như riêng tặng cho trường hợp chúng tôi. Có tiếng ì ì bên dưới và chân có cảm giác đất rung rung. Toán dừng lại ngồi xuống, chợt ngó về hướng tiếng động... một vài làn ánh sáng đèn pin quét ngang dọc và từ phía trên, bên dưới có những ngọn đèn loang loáng đi dần vào giữa nơi mà tiếng động cơ xe giờ gầm rú như loạn trời đêm... Chiếc xe đang bị lầy hay hỏng hóc ngay giữa đoàn vận chuyển, trên con đường dưới hông ngọn đồi. Hòa cùng động cơ từng lúc nhỏ to... tiếng người xôn xao theo gió và tiếng chạm của kim khí giữa sắt thép sắc nhọn bay xa. Thiếu úy Liêm đã cho toán di chuyển... vài cây cổ thụ mọc thưa thớt nhưng cũng đủ để che bớt ánh trăng càng khuya càng trắng ngà! Tiếng xào xạc từ chân bước chạm lá cây rụng, bởi mùa hè nắng dữ nơi rừng thưa... trong đêm, nghe như có người đuổi theo... hoặc từ nơi trắng sáng, vòng tay đen xì chờ đợi đoàn tôi bước tới... Tôi thầm cầu sự yên lành nơi bóng đen xung quanh! Tiếng con chim lợn ăn đêm trên tàn cây cổ thụ nghe thê lương nhưng xen lẫn sự thích thú vì gặp mồi ngon. Trung sĩ Bảo đứng lại xem địa bàn... cái bóng người ngắn ngủn dưới chân, tôi nhìn đồng hồ đã 12 giờ đêm. Không gian yên tịnh... nhưng chỉ xen lẫn từng lúc, nhạt hơn tiếng động cơ xe bên dưới dẫy đồi. Một trận ho sặc sụa phát ra từ bên hông và giờ đây đang gằn gằn ho tiếp trong tiếng làu bàu của ai đó bên cạnh. Tôi vội lên chỗ Thiếu úy Liêm và Bảo... ngoái nhìn Minh đang ngồi thủ thế nòng súng hướng thẳng tiếng ho.
4
Sau khi đã hội ý, toán vội vã lên đường như trốn chạy mà lòng bấn loạn trong cái lành lạnh nơi gáy! Một điều chắc chắn toán đang nằm ngay vị trí đóng quân của địch.
Mặt trăng đã chếch về tây, chúng tôi ngồi nghỉ bên tảng đá có bóng đen che khuất. Sương đêm lạnh, bắt đầu những làn gió nhẹ từ dẫy đồi bên dưới. Muỗi thì nhiều vô kể tha hồ vây quanh gào thét. Tôi nhìn lại bốn người quanh tảng đá mà lòng sợ hãi bởi trùng điệp núi rừng vây chặt trong tiếng gà gáy the thé như xé lòng kẻ cô đơn độc hành! Ánh trăng ngã mầu vàng không còn trong sáng. Núp trong bờ tối tảng đá, dựa hẳn cái ba lô có cái máy PRC 77 nặng nề với hai hộp pin, gấp đôi số pin của PRC 25... Một đêm mất ngủ và tinh thần căng thẳng đã làm cơ thể mệt nhoài... ngồi xuống chẳng muốn đứng lên. Thiếu úy Liêm đứng tiểu tiện... đổ xuống cái bóng mình và vòng nước như dây câu... tựa như bức tượng thằng nhỏ đái biểu diễn nơi hồ nước công viên. Sau khi bàn bạc và đồng ý kiếm một nơi rậm rạp... đồng hồ đã chỉ hai giờ... Di chuyển thẳng vào khu rừng chồi rậm bên hông để tìm chỗ nghỉ chân chợp mắt.
Nắng đã rọi qua hàng cây bao quanh tảng đá. Thiếu úy Liêm đang nấu nước, Bảo và Minh vẫn còn ngủ vẻ mê mệt. Tiếng chim trên cao hòa cùng gà gáy ráng làm không khí vẻ yên bình dân dã! Dãy đồi bên dưới chen nhau phủ phục như chầu quanh ngọn núi án phía mặt trời đang lên... Tiếng súng đầu tiên từ phía sau lưng không xa... địch truyền tin hay đi săn sớm. Thiều úy Liêm đang xem bản đồ, dùng địa bàn căn lại tọa độ con đường xe chạy đêm qua. Minh và Bảo cũng vừa thức dậy... mùi cà phê thơm phức làm sảng khoái tâm hồn cùng cái say lâng lâng đem đến từ sự thèm thuồng điếu Capstan hút hơi thật dài, đậm và ém trọn nơi cổ. Tôi đê mê quên đời cùng làn gió lạnh mang chút sương sớm và trở về thực tại khi nhận ra tiếng Covey (FAC) quen thuộc.
Mọi sự chuẩn bị cho cái bao tử trong ngày đã xong và bữa cơm sáng chóng vánh. Minh gỡ trái mìn Claymore phòng thủ và đang loay hoay xóa dấu vết... Liêm nói hướng đi cho Bảo, còn tôi bức điện đã được chuyền lên Covey.
Nắng giờ cũng đã làm ngắn đi cái bóng của tảng đá. Toán di chuyển thật khó nhọc bởi khu rừng dầy, cây chồi đan khít và dây leo chằng chịt. Bất chợt có tiếng người hú nơi phía hông và phía sau có tiếng đáp lại... toán tạm dừng để nghe ngóng và tôi có cảm giác gọng kìm từ từ khép! Trung sĩ Bảo đứng dậy theo lệnh di chuyển, đang vẹt cây... Vài giọng nói từ xa vọng lại... nơi tiếng người hú lúc nãy... càng lúc bước chân càng rõ. Thiếu úy Liêm quay lại tôi như dò hỏi... tôi vội lên và nói nhỏ: Con đường mòn trước mặt, chờ rồi tính! Một chất giọng xứ Nghệ lơ lớ cất lên thánh thót, tôi nghe mà chả hiều nói gì nhưng một giọng Bắc trầm ấm, nhẩn nha nhưng gằn từng tiếng " Sao, cứ nhanh lên... đón đầu chắc phải gặp" Sự kinh hoàng thoáng qua hiện lên trên mọi gương mặt... nhưng chưa đổi mầu! Recon (Thám-sát) đang gặp Tracker (Người truy lùng)... Hay nói cách khác, toán theo dõi dấu vết của địch (Tracker Teams) đang tìm kiếm toán thám sát (Recon Team)... Những bước chân vội trên đường, cách nơi toán ẩn nấp chỉ vào khoảng hai mươi mét. Một ý nghĩ táo bạo đến với tôi nếu không muốn mất thời gian... Tôi đề nghị với toán phải vượt ngay tức khắc qua con đường. Mọi người suy nghĩ và đều đồng ý. Trung sĩ Bảo dẫn đầu... đồng thời một con đường mòn hiện ra trước mặt. Tôi lên một mé ngang tầm với Bảo và quan sát hai đầu... Ngoắc tay ra hiệu cho Bảo qua trước và chỉ với khoảng gần ba mét bề ngang... toán trong tích tắc vượt qua, rồi dừng lại ở mé bên kia để Minh có thể xóa dấu vết kỹ hơn và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Yên tâm, chúng tôi di chuyển chậm nhưng thật cẩn thận dò bước và nghe ngóng. Có thể địch chẳng ngờ rằng chúng tôi di chuyển cả ban đêm... Nhất là từ khi vào khu rừng thưa đầy lá rụng... Chắc chắn rằng địch quân mất dấu chúng tôi từ đấy!
5
Rừng rậm và dây leo giăng mắc đã cản trở bước chân, bù lại địch rất khó phát hiện ra chúng tôi. Thiếu úy Liêm cho toán nghỉ... Trung sĩ Bảo vẻ mệt nhoài ngồi dựa lưng vào tảng đá. Ánh nắng mùa hè chói chan khắp nơi và gió, gió đi đâu mất! Cái nực nội và mồ hôi trên lưng qua khe, dài kéo xuống tận mông. Tiếng phản lực cơ ầm ầm lúc rõ lúc mất và tiếng bom đạn nổ từ xa yểm trợ cho chiến trường tận xâu trong nội địa. Minh đưa tay chỉ lên trời, mắt tôi vừa nhìn chiếc phản lực chiến đấu đang lao tới, kéo theo cột khói đen phía sau và chiếc dù vừa bung... nó cứ tiến tới và tạo một vòng cung khói lửa... lao xuống thật nhanh... ầm và vài tiếng nổ phụ rồi cột khói đen bốc lên thẳng như sợi chỉ, chắc vì im gió! Xa hơn cái dù bé tí đen như hạt đậu lủng lẳng trên không bên cạnh vài chiếc phi cơ bay là đà theo dõi. Tiếng bom ầm ầm từ xa và như một mũi tên một chiếc F phản lực khác... giờ giống con ong bay khỏi tổ để phát hiện và sẵn sàng tấn công kẻ phá tổ ấm! Thiếu úy Liêm căn lại bản đồ để đúng tọa độ mục tiêu và thông báo hướng đi cho Bảo. Nắng vẫn thiêu đốt và hừng hực oi bức trong không gian thiếu gió. Trung sĩ Bảo đang thắt lại cái khăn trên đầu rồi lom khom chui rúc mở đường...Liêm đi cạnh trợ giúp vẹt cây... đàng sau tiếng ầm của máy bay vẫn lúc rõ lúc mất nhưng đôi khi tiếng bom làm rung rung đất. Mùi lá cây mục, dầy cả tấc dưới chân bốc lên thật khó ngửi cùng cái nồng nắng hè làm bức rức cơ thể đôi lúc cảm thấy chẳng còn sức lực ở tứ chi!? Đầu óc thì rỗng tuếch nhưng bên ngoài đẩm mồ hôi, chẩy ròng ròng. Bảo và Liêm bỗng dừng lại đang cùng ngồi quan sát... một làn gió nhẹ mát rượi từ phía trước, tôi đưa mặt hứng lấy và cái mát lạnh ào chụp mơn man qua giòng mồ hôi từ trán đổ xuống. Ôi, sao mà sảng khoái thế! Tôi chợt đứng lên như muốn đón làn gió thứ hai nhưng thất vọng chẳng có... Nhìn ra tầng cây cao phía trước và một chiếc máy bay không thám lẻ loi, cô đơn phía trên. Địa thế sắp sửa thay đổi... cái hiểm nguy gì nơi phía trước... nhưng dù sao tôi cũng thở phào nhẹ nhõm khi vượt qua được khu rừng rậm chồi non đầy ánh nắng bỏng da và cây gai, leo chằng chịt.
Bóng mát tỏa từ tàn cây cao đem đến cho tôi một sự thoải mái, người bỗng nhẹ tâng cùng tiếng chim đua nhau trên cành làm rộn lòng kẻ lữ hành cô đơn! Bốn con người phải xử dụng ngôn ngữ bằng tay, họa hoằn lắm mới thì thào vào tai nhau. Thiếu úy Liêm căn lại bản đồ lấy hướng đi... Một vài con chồn ngơ ngác đứng nhìn chúng tôi rồi co giò bỏ chạy. Trung sĩ Bảo đứng đưa tay vào tay áo tìm con vắt... có lẽ đã ăn no... miệng làu bàu! Nắng đã ở gần đỉnh đầu, tỏa những hạt kim cương lấp lánh theo khe lá... và gió, gió nhẹ lùa thi thoảng từng cơn mơm man trên da mặt cùng làm khô đi cái áo trận giờ xuất hiện những đường trắng mồ hôi, loang lổ chỗ đậm chỗ nhạt... mà ngồi xuống lúc này, cái mùi cơ thể hòa cùng đồ quân đội đang mang trên người... hai cái mùi vẻ xung khắc nhau lại tạo nên dễ ngửi so với thân thể của các nường tại các quán bar nơi đường Thành Thái Đà nẵng... ảm mùi rượu, thuốc lá! Một tiếng súng nổ nơi phía sau chúng tôi lúc đang nhai cơm và một tiếng hú vọng dài bên hông như báo hiệu cho nhau hoặc lệnh truyền gì đó? Cảm giác bị bao vây và viễn ảnh diệt gọn tác động thoáng qua trong trí, để lại sự sợ hãi trong lòng, làm miếng cơm đang nhai nhẽ ra phải rất ngon... nhai với thịt hộp ba lát làm ruốc. Một cơn gió từ xa mang theo cái lạnh và tiếng ồn ào bắt đầu chuyển động kéo theo va chạm của sắt thép, đanh nhọn đi xa. Bốn con người bất động, quên cả miếng cơm trong miệng với nhiều vẻ căng thẳng... vểnh hẳn hai tai! Một công trường bắt đầu làm việc hay sự chuyển quân? Chỉ có tí nữa mới biết được... nhưng dù sao, sau lúc bình tâm trở lại và bữa cơm bỏ dở cũng xong... trong tiếng phản lực đang bay vang dội vòng sang mé bên sát gần ngọn núi hướng tây.
6
Động cơ xe ì ì đều đặn xen lẫn những tiếng hô hoán của người và rồi dần dần như bị hút về phía trước... giờ càng lúc càng xa! Thiếu úy Liêm giở bản đồ, chấm tọa độ đoàn xe và hướng đi. Trung sĩ Bảo sửa soạn di chuyển... Toán chúng tôi đều biết rằng mục tiêu đang ở gần đây, có thể ngay trước mặt. Covey mới vừa bay ngang, quần vài vòng rồi sang vùng khác. Sự hạn chế liên lạc tùy thuộc vào mục tiêu mà khi thuyết trình toán được khuyến cáo...TOC (Trung tâm hành quân chiến thuật) rất e ngại với các máy dò làn sóng của địch... Tin tình báo cho thấy quân đội Bắc việt nay được trang bị và đã đưa vào trận địa loại hỏa tiễn SAM còn bộ binh được trang bị hỏa tiễn vác vai A72 cùng pháo cao xạ hạng nặng. Nắng chiều đã nhạt, chiếu nghiêng xuyên qua đoạn cây chồi giăng giăng quanh những cây cổ thụ. Con suối cạn chúng tôi vừa đi qua và ở bên suối Minh đang ngối xóa đi những dấu vết và gài thêm trái mìn M14 chống theo dõi. Sự cẩn thận và những sáng kiến theo kinh nghiệm là cái bảo vệ mạng sống hữu hiệu nhất đối với một toán thám sát! Đường lên dốc thật khó đi... cái máy truyền tin sau lưng như ghì tôi lại, khom lưng và vận sức vào đôi chân bước đi nặng nề, cùng tay vịn vào cây hay dây leo kéo trợ lực... Bảo đã lên được trên đồi nhưng đạp rớt cục đá nhỏ đang lăn xuống, tạo ra những tiếng động làm tôi phải e dè! Làn gió mát rượi từ phía dưới đồi tới tấp như kéo tuột đi những oi ả bao quanh từ mé đồi phía sau. Một không gian khác hẳn làm sảng khoái tâm hồn khi không còn cái mùi ẩm mục nồng nặc nơi khu rừng lòng chảo khuất gió và chan nắng! Muỗi bắt đầu kéo đến khi con mồi đang ngồi yên nghỉ mệt. Tôi bôi thêm thuốc muỗi vào mặt và yên tâm hai tay mang găng... Ánh chiều tà chiếu thẳng tia sáng vàng chóe theo kẽ lá nhảy múa trên những gương mặt bóng lưỡng. Thiếu úy Liêm lệnh toán ăn cơm chiều... bịch cơm sấy và bao ruốc thịt... chiều nay sao mà ngon thế! Điếu Capstan sau cùng lâng lâng, lòng tôi dâng lên hào hứng yêu đời trong thế ngồi dựa lưng vào gốc cây, ngửa mặt nhìn lên thách thức lũ khỉ thấy ăn cơm kéo đến và đã mấy lần ném quả chín vào chúng tôi...Mặt trời đã đi xâu vào đất trong cái yên lặng nguyên thủy của rừng cây. Toán di chuyển để kiếm chỗ ngủ qua đêm...những bước chân theo con dốc thoải nhẹ tâng mà đôi lúc phải ghìm lại. Bóng tối mờ mờ và đêm đen bao phủ rất nhanh. Một cái lạnh bất chợt ào đến như tiên đoán đêm rừng trở gió. Quanh một gốc cổ thụ toán dừng lại và lập vị trí ngủ đêm... Minh và Bảo vừa gài xong trái mìn Claymore phòng thủ... hướng thoát hiểm được định là trái mìn của Trung sĩ Bảo nhắm thẳng hướng dưới đồi. Ngồi nghe ngóng một hồi lâu, cảm thấy yên tâm tôi tháo dây nịt đạn và hai quai ba lô cho thoải mái, nhưng vẫn cẩn thận để hai vật bất ly thân yên vị sau lưng mà trong trường hợp khẩn cấp chỉ cần một động tác, tôi đã mang ngay chúng vào người! Không gian thinh lặng ngoài tiếng thú kêu đêm và những cái cựa mình của đồng đội. Bầu trời bỗng mờ sáng báo hiệu đêm trăng. Một con tắc kè hắng giọng trên cây rồi chậm rãi buông kêu sáu tiếng tên mình! Lắng tai nghe cho rõ hơn... những tiếng động từ hướng bắc... không còn nghi ngờ gì nữa... Động cơ xe nghe nặng nề giãn dần trong không khí và lan tỏa đi xa. Phía trước mặt hướng đông con trăng đang dần nhú lên từ tàn cây cao, soi rõ đám mây đen mỏng nhưng nặng nề bất động. Tiếng xe mỗi lúc một rõ như trực chỉ chúng tôi...Ngoài xa rất xa về hướng nam, hai chiếc vòi lửa theo ánh sáng hỏa châu trút đạn xuống bên dưới từ hai chiếc Hỏa-long (Spectre C119) yểm trợ chiến trường. Ánh trăng tròn lẳn chiếu thẳng vào gốc cây như chỉ điểm chỗ ần núp của chúng tôi làm thấy rõ mặt nhau... tuy chẳng sợ bị phát hiện, nhưng cảm giác nhồn nhột mong sao ánh trăng lên cao để tàn cây che khuất! Đúng lúc tôi đang trở mình đề duỗi thẳng hai chân... Mặt đất rung rung theo đôi mông dán sát tê tê lay động... Tiếng bom nổ từ hướng tây càng lúc càng dầy tỏa lên cao những ánh chớp sáng đục chạy dài lên hướng bắc... kiệt tác của B52.
7
Đoàn xe di chuyển bên dưới dần tiến sát chúng tôi... mặc tiếng bom liên hồi phía sau. Thiếu úy Liêm nhích lại bên tôi nói "Mục tiêu con đường đang ở trước mặt, phải làm sao tiếp cận... "Tôi suy nghĩ và bằng vào những kinh nghiệm, đưa ra một ý kiến" Cứ thoải mái ngủ đêm ở đây, đợi sáng khoảng ba giờ... di chuyển thẳng đến con đường trước khi trời sáng" Tiếng lao xao của người hòa lẫn động cơ xe ngay mé dưới đồi. Thấp thoáng loang loáng ánh đèn pin chiếu sát đất... Như vậy toán chỉ còn cách địch quân ước chừng năm sáu trăm mét... Ánh trăng giờ đã che phủ chỗ ngủ và bốn người im lìm quanh gốc cồ thụ nghe tiếng động cơ xe xa dần về hướng nam. Tiếp nối tiếng lao xao của đoàn quân đi bên dưới... đôi khi xuất hiện qua khoảng trống có ánh trăng cùng vài ánh đèn chợt hiện chợt tắt mà những bước chân trong đêm trường lặng gió len lỏi vào đôi tai! Lại con tắc kè hắng giọng trên cây cùng những vệt sáng li ti từ khe lá. Tôi đảo mình cố tạo thoải mái cho giấc ngủ trong tiếng xa dần của đoàn quân địch, trả lại đêm rừng nét nguyên sinh thú kêu, vượn hú và côn trùng dẫy dụa kêu than đua chen dưới lá cây mục... Tôi cố tưởng tượng mình đang trên lưng ngựa, phi nước đại qua dẫy đồi nơi thảo nguyên bao la đồng cỏ trùng điệp, lộng gió dưới đêm... ánh trăng trải khắp vô tận. Đưa mình vào một nơi xa xăm, tít mù... cố dỗ giấc ngủ!
Lũ gà gáy dồn dập the thé quanh tai, ánh trăng ngả vàng tự lúc nào đang treo ngay trên tàn cây. Kim dạ quang nơi đồng hồ chỉ bốn giờ sáng... Bảo và Minh tháo xong mìn phòng thủ nhưng gài lại nơi xuất phát trái mìn M14 chống người. Trung sĩ Bảo chả cần phải dùng địa bàn định hướng... lệnh cứ thẳng con đường đêm qua địch chuyển quân. Bốn con người đi sau cái bóng mình dưới ánh trăng mỗi lúc một ngả mầu và quanh quanh gà gáy như thúc dục báo trời sắp sáng! Sương đêm phảng phất cùng làn gió nhẹ quanh quẩn tạo khí mát rượi thoải mái... Tận hướng nam vẫn ầm ì tiếng súng đại bác nhưng không có mặt không quân. Trung sĩ Bảo dừng lại... Liêm cũng vừa ngồi xuống nghe ngóng, tay ngoắc tôi và ra thủ hiệu Minh yểm trợ phía sau. Tôi và Thiếu úy Liêm lên sát con đường... dưới ánh trăng chỉ thấy được một nửa bên kia nhưng bên mờ bóng cây không tối lắm, cũng đủ ước định con đường rộng khoảng năm sáu mét. Tôi nhìn đồng hồ mới năm giờ sáng, đủ thì giờ cho chúng tôi kiếm một địa thế rậm rạp dọc theo con đường để quan sát lâu dài. Tôi bàn định với toán nên vượt sang bên kia sẽ thuận tiện...bởi ánh mặt trời và mặt trăng ít khi thẳng vào nơi ẩn nấp!
Trời sáng dần, làn mây mù mỏng bất chợt kéo đến mang theo hơi nước trên da mặt. Một vị trí được chọn sau di chuyển dọc theo con đường... Khu rừng chồi rậm sát bên có những hàng đá rải rác tiện cho tác chiến... Tôi và Thiếu úy Liêm chọn vị trí gần đường để dễ bề quan sát. Trung sĩ Bảo và Minh lùi về phía sau canh giữ hai phía trên dưới con đường...Thiếu úy Liêm gài trái Claymore và thông báo hướng thoát hiểm khi mìn nổ. Trời hừng sáng và ca nước đã được nấu xong cho hai bịch gạo sấy và cữ cà phê sảng khoái... Sự êm ả buổi sáng theo làn sương tan để bắt đầu ngày mới của rừng... chim hót líu lo và thỉnh thoảng vài con gà sung sức cất tiếng, dù rằng ánh bình minh đã ló dạng xuyên qua thân cây rừng rậm mé sau lưng... mà xa xa về hướng nam tiếng ầm ì đạn pháo vẫn âm vang. Tôi lựa vài cục đá nhỏ để ném truyền tin cho Minh vá Thiếu úy Liêm cũng làm như thế để báo động cho Bảo khi cần thiết. Liêm đưa cho tôi bức điện báo cáo...mặt trời đã cao trên tàn cây nhưng bề mặt con đường vẫn tối ù, yên lặng...Vài con chồn chạy qua lại trên đường như chơi trò cút bắt! Động cơ quen thuộc của Covey, tôi mở máy đã nghe tiếng gọi... Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) trên Covey... nhận xong bức điện rồi đi ngay. Tôi ngưng nhai miếng cơm trong miệng, một làn gió nhẹ mang đến những tiếng động chân đi cùng tạp âm kèm theo... lũ chim trên cao phụ họa bằng hàng loạt tiếng kêu... mỗi khi gặp của lạ! Mặt đường loang lổ ánh nắng nhưng phần nhiều râm mát. Cầm cái máy chụy ảnh từ tay Liêm, tôi tìm cách nhắm thẳng ra đường nhưng thất vọng vì bị che khuất bởi tàn cây nên tối ù... nếu mặt trời lên cao chút nữa thì tốt biết mấy! Nhoài người ra sửa lại vài cành cây nhỏ để lấy khoảng trống và tiếng chân nghe thật rõ bởi lỗ tai tôi gần sát đất. Sự căng thẳng dần tăng trong cái đợi chờ cân não hiện ngay trên hai gương mặt. Bàn tay của Thiếu úy Liêm có dấu hiệu bất tuân và đang run run...chả lấy gì ngạc nhiên vì đây là chuyến nhảy toán thứ hai của Liêm.
8
Tiếng chuyện trò và cười nói râm ran sau đám bộ đội đi đầu xuất hiện mà trên cái nón cối là cành cây lá ngụy trang... bộ đồ màu xanh, đi giầy vải thay cho dép râu thường gặp nhưng nổi bật nhất vẫn là cái dây nịt lưng mầu nâu và cây AK liền bên. Họ đi ngang qua chỗ chúng tôi... bình thản và tự nhiên. Tên mang cây thượng liên nồi, người cao lớn, mắt cứ nhìn chăm chăm vào bụi rậm nơi chúng tôi đang nấp! Khoảng cách ước chừng hơn hai mươi mét nhưng sao thấy gần quá. Tôi nghe rõ tiếng đập của tim và không thể chế ngự được... trước ánh mắt ấy. Một tên mang cặp da bên hông còn bên kia khẩu K54 không cây lá ngụy trang, đứng tiểu tiện nơi mép đường... xong cẩn thận gật gù như vẫy chào chúng tôi! Tiếng hát cất lên ngay giữa đoàn quân, giọng thanh cao vút "Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng... "và tự nhiên tiếng bắt nhịp vang vọng, kèm theo ai đó "hoan hô cô Tin, phải đó... đang buồn chết đi được." Tôi còn nhìn rõ tên đứng tiểu tiện quay lưng ra đi nhưng miệng mỉm cười vẻ đắc ý. Nhịp chân theo tiếng hát đi xa. Tôi sững người giật mình và rồi thấp thỏm trong lòng khi nghe cái âm trầm nhưng mạnh mẽ nhẩn nha, khẳng định, cương quyết... "Là người tôi chết cho quê hương ... "Đoàn xe đạp thồ nối tiếp, thật sự tôi không lạ gì cảnh này nhưng ngạc nhiên ở đây là những người dắt chiếc xe thồ hàng... toàn là bộ đội thay vì thường gặp dân quân hay lực lượng thanh niên xung phong... Lặng lẽ chỉ có những tiếng ho hay bảo nhau gì đấy, không ồn ào cười nói. Hai người một xe bước đi với đôi chân chịu nặng! Kiện hàng vuông vắn từ dưới, chì cách mặt đất chừng hai gang tay lên cao qua đầu người... Tôi chợt hiểu ra vì sao bên trên họ không ngụy trang cây lá... chưa cần thiết vì đây là khu rừng già vả lại con đường được dấu kỹ dưới những tàn cây cao rậm. Ánh nắng đã lên cao, một khoẳnh đường được soi rõ... vụt qua thêm, cứ hai người một cây rừng gánh những hàng được buộc ở giữa... có cái thì gọn gàng, đâu chừng vài thùng đạn ngoài bọc kẽm nhưng cũng có cái cồng kềnh đeo buộc lắc lư. Lại một đoàn bộ đội tiếp nối theo sau trên lưng đeo lỉnh kỉnh đồ dủng, ngụy trang thêm cây lá... ồn ào tiếng nói cười chọc ghẹo nhau. Thiếu úy Liêm vừa viết xong bức điện khẩn báo tình hình. Trên đường lúc này vắng vẻ, vài chiếc lá rơi vào khu ánh mặt trời chiếu sáng, chao đảo rồi mất hút... Tháo cây antenna lúa, gắn cây antenna gấp cao gần hai mét vào máy. Tôi bật gọi Covey... Loại PRC 77 này hoạt động bằng hai tép pin... tức gấp đôi số pin cho chiếc PRC 25 thông dụng...to, nặng nhưng bù lại tôi có thể gọi liên lạc bất cứ lúc nào... hoặc Covey nhận được hoặc đài tiếp vận kiểm thính Hickory sẽ nhận ngay và điều phối. Một tin tức nóng hổi phối hợp với các máy điện tử trong vùng... Các sĩ quan hành quân yên tâm hoạch định kế hoạch sao cho đúng với tình hình thực tế! Nhưng vào thời điểm này, họ chỉ muốn biết chứ chẳng làm gì cả! Có chăng một nét gạch bằng bút chì mỡ trên bản đồ hành quân tác chiến (TOC).
Thiếu úy Liêm bắt đầu thực hiện việc tiếp cận con đường để chụp ảnh. Đeo cây CAR 15 trên lưng, bỏ hai băng đạn vào túi hông quần, bên này vài trái lựu đạn... Liêm đang vẹt cây kiếm lối ra thẳng con đường. Nắng vẫn chiếu rọi chỗ râm chỗ sáng và mùi ngái nồng cây lá ẩm mục quanh quẩn bốc lên theo những làn gió từ hướng đông... Chợt mùi thuốc lá ập vào mũi khích thích ngay cơn thèm! "Đồ con khỉ...đúng là thằng Minh, đã dặn rồi, khi nào gió mạnh hãy hút,gió thoảng như vầy thì khỉ thật!" Tôi lấy cục đá ném ra phía sau nơi Minh án ngữ... ý cảnh cáo. Liêm cũng ra được sát đường và đang chụp ảnh... xong lom côm bò vào lại... Tiếng bom nổ từ xa làm rung hai mông ngồi dán đất. Tiếng phản lực nghe lúc được lúc mất, trận địa đang đi về hướng đông nơi thành phố. Tiếng chim lao xao từ xa, tôi đưa mắt nhìn Liêm, tay làm dấu hiệu thận trọng coi chừng... giây lát tiếng bước chân theo không khí lặng rõ dần... Từ hướng nam ngược với đoàn quân di chuyển lúc nãy... soạt, một hòn đá nhỏ ném vào ngay chúng tôi báo động... Lấy cục đá ném ra sau trả lời Minh, tôi yêm tâm chờ đợi và nhìn chếch qua những cây chồi bụi rậm... Sáu tên bộ đội di chuyển trên mé đường bên kia... mà bước chân là nhìn rõ nhất, tên đi sau cùng mang cây thượng liên... tất cả đều vẻ thận trọng, mắt nhìn xuống mép đường quan sát như tìm kiếm vật gì, với những đôi dép râu nhẹ nhàng ít tiếng động. Họ đi ngang chúng tôi nhưng chú ý về phía bên kia con đường. Tôi phập phồng lo sợ, không biết lúc gần sáng đem qua, trước khi vượt con đường Minh đã xóa kỹ dấu vết theo thông lệ chưa?!
9
Không gian lại lặng lẽ... nhìn ra con đường im lìm trơ mặt đối diện với tàn cây và mặt trời đẩy ánh nắng chiếu rọi về mé bên này. Hình như có con chim nào đó vụt bay ngang dể lại bóng mình biến rất nhanh vào bóng mát! Lòng tôi như bấn loạn, dù rằng địch quân đã đi qua nhưng vì những cử chỉ như tìm dấu vết làm tôi không khỏi suy nghĩ băn khoăn... Cũng rất may sáng nay khi sang được bên kia đường, tôi còn dặn Minh xóa kỹ dấu vết và gài lại trái mìn M14 chống người. Tôi nói khẽ vào tai Liêm "nếu trái mìn nổ, toán phải di chuyển ngay..."
Ánh nắng trưa hè chói lọi vàng óng in trên dãy núi đồi trước mặt. Đám mây đen đang từ dưới lao lên sắp đến lưng chừng đi vào khe núi... Bữa cơm trưa cũng vừa xong... Không có lệnh gì mới, vì từ lúc điện báo khẩn đến giờ máy đã trực tiếp kết nối chờ đợi, trong thời gian lệnh hành quân qui định. Tôi tháo cây antenna gấp và thay vào antenna lúa để dễ bề hành động... Thiếu úy Liêm lấy ra cái poncho và cơn thèm hút thuốc rạo rực trong lòng. Điếu Capstan hút khói ém chặt, thở vào cái poncho dưới đất đậy khói không cho loang rộng, làm tôi ngất ngây quên đời! Một cơn gió lốc xoay tròn bốc tung tóe lá cây lên cao đang xoay chạy dần đến chỗ chúng tôi...tiếng ào ào cây lá nhưng không mạnh, đủ để Liêm giở tung cái poncho đầy khói thuốc lá... thật là vừa việc và yên tâm!
Nắng ban chiều đã lảm con đường tối hẳn. Ánh mặt trời không thể xuyên ngang hàng cây chồi, sự vắng lặng mang đến cái cảm giác cô đơn, lạc lõng trong không khí oi nồng, nực nóng! Vài tiếng súng đi săn bắn quanh vùng chẳng làm chúng tôi quan tâm. Nắng chiều đổi màu thật nhanh và cảnh vật bỗng chốc kéo màu thê lương cùng khắp! Dãy đồi núi trước mặt giống như con bệnh nằm ngửa dưới ánh chiều tà vàng vọt màu ảm đạm buông xuôi... Tiếng chim lao xao gọi nhau về tổ nhưng cũng còn đôi con hứng chí bay đánh đuổi nhau kêu to dáo dác xà xuống thấp rồi lại vụt tung lên cao. Ngồi lâu tê mông, tôi đổi thế nằm dựa đầu vào ba lô, mắt trực diện con đường. Mặt trời đã khuất sau núi. Thiếu úy Liêm vừa ăn cơm chiều và bóng tối dần buông mờ mờ theo tiếng ì ì động cơ xe từ xa hướng bắc con đường... Lại một cuộc chuyển quân mới! Rà soát lại những thiếu sót gì nơi ẩn nấp, tôi vững tâm chờ đợi tình hình và phần nào bình thản. Vài con chim lợn bay cao ngang qua kêu xuống tiếng sắc nhọn ai oán... đủ để kinh động khu rừng và còn lan tỏa đi xa! Về hướng nam tiếng pháo binh vẫn ầm ầm từng chập... Địch quân đang gấp rút chuyền quân và tiếp liệu chi viện cho chiến dịch Xuân-hè nhắm vào Quảng-trị. Con đường nổi danh số 9 từ khu vực Tchepone bắt đầu nhộn nhịp và giống như con cọp thức giấc ra đi kiếm mồi... Quân Bắc-việt gia tăng chuyển vận trên các trục đường 92- 922 cùng vô số con đường mới được lực lượng dân quân, thanh niên xung phong đêm ngày tạo dựng. Những cuộc ném bom B52 chẳng ngăn chặn được bước tiến quân của địch... trong lúc đà rút quân của quân đội Mỹ như một món quà tặng cho địch quân!
Những bước chân rầm rập nện đất lớn dần và tiếng động cơ xe nặng nề theo sau. Một làn gió mạnh ào ạt đi qua cây lá rồi nhanh chóng nhập bọn cùng đoàn người sắp đến. Phía sau lưng vùng ánh sáng mờ bắt đầu cho đêm trăng. Nhìn đồng hồ mới chín giờ tối... Tiếng chân bước giờ át hẳn tiếng thú kêu đêm và lũ côn trùng khôn ngoan cụp đuôi chạy trốn! Đoàn người đi đầu đã đến ngang chúng tôi... Nằm sát đất, nhìn vào con đường tối trước mặt và nhận ra những bóng đen ngang qua tất tưởi, nhảy múa lao về phía trước. Tiếng va chạm của vật dụng mang trên người tạo thành nhịp lúc lắc, khua dồn trong tiếng đệm âm trầm động cơ nặng nề từ xa. Bầu trời sáng hẳn và con trăng treo một nửa trên tàn cây, mang theo thứ ánh sáng chiếu nghiêng qua cành cây lá đan chen bóng hình... tạo nên hoạt cảnh khi ẩn khi hiện... ma trơi đùa nghịch! Một vài tiếng nói từ đoàn quân nhưng bị những bước chân dẫm nát nghe mơ hồ, lạc lõng. Ánh trăng lên cao chiếu rõ từng khoảng đốm sáng trên con đường hiện ra nhấp nhô số người di chuyển kèm với cây lá đi theo vụt qua vùng sáng rồi nhanh chóng xuất hiện những ánh kim cương lay động chiếu nhận diện trên từng con người lao qua. Quay nhìn lại, tôi yên tâm với vùng tối ánh trăng chiếu trên tàn cây cao đổ xuống như che phủ nơi chúng tôi ẩn nấp... Tự thưởng cho cái quyết định chọn vị trí tuyệt vời, tôi doãi hai chân cho thoải mái và bình thản xem kịch!
10
Đoàn người lặng lẽ âm thầm tiến bước, nối tiếp nhau, khác hẳn với những cuộc chuyển quân mà tôi thường gặp...họ cười nói lao xao. Dưới ánh trăng ẩn hiện như đoàn âm binh nơi địa phủ ? Chiếc xe đầu tiên cũng vừa tới nơi... chậm chạp và dềnh dàng như chẳng muốn đi tới! Cành lá ngụy trang phía trên tạo một hình thù quái dị sinh động dưới ánh trăng, cùng lô nhô con người rồng rắn hai bên lăng xăng trợ lực. Nó bắt đầu qua vạt ánh trăng chiếu trên đường và xuất hiện thêm khẩu pháo phía sau, dù được phủ bằng lá cây dầy nhưng hình thù thì không thể nào sai... Xe tải đạn pháo và khẩu pháo đang đi vào trận địa.
Đêm đã vào khuya, ánh trăng thẳng đứng trên đầu... chiếc Motorola thứ năm qua khỏi và đoàn người theo sau cũng vừa biến mất... xa dần, để lại đêm rừng vắng lặng dưới ánh trắng sáng ngời và bầu trời đầy sao. Ngồi nghe động tĩnh một lúc lâu, đợi Thiếu úy Liêm viết xong bức điện báo cáo... trong ánh đén pin và chiếc poncho được trùm kín vào người. Lấy ra cây ăng ten gấp thay cho ăng ten lúa... Tôi gọi thẳng đài Hickory và chuyển bức điện khẩn trong đêm.
Giật mình vì có ai đó lay động, tôi thức giấc trong bàn tay Liêm giật mạnh... tiếng xôn xao đến gần theo bước chân rầm rập, nhưng chẳng làm sợ được lũ gà rừng gáy vang vang. Ánh trăng đã ngả màu, không còn trăng thanh và cái mầu vàng đục chiếu nghiêng qua cây cành in dấu trên lá rụng mầu ngọc trai soi hắt chiếu thẳng vào phía chúng tôi! Nhìn ra rất nhiều khoảng sáng pha lẫn những vệt đen cây cao in mầu đen thui ngã xoài theo chiều ngang con đường. Bước chân và con người đầu tiên xuất hiện rõ trên đường... đổ dài bóng mình chếch về phía trước cùng tiếp sau những bóng đen tạo thành chấn song khung cửa dần hiện, tiếp nối và nhẩy múa cùng bóng cành cây lá đặc kín bên mé đường, lay động, lung linh ánh trăng lắc lư theo nhịp đi. Tiếng cười nói âm thanh vừa phải, chẳng làm náo động trời đêm... Nhưng cũng đủ để át hẳn tiếng não nuột, thê lương thú kêu, vượn hú hoặc loài chim ăn đêm báo nhau về tổ! Đoàn xe đạp thồ xuất hiện, hai người một xe, phục sức dân quân, nón tai bèo in rõ dưới trăng và hàng cây lá cắm trên cao tỏa bóng vất hẳn đi xa gần mép đường tạo hình thù nhẩy múa, khập khiễng theo bánh xe và sức đẩy dồn của người phía sau. Cơn gió lạ trong đêm nhè nhẹ... đem đến cái mùi có chút hơi ấm và sự pha trộn mùi hương nồng nồng thứ cơm nấu bị cháy! Vài con chim lợn sau một đêm tìm mồi bay trở về khoan khoái bụng no nên tiếng kêu quái dị giờ có vẻ êm, thanh và ngon ngọt, với đôi cánh trắng đục xòe rộng chớp vẫy, thân lao đi như tên bắn.
Dẫy đối núi trước mặt im lìm nằm dài xa tít dưới ánh trăng bây giờ váng đục to như cái nia ửng mầu hồng... như sắp bắt tay nhau. Đoàn quân đã đi hết mang theo những tiếng làu bàu, tức giận, quát nạt... một tên nói giọng còn âm vang "Đi nhanh lên, cố lên để kịp tập kết trước giờ sáng!"
Tôi gọi đài tiếp vận Hickory và chuyển bức điện thứ hai trong đêm. Tháo cây ăn ten gấp, Thiếu úy Liêm vừa từ hai nơi ẩn nấp của Bảo và Minh vể... đang vội nấu ca nước đổ gạo. Trời mờ sáng dần quanh quanh gà gáy vang vang...Một không khí êm ả, thanh bình dân dã chợt đến trong cái tĩnh lặng chân quê mộc mạc! Công việc mỗi buổi sáng cũng đã xong. Mặt trời ánh lên, sáng chiếu rọi xuyên suốt tầng mây, gợn sóng ánh sáng từ phía chân trời lên tầng trời cao. Trung sĩ Bào và Minh đã tháo xong hai trái mìn phòng thủ. Chúng tôi di chuyển trong kẽ lá mặt trời phóng tia nắng chói lọi, mãnh liệt xuyên suốt qua mọi cây rừng và làm cho lũ gà tham lam vội cất tiếng gáy to, khỏe, giọng cao vút! Cũng vẫn âm vang về phía Nam tiếng pháo binh ầm ì thi thoảng gây khủng bố tinh thần. Đàn chim di trú trắng muốt bay tít tận trên cao như muốn tránh xa nơi bên dưới đầy tử khí... mùi khét lẹt và trùng điệp cạm bẫy!
Tiếng Covey đã nghe thấy rõ, mặt trời lên chừng một con sào chiếu rọi vào chiếc OV10 từ khoảng xa trên trời hướng Đông... Nhắc vừa trông một gốc cây cổ thụ mé bên, tôi nói Thiếu úy Liêm tạm nghỉ để liên lạc Covey. Nắng chiếu bên này gốc cây chúng tôi lựa ngồi bên kia ánh rợp che chắn. Vừa mở máy, một ông tây trên Covey đang gọi...tôi xưng danh và nhận ngay bức điện đưa cho Thiếu úy Liêm mở khóa mật mã. Covey đảo vòng về hướng Nam ... có điều lạ là bay rất cao. Không lầm vào đâu được, tiếng động từ phía nơi chúng tôi vừa đi qua và thoáng chốc tên bộ đội lăm lăm cây AK dò dẫm theo dấu vết...vừa nhìn thẳng vào gốc cây cổ thụ, rồi dừng lại tay ngoắc về phía sau.
11
Khoảng trống ánh nắng ngăn cách chúng tôi và địch quân... Thiếu úy Liêm mở nắp bao đựng bi đông nước và ra hiệu chơi lựu đạn, xong rồi đưa tay chỉ thoát về hướng Nam. Năm tên địch dàn hàng ngồi lăm lăm súng yểm trợ. Tên đi đầu bỗng đi rất nhanh về cây cổ thụ... Bốn cây Car 15 nổ dòn, tên địch bật ngửa lãnh trọn băng... cùng lúc địch khai hỏa, đạn cày vào gốc cây. Thiếu úy Liêm hét to "chơi đi"... vừa thay băng đạn mới, tôi mở lựu đạn và cố lấy sức ném về phía địch và ngồi xuống cạnh Minh, bất ngờ phát hiện từ vai trở xuống giòng máu thấm đẫm với vết đạn dài xuống ngực và Minh bất động chết nằm dựa hẳn người vào rễ cây. Mắt mở trừng như nhìn vào quân địch! Loạt lựu đạn nổ ầm ầm, kèm theo tiếng Liêm nhắc nhở "rút" Đưa tay vuốt mắt cho Minh, tôi theo sau bén gót đồng đội và buộc phải bỏ lại Minh... đó cũng là cái số phận nghiệt ngã mà mọi người lính Lôi Hổ chúng tôi đều phải chấp nhận! Mệt quá Bảo và Liêm nghỉ lại bên tảng đá. Vội vàng tôi liên lạc Covey.
- Tango zulu đây yankee papa gọi.
- Yankee papa. Tôi Tango zulu nghe anh đây.
Báo cáo thẳng không cần mật mã, tôi xin ngay trợ giúp và yêu cầu triệt xuất khẩn cấp.
- Yankee papa, hãy chờ chốc lát, tôi sẽ đến ngay với bạn.
Tôi đề nghị Liêm cho gài mìn Claymore và hai trái M14 chống người vì chắc chắn địch sẽ đuổi theo chúng tôi! Nhìn lại địa điểm này, rất tốt cho tác chiến với những tảng đá chen nhau dễ ẩn nấp.
- Yankee papa đây Tango zulu.
- Tango zulu, Yankee papa nghe đây.
- OK Yankee papa . Lời yêu cầu đã được chấp nhận...bạn chuẩn bị bãi đáp. Báo cho bạn biết trong vòng năm phút nữa, trận oanh kích sẽ mở màn... mục tiêu chiến thuật... khi nào cần tôi gọi bạ sau... rất bận!
Trung sĩ Bảo tháo xong trái Claymore nhưng để lại hai trái M14. Toán di chuyển tìm bãi đáp. Nắng đã lên khỏi ngọn cây, chiếu tia nắng chói chan cùng lúc tiếng ầm vang của động cơ phản lực... Nhìn lên trời bốn chiếc F100 sơn rằn Thủy-quân lục-chiến Mỹ bay cách quãng về hướng Đông đợi lệnh. Tiếng bom liên tục nhắm vào hai mục tiêu dưới dốc đồi chạy dài xuồng thung lũng ngàn xa! Khói lửa bốc lên dần về hướng Đông-nam. Chiếc Covey ở trên cao lững lờ điều không. Toán chúng tôi nỗ lực tiến về khoảng trống chạy dài mà hai bên toàn rừng già bao bọc... Một đồng cỏ tranh và cây non ánh vàng dưới mặt trời nóng bỏng! xa tít bên dưới đang diễn ra cảnh bom đạn kinh hoàng... Thêm bốn chiếc A1 đang vòng ngoài xa như những con ong thám thính! Trận oanh kích trải dài từ Bắc xuống Nam và một mục tiêu ở giữa chếch về hướng Tây. Một cái dù bung, xuất hiện trên bầu trời, kéo theo đám khói đen kịt lao vụt về hướng Nam , mất hút bên dưới! Đúng lúc này nhiều tiếng động khả nghi từ bìa rừng nơi chúng tôi vừa đi qua. Không còn nghi ngờ gì nữa...địch đang đi tìm. Tôi ghé sát tai Trung sĩ Bảo đề nghị gài ngay trái Claymore rồi rút nhẹ, bò ra phía gốc cây, chuẩn bị tác chiến... Mọi việc đều được thực hiện nhanh chóng và chúng tôi sẵn sàng chờ đợi tình huống... trong khi tôi báo toán đụng địch ngay lên Covey. Nổ băng đầu, Thiếu úy Liêm rút trái lựu đạn, súng nổ lan tràn và địch quân xuất hiện dăng ngang từ mọi gốc cây đúng váo tầm sát thương của trái mìn Claymore... lố nhố, lom khom nhiều cái lưng di động. Thiếu úy Liêm khoắc tay, chúng tôi đồng ngồi dậy sau tiếng nổ của trái Claymore... Bảo vẫn chạy đầu theo sau là Liêm và tôi...chạy thục mạng, bất kể, chỉ muốn càng xa càng tốt... Tiếng Covey đang gọi từ ống nghe gài nơi vai. Bên ngoài nắng vẫn trải dài xuống đồi cỏ tranh, bao bọc bởi rừng già xanh thẳm! Tiếng bom đạn không ngớt từ vùng oanh kích với những cột khói bốc cao. Covey đang bay trên đầu. Thiếu úy Liêm chỉ tảng đá nơi bìa rừng và chúng tôi nhanh chóng lập ngay vị trí chiến đấu. Tôi liên lạc Covey.
-Tango zulu,Yankee papa. Tôi đã chạy ra được bãi đáp... địch đang đuổi theo phía sau... xin trợ giúp khẩn cấp.
-Yankee papa, mở cửa sổ nhà bạn.
-OK Tango zulu, sẽ có ngay.
Thiếu úy Liêm ra phía ngoài trống và đang lấy điểm hội tụ ánh sáng vào gương... cùng lúc chiếc Covey bay vòng.
-Yankee papa, tôi đã thấy bạn... cố gắng di chuyển thêm khoảng 500 mét, hướng đông, đến đầu rừng, sẽ dễ dàng cho triệt xuất...bởi hai cánh bìa rừng, trực thăng rất dễ bị ăn đạn... OK cố lên!
Toán di chuyển, giật mình vì tiếng súng sau lưng và rồi nơi mé trái trong khu rừng tiếng súng đáp lại nhưng còn hơi xa. Bên hông trận oanh kích vẫn tiếp diễn với tiếng phòng không, cạnh những bom đạn không dứt, khói lửa ngập trời!
12
Yankee papa đây Tango zulu gọi.
Vừa nghe tiếng máy, Liêm dừng lại để tôi liên lạc... Cánh rừng rậm bên hông càng lúc càng xa như chúng tôi đang đi về hướng ngược lại. Đồng cỏ tranh vẫn óng vàng trong ánh mặt trời và gió chỉ hiu hiu, se se trên mặt.
-Tango zulu, Yankee papa, tôi nghe.
-OK Yankee papa. Anh cho ngay số nhà và hướng di chuyển. Tôi có thể trợ giúp anh bằng hỏa lực sẵn có... Tôi mới lên thay bao vùng và anh yên tâm.
Thiếu úy Liêm chiếu gương và chiếc Covey quay ngoắt lại.
-Tango zulu đây Yankee papa, tôi di chuyển về hướng Đông, đến đầu rừng...địch đang đuổi theo phía sau và cánh trái trong khu rừng rậm.
-OK Yankee papa, rõ mọi chuyện, anh sẽ nhận sự trợ giúp ngay tức thời... yên tâm ra phía đầu rừng.
Chiếc Covey bổ xuống theo tiếng động cơ hết tốc... vẻ thật hung hãn, lúc lắc bên phải lúc bên trái và cây đại liên sáu nòng tuôn ra loạt đạn vãi, cùng với tiếng súng vang vọng bên dưới bắn lên. Loại OV10 thám thính nay được võ trang và biệt phái riêng cho SOG... đã tỏ ra hết sức hữu hiệu, như trong trường hợp hiện tại. Chúng tôi yên tâm di chuyển và đã đến được bìa đầu rừng. Toán đang trên đồi, phía sau lưng là rừng già cây rậm, còn đưới kia ánh nắng chói chan trên những bụi cỏ lau rạp mình trong gió, bên dưới cỏ tranh vàng óng phe phẩy qua lại và đôi lúc làn sóng chạy dài theo cơn gió mạnh lùa từ dưới đồi dần lên... Tiếng súng nổ vang trời, khi chiếc Covey lao xuống tác xạ. Nắm vững không ở vào vị trí đặt súng phòng không...chiếc Covey như người làm xiếc, tha hồ thi thố tài năng.
-Tango zulu... địch bắn lên anh như mưa. Ở phía sau tôi và cánh trái trong rừng.
Tinh hình thật nguy ngập, toán không còn mìn Claymore phòng thủ... lựa được ba gốc cây, chúng tôi chuẩn bị cho cuộc chiến sắp gần đến chỉ bằng tiều liên CAR15 và lựu đạn mini.
-Yankee papa, bạn để panel vàng nơi khoảng trống... chốc lát Hổ mang (Cobra) sẽ mau chóng tiếp trợ... tôi cầm chừng ở phía sau quanh vị trí.
Trung sĩ Bảo vừa căng xong tấm panel vội vào ngay chỗ ẩn nấp trong tiếng súng địch quân bắn lên Covey... giờ càng gần chúng tôi! Chiếc OV10 vút lên cao và tôi đã nghe tiếng trực thăng theo gió ào đến... ngước nhìn lên trời phía sau lưng, những đốm đen xuất hiện trên khoảng xanh không gian...trong khi chiếc Covey lại lao xuống tạo ra hàng lửa thép rất gần chúng tôi, bởi có những cánh cây gẫy đổ nhào. Một chiếc dù của phi công lại bung trên trời và không thấy cảnh máy bay nào bị hạ! Trận oanh kích lại trở nên phước tạp, khi người ta phải lo tiếp cứu phi công. Hai Cobra đến như tia chớp, hùng hổ bay ngang rồi vòng lại... Chiếc Covey (FAC) giờ ung dung trên cao chỉ huy. Súng nổ vang trời, đón chiếc Cobra đang xả một lúc bốn hỏa tiễn (khói mầu tím) loại rocket đinh nhọn chống biền người quanh mỏm rừng, nơi có chúng tôi và chiếc panel vàng. Chiếc Cobra thứ hai tiếp tục với loạt 40 ly tự động nghe xôn xao và nổ ầm ầm bên dưới. Súng địch vẫn bắn lên nhưng ít hơn và họ có vẻ chựng lại.
-Yankee papa đây Tango zulu... Lệnh cho anh chạy thẳng khoảng trống hướng Nam, để lại tấm panel chỉ điểm... mau lên.
Tôi gọi Thiếu úy Liêm và Bảo truyền lại lệnh... Chúng tôi tức khắc lộ nguyên hình, di chuyển gần như là chạy trên cánh đồng cỏ tranh nắng vàng! Hai chiếc Cobra xa luân chiến nơi bìa rừng với rocket và đại liên sáu nòng. Nhìn lên bốn UH đang ở trên cao, đoàn trực thăng hỗ trợ biệt phái từ Sư đoàn 101 nhầy dù Mỹ... với đầu con ó trắng nhưng hiền lành giống bồ câu! Tiếng súng nổ sau lưng và những lằn đạn nghe rõ tiếng đi... mặc, ba đứa tôi cứ cắm cổ chạy... Một hàng đá không cao lắm án phía trước như cái phao cứu sinh. Chúng tôi tất tưởi ào vào, miệng thở gấp hổn hển... Cobra thấy rõ tình hình, một chiếc đổi hướng tấn công trực diện vào bìa rừng. Tôi hét lên "Liêm, khom lưng chạy mau, đã có hàng đá bảo vệ phía sau" Có tiếng Covey gọi, tôi chạy chựng lại.
-Yankee papa đây Tango zulu...bạn chuẩn bị, trực thăng đến ngay trên đầu bạn OK.
Một chiếc trực thăng xuất hiện đang xả súng vào bìa rừng mà tôi không hề hay biết! Nó đáp xuống chận ngay bước chạy khom lưng và một người Mỹ đưa tay vội kéo chúng tôi vào khoang tầu... Trực thăng bốc lên và quay ngược đổi hướng, vội lên cao... Tôi cũng vừa nhìn thấy hai bên... Cobra bay song song như người dạo phố đang thân mật trò chuyện .
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/02/biet-kich-nha-ky-thuat.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-8752029589319637735Wed, 21 Nov 2012 07:39:00 +00002012-11-21T18:52:42.027-08:00
--------------------------------------
Nha Ky Thuat tren duong mon Ho Chi Minh
Cac muc tieu hanh quan Nha Ky Thuat tren duong mon Ho Chi Minh
I. Sơ Lược Lịch Sử
Con đường chuyển vận người và vũ khí của Việt Cộng từ Bắc vào Nam xuyên qua vùng cán chảo của vương quốc Lào đã có từ thời chiến tranh Ðông Dương. Lúc đó hệ thống giao liên này đích thực là những “đường mòn” dùng cho người đi bộ xuyên qua vùng rừng rậm Hạ Lào. Sau khi chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt vào năm 1954 với hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam – Bắc, hệ thống đường mòn này hầu như không còn được xử dụng.
Cho tới năm 1959, để chuẩn bị cho dã tâm đưa quân xâm chiếm miền Nam, Việt Cộng thành lập một Ðoàn Tiếp Vận đặc biệt mang bí số 559 có nhiệm vụ bảo vệ, mở mang, tu sửa và xếp đặt những cơ sở hậu cần dọc theo trục tiếp vận Bắc – Nam dọc theo bán đảo Ðông Dương, thường được các giới chức quân sự mệnh danh là “đường mòn Hồ Chí Minh” này. Ðơn vị Việt Cộng phụ trách mang tên 559 vì được thành lập vào tháng 5 năm 1959. Nhưng dù đã được đặt dưới quyền quản trị đặc biệt của Ðoàn Tiếp Vận 559, trước năm 1967, hệ thống đường xâm nhập Bắc – Nam tại Hạ Lào vẫn rất thô sơ nên Việt Cộng còn phải dùng dân công và xe đạp thồ để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu.
Mãi tới năm 1971, khi cường độ của cuộc chiến tranh Việt Nam gia tăng với những trận đánh qui mô trận địa chiến dùng chiến xa và đại pháo, đường mòn Hồ Chí Minh mới được canh tân thành những xa lộ lớn, xe hơi có thể di chuyển hai chiều. Con đường này bắt đầu từ đèo Mụ Già gần thị trấn Vinh – với hải cảng Bến Thủy – thuộc tỉnh Quảng Bình của Bắc Việt, xuyên qua lãnh thổ Lào rồi đâm sâu về phía Nam song song với biên giới Lào – Việt. Ðường mòn Hồ Chí Minh giao tiếp với đường số 9 là trục lộ Ðông – Tây nối liền thị trấn Ðông Hà thuộc miền Nam Việt Nam và tỉnh Savanakhet của Lào tại hai điểm quang trọng, đó là thị trấn Tchépone và Mường Nông. Hai trung tâm chuyển tiếp mấu chốt dùng làm nơi dưỡng quân và có nhiều kho quân lương, vũ khí này được Việt Cộng đặt cho bí danh 604 và 611 nằm đối diện với hai tỉnh cực bắc Quảng Trị, Thừa Thiên của miền Nam Việt Nam. Ðây là những địa điểm chính của Cộng Quân dùng làm bàn đạp để đẩy mạnh những cuộc tấn công và xâm nhập lãnh thổ Quân Khu I và II của VNCH.
II. Ðường mòn Sihanouk
Xa hơn về phía Nam, đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài qua vùng Tam Biên, nơi gặp gỡ của 3 biên giới giữa các quốc gia Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Khi vào tới lãnh thổ Cam Bốt hệ thống đdường xá này thường được gọi là “đường mòn Sihanouk”, mang ngụ ý ông Hoàng xứ Chùa Tháp là một tay sai cho Cộng Sản Bắc Việt. Nói khác đi, đường mòn Sihanouk là phần cực Nam, nối dài của đường mòn Hồ Chí Minh nằm trong lãnh thổ Cam Bốt.
III. Hệ thống đường xá
Thông thường, khi nghe nói tới “đường mòn”, mọi người đều mường tượng đến hình ảnh những lối đi nhỏ cheo leo hoặc độc đạo xuyên qua những khu rừng núi hiểm trở. Nhưng thực sự đến năm 1971, đường mòn Hồ Chí Minh là một hệ thống đường giao thông rộng lớn và phức tạp gồm nhiều xa lộ chạy song song nhau và tỏa rộng như một màng lưới nhện khổng lồ. Màng lưới này dài trên một ngàn cây số phủ dọc biên giới Việt – Miên – Lào theo hướng Bắc – Nam. Có nhiều nơi, bề rộng theo hướng Ðông – Tây của chiếc lưới nhiều nhánh này lên tới 90 cây số, ăn sâu trong lãnh thổ Lào và Cam Bốt. Các giới chức quân sự VNCH – Mỹ phỏng đoán nếu nối chung các nhánh này, tổng Cộng chiều dài của hệ thống “đường mòn xa lộ” có thể lên tới trên 10 ngàn cây số! Các cơ quan tình báo VNCH và Hoa Kỳ sau nhiều năm tung các toán thám sát vào khu vực đường mòn chiến lược này cũng mới chỉ vẽ được bản đồ được chừng trên 5 ngàn cây số, nghĩa là khoảng phân nửa. Việc khám phá, kiểm soát cũng như cắt đứt hệ thống lưới nhện này vô cùng khó khăn, không những vì quá rộng lớn mà còn vì khi cắt đứt được nhánh này, Việt Cộng lại xây cất nhiều nhánh phụ mới phức tạp nằm sâu hơn trong lãnh thổ Lào hoặc Cam Bốt.
IV. Tổ chức
Ðể xây cất, tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh, Ðoàn Tiếp Vận 559 đã phải thường trực xử dụng chừng 100,000 dân công Lào – Việt, chưa kể khoảng 50,000 quân lính để hộ tống những đoàn quân xa di chuyển cũng như bảo vệ 7 căn cứ quan trọng dọc theo đường mòn. Ngoài những căn cứ tiếp vận chính, còn có khoảng 50 trạm giao liên phụ, gọi là binh trạm. Mỗi binh trạm là một căn cứ yểm trợ gồm các cơ cấu chuyển vận, tiếp liệu, truyền tin, tu bổ đường xá, phòng thủ, y tế v.v… riêng biệt.
Theo lời thuật lại của Thiếu Tá Lê Văn Thời, Tiểu Ðoàn Phó TÐ 4, Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, khi bị bắt làm tù binh tại vùng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng 3 năm 1971, anh đã bị giải qua nhiều binh trạm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đường ra Bắc. Thiếu Tá Thời cho biết mỗi binh trạm là một địa điểm dừng quân cách nhau khoảng một ngày đi bộ trong rừng có nhiệm vụ cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở và hướng dẫn đoàn người tới trạm kế tiếp.
V. Di chuyển
Sau năm 1967, vì nhu cầu chuyển quân cũng như yểm trợ tiếp vận của Việt Cộng gia tăng tại chiến trường miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã được cải tiến và mở rộng để xe hơi có thể lưu thông được. Từ đó, xe vận tải kiểu Molotova do Nga Sô viện trợ đã được dùng để thay thế cho dân công và xe đạp thồ trong việc chuyên chở. Cơ quan tình báo đồng minh cho biết mỗi ngày có hàng trăm xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh và cũng có hàng trăm trạm nghỉ cho xe cộ chỉ riêng trong lãnh thổ Lào. Những xe này thường chạy vào ban đêm để tránh bị phi cơ phát hiện. Mỗi đêm, xe di chuyển được chừng 50 cây số là khoảng cách trung bình giữa trạm nghỉ này và trạm khác. Vì phải di chuyển ban đêm nhưng lại không dám để đèn để tránh bị phát hiện nên cần tài xế rất quen thuộc với đường xá trong vùng. Do đó, mỗi trạm nghỉ đều có một toán tài xế cơ hữu thường trực chuyên lái xe từ trạm mình tới trạm kế tiếp để thuộc nằm lòng địa thế vì lái đi lái lại có mỗi một đoạn đường chừng 50 cây số.
VI. Hệ thống dẫn nhiên liệu
Trước kia, nhiên liệu cần dùng được chứa trong những thùng phi 200 lít do xe vận tải chuyên chở hoặc đôi khi được thả trôi theo những giòng nước vào mùa mưa. Qua năm 1968 vì nhu cầu gia tăng gấp bội, Việt Cộng đã hoàn tất một hệ thống dẫn dầu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp tế nhiên liệu cho các xe cơ giới. Ống dẫn dầu có đường kính 4 inch (khoảng 10 cm) bắt đầu từ đèo Mụ Già chạy dọc theo biên giới Lào – Việt tới khu vực Mường Nông bên Lào, đối diện với thung lũng A Shau về phía Nam. Như vậy, Việt Cộng không những đã giải quyết được vấn đề tiếp tế nhiên liệu cho các xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn có khả năng yểm trợ cho các chiến xa hoạt đông sâu tại chiến trường miền Nam.
Tưởng cũng nên nhắc lại chiến xa kiểu PT-76 của Việt Cộng xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam vào đêm 8 tháng 2 năm 1968 trong trận đánh tại trại Lực Lượng Ðặc Biệt Lang Vei gần Khe Sanh sát biên giới Lào – Việt trên đường số 9. Chiến xa PT-76 là loại xe lội nước hạng nhẹ nên có thể di chuyển khá dễ đàng trên đường xá lầy lội bên Lào, sau đó, không còn thấy tham chiến cho tới năm 1971 trong trận Hạ Lào. Vì vậy, giới chức quân sự đồng minh cho rằng vì gặp khó khăn về việc tiếp tế nhiên liệu cũng như trở ngại về địa thế không thích hợp nên chiến xa hạng trung như loại T-54 của Việt Cộng không phải là mối đe dọa lớn trên chiến trường miền Nam, nhất là tại vùng cao nguyên núi non trùng điệp và rừng rậm hiểm trở.
Theo ước lượng của giới tình báo, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1966 tới 1971, có chừng 600,000 ngàn quân CS Bắc Việt, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 ngàn vũ khí đủ loại và 50,000 tấn đạn dược đã được chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Mật độ xe cộ đi lại rất rộn rịp trong mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4. Sáu tháng còn lại trong năm, vì mưa lũ thường xuyên nên đường xá lầy lội rất khó đi. Các cuộc tấn công của VIệt Cộng trên chiến trường miền Nam thường được khởi sự vào mùa khô, khi việc chuyên chở người và vật liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh không gặp trở ngại vì thời tiết.
VII. Nỗ lực cắt đứt đườn mòn Hồ Chí Minh của VNCH và đồng minh
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, tiếp vận thường là yếu tố sinh tử góp phần quyết định quan trọng trong việc thành công hay thất bại. Các bậc danh tướng cổ kim luôn luôn đặt vấn đề tiếp vận thành mối ưu tư hàng đầu trong mỗi cuộc hành quân. Thời xưa, khi hình thái chiến tranh còn đơn giản với những vũ khí thô sơ, công tác tiếp vận thường thu gọn vào việc tiếp tế lương thực cho quân lính. Dưới thời Tam Quốc bên Tầu, vạn đại quân sư Khổng Minh Gia Cát Lượng của nhà Hán đã chế ra “trâu gỗ, ngựa gỗ” để giải quyết vấn đề tải lương trong những lần “lục xuất Kỳ Sơn” ra đánh Tào Tháo tại Trung Nguyên. Ông cũng lập kế dùng thuyền chở rơm rạ chèo tới gần thủy trại của quân Tào rồi cho quân khua chiêng gióng trống khiến địch sợ hãi bắn tên loạn xạ nên nhàn nhã thu được 10 vạn mũi tên cắm vào thuyền đem về nạp cho Ðô Ðốc Chu Du của Giang Nam làm vũ khí đại thắng quân Tào trong trận Xích Bích. Tào Tháo gian hùng đã ra lệnh chém quan Chưởng Bạ Dương Tu khi lương thực bị cạn cũng chỉ mong trấn an lòng quân sĩ.
Gần đây hơn, dưới thời nhà Trần trong Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đại phá quân Mông Cổ hùng mạnh khởi đầu bằng chiến thắng Vân Ðồn khi tướng Trần Khánh Dư đốt hết những thuyền chở lương của giặc. Kết qủa, 50 vạn quân do Nguyên đã bị thảm bại. Trong thế chiến thứ hai, những đoàn chiến xa Panzer lừng danh bách chiến bách thắng dưới quyền con cáo già sa mạc Romme đã bị quân Anh chận đứng tại Phi Châu vì thiếu nhiên liệu. Vào năm 1954, quân đi Pháp đã bị thất trận tại Ðiện Biên Phủ vì bị cắt đứt đường tiếp vận và tăng viện duy nhất bằng đường hàng không.
Ngày nay, quân lực Hoa Kỳ được coi là hữu hiệu nhất thế giới không hẳn chỉ vì binh sĩ thiện chiến mà còn nhờ bộ máy tiếp vận khổng lồ hữu hiệu gần như vô giới hạn có thể tiếp tế bất cứ phần đất nào trên thế giới trong khoảnh khắc dăm ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, theo thống kê, cứ mỗi quân nhân Hoa Kỳ trực tiếp cầm súng đánh giặc ngoài mặt trận, có ít nhất 5 người khác đàng sau lo việc tiếp vận và yểm trợ. Vì vậy, chúng ta thấy những căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ trên thế giới không phải là những trại lính mà là những căn cứ yễm trợ tiếp vận khổng lồ.
Vì tầm quan trọng có mức độ quyết định của vấn đề tiếp vận, nên binh thư thường nói “một tướng lãnh chỉ biết về hành quân mà không biết về tiếp vận thì chưa phải là một vị tướng hoàn toàn”. Hoàng Ðế Napoléon bách chiến của nước Pháp tóm tắt ngắn gọn và đơn giản hơn: “Ðạo quân nào cũng tiến bằng chiếc bụng”. Ý ông muốn nói quân lính có no bụng mới đánh trận được. Trong thời buổi văn minh hiện đại, chiếc bụng của một đạo quân không chỉ đơn giản chỉ cần lương thực cho quân lính, mà còn không thể thiếu nhiên liệu cho xe cộ, máy bay, tầu chiến và bom đạn cho những loại vũ khí tối tân.
Do đó, khi cường độ của cuộc chiến tại Việt Nam trở thành ác liệt với các trận đánh chuyển từ hình thái du kích chiến qua trận địa chiến với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, vấn đề tiếp vận đương nhiên trở thành một yếu tố sinh tử đối với Cộng quân. Ðể tiếp tế cho chiến trường miền Nam, Việt Cộng dùng hai ngả chính. Ðó là đường mòn Hồ Chí Minh và hải cảng Kompong Som còn được gọi là Sihanoukville của Cam Bốt. Nhưng tới năm 1971 khi chính phủ Lon Nol thân Hoa Kỳ thay thế ông hoàng Sihanouk, đường tiếp vận từ Cam Bốt qua ngả Kompong Som bị cấm chỉ. Con đường duy nhất còn lại là đường mòn Hồ Chí Minh. Cả Việt Cộng lẫn phe đồng minh đều biết rằng bên nào kiểm soát được trục tiếp vận huyết mạch này sẽ chiến thắng tại miền Nam.
Vì tầm mức chiến lược vô cùng quan trọng này, ngay từ năm 1965, QLVNCH đã có 2 kế hoạch để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh: một là đổ bộ lên miền Bắc ngay vùng hải cảng Vinh nhằm phá vỡ ngay từ đầu mối, hai là đánh sang Lào để cắt đứt tại khúc giữa. Nhưng những kế hoạch này đã không thực hiện được vì QLVNCH không đủ mạnh. Vả lại Hoa Kỳ cũng không đồng ý nới rộng chiến tranh qua toàn cõi Ðông Dương vì e ngại Trung Cộng và Nga Sô sẽ nhân cơ hội nhẩy vào vòng chiến.
Do đó, trong lúc Cộng Quân ra sức bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh thì lực lượng đồng minh dồn nỗ lực đánh phá. Các hoạt động quân sự của đồng minh nhằm cắt đứt trục tiếp vận quan trọng này gồm: thả những toán biệt kích xâm nhập nội địa Lào, dùng máy bay bắn phá, dùng lực lượng sắc tộc thiểu số Hmong của Lào và trực tiếp đổ quân sang đánh phá.
1. Hoạt động của những toán Biệt Kích
Những đơn vị chuyên xâm nhập vùng lãnh thổ do địch quân kiểm soát này thường được gọi là Lôi Hổ do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ huấn luyện. Ðây là những toán nhỏ chừng 4, 5 người được phi cơ thả xuống khu vực đường mòn Hồ Chí Minh để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động và di chuyển của Cộng quân cũng như thi hành những công tác phá hoại. Ban đầu, những toán biệt kích được thả dù từ các phi cơ vận tải loại C-47, sau này được thả bằng trực thăng loại H-34 hay UH-1B. Phi Ðoàn 219 của Không Quân VNCH là đơn vị phụ trách thả và bốc những toán biệt kích bên Lào.
2. Dùng máy bay đánh phá
Song song với các hoạt động biệt kích, không lực Hoa Kỳ còn dùng phi cơ oanh tạc khu trục để thường xuyên thả bom hay bắn phá để ngăn chận sự di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi khi thu thập được những tin tức tình báo chính xác từ các toán biệt kích hay từ những máy móc điện thám về di chuyển của những toán quân, đoàn xe hay nơi tập trung quân của địch, phi cơ Hoa Kỳ từ các căn cứ không quân bên Thái Lan như Phanat Nikhon hay Takhli v.v… lập tức cất cánh oanh tạc. Ngoài ra, các phi cơ võ trang Hải Quân Hoa Kỳ từ hàng không mẫu hạm ngoài Biển Ðông cũng thường xuyên bay tuần tiễu dọc theo đường mòn dể sẵn sàng bắn phá mỗi khi phát hiện mục tiêu.
Các dụng cụ điện tử thám báo tối tân trông giống như những chòm cây được thả từ máy bay dọc theo đường mòn để thâu thập dữ kiện. Khi có xe hay người di chuyển qua, các máy “sensor” có antenne này sẽ ghi nhận những địa chấn và tự động phát ra những tín hiệu đặc biệt. Trên không phận Lào, lúc nào cũng có một phi cơ Hoa Kỳ bao vùng để ghi nhận và báo về trung tâm kiểm thám bên Thái Lan. Những tin tức này được đưa vào máy điện toán để phân tích và xác định mục tiêu cho phi cơ oanh tạc. Không quân Hoa Kỳ có loại phi cơ vận tải C-130 biến cải mang tên “Spectre” trang bị máy nhắm hồng ngoại tuyến chuyên dò tìm và bắn phá các xe cộ di chuyển vào ban đêm. Trong một tài liệu chính thức, cán binh Việt Cộng nhận xét về phi cơ Spectre này như sau: “Thằng này đánh đêm tinh như ma …"
3. Lực lượng sắc tộc Hmong Lào
Ngoài các toán biệt kích hỗn hợp Việt- Mỹ, LLÐB Hoa Kỳ còn tuyển mộ và huấn luyện người của bộ lạc thiểu số Hmong để thường trực ngăn chận các hoạt động của Cộng quân bên Lào. Lực lượng người Hmong này được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Vang Pao, đặt căn cứ tại Long Cheng. Tướng Vang Pao có nhiều tiểu đoàn hoạt động tại vùng Savannakhet gần khu vực Tchépone là một diểm tiếp vận quan trọng của Cộng Quân. Lực lượng này do Hoa Kỳ trực tiếp điều động và quản trị, không thuộc quân đội Hoàng Gia Lào trên nguyên tắc.
4. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Lào
Vào tháng 2 năm 1971, khi lực lượng Cộng quân tập trung đông đảo tại Lào để dự định tấn công vào Quân Khu I, QLVNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhằm phá vỡ ý đồ của địch quân bằng cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh là trục tiếp vận chính. Lực lượng VNCH gồm có các đơn vị tinh nhuệ như Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Sư Ðoàn Dù, Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến và Liên Ðoàn 1 Biệt động Quân. Vì bị đánh trúng yếu điểm, Cộng Quân phải tung ra 6 Sư Ðoàn để bảo vệ. Ðôi bên quần thảo khoảng 45 ngày với những trận đánh đẫm máu dữ dội tại Căn Cứ BÐQ Bắc, Căn Cứ Hỏa Lực 31, đồi Lolo, đồi Sophia v.v…
Kết quả, đôi bên đều bị thiệt hại nặng về nhân mạng, chừng 10,000 người về phía QLVNCH và 20,000 người về phía Cộng Quân. Nhưng điều quan trọng là tuy QLVNCH chiếm được mục tiêu Tchépone, phá hủy nhiều cơ sở tiếp vận quan trọng tại khu hậu cần 604 và 611, nhưng vì không đủ quân số chiếm đóng nên phải rút về, không hoàn toàn cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, chỉ tới mùa hè năm sau, Cộng Quân đã tập trung được đủ tiếp vận và quân số để vượt biên giới tấn công VNCH tại 3 mặt trận: giới tuyến Ðông Hà tại Quân Khu I, vùng cao nguyên Kontum tại Quân Khu II và thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long tại Quân Khu III.
Kết luận
Sau khi hiệp định ngưng chiến Paris được ký kết vào năm 1972, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ, quân đội Hoa Kỳ có cớ rút lui “trong danh dự”. Quân Lực VNCH không còn được yểm trợ$đúng mức nên thiếu sức mạnh để đánh phá khu vực đường mòn Hồ Chí Minh. Cộng Quân coi như được Hoa Kỳ bật đèn xanh, tự do chuyển người và vũ khí xâm lấn miền Nam. Vào tháng 4 năm 1975, Cộng Quân đã dùng toàn lực, đưa hầu hết quân số của miền Bắc, khoảng 20 sư đoàn chiến đấu, nhiều Sư Ðoàn pháo binh và Trung Ðoàn chiến xa nặng vào chiến đấu tại miền Nam với đầy đủ lương thực, nhiên liệu và đạn dược. Tất cả bộ máy quân sự khổng lồ này đã được di chuyển qua ngả đường mòn Hồ Chí Minh, chẳng gặp sức chống đối hay trở ngại nào vì QLVNCH không còn mạng để ngăn chặn. Có thể nói miền Nam đã rơi vào tay Cộng Quân dễ dàng vì chúng đã hoàn toàn làm chủ được con đường tiếp vận huyết mạch Hồ Chí Minh.
Trần Ðỗ Cẩm
Thẻ-biệt-kích
====================================
Nhảy Halow
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/10/halo-high-altitude-low-opening.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-4750700511364068220Fri, 23 Aug 2013 05:48:00 +00002013-10-30T09:50:29.971-07:00
Saigon 15 tháng tám 2013
Con đường chuyển vận người và vũ khí của Việt Cộng từ Bắc vào Nam xuyên qua vùng cán chảo của vương quốc Lào đã có từ thời chiến tranh Ðông Dương. Lúc đó hệ thống giao liên này đích thực là những “đường mòn” dùng cho người đi bộ xuyên qua vùng rừng rậm Hạ Lào. Sau khi chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt vào năm 1954 với hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam – Bắc, hệ thống đường mòn này hầu như không còn được xử dụng.
Cho tới năm 1959, để chuẩn bị cho dã tâm đưa quân xâm chiếm miền Nam, Việt Cộng thành lập một Ðoàn Tiếp Vận đặc biệt mang bí số 559 có nhiệm vụ bảo vệ, mở mang, tu sửa và xếp đặt những cơ sở hậu cần dọc theo trục tiếp vận Bắc – Nam dọc theo bán đảo Ðông Dương, thường được các giới chức quân sự mệnh danh là “đường mòn Hồ Chí Minh” này. Ðơn vị Việt Cộng phụ trách mang tên 559 vì được thành lập vào tháng 5 năm 1959. Nhưng dù đã được đặt dưới quyền quản trị đặc biệt của Ðoàn Tiếp Vận 559, trước năm 1967, hệ thống đường xâm nhập Bắc – Nam tại Hạ Lào vẫn rất thô sơ nên Việt Cộng còn phải dùng dân công và xe đạp thồ để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu.
Mãi tới năm 1971, khi cường độ của cuộc chiến tranh Việt Nam gia tăng với những trận đánh qui mô trận địa chiến dùng chiến xa và đại pháo, đường mòn Hồ Chí Minh mới được canh tân thành những xa lộ lớn, xe hơi có thể di chuyển hai chiều. Con đường này bắt đầu từ đèo Mụ Già gần thị trấn Vinh – với hải cảng Bến Thủy – thuộc tỉnh Quảng Bình của Bắc Việt, xuyên qua lãnh thổ Lào rồi đâm sâu về phía Nam song song với biên giới Lào – Việt. Ðường mòn Hồ Chí Minh giao tiếp với đường số 9 là trục lộ Ðông – Tây nối liền thị trấn Ðông Hà thuộc miền Nam Việt Nam và tỉnh Savanakhet của Lào tại hai điểm quang trọng, đó là thị trấn Tchépone và Mường Nông. Hai trung tâm chuyển tiếp mấu chốt dùng làm nơi dưỡng quân và có nhiều kho quân lương, vũ khí này được Việt Cộng đặt cho bí danh 604 và 611 nằm đối diện với hai tỉnh cực bắc Quảng Trị, Thừa Thiên của miền Nam Việt Nam. Ðây là những địa điểm chính của Cộng Quân dùng làm bàn đạp để đẩy mạnh những cuộc tấn công và xâm nhập lãnh thổ Quân Khu I và II của VNCH.
II. Ðường mòn Sihanouk
Xa hơn về phía Nam, đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài qua vùng Tam Biên, nơi gặp gỡ của 3 biên giới giữa các quốc gia Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Khi vào tới lãnh thổ Cam Bốt hệ thống đdường xá này thường được gọi là “đường mòn Sihanouk”, mang ngụ ý ông Hoàng xứ Chùa Tháp là một tay sai cho Cộng Sản Bắc Việt. Nói khác đi, đường mòn Sihanouk là phần cực Nam, nối dài của đường mòn Hồ Chí Minh nằm trong lãnh thổ Cam Bốt.
III. Hệ thống đường xá
Thông thường, khi nghe nói tới “đường mòn”, mọi người đều mường tượng đến hình ảnh những lối đi nhỏ cheo leo hoặc độc đạo xuyên qua những khu rừng núi hiểm trở. Nhưng thực sự đến năm 1971, đường mòn Hồ Chí Minh là một hệ thống đường giao thông rộng lớn và phức tạp gồm nhiều xa lộ chạy song song nhau và tỏa rộng như một màng lưới nhện khổng lồ. Màng lưới này dài trên một ngàn cây số phủ dọc biên giới Việt – Miên – Lào theo hướng Bắc – Nam. Có nhiều nơi, bề rộng theo hướng Ðông – Tây của chiếc lưới nhiều nhánh này lên tới 90 cây số, ăn sâu trong lãnh thổ Lào và Cam Bốt. Các giới chức quân sự VNCH – Mỹ phỏng đoán nếu nối chung các nhánh này, tổng Cộng chiều dài của hệ thống “đường mòn xa lộ” có thể lên tới trên 10 ngàn cây số! Các cơ quan tình báo VNCH và Hoa Kỳ sau nhiều năm tung các toán thám sát vào khu vực đường mòn chiến lược này cũng mới chỉ vẽ được bản đồ được chừng trên 5 ngàn cây số, nghĩa là khoảng phân nửa. Việc khám phá, kiểm soát cũng như cắt đứt hệ thống lưới nhện này vô cùng khó khăn, không những vì quá rộng lớn mà còn vì khi cắt đứt được nhánh này, Việt Cộng lại xây cất nhiều nhánh phụ mới phức tạp nằm sâu hơn trong lãnh thổ Lào hoặc Cam Bốt.
IV. Tổ chức
Ðể xây cất, tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh, Ðoàn Tiếp Vận 559 đã phải thường trực xử dụng chừng 100,000 dân công Lào – Việt, chưa kể khoảng 50,000 quân lính để hộ tống những đoàn quân xa di chuyển cũng như bảo vệ 7 căn cứ quan trọng dọc theo đường mòn. Ngoài những căn cứ tiếp vận chính, còn có khoảng 50 trạm giao liên phụ, gọi là binh trạm. Mỗi binh trạm là một căn cứ yểm trợ gồm các cơ cấu chuyển vận, tiếp liệu, truyền tin, tu bổ đường xá, phòng thủ, y tế v.v… riêng biệt.
Theo lời thuật lại của Thiếu Tá Lê Văn Thời, Tiểu Ðoàn Phó TÐ 4, Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, khi bị bắt làm tù binh tại vùng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng 3 năm 1971, anh đã bị giải qua nhiều binh trạm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đường ra Bắc. Thiếu Tá Thời cho biết mỗi binh trạm là một địa điểm dừng quân cách nhau khoảng một ngày đi bộ trong rừng có nhiệm vụ cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở và hướng dẫn đoàn người tới trạm kế tiếp.
V. Di chuyển
Sau năm 1967, vì nhu cầu chuyển quân cũng như yểm trợ tiếp vận của Việt Cộng gia tăng tại chiến trường miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã được cải tiến và mở rộng để xe hơi có thể lưu thông được. Từ đó, xe vận tải kiểu Molotova do Nga Sô viện trợ đã được dùng để thay thế cho dân công và xe đạp thồ trong việc chuyên chở. Cơ quan tình báo đồng minh cho biết mỗi ngày có hàng trăm xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh và cũng có hàng trăm trạm nghỉ cho xe cộ chỉ riêng trong lãnh thổ Lào. Những xe này thường chạy vào ban đêm để tránh bị phi cơ phát hiện. Mỗi đêm, xe di chuyển được chừng 50 cây số là khoảng cách trung bình giữa trạm nghỉ này và trạm khác. Vì phải di chuyển ban đêm nhưng lại không dám để đèn để tránh bị phát hiện nên cần tài xế rất quen thuộc với đường xá trong vùng. Do đó, mỗi trạm nghỉ đều có một toán tài xế cơ hữu thường trực chuyên lái xe từ trạm mình tới trạm kế tiếp để thuộc nằm lòng địa thế vì lái đi lái lại có mỗi một đoạn đường chừng 50 cây số.
VI. Hệ thống dẫn nhiên liệu
Trước kia, nhiên liệu cần dùng được chứa trong những thùng phi 200 lít do xe vận tải chuyên chở hoặc đôi khi được thả trôi theo những giòng nước vào mùa mưa. Qua năm 1968 vì nhu cầu gia tăng gấp bội, Việt Cộng đã hoàn tất một hệ thống dẫn dầu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp tế nhiên liệu cho các xe cơ giới. Ống dẫn dầu có đường kính 4 inch (khoảng 10 cm) bắt đầu từ đèo Mụ Già chạy dọc theo biên giới Lào – Việt tới khu vực Mường Nông bên Lào, đối diện với thung lũng A Shau về phía Nam. Như vậy, Việt Cộng không những đã giải quyết được vấn đề tiếp tế nhiên liệu cho các xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn có khả năng yểm trợ cho các chiến xa hoạt đông sâu tại chiến trường miền Nam.
Tưởng cũng nên nhắc lại chiến xa kiểu PT-76 của Việt Cộng xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam vào đêm 8 tháng 2 năm 1968 trong trận đánh tại trại Lực Lượng Ðặc Biệt Lang Vei gần Khe Sanh sát biên giới Lào – Việt trên đường số 9. Chiến xa PT-76 là loại xe lội nước hạng nhẹ nên có thể di chuyển khá dễ đàng trên đường xá lầy lội bên Lào, sau đó, không còn thấy tham chiến cho tới năm 1971 trong trận Hạ Lào. Vì vậy, giới chức quân sự đồng minh cho rằng vì gặp khó khăn về việc tiếp tế nhiên liệu cũng như trở ngại về địa thế không thích hợp nên chiến xa hạng trung như loại T-54 của Việt Cộng không phải là mối đe dọa lớn trên chiến trường miền Nam, nhất là tại vùng cao nguyên núi non trùng điệp và rừng rậm hiểm trở.
Theo ước lượng của giới tình báo, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1966 tới 1971, có chừng 600,000 ngàn quân CS Bắc Việt, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 ngàn vũ khí đủ loại và 50,000 tấn đạn dược đã được chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Mật độ xe cộ đi lại rất rộn rịp trong mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4. Sáu tháng còn lại trong năm, vì mưa lũ thường xuyên nên đường xá lầy lội rất khó đi. Các cuộc tấn công của VIệt Cộng trên chiến trường miền Nam thường được khởi sự vào mùa khô, khi việc chuyên chở người và vật liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh không gặp trở ngại vì thời tiết.
VII. Nỗ lực cắt đứt đườn mòn Hồ Chí Minh của VNCH và đồng minh
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, tiếp vận thường là yếu tố sinh tử góp phần quyết định quan trọng trong việc thành công hay thất bại. Các bậc danh tướng cổ kim luôn luôn đặt vấn đề tiếp vận thành mối ưu tư hàng đầu trong mỗi cuộc hành quân. Thời xưa, khi hình thái chiến tranh còn đơn giản với những vũ khí thô sơ, công tác tiếp vận thường thu gọn vào việc tiếp tế lương thực cho quân lính. Dưới thời Tam Quốc bên Tầu, vạn đại quân sư Khổng Minh Gia Cát Lượng của nhà Hán đã chế ra “trâu gỗ, ngựa gỗ” để giải quyết vấn đề tải lương trong những lần “lục xuất Kỳ Sơn” ra đánh Tào Tháo tại Trung Nguyên. Ông cũng lập kế dùng thuyền chở rơm rạ chèo tới gần thủy trại của quân Tào rồi cho quân khua chiêng gióng trống khiến địch sợ hãi bắn tên loạn xạ nên nhàn nhã thu được 10 vạn mũi tên cắm vào thuyền đem về nạp cho Ðô Ðốc Chu Du của Giang Nam làm vũ khí đại thắng quân Tào trong trận Xích Bích. Tào Tháo gian hùng đã ra lệnh chém quan Chưởng Bạ Dương Tu khi lương thực bị cạn cũng chỉ mong trấn an lòng quân sĩ.
Gần đây hơn, dưới thời nhà Trần trong Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đại phá quân Mông Cổ hùng mạnh khởi đầu bằng chiến thắng Vân Ðồn khi tướng Trần Khánh Dư đốt hết những thuyền chở lương của giặc. Kết qủa, 50 vạn quân do Nguyên đã bị thảm bại. Trong thế chiến thứ hai, những đoàn chiến xa Panzer lừng danh bách chiến bách thắng dưới quyền con cáo già sa mạc Romme đã bị quân Anh chận đứng tại Phi Châu vì thiếu nhiên liệu. Vào năm 1954, quân đi Pháp đã bị thất trận tại Ðiện Biên Phủ vì bị cắt đứt đường tiếp vận và tăng viện duy nhất bằng đường hàng không.
Ngày nay, quân lực Hoa Kỳ được coi là hữu hiệu nhất thế giới không hẳn chỉ vì binh sĩ thiện chiến mà còn nhờ bộ máy tiếp vận khổng lồ hữu hiệu gần như vô giới hạn có thể tiếp tế bất cứ phần đất nào trên thế giới trong khoảnh khắc dăm ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, theo thống kê, cứ mỗi quân nhân Hoa Kỳ trực tiếp cầm súng đánh giặc ngoài mặt trận, có ít nhất 5 người khác đàng sau lo việc tiếp vận và yểm trợ. Vì vậy, chúng ta thấy những căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ trên thế giới không phải là những trại lính mà là những căn cứ yễm trợ tiếp vận khổng lồ.
Vì tầm quan trọng có mức độ quyết định của vấn đề tiếp vận, nên binh thư thường nói “một tướng lãnh chỉ biết về hành quân mà không biết về tiếp vận thì chưa phải là một vị tướng hoàn toàn”. Hoàng Ðế Napoléon bách chiến của nước Pháp tóm tắt ngắn gọn và đơn giản hơn: “Ðạo quân nào cũng tiến bằng chiếc bụng”. Ý ông muốn nói quân lính có no bụng mới đánh trận được. Trong thời buổi văn minh hiện đại, chiếc bụng của một đạo quân không chỉ đơn giản chỉ cần lương thực cho quân lính, mà còn không thể thiếu nhiên liệu cho xe cộ, máy bay, tầu chiến và bom đạn cho những loại vũ khí tối tân.
Do đó, khi cường độ của cuộc chiến tại Việt Nam trở thành ác liệt với các trận đánh chuyển từ hình thái du kích chiến qua trận địa chiến với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, vấn đề tiếp vận đương nhiên trở thành một yếu tố sinh tử đối với Cộng quân. Ðể tiếp tế cho chiến trường miền Nam, Việt Cộng dùng hai ngả chính. Ðó là đường mòn Hồ Chí Minh và hải cảng Kompong Som còn được gọi là Sihanoukville của Cam Bốt. Nhưng tới năm 1971 khi chính phủ Lon Nol thân Hoa Kỳ thay thế ông hoàng Sihanouk, đường tiếp vận từ Cam Bốt qua ngả Kompong Som bị cấm chỉ. Con đường duy nhất còn lại là đường mòn Hồ Chí Minh. Cả Việt Cộng lẫn phe đồng minh đều biết rằng bên nào kiểm soát được trục tiếp vận huyết mạch này sẽ chiến thắng tại miền Nam.
Vì tầm mức chiến lược vô cùng quan trọng này, ngay từ năm 1965, QLVNCH đã có 2 kế hoạch để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh: một là đổ bộ lên miền Bắc ngay vùng hải cảng Vinh nhằm phá vỡ ngay từ đầu mối, hai là đánh sang Lào để cắt đứt tại khúc giữa. Nhưng những kế hoạch này đã không thực hiện được vì QLVNCH không đủ mạnh. Vả lại Hoa Kỳ cũng không đồng ý nới rộng chiến tranh qua toàn cõi Ðông Dương vì e ngại Trung Cộng và Nga Sô sẽ nhân cơ hội nhẩy vào vòng chiến.
Do đó, trong lúc Cộng Quân ra sức bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh thì lực lượng đồng minh dồn nỗ lực đánh phá. Các hoạt động quân sự của đồng minh nhằm cắt đứt trục tiếp vận quan trọng này gồm: thả những toán biệt kích xâm nhập nội địa Lào, dùng máy bay bắn phá, dùng lực lượng sắc tộc thiểu số Hmong của Lào và trực tiếp đổ quân sang đánh phá.
1. Hoạt động của những toán Biệt Kích
Những đơn vị chuyên xâm nhập vùng lãnh thổ do địch quân kiểm soát này thường được gọi là Lôi Hổ do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ huấn luyện. Ðây là những toán nhỏ chừng 4, 5 người được phi cơ thả xuống khu vực đường mòn Hồ Chí Minh để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động và di chuyển của Cộng quân cũng như thi hành những công tác phá hoại. Ban đầu, những toán biệt kích được thả dù từ các phi cơ vận tải loại C-47, sau này được thả bằng trực thăng loại H-34 hay UH-1B. Phi Ðoàn 219 của Không Quân VNCH là đơn vị phụ trách thả và bốc những toán biệt kích bên Lào.
2. Dùng máy bay đánh phá
Song song với các hoạt động biệt kích, không lực Hoa Kỳ còn dùng phi cơ oanh tạc khu trục để thường xuyên thả bom hay bắn phá để ngăn chận sự di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi khi thu thập được những tin tức tình báo chính xác từ các toán biệt kích hay từ những máy móc điện thám về di chuyển của những toán quân, đoàn xe hay nơi tập trung quân của địch, phi cơ Hoa Kỳ từ các căn cứ không quân bên Thái Lan như Phanat Nikhon hay Takhli v.v… lập tức cất cánh oanh tạc. Ngoài ra, các phi cơ võ trang Hải Quân Hoa Kỳ từ hàng không mẫu hạm ngoài Biển Ðông cũng thường xuyên bay tuần tiễu dọc theo đường mòn dể sẵn sàng bắn phá mỗi khi phát hiện mục tiêu.
Các dụng cụ điện tử thám báo tối tân trông giống như những chòm cây được thả từ máy bay dọc theo đường mòn để thâu thập dữ kiện. Khi có xe hay người di chuyển qua, các máy “sensor” có antenne này sẽ ghi nhận những địa chấn và tự động phát ra những tín hiệu đặc biệt. Trên không phận Lào, lúc nào cũng có một phi cơ Hoa Kỳ bao vùng để ghi nhận và báo về trung tâm kiểm thám bên Thái Lan. Những tin tức này được đưa vào máy điện toán để phân tích và xác định mục tiêu cho phi cơ oanh tạc. Không quân Hoa Kỳ có loại phi cơ vận tải C-130 biến cải mang tên “Spectre” trang bị máy nhắm hồng ngoại tuyến chuyên dò tìm và bắn phá các xe cộ di chuyển vào ban đêm. Trong một tài liệu chính thức, cán binh Việt Cộng nhận xét về phi cơ Spectre này như sau: “Thằng này đánh đêm tinh như ma …"
3. Lực lượng sắc tộc Hmong Lào
Ngoài các toán biệt kích hỗn hợp Việt- Mỹ, LLÐB Hoa Kỳ còn tuyển mộ và huấn luyện người của bộ lạc thiểu số Hmong để thường trực ngăn chận các hoạt động của Cộng quân bên Lào. Lực lượng người Hmong này được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Vang Pao, đặt căn cứ tại Long Cheng. Tướng Vang Pao có nhiều tiểu đoàn hoạt động tại vùng Savannakhet gần khu vực Tchépone là một diểm tiếp vận quan trọng của Cộng Quân. Lực lượng này do Hoa Kỳ trực tiếp điều động và quản trị, không thuộc quân đội Hoàng Gia Lào trên nguyên tắc.
4. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Lào
Vào tháng 2 năm 1971, khi lực lượng Cộng quân tập trung đông đảo tại Lào để dự định tấn công vào Quân Khu I, QLVNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhằm phá vỡ ý đồ của địch quân bằng cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh là trục tiếp vận chính. Lực lượng VNCH gồm có các đơn vị tinh nhuệ như Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Sư Ðoàn Dù, Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến và Liên Ðoàn 1 Biệt động Quân. Vì bị đánh trúng yếu điểm, Cộng Quân phải tung ra 6 Sư Ðoàn để bảo vệ. Ðôi bên quần thảo khoảng 45 ngày với những trận đánh đẫm máu dữ dội tại Căn Cứ BÐQ Bắc, Căn Cứ Hỏa Lực 31, đồi Lolo, đồi Sophia v.v…
Kết quả, đôi bên đều bị thiệt hại nặng về nhân mạng, chừng 10,000 người về phía QLVNCH và 20,000 người về phía Cộng Quân. Nhưng điều quan trọng là tuy QLVNCH chiếm được mục tiêu Tchépone, phá hủy nhiều cơ sở tiếp vận quan trọng tại khu hậu cần 604 và 611, nhưng vì không đủ quân số chiếm đóng nên phải rút về, không hoàn toàn cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, chỉ tới mùa hè năm sau, Cộng Quân đã tập trung được đủ tiếp vận và quân số để vượt biên giới tấn công VNCH tại 3 mặt trận: giới tuyến Ðông Hà tại Quân Khu I, vùng cao nguyên Kontum tại Quân Khu II và thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long tại Quân Khu III.
Kết luận
Sau khi hiệp định ngưng chiến Paris được ký kết vào năm 1972, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ, quân đội Hoa Kỳ có cớ rút lui “trong danh dự”. Quân Lực VNCH không còn được yểm trợ$đúng mức nên thiếu sức mạnh để đánh phá khu vực đường mòn Hồ Chí Minh. Cộng Quân coi như được Hoa Kỳ bật đèn xanh, tự do chuyển người và vũ khí xâm lấn miền Nam. Vào tháng 4 năm 1975, Cộng Quân đã dùng toàn lực, đưa hầu hết quân số của miền Bắc, khoảng 20 sư đoàn chiến đấu, nhiều Sư Ðoàn pháo binh và Trung Ðoàn chiến xa nặng vào chiến đấu tại miền Nam với đầy đủ lương thực, nhiên liệu và đạn dược. Tất cả bộ máy quân sự khổng lồ này đã được di chuyển qua ngả đường mòn Hồ Chí Minh, chẳng gặp sức chống đối hay trở ngại nào vì QLVNCH không còn mạng để ngăn chặn. Có thể nói miền Nam đã rơi vào tay Cộng Quân dễ dàng vì chúng đã hoàn toàn làm chủ được con đường tiếp vận huyết mạch Hồ Chí Minh.
Trần Ðỗ Cẩm
Động cơ Phản Lực F4 Fantom trền đất Lào
Đạn Súng Cối
PT76 Tank Chinese build trên đường mòn HCM
Bên trong Tank PT76 để lại trên đường mòn HCM
Xác máy bay Trực Thăng trên đất Lào
Vũ Khí tịch thu trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719
Xác máy bay Trực Thăng trên đất Lào
Vũ Khí tịch thu trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719
Tham Khảo Tài Liệu Việt Cộng sưu tầm trên Báo Tuổi Trẻ
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
TT - Đó là những con đường nhận và vận chuyển hàng hóa vào miền Nam trong những năm đất nước trải qua chiến tranh. Bên cạnh đường mòn Hồ Chí Minh, đường Hồ Chí Minh trên biển hay con đường ống xăng dầu, những con đường đặc biệt này được mở ra theo những tuyến lạ lùng chưa từng có, vì mục tiêu số một: chi viện khẩn cấp cho miền Nam.
Những câu chuyện độc đáo về các tuyến đường này lần đầu tiên được kể lại một cách có hệ thống trong cuốn sách 5 con đường mòn Hồ Chí Minh của giáo sư Đặng Phong (Viện Kinh tế VN) do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành tháng 8-2008.
Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
Cổng vào cảng Sihanoukville
|
TT - Bước sang những năm 1960, nhu cầu chi viện vật tư, hàng hóa và vũ khí cho miền Nam tăng lên. Những nguồn viện trợ của Liên Xô, nhất là vũ khí, chiếm phần lớn nhất và quan trọng nhất trong viện trợ, lại gặp khó khăn trong việc vận chuyển qua đất Trung Quốc. Do đó, VN phải tìm một con đường khác để nhận và vận chuyển hàng viện trợ, nhất là vũ khí vào Nam. Con đường đó chỉ có thể là đường thủy. Hướng được lựa chọn là Campuchia.
Mở tuyến
Để củng cố mối quan hệ tối cần thiết này, ngay từ cuối thập kỷ 1950 phía VN đã cử giáo sư Ca Văn Thỉnh sang làm đại sứ tại Phnom Penh. Ca Văn Thỉnh vốn là đốc học tỉnh Bến Tre từ thời Pháp, sau đó trở thành thầy giáo dạy trường trung học tại Sài Gòn mà thái tử Sihanouk là học trò. Quan hệ thầy trò chắc chắn đã góp phần rất quan trọng vào việc thắt chặt mối quan hệ VN - Campuchia.
Với quan hệ tốt đẹp giữa hai nước và trước những đe dọa của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, thái tử Sihanouk sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho VN trong việc vận chuyển vũ khí. Từ đó, đã mở ra con đường thủy để chuyên chở vũ khí thẳng từ Liên Xô tới cảng Sihanoukville. Rồi sau đó đưa về những kho đặt rải rác dọc biên giới. Từ các kho này hàng được vận chuyển về các địa điểm khác nhau trong vùng căn cứ.
Xe tải trên đường từ cảng Sihanoukville về biên giới VN |
Từ năm 1966, cường độ chiến tranh tăng lên mức ác liệt. Chi viện bằng đường bộ không đủ. Con đường vận tải trên biển bị kiểm soát gắt gao từ sau "vụ Vũng Rô” (tháng 2-1965). Con đường qua cảng Sihanoukville càng trở thành trọng yếu.
Tháng 7-1966, Trung ương Cục quyết định thành lập Đoàn hậu cần 17, chuyên trách việc tổ chức tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc qua cảng Sihanoukville, rồi từ đó qua nhiều tuyến vận tải khác nhau vào tới tận B2, tức Nam bộ. Hàng hóa do nước bạn viện trợ khi chở đến cảng này được chuyển vào một kho riêng, mà các bạn Campuchia hay gọi là "kho Việt cộng". Từ đây, có các "đường dây" của Ban Kinh tài đến nhận và chuyển về vùng giải phóng.
Đặt cơ sở
Người phụ trách chính công tác này tại Phnom Penh là ông Nguyễn Gia Đằng, tức Tư Cam, ủy viên Ban cán sự Việt kiều Campuchia (bí danh là Ban cán sự K). Có những thời kỳ phải chấp nhận mức giá "lót đường" cho một số tướng tá Campuchia rất cao: tiền lót đường được tính theo giá 2 đôla/kg vũ khí và 1 đôla/kg các loại hàng khác. Mức giá này luôn thay đổi, tùy theo tuyến đường nào và viên tướng nào quản lý tuyến đường đó. Có những thời kỳ các viên tướng không chịu lấy tiền mà đòi đổi vũ khí. Cũng theo ông Tư Cam, có trường hợp phải chấp nhận chia cho họ 30% số vũ khí quá cảnh.
Bản thân quốc vương Sihanouk sau này cũng kể lại với sử gia Pháp Jean Lacouture về việc này và với nội dung khá trung thực: "Vũ khí chở đến cảng Sihanoukville được chia 1/3 cho chính phủ của tôi, 2/3 cho phía Việt Minh, chưa kể còn những khoản hối lộ khác cho tướng tham mưu trưởng Lonnol".
Báo cáo tổng kết công tác ngoại hối 1964-1975 có đề cập việc vận chuyển theo tuyến này như sau: "Từ 1966-1969, việc đưa vũ khí và vật tư hàng hóa cho chiến trường từ Liên Xô qua đường sắt liên vận gặp trắc trở, ta đã vận dụng sách lược với chính quyền Sihanouk và Lonnol, đưa hàng từ Liên Xô vào cảng Sihanoukville, sử dụng cảng và địa bàn K để đưa vào miền Nam. Nhờ vậy chiến trường đã nhận được 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấn quân trang, 731 tấn quân y, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối". |
Trong hệ thống tổ chức của đoàn 17 có Công ty thương mại vận tải Hắc Lỷ. Công ty này được chính quyền Campuchia cấp giấy phép kinh doanh trong các tỉnh và thủ đô Phnom Penh. Đoàn vừa làm nhiệm vụ thu mua khai thác các nguồn hàng hóa tại Campuchia, vừa tổ chức tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương qua cảng Sihanoukville, tiếp chuyển hàng về khu vực thuộc chiến trường B.52. Biên chế của đoàn chỉ có 84 người nhưng sử dụng lực lượng ngoài biên chế là 564 người, chủ yếu là Việt kiều và hàng trăm nhân dân, binh lính, sĩ quan Campuchia hoạt động cho ta.
Đây là chuyến vận tải hoàn toàn bằng cơ giới, có tới 150 ôtô vận tải, có lúc thuê mướn thêm 300 ôtô, 500 canô để vận chuyển hàng hóa đi các hướng, nên đã vận chuyển và khai thác được một khối lượng hàng lớn và quan trọng. Ngoài ra, đoàn còn có các cơ sở kinh doanh mua bán sản xuất, sửa chữa tại các thành phố của Campuchia như xưởng sửa chữa xe đạp, thực phẩm, may mặc quần áo...
Trong cuốn Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh huyền thoại (Nhà xuất bản Trẻ, 2004), đại tá Nguyễn Việt Phương kể: "Một cán bộ đầy tài năng của Tổng cục Hậu cần là Đức Phương được cử vào đóng vai nhà tư sản kinh doanh, làm chủ Công ty thương mại Hắc Lỷ. Đức Phương có dáng người to cao, đường bệ, nước da ngăm nâu, trán hói…, đủ điều kiện để đóng vai một ông chủ hãng buôn lớn xứ chùa tháp.
Miền Bắc đã cung ứng cho Đức Phương đủ vàng và ngoại tệ mạnh để hoạt động kinh doanh. Ông đã mở rộng quan hệ với các quan chức cao cấp ở Campuchia, trong đó có tư lệnh thành phố Phnom Penh là Unxiut. Unxiut đã nhanh chóng kết thân với Đức Phương. Viên sĩ quan phụ tá của Unxiut cũng được Đức Phương ưu ái nên tận tình giúp đỡ. Với mối quan hệ đó, Công ty Hắc Lỷ có thể thuê cả một đoàn xe nhà binh của quân đội Campuchia chở vũ khí và hàng hóa từ cảng Sihanoukville về đến tận biên giới VN.
Đức Phương còn chơi thân với bộ trưởng an ninh của Chính phủ Campuchia. Có lần nhân sinh nhật vị bộ trưởng này, Đức Phương đã gửi một món quà tặng đặc biệt: một chiếc Mercedes mới. Để đáp lễ, bộ trưởng an ninh đã tặng lại Đức Phương chiếc xe cũ mình đang đi làm kỷ niệm. Với chiếc xe này, Đức Phương và các cán bộ của Hắc Lỷ đi đến đâu cảnh sát cũng không đụng tới, chỉ nhìn thấy chiếc xe và số hiệu là đã giơ tay chào. Chính Đức Phương đã tổ chức những chuyến xe đặc biệt chở hàng Z, tức tiền Sài Gòn, vào cho Trung ương Cục".
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
Một lớp y tá được đào tạo cấp tốc của tuyến đường 1-C |
TT - Phần việc không kém khó khăn và phức tạp là đưa số hàng tại các kho ở biên giới vào chiến trường miền Nam. Khâu tiếp nhận và vận chuyển vũ khí về các kho ở biên giới là do đoàn hậu cần 17 phụ trách.
Từ các kho biên giới, đoàn 17 phân bổ hàng hóa theo nhiều ngả khác nhau về miền Nam: tuyến vận chuyển về Tây Ninh do đoàn 18A phụ trách; tuyến vận chuyển về Khu VIII (Long An, Đồng Tháp) do đoàn P100 của Quân khu VIII phụ trách; tuyến vận chuyển về Quân khu IX, tức miền Tây Nam bộ, do đoàn 195 phụ trách.
Thành lập đoàn thanh niên xung phong
Đoàn 195 do Quân khu IX thuộc miền Tây Nam bộ tổ chức từ năm 1966. Nhiệm vụ của đoàn 195 là tiếp nhận vũ khí từ biên giới Campuchia đưa về miền Tây. Trưởng đoàn là một trong những cán bộ rất thông thạo công việc này, đó là ông Phan Văn Nhờ, tức Tư Mau.Trụ sở của đoàn đóng tại huyện lỵ huyện Túc Mía, thuộc tỉnh Cam Pốt, Campuchia. Phương thức vận chuyển chủ yếu là thuyền nhỏ bằng gỗ. Chính ông Tư Chức, Việt kiều ở Campuchia, đã giúp đoàn 195 mua gỗ từ Phnom Penh chuyển về Sóc Chuốc và lập tại đây một xưởng đóng xuồng gỗ.
Tháng 9-1966, Khu ủy miền Tây ra nghị quyết về việc thành lập đoàn thanh niên xung phong, phục vụ trên tuyến vận tải 1-C (là tuyến đường hai chiều từ biển Đông lên và từ biên giới xuống). Phương thức vận chuyển qua nhiều công đoạn khác nhau. Trước hết là xe của đoàn 17 chở hàng hóa tới bến Lò Vôi thuộc thị trấn Túc Mía. Mỗi xe có trọng tải 10 tấn, khoảng 2-3 ngày có 2-3 xe đưa hàng tới bến Lò Vôi. Đoàn 195 dùng tàu của Việt kiều chở xuôi sông về bến Sóc Chuốc, tức trạm 95.
Từ trạm Sóc Chuốc, kho 95 phân phối hàng cho những chiếc thuyền nhỏ của thanh niên xung phong thuộc tuyến đường 1-C. Mỗi đợt lấy hàng ở kho trạm 95 có tới 30-40 thuyền, mỗi thuyền chở 200-300kg đi qua biên giới về kênh Vĩnh Tế và đi tiếp vào các trạm tiếp theo. Đây chính là chặng đường gian nan vất vả nhất. Nhiều đoạn không có kênh rạch, có những đoạn có kênh rạch nhưng lại bị đồn bót và tàu thuyền của đối phương kiểm soát nghiêm ngặt, nên chỉ có cách vượt qua kênh rạch trong chớp nhoáng rồi lẩn vào sình lầy. Có nhiều đoạn đội thanh niên xung phong phải ngâm mình dưới nước, phủ cỏ và bèo cả người lẫn xuồng và đẩy đi trên những đoạn dài 20-30km.
Có những đợt vận chuyển phải đi liên tục 28-29 ngày trong một tháng. Những đợt vận chuyển đó hầu hết thanh niên xung phong đều bị ghẻ lở, hắc lào, đặc biệt là bệnh thối móng chân do ngâm bùn quá lâu. Lại cũng do phải ngâm người trong nước, không được tắm rửa, không được thấy ánh nắng mặt trời nên hầu hết phụ nữ đều bị rụng tóc. Đoàn phải tự tổ chức những lớp đào tạo y tá để chăm sóc những chiến sĩ ốm đau, bị thương...
Từ đầu năm 1959, đối phương đã phát hiện con đường này nên tổ chức ngăn chặn bằng mọi giá. Trên không, máy bay B52 thường xuyên giội bom những khu rừng bị nghi là có các đoàn vận chuyển vũ khí. Một số không ít chiến sĩ đã hy sinh trong các trận oanh tạc này.
Trên các kênh rạch, đặc biệt là kênh Vĩnh Tế, các đoàn tàu tuần tiễu lùng sục suốt 24/24 giờ. Máy bay Mỹ còn rải những "cây nhiệt đới" để thu tiếng động của các đoàn vận tải. Đến cuối năm 1969, kênh Vĩnh Tế bị phong tỏa chặt chẽ tới mức không thể nào vượt qua được. Trong rất nhiều trường hợp, đoàn thanh niên xung phong và các chiến sĩ của đoàn 195 buộc phải nổ súng chống trả những cuộc càn quét đó.
Tổng kết lại, trên tuyến đường này từ năm 1967 cho tới năm 1974 đã vận chuyển được 13.650 tấn vũ khí cho miền Tây, đưa đón hơn 30.000 lượt người gồm bộ đội, cán bộ ngược xuôi từ Trung ương Cục về miền Tây. Con đường vận chuyển từ cảng Sihanoukville chỉ tồn tại đến khoảng năm 1970. Sau đó, ngày 18-3-1970, Mỹ đã giúp nhóm Lonnol và Sirik Matak tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Sihanouk nhằm xóa bỏ nền trung lập của Campuchia. Từ đó, nguồn tiếp tế quan trọng này bị cắt đứt.
Quá cảnh không qua cảng Sihanoukville
Bản đồ đường mòn từ cảng Sihanoukville vào chiến trường miền Nam |
Nói nguồn hàng bị cắt đứt không có nghĩa là tuyến đường vận tải tối quan trọng này đã ngừng lại. Điều khác trước chỉ là thay đổi nguồn hàng: thay vì vận chuyển vũ khí bằng đường biển tới cảng Sihanoukville rồi chuyển về biên giới, từ nay phải lấy nguồn hàng trên tuyến đường Trường Sơn của đoàn 559. Để mở được tuyến đường này, vấn đề là phải tạo ra một vùng đất ngoài vòng kiểm soát của chính quyền Lonnol.
Quân giải phóng đã khéo léo liên minh và phối hợp với những lực lượng chống đối chính quyền Lonnol ở Campuchia, tiến hành những chiến dịch để giải phóng các tỉnh ở miền Đông sông Mekong trên đất Campuchia, chủ yếu gồm các tỉnh Stung Treng và Siem Reap. Sau khi giải phóng tuyến đường này, con đường vận tải của đoàn 559 từ Nam Lào bắt đầu đưa vũ khí vào đất Campuchia và về biên giới.
Để mở con đường này, tháng 7-1970, tức là chỉ bốn tháng sau cuộc đảo chính của Lonnol, Bộ chỉ huy Miền đã quyết định thành lập đoàn 770 chuyên trách việc tiếp nhận và vận chuyển hàng từ đông bắc Campuchia về Nam bộ. Vì đây là nguồn hàng rất lớn nên đoàn 770 có quân số tới 3.377 người, chia thành năm cánh, sử dụng phương tiện cơ giới vận tải khối lượng lớn.
Sang năm 1971, cầu tiếp nhận này kéo dài tới bờ sông Mekong trên đất Campuchia, đoàn này do đoàn 340 phụ trách. Đoàn 340 là đoàn hậu cần lớn nhất trong các đoàn hậu cần của Trung ương Cục, quân số vào thời điểm cao nhất lên tới 4.189 người, gồm bốn cánh quân nhu, ba tiểu đoàn vận tải, năm liên trạm đường dây nối liền từ Stung Treng xuống tới bắc Kratie. Để phục vụ số quân rất lớn kể trên, ngoài lực lượng vận tải, đoàn 340 còn có bốn bệnh viện lớn, một tiểu đoàn công binh để làm đường, bắc cầu...
Riêng trong các năm từ 1970-1972, trên tuyến đường này 26.147 tấn vũ khí các loại đã được vận chuyển. Cùng với vũ khí, tuyến đường này đã đưa hàng nghìn cán bộ và chiến sĩ từ miền Bắc vào tăng cường cho chiến trường Nam bộ.
ĐẶNG PHONG
TT - Tại B2 và các địa bàn khác do Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo, có đơn vị kho quỹ là C.32 trực thuộc Ban Kinh tài (BS.107) của Trung ương Cục miền Nam. Đó là đầu mối, là tổng quỹ tiếp nhận các nguồn tiền mặt từ trung ương phân bổ vào theo đường chuyển tiền mặt AM và do Ban tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (N.2683) cung cấp theo con đường chuyển ngân FM.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
Kỳ 3- Quá cảnh đường hàng không
Máy bay Li-2 cất cánh từ sân bay Cát Bi đi làm nhiệm vụ - |
TT - Miền Bắc thời kỳ này rất tiết kiệm trong việc sử dụng đường hàng không đối với lĩnh vực dân dụng. Hầu hết cán bộ và học sinh, sinh viên đi Trung Quốc, Liên Xô, các nước Đông Âu... đều phải theo đường sắt liên vận.
Nhưng để chi viện cho miền Nam, ngành hàng không của miền Bắc không tiếc sức người sức của. Có hai con đường vận chuyển hàng không lúc đó: quân sự và dân sự.
Đoàn 919
Về con đường quân sự, để vận tải khẩn cấp những hàng hóa nặng, không quân VN đã thành lập riêng một đoàn vận tải đặc biệt mang tên đoàn 919. Từ năm 1960, đoàn 919 đã đảm đương vận chuyển một phần của tuyến đường Trường Sơn, nhằm rút ngắn thời gian vận chuyển và cũng đỡ được một đoạn đường bộ dài hàng nghìn kilômet từ miền Bắc vào miền Nam.
Giải pháp này được đề xuất và thực thi như sau: cuối tháng 2-1960, đại tướng Võ Nguyên Giáp vào Đồng Hới làm việc với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, đặc khu Vĩnh Linh, sư đoàn 325, lữ đoàn 341. Đại tướng ngồi máy bay trực thăng quan sát khu vực Làng Ho, Vitthulu thuộc phía đông Trường Sơn. Sau chuyến khảo sát đó, đại tướng gợi ý khả năng sử dụng máy bay để tạo "chân hàng" cho các tuyến vận tải, nhằm phục vụ cấp bách tình hình đang sôi động của chiến trường.
Sau đó những máy bay của đoàn 919 đảm nhận công việc này. Điểm xuất phát của những máy bay này là sân bay Cát Bi ở Hải Phòng, sân bay Vinh, sân bay Đồng Hới. Từ đó, các máy bay chuyển hàng vào Làng Ho, Vitthulu. Một thời gian sau, khi đã mở con đường Trường Sơn Tây, máy bay của đoàn 919 bay thẳng sang Hạ Lào. Ban đầu do chưa bố trí được sân bay thích hợp nên phải dùng phương pháp thả dù hàng hóa xuống một số địa điểm quy định như Mường Phìn, Mường Phalan...
Thậm chí có những lúc không có dù để thả hàng thì các phi công phải dùng phương pháp hạ thật thấp độ cao rồi thả thẳng hàng xuống mặt đất. Sau đó, do đã bố trí được sân bay Tà Khống thuộc tỉnh Xê Pôn, Nam Lào nên các máy bay có thể hạ cánh để đưa hàng và đưa quân tập kết ở đây. Từ sân bay này, bộ đội hành quân vào Nam. Còn hàng hóa thì đoàn 559 vận tải tiếp vào các tuyến phía trong, tới các trạm Tăng Noong thuộc Quảng Nam, Đắc Lan thuộc Kontum...
Nhà văn Trần Đình Vân, tác giả Sống như anh, kể: "Vào đầu thập kỷ 1960, tôi đi B bằng máy bay, từ Hà Nội sang Phnom Penh. Khi đến sân bay Gia Lâm, chỉ vài phút trước khi ra máy bay, tôi được thông báo mình phải nhận trách nhiệm áp tải một chuyến hàng đặc biệt của trung ương gửi sang Phnom Penh. Tôi nhìn thấy đó là khoảng 20-30 bó hàng vuông vắn giống như những lô hàng rau quả hộp xuất khẩu. Đương nhiên, tôi không biết đó là hàng gì và tôi cũng thừa hiểu mình không có quyền được biết, nhưng tôi vẫn cứ áp tải theo máy bay sang đến Phnom Penh. Khi đến sân bay, tôi là người nhận hành lý ký gửi. Ngay sau đó có xe đưa cả tôi và số hàng đó về một ngôi nhà dành riêng ở Phnom Penh, tức một cơ sở của ta ở bên đó. Sau đó xe chở ngay những "đồ hộp xuất khẩu" đó đi, theo đường bộ bí mật vào vùng giải phóng. Nhiều năm sau sống ở vùng giải phóng, tôi mới biết hóa ra chính mình từng là chủ một kiện hàng mấy triệu đôla, dù chỉ là lúc ở trên trời". |
Trong ba năm từ 1960-1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của đoàn 919 phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào.
Tuy nhiên tuyến vận tải máy bay quá cảnh sang Lào chỉ tồn tại đến trước thời điểm chính phủ liên hiệp ba phái ở Lào bị xóa bỏ (1963). Từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tây Trường Sơn được nữa. Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về VN, nhiều vùng giải phóng hợp pháp đã hình thành ở miền Nam, hình thức vận chuyển hàng không quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi. Tính từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 4-1975, đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa quân sự...
Dùng Air Cambodia và Air France
Vận tải hàng không dân sự là hình thức vận chuyển công khai nhưng lại tuyệt mật. Đó chính là tuyến vận tải hàng không dân dụng bình thường của Vương quốc Campuchia (Air Cambodia) bay từ Phnom Penh đi Hà Nội, hoặc từ Phnom Penh đi Quảng Châu, Hong Kong rồi theo đường sắt hoặc đường hàng không về Hà Nội. Sở dĩ công khai vì nó sử dụng một loại đường bay thương mại bình thường như mọi đường bay khác.
Nhưng cũng là tuyệt mật vì nó gài vào trong đường bay bình thường những "hành khách" không bình thường. Máy bay của Air Cambodia được quyền bay ngang lãnh thổ miền Nam VN, cũng như máy bay của Nam VN được phép bay từ Sài Gòn qua không phận Campuchia để đi Bangkok, Tây Âu. Con đường này rất an toàn, vì nó là sự mạo hiểm được bọc lót dưới một hình thức công khai hợp pháp.
Tất nhiên đó là sự mạo hiểm được tổ chức rất chu đáo: từ căn cước giả, tên giả, đến lai lịch giả đều có một bộ phận chuyên trách thu xếp, sử dụng đến những phương tiện hiện đại bậc nhất lúc đó. Khi đã có đủ giấy tờ hợp pháp, lại phải bọc lót suốt từ khâu soát vé đến khâu kiểm tra hành lý. Tại đây đều có người của "Ban cán sự K". Loại nhân viên này thường không phải là cán bộ cách mạng mà là những nhân viên có lý lịch rõ ràng, không có chút gì khả nghi. Thường đó là người Hoa, người Ấn, người Lào, người Khơme... có cảm tình với cách mạng VN. Đã có hàng ngàn cán bộ cao cấp đi ra đi vào miền Nam bằng con đường này, tức là bay qua không phận của miền Nam VN, mà chưa xảy ra một vụ nào rắc rối.
Con đường này cũng đã đảm nhiệm vận chuyển những tài liệu, khí tài quan trọng như máy móc, điện đài, hàng triệu đôla để chi viện cho miền Nam. Những gia đình và con em cán bộ miền Nam cũng đi ra Bắc bằng con đường này. Đặc biệt là việc di chuyển hàng ngàn học sinh Trường Nguyễn Văn Trỗi ra Bắc theo tuyến hàng không này. Những bệnh binh, thương binh, những người ốm nặng... thường cũng được đưa theo con đường này để kịp thời ra Bắc chạy chữa, an dưỡng...
Một trong những nhân viên lữ hành (người làm khâu quan trọng và nguy hiểm nhất như kiểm tra vé, căn cước, visa, nhận diện, cân hành lý...) ở sân bay Pochentong là ông Check Nguyễn Cang, một người Ấn Độ lai VN. Ông có cha là một thương gia lớn người Ấn Độ tại Sài Gòn từ lâu đời, lấy vợ VN và có nhiều con. Ông Cang đã bí mật hoạt động cho Việt Minh từ thời kháng chiến chống Pháp, dưới cái vỏ là một viên chức làm cho Air France ở Sài Gòn. Sau Hiệp định Genève, đến năm 1955, ông sang Phnom Penh làm cho Air Cambodia với cái tên hoàn toàn Ấn Độ là Check Kesath. Với một lý lịch như thế ông không bị ai để ý. Nhưng ông là một trong những đầu mối chính lo các giấy tờ, đồng thời cũng là nhân viên cửa ga.
Ông hoạt động ở đó suốt những năm chiến tranh, cho đến tháng 3-1975 không may ông bị chính quyền Pol Pot phát hiện và thủ tiêu. Em ruột của ông Nguyễn Cang là Kamal Nguyễn, bác sĩ tại bệnh viện thành phố Lille (Pháp), cũng là chủ tịch Hội Việt kiều tại đây, kể lại: "Anh tôi đã hoạt động cho Việt Minh ngay từ những năm 1950, chuyên lo việc đưa người của mặt trận lọt qua hệ thống kiểm soát của sân bay để bay về Hà Nội và từ Hà Nội bay sang Phnom Penh, rồi từ đó bí mật đi vào vùng giải phóng".
ĐẶNG PHONG
____________________
Trước khi Lonnol tiến hành đảo chính, ông ta đã tính tới việc đổi tiền để vô hiệu hóa số tiền riel lớn được lưu giữ trên đất VN. Một sứ mệnh được đưa ra: "giải cứu" số tiền đó trước khi diễn ra đảo chính.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt
Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
Những ngày trên giường bệnh, ông Mười Phi vẫn cố gắng hoàn thành những tư liệu kể về cuộc chuyển tiền ngược chiều |
TT - Trước khi chấm dứt tuyến đường vận chuyển quá cảnh trên đất bạn, Ban cán sự K đã phải giải quyết một việc vô cùng hệ trọng, mà có thể coi đó là một kỳ công đáng ghi vào lịch sử.
Đó là việc cứu được một số rất lớn tiền riel trước khi diễn ra cuộc đảo chính của Lonnol. Ông Mười Phi, trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục, bí danh là N.2683, đã kể cho tác giả biết toàn bộ vụ việc và trao lại cho tác giả tất cả những tư liệu liên quan.
Âm mưu của Lonnol
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, miền Bắc chi viện cho miền Nam không chỉ có vũ khí mà còn cả một khối lượng rất lớn tiền để chi tiêu cho sự nghiệp kháng chiến. Số tiền đó gồm nhiều loại: đôla Mỹ, tiền Sài Gòn, tiền baht Thái và đặc biệt là tiền riel của Campuchia, mang bí danh là tiền R. Tiền R có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của tất cả các bộ phận kháng chiến của miền Nam. Lúc đó tiền R được dùng để mua sắm những nhu yếu phẩm như gạo, thực phẩm, quần áo, thuốc men, hóa chất... từ đất Campuchia tiếp tế cho Trung ương Cục miền Nam và từ đó cung cấp cho các khu. Vì thế, tại kho tiền trong căn cứ nội địa của Trung ương Cục luôn có một khối lượng tiền R rất lớn, đảm bảo thường xuyên cung ứng cho các đơn vị kinh doanh trong việc mua sắm trên đất Campuchia.
Trước khi Lonnol tiến hành đảo chính Sihanouk, Lonnol đã tính tới việc đổi tiền để vô hiệu hóa số tiền riel được lưu giữ trên đất VN. Chắc chắn Lonnol không biết cụ thể số tiền đó là bao nhiêu, nguồn gốc từ đâu đến, nhưng ông ta có đủ những thông tin để biết rằng phía VN dùng rất nhiều tiền riel để giải quyết những nhu cầu trên đất Campuchia, trong đó có việc mua chuộc binh lính, sĩ quan, mua sắm hàng hóa… Chủ trương đổi tiền được giữ bí mật và chỉ công bố vào ngày bắt đầu đổi tiền là ngày 24-2 và kết thúc vào 10-3-1970 (trước khi đảo chính một tuần). Cùng với lệnh đổi tiền là lệnh phong tỏa toàn tuyến biên giới Việt - Miên để "bóp chết" toàn bộ số tiền R trên đất VN.
Để tiến hành đổi tiền, Lonnol phải in những giấy tờ liên quan đến đổi tiền như các bảng thông báo, các bản quy định, tờ khai... Nhân viên của Lonnol đến một cơ sở in hiện đại mà họ tin tưởng nhất, đó là xưởng in Wath Phnom để in những giấy tờ này. Thật may mắn là Nhà in Wath Phnom lại là một cơ sở của Ban cán sự K. Người quản lý nhà in là một thanh niên Việt kiều tên Trần Chí Năng. Cha của Trần Chí Năng là ông Trần Quang Mẫn, quê tại huyện Tân Châu, tỉnh An Giang.
Ông đã sống lâu năm trên đất Campuchia rồi trở thành một viên chức cao cấp trong Kho bạc Quốc gia của Vương quốc Campuchia nên rất được chính quyền sở tại tin cẩn. Cả ông Mẫn và con trai đều là cơ sở của Ban cán sự K, và đều là đảng viên. Chí Năng sinh năm 1948, tức là năm 1970 mới 22 tuổi. Trước đó Ban cán sự K đã tính đến chuyện đưa Chí Năng vào vị trí trọng yếu trong nhà in Wath Phnom để vừa kinh doanh, vừa in ấn những tài liệu bí mật của ban. Vì thế ban đã gửi Năng đi học ba năm tại Hong Kong về kỹ thuật in, đặc biệt là kỹ thuật in offset để làm bản kẽm (cliché). Khi trở về, Năng đã có vị trí như một chuyên gia hàng đầu của nhà in này. Năng có một bạn gái người Campuchia tên Peou Lun, cùng học Trường trung học Sisowath ở Phnom Penh và sau đó trở thành vợ chồng. Nhờ đó phía chính quyền Campuchia coi anh như đã "đồng hóa" rồi.
"Giải cứu"
Bằng Tổ quốc ghi công liệt sĩ Trần Chí Năng |
Khi nhân viên của Lonnol đến đặt in bí mật những tờ thông báo đổi tiền, cũng theo "thông lệ" chung là đòi một món tiền hoa hồng hậu hĩnh. Năng thực hiện đúng thủ tục đó và nhận lời cho in gấp. Ngay lúc đó quân lính Lonnol đã vây chung quanh nhà in để đảm bảo bí mật của kế hoạch này.
Riêng vợ Năng là người Campuchia thì có thể ra vào bình thường. Năng trao cho vợ tin mật để báo ngay về Ban cán sự K. Peou Lun lẳng lặng ra đi tay không và đến ban K để báo gấp tin dữ. Ngay lập tức tin này được báo về Trung ương Cục, và toàn bộ số tiền R ở căn cứ Trung ương Cục đã được đưa gấp trở lại đất Campuchia trước khi Lonnol phong tỏa biên giới và trước khi lệnh đổi tiền được ban hành.
Khi lệnh đổi tiền được công bố ngày 24-2-1970, toàn bộ số tiền của Trung ương Cục đã được phân phối cho các cơ sở trên toàn đất Campuchia, để đổi một cách bình thường sang tiền R mới. Sau khi đổi xong, số tiền mới đã được các ông Mười Phi và Lữ Minh Châu là trưởng và phó ban N.2683 đang có mặt trên đất Campuchia, cùng với ông Tư Cam tổ chức chôn giấu tại một kho hàng của Công ty Hắc Lỷ. Mọi việc xong xuôi mới nổ ra cuộc đảo chính của tướng Lonnol và biên giới bị phong tỏa.
Đến lúc đó lại nảy ra vấn đề nan giải: làm sao chuyển được tiền về? Số tiền đã đổi bị chôn chân trên đất Campuchia luôn bị đe dọa bởi sự kiểm soát của Chính phủ Lonnol. Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng chỉ thị cho N.2683 phải bằng mọi giá đưa được tiền về. Chấp hành chỉ thị này lại là một kỳ công nữa: chính các ông Mười Phi, Lữ Minh Châu, Tư Cam đã nảy ra sáng kiến đóng tiền vào những bao nilông lớn, lồng một bao khác bên ngoài và đổ đầy mắm "bù hóc" lên trên.
Hai xe tải lớn của hãng buôn Hắc Lỷ vẫn thường chở loại mắm này sang bán ở đồng bằng Nam bộ lại đi một chuyến mắm nữa như thường lệ, nhưng cố tình chọc thủng nhiều lỗ trên miệng túi để xe chạy xóc thì mắm trào ra xe bốc mùi sặc sụa. Theo trinh sát cho biết, con đường sang Tây Ninh dẫn tới Trung ương Cục đã bị khóa chặt. Chính ông Mười Phi là người bố trí đường dây an toàn đi theo hướng qua Túc Mía để xuống Tây Nam bộ.
140 chiến sĩ đã được huy động để bảo vệ hai xe "bù hóc" này bằng cách phục kích bí mật ở những nơi có trạm gác. Nếu gặp rắc rối không cho qua thì chiến đấu, nếu cần phải trả bằng máu, quyết không để mất món "mắm" có ý nghĩa sống còn đó. Mắm "bù hóc" vốn rất nặng mùi, không quen thì từ xa đã không chịu nổi. Khối lượng hai xe tải lớn, lại bị "rò rỉ” nhiều nên bốc mùi nồng nặc, làm cho ngay cả lính Lonnol cũng phải lảng tránh.
Cuối cùng, đến ngày 10-4, tức 20 ngày sau đảo chính, toàn bộ số tiền đó đã được chuyển qua Túc Mía rồi vượt biên giới an toàn về ngả An Giang, tập kết trở lại ở kho tiền của Trung ương Cục tại Tân Biên, tây bắc Tây Ninh, không mất một đồng nào. Rất may là mấy hôm sau khi tiền đã được chở về, quân đội Sài Gòn phối hợp với Chính phủ Lonnol tổ chức một chiến dịch càn quét lớn suốt từ An Giang vượt qua biên giới. Địa điểm yết hầu Túc Mía đã bị đốt phá tan tành.
Sau đó hai vợ chồng Trần Chí Năng cũng bí mật rút về căn cứ của Trung ương Cục. Nhưng rất không may, trong một chuyến công tác Trần Chí Năng đã hi sinh. Vợ Trần Chí Năng từ đó mang tên chồng. Sau ngày giải phóng, chị cùng hai con gái sống hẳn ở miền Nam. Gia đình có bằng Tổ quốc ghi công và bằng chứng nhận liệt sĩ của Trần Chí Năng.
ĐẶNG PHONG
--------
Để chi viện tiền cho miền Nam một tổ chức mới ra đời, hoạt động theo cách: lấy công khai làm bình phong cho bí mật, mọi hoạt động bí mật đều lấy danh nghĩa công khai.
Kỳ tới: “Quỹ ngoại tệ đặc biệt”
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
Ông Mai Hữu Ích - người tổ chức con đường AM (chuyển tiền mặt) - |
TT - Từ giữa thập kỷ 1960, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc. Từ đây, việc đưa viện trợ vật chất vào Nam, cả bằng đường Trường Sơn lẫn đường biển đều khó khăn hơn trước.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
Bộ Chính trị đã giao cho ông Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng Chính phủ, phụ trách vấn đề chi viện miền Nam. Đến năm 1965, ông Phạm Hùng đề xuất với Bộ Chính trị một quyết định có ý nghĩa lịch sử: lập riêng tại miền Bắc một "quỹ ngoại tệ đặc biệt" (B.29), lấy từ các nguồn viện trợ quốc tế để trực tiếp chi viện cho miền Nam.
Bí mật và công khai
Về hình thức hoạt động công khai chính diện, "quỹ ngoại tệ đặc biệt" có danh nghĩa Cục Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia VN để khi cần thiết có thể làm các thủ tục hợp pháp. Còn về điều hành, nó không phải là một đơn vị trong ngân hàng quốc gia. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật và an toàn, quỹ này chịu sự chỉ đạo đơn tuyến. Nét độc đáo trong cách tổ chức này là: lấy cái công khai làm bình phong cho cái bí mật, mọi hoạt động của cái bí mật đều lấy danh nghĩa của cái công khai.
Như vậy, trong thực tế B.29 tồn tại và hoạt động như một "ngân hàng ngoại hối đặc biệt", phục vụ riêng cho việc chi viện chiến trường bằng ngoại tệ. Người trực tiếp điều hành hoạt động của B.29 là ông Mai Hữu Ích, lúc đó là phó cục trưởng Cục Ngoại hối, đồng thời là ủy viên Ban Viện trợ miền Nam.
Tài sản ngoại tệ thuộc "quỹ ngoại tệ đặc biệt" là dành riêng cho miền Nam nên được điều hành một cách hoàn toàn độc lập, không liên quan gì đến vốn ngoại tệ công khai của Nhà nước tại miền Bắc. Vốn của B.29 được gửi tại Vietcombank. Đến lượt mình, Vietcombank lại gửi vốn đó ở nước ngoài, tại các ngân hàng đại lý quốc tế lớn đáng tin cậy. Như vậy, B.29 được coi như "khách hàng gửi tiền đặc biệt" và "ngân hàng đại lý đặc biệt" trong quan hệ với Vietcombank. Cách hạch toán của B.29 cũng rất đặc biệt: dùng đồng đôla Mỹ làm đơn vị tiền tệ để hạch toán cân đối tổng hợp chung theo phương pháp kế toán kép.
Xưa nay, trong nghiệp vụ ngân hàng, chung quy chỉ có hai phương thức thanh toán: tiền mặt và chuyển khoản. Để chi viện cho miền Nam, B.29 dùng đến cả hai phương thức: chuyển tiền mặt, được gọi là AM; chuyển khoản, được gọi là FM.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, để thắng và "vượt mặt" một đối phương không những mạnh về quân sự mà còn rất thành thạo về tài chính - tiền tệ, hơn nữa còn là kẻ khống chế cả hệ thống tiền tệ quốc tế, thì AM và FM là ký hiệu của cả một guồng máy rất tinh vi, liên kết giữa hậu phương với tiền tuyến, có mạng lưới trong nước và quốc tế. Trong đó ta vừa vận dụng những nghiệp vụ ngoại hối cổ điển của ngân hàng, vừa kết hợp với những kỹ thuật quân sự, tình báo mà xuyên suốt những hoạt động đó là ý chí cách mạng, là niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.
"Chế biến" tiền từ ngoài nước
Chiếc vali ngoại giao mang nhãn hiệu “Lukse” do Liên Xô sản xuất mà các cán bộ hải ngoại đã dùng để chuyển đôla về Hà Nội |
Tại các chiến trường miền Nam, nhu cầu tài chính bằng tiền mặt chủ yếu gồm hai loại là tiền Sài Gòn (mật danh lúc đó là tiền Z) và đôla Mỹ. Ngoài ra, còn có nhu cầu chi phí tại một số địa bàn các nước lân cận là Campuchia, Lào, Thái Lan theo yêu cầu của công cuộc kháng chiến, nên cũng cần một lượng nhất định tiền mặt bằng đồng riel, kip và baht.
Từ những năm đầu thập niên 1960, để đáp ứng yêu cầu của chiến trường, Trung ương Đảng và Chính phủ có đặt vấn đề với Trung Quốc viện trợ cho miền Nam một số ngoại tệ bằng tiền mặt đôla Mỹ. Trung Quốc còn giúp lập một cơ sở ngân hàng tin cậy tại Hong Kong. Tại đó, đôla viện trợ được "chế biến", tức là lấy một phần đôla đó mua gom một số biệt tệ khác như tiền Sài Gòn, riel Campuchia, baht Thái Lan và kip Lào, rồi cùng tiền mặt đôla Mỹ được đưa về nước.
Ông Nguyễn Nhật Hồng, người trực tiếp phụ trách B.29, giải thích về chuyện đổi tiền mặt các loại: "AZ là đổi đôla Mỹ thành tiền Sài Gòn. AK là đổi thành tiền kip Lào, AR là đổi thành tiền riel Campuchia, AB là đổi thành baht Thái Lan, chuyển vào các chiến trường có nhu cầu thích hợp với từng loại tiền. Việc đổi tiền này được thực hiện tại Hong Kong, rồi đưa tiền về Quảng Châu, từ Quảng Châu đưa về Hà Nội, từ Hà Nội chuyển đến các chiến trường miền Nam".
Chi phí "chế biến" ra các biệt tệ nói trên đương nhiên là tốn kém, vì phải chịu thua thiệt về tỉ giá và các chi phí khác (tới khoảng 3% trị giá tiền cần mua). Việc "chế biến" đó được thực hiện bởi một cơ sở ngân hàng ở Hong Kong, được quy ước gọi là "Anh Bảo".
Mai Hữu Ích nói: "Tôi có quan hệ với ông Trang Thế Bình, sau là tổng giám đốc Ngân hàng Trung Quốc (BOC) ở Hong Kong. Ông Bình đã giúp chúng ta mở L/C với BOC và nhiều ngân hàng khác tại Hong Kong. Lúc đầu, chủ yếu phục vụ phát triển ngoại thương, sau đó ông Bình giúp ta chuyển đổi USD lấy tiền Sài Gòn và nhiều biệt tệ khác, gọi tắt là "chế biến" hoặc chuyển khoản đặc biệt vào miền Nam để phục vụ chiến trường".
Tiền mặt các loại do "Anh Bảo" chuẩn bị được tập trung về cơ sở của BOC tại Quảng Châu. Đây chính là nơi tập kết các nguồn tiền mặt của đường dây. Từ đây, cán bộ biệt phái hải ngoại của B.29 dùng đường điện cơ yếu của Bộ Ngoại giao thông báo từ Bắc Kinh về cho B.29 ở Hà Nội. B.29 cử người sang Quảng Châu nhận về.
Để phối hợp thật chính xác mọi công tác đổi tiền, chuyển tiền, nhận tiền, tại Bắc Kinh có một cán bộ đặc nhiệm. Người này chính là ông Lê Văn Châu, sau này là phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chủ tịch Hội đồng chứng khoán quốc gia. Ông Châu là "trung tâm của ba trung tâm": làm đầu mối liên hệ giữa "Anh Bảo" ở Hong Kong, BOC ở Quảng Châu và B.29 ở Hà Nội. Để đảm bảo bí mật và thông suốt, những thông tin được chuyển bằng mật mã qua hệ thống cơ yếu của ngành ngoại giao và quốc phòng.
Đối với các nguồn viện trợ quốc tế tại các nước Âu - Mỹ, bằng rất nhiều loại bản tệ khác nhau như bảng Anh, franc Pháp, franc Thụy Sĩ, lira Ý, krone Đan Mạch... việc "chế biến" ra tiền mặt đôla Mỹ được giao cho đại diện Vietcombank Paris tiến hành ngay tại Pháp và Thụy Sĩ, rồi bằng "giao thông ngoại giao" đưa qua đường Matxcơva về Hà Nội.
----------
Từ đây bắt đầu đưa các loại tiền từ Hà Nội vào Nam. Để tiếp nhận, “chế biến” rồi phân phối được tiền đến đúng mục tiêu sử dụng là một hành trình được gọi là kỳ lạ
Đối với các vùng căn cứ thuộc miền núi và cao nguyên hẻo lánh mà hệ thống ngân hàng không vươn tới được buộc phải dùng phương pháp thủ công: người mang tiền đi. Còn đối với các vùng căn cứ gần các thị trấn hoặc thị xã, phương pháp chuyển ngân đã được sử dụng. Với phương pháp này, C130 bố trí các đầu mối trong thị trường tiền tệ quốc nội của Nam Việt Nam để chuyển tiền từ N.2683 tới các thị trấn, thị xã. Ở đó có người của các khu căn cứ tới nhận.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
Hòm sắt cỡ lớn B.29 dùng để chuyển tiền vào miền Nam |
TT - Tiền của "Quỹ ngoại tệ đặc biệt" được cất giữ nghiêm ngặt tại tầng hầm Ngân hàng Nhà nước trung ương, 49 Lý Thái Tổ, Hà Nội, do "Quỹ ngoại tệ đặc biệt" (B.29) quản lý.
Nghe đọc nội dung toàn bài: |
Đến thời điểm hẹn trước, một bộ phận đặc biệt chuyên trách vấn đề vận chuyển là đơn vị C.100 thuộc Đoàn 559 cùng B.29 tiến hành các thủ tục giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng và chở đi. Trong giai đoạn đầu, tiền đi vào Nam theo một con đường khá "sang trọng":
Tiền được đặt trong "vali ngoại giao", hoặc nếu nhiều thì đóng vào các thùng nghi trang như đồ hộp xuất khẩu, đi theo tuyến hàng không Hà Nội - Phnom Penh hoặc Hà Nội - Quảng Châu - Phnom Penh.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: Quỹ ngoại tệ đặc biệt
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: Quỹ ngoại tệ đặc biệt
Tiếp nhận và "chế biến" tại chỗ
Con đường thường xuyên và gian khổ nhất của đại bộ phận đôla vẫn là tuyến đường Trường Sơn, bằng xe tải quân sự và đường biển trên những chuyến tàu không số, cất giấu dưới hầm tàu hai đáy trên con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Hành trình của các loại tiền kể trên từ Hà Nội vào Nam được phân bổ theo từng phân đoạn, theo quy định của trung ương: tiền tới địa chỉ nào thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Trung ương phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên - Huế, Khu V, Tây nguyên, Nam bộ (B2)... Tại từng khu vực nói trên, việc cấp phát, phân bổ, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng đảng bộ, với sự tham mưu chỉ đạo chuyên ngành là các ban tài chính hoặc ban kinh - tài trực thuộc.
Khi có nhu cầu chi tiêu bằng biệt tệ mà số do trung ương đã đổi và chuyển vào không đủ, phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc "chế biến" này được thực hiện theo phương pháp phân tán nhỏ lẻ để khỏi bị lộ (trung ương không chủ trương tích giữ dài ngày đồng tiền Sài Gòn, bởi từ sau năm 1970 sự mất giá của tiền Sài Gòn xảy ra liên tục, tỉ lệ mất giá ngày càng cao). Việc quản lý thu, chi, theo dõi hạch toán kế toán, kho quỹ được thực hiện rất chặt chẽ. Tại ban kinh - tài hoặc cơ quan ngân tín được đảng bộ từng khu vực giao trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác này, các bộ phận chuyên trách về kế toán và kho quỹ đều được thành lập. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán B.29.
Từ năm 1964-1965 chi phí cho miền Nam tăng lên rất nhiều, phương thức AM càng thêm khó khăn, tốn kém, kể cả sự hi sinh xương máu. Trong tình hình mới nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Thứ nhất, Mỹ ra sức đánh phá các con đường trên bộ và trên biển, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển. Thực tế đã xảy ra một số lần đối phương ném bom trúng xe chở hàng, trong đó có các thùng đựng tiền, vỏ thùng đựng tiền tuy không bị cháy nhưng sức nóng của lửa đã làm phân hủy số đôla bên trong. Từ giữa thập kỷ 1960 tình hình chính trị của Campuchia bất ổn, đặc biệt từ khi có đảo chính của Lonnol thì con đường này cũng chỉ có thể được sử dụng một cách rất hạn chế. Thứ hai, việc "chế biến" lần thứ hai từ đôla ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn, không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một số tiền quá lớn trên thị trường miền Nam.
Phương pháp mới
Ông Mười Phi (trái) gặp ông Mai Hữu Ích tại Phnom Penh bàn về triển khai phương pháp mới FM. |
Từ 1965, Trung ương Cục có chủ trương phát triển các cơ sở tại nội thành. Những cán bộ chủ chốt của Ban Tài chính đặc biệt đã được đưa vào nội thành để bám trụ. Hai cán bộ là Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, tức Dân Sanh) đã nảy ra ý định "chơi theo luật chơi", nghĩa là sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng.
Phát hiện bất ngờ này được đề xuất với trung ương. Sau đó được trung ương chấp thuận cho thực thi, gọi là phương pháp mới, ký hiệu là FM. FM là phương thức chi viện tiền cho miền Nam bằng chuyển khoản. Chuyển khoản có hai chiều: nhận và trả.
Khâu nhận: Tiền Z (tiền Sài Gòn) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam (tức N.2683), sau đó hoàn trả cho nhà cung cấp tại nước ngoài bằng đôla. Nhà cung cấp tiền Z Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của N.2683 trong nội thành Sài Gòn, có mật danh là C.130 do Dân Sanh đảm nhiệm. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng để cung cấp cho cách mạng nhưng lấy lý do để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp có những khoản lớn là tiền Z, không cần rút từ ngân hàng mà thu trực tiếp do bán hàng nhập khẩu.
Tiền Z được giao tại những nơi quy ước là vùng giáp ranh ven đô Sài Gòn - Gia Định, có khi còn đi xa hơn, phân tán trong các kho nhỏ rồi tổ chức các chuyến ôtô đem đi. Phương pháp này được mang ký hiệu là FM vì FM vừa là tên gọi một kênh phát sóng ngắn hơn AM, vừa là chữ viết tắt của phương pháp mới (F: phương pháp; M: mới). Phương pháp này có nhiều thuận lợi hơn phương pháp AM: có thể giải quyết một vụ chuyển tiền lớn chỉ trong một ngày thay vì nhiều tháng hành trình đầy rủi ro của phương pháp AM, an toàn hơn, kín đáo hơn, không bị thiệt thòi do vấn đề tỉ giá, mà có trường hợp còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất phát sinh tại các ngân hàng (khoản lãi suất này trong mười năm tính ra tới gần 25 triệu đôla).
Để thực hiện FM cần phải có một hệ thống tổ chức rất tinh vi và dày công bố trí. Tại Hà Nội, bộ phận B.29 thuộc Vietcombank dùng các mật mã, điện đài để liên lạc với miền Nam và liên lạc với các ngân hàng trên thế giới để nhận và gửi các lệnh chi tiền, chuyển tiền. Bộ phận đó vẫn do ông Mai Hữu Ích điều hành và trưởng phòng thanh toán Nguyễn Nhật Hồng (còn gọi là Ba Hồng) trực tiếp phụ trách.
Ở trong Nam, một bộ phận có bí danh là N.2683 do ông Mười Phi làm trưởng ban tài chính đặc biệt của Trung ương Cục phụ trách. Một bộ phận đặt tại Sài Gòn. Cơ sở này trực thuộc Trung ương Cục, gọi là Ban Công tác đặc biệt. Nó là một "đối tác" đặc biệt của B.29. Đầu mối và cũng là cơ sở của N.2683 là một đại thương gia có khả năng chi tiền mặt cho N.2683. Rồi theo thông báo của N.2683, B.29 lại chi trả cho họ bằng cách chuyển ngân vào tài khoản của họ ở các ngân hàng nước ngoài.
Ông Mười Phi nhận định: "Đây cũng là một loại đường mòn Hồ Chí Minh nhưng không dùng ôtô, tàu thủy, máy bay hay đường ống nên không có vết chân nguời. Chỉ có những lệnh chuyển tiền thôi. Anh Phạm Hùng cho tôi danh sách năm người để tôi chọn. Tôi chọn anh Ba Châu và nhắc anh Phạm Hùng nên cho anh Ba Châu đi học thêm tiếng Khơme, học tình báo rồi hãy vào Phnom Penh giúp chúng tôi".
Ông Lữ Minh Châu (Ba Châu) - phó Ban N.2683 - kể lại: "Chiến trường mở rộng, nhu cầu tiền càng nhiều, càng nhanh càng tốt và phải cung cấp cho nhiều nơi. Với biện pháp FM, nói cách khác, với hoạt động ngân hàng đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ tại miền Nam, chúng tôi "Ban Công tác đặc biệt" trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với các loại bí số D.270 và N.2683, mà tôi là phó trưởng ban, anh Mười Thăng Long là trưởng ban, đã cung cấp các loại tiền nhanh chóng, đủ và đúng theo yêu cầu của Cục Hậu cần miền Nam".
ĐẶNG PHONG
---------------------------------------
Khâu tiếp theo rất quan trọng và đầy rủi ro là chuyển tiền về các vùng căn cứ. Phải tổ chức một loạt đường vận chuyển hợp pháp để kết hợp chở hàng, chở khách với việc chở tiền.
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
Bà Đỗ Thị Lệ Hồng kể lại công việc chuyển tiền |
TT - Sau khi lấy được tiền Sài Gòn, một khâu rất quan trọng nhưng lại đầy rủi ro là chuyển về các vùng căn cứ. Quy ước là chỉ nhận tiền lớn và đã đóng gói, có dấu của ngân hàng để đỡ mất công đếm.
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
Sau khi nhận, tiền được cất trong các kho phân tán tại các cơ sở rải rác khắp nội thành, do Tư Trần An (một Hoa kiều chuyên nhập vàng từ Hong Kong về bán cho các chủ tiệm vàng ở Sài Gòn) sắp đặt và Dân Sanh (Nguyễn Thanh Quang) quản lý. Cũng chính Dân Sanh là người tổ chức vận chuyển. Tiền giấy chở nhiều rất nặng, Dân Sanh phải tổ chức một loạt đường vận chuyển hợp pháp để kết hợp chở hàng, chở khách với việc chở tiền. Đây cũng là cả một kỳ công.
Đảm bảo bí mật
Ông Mười Phi kể: "Trần An đã thiết lập những kho chứa kiên cố, bí mật để giấu tiền chờ giao, chờ chuyển, xe hơi có thể ra vào chở hàng thuận tiện. Phía Dân Sanh cũng có hệ thống kho của mình. Dân Sanh tổ chức thêm xe tải chở đậu vào Chợ Lớn bán rồi mua phân tro tải về Suối Sâu. Năm Đậu tải phân đồng thời tải luôn cả tiền về giao cho Ba Công để chuyển tiền về R. Dân Sanh đã tự tạo cho mình một cơ cấu bình phong dày đặc gồm một đoàn xe tải, hai tàu đi buôn về miền Trung, làm nhiều thứ việc, phối hợp với Phương Mai, Thu Hương, Dân Cường.
Về sau C.130 (biệt danh của nhà cung cấp tiền Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn sẵn sàng hợp tác với một đầu mối của Ban Tài chính đặc biệt thuộc Trung ương Cục miền Nam - N.2683, do Dân Sanh đảm nhiệm) đã có cả đoàn 40 xe tải mua bán gạo với cao nguyên và Trung bộ, giao tận đại lý gạo tại Buôn Ma Thuột. Nơi đó, Khu VI cử người đến nhận lại tiền, giấu trong gạo. Đồng thời có hai chiếc tàu Phương Mai và Thuận Phong mua bán bia từ Sài Gòn chở ra Huế, Đà Nẵng. Trên đường ra miền Trung, tàu dừng lại Vũng Rô (Phú Yên) ban đêm chờ bộ đội giải phóng ra khơi nhận tiền, đưa lên núi cho Khu V".
Tiền mặt các loại, chủ yếu bằng đôla Mỹ và tiền Sài Gòn, theo cả hai phương thức chi viện AM và FM cuối cùng đều được tập trung về các vùng căn cứ kháng chiến, do các cơ quan tài chính và ngân tín trực tiếp quản lý, điều hành phân phối theo các nhu cầu kháng chiến.
Về việc vận chuyển tiền cho các căn cứ, một trong những người trực tiếp tham gia là bà Đỗ Thị Lệ Hồng, nay là phó giám đốc Ngân hàng Ngoại thương tỉnh Cần Thơ, kể lại: "Trước khi về miền Tây, tôi là lính của anh Trần Dương, tức anh Ba Thái, Ban Kinh tài Trung ương Cục. Tôi được phân công vào một nhóm có nhiệm vụ chuyển tiền từ Campuchia về cho các đơn vị thuộc Trung ương Cục.
Chúng tôi sắm những con thuyền có gắn máy, đóng vai đi buôn gạo, buôn trái cây dọc sông Mekong, vận chuyển hàng từ Phnom Penh về Nam bộ. Có khi một tháng một lần, khi vài tháng một lần. Bên dưới đáy thuyền có giấu tiền. Chúng tôi phải bố trí những chuyến hàng rất cẩn thận vì đó là tài sản của Đảng, của bao nhiêu đơn vị đang cần đến nó cho công cuộc kháng chiến. Tiền chở về được đưa về những địa chỉ nhất định, có người tiếp nhận.
Tuy là cấp dưới của anh Trần Dương nhưng trong thời kỳ chiến tranh chưa bao giờ tôi biết mặt anh ấy. Chúng tôi đi về, gặp nhau, giao nhận tiền... thường đều bịt kín mặt, chỉ thấy con mắt. Trong hoàn cảnh ác liệt lúc đó, đảm bảo bí mật là yêu cầu tối quan trọng. Phải không ai nhận được mặt nhau, để lỡ đối phương bắt được ai cũng không dễ lần ra đầu mối.
Trong số những anh em đến vùng căn cứ, có không ít người hoạt động ở nội thành. Những người đó lại càng phải giữ bí mật, không ai nhận diện được. Có những trường hợp chúng tôi thậm chí không nhìn thấy người nhau, không thấy dáng đi của nhau, mỗi người một bên bức vách bằng lá, trao đổi với nhau một số điều cần thiết, để lại tài liệu, thỏa thuận những mật hiệu và những con số..., sau đó mỗi người một ngả. Chính vì vậy đối phương khó có thể phát hiện và tìm ra manh mối của các cơ sở cách mạng, cả trong thành lẫn ngoài vùng căn cứ".
Nhà thầu khoán
Nhà thầu khoán Lữ Văn Buối trong thời kỳ làm “xây dựng” ở miền Tây |
Một trong những tuyến chuyển ngân quan trọng nhất là chuyển từ C.130 tại Sài Gòn về các tỉnh miền Tây. Đối với miền Tây, từ sau cuộc Đồng khởi, việc thu đảm vụ (từ giữa thập niên 1960, Trung ương Cục có chủ trương huy động sự đóng góp của nhân dân cho cuộc kháng chiến dưới hình thức thuế gọi là "đảm vụ”, chủ yếu là thu ở các hộ kinh doanh công thương nghiệp và những hộ nông dân có thu nhập cao) tại chỗ ngày càng eo hẹp. Quân đội đối phương lấn chiếm và quản lý rất chặt chẽ các vùng nông thôn. Do đó không có khả năng tự túc về tài chính mà phải nhờ sự chi viện từ trung ương thông qua Trung ương Cục, cụ thể là qua tuyến C.130 rót về.
Người đảm đương công việc này chính là thân phụ của Lữ Minh Châu (phó trưởng ban N.2683): ông Lữ Văn Buối, một cán bộ lão thành cách mạng hoạt động từ thời tiền khởi nghĩa. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ông đóng vai trò một doanh nhân người Hoa (gia đình ông vốn là dòng họ Minh Hương đã sinh sống ở Cà Mau 3-4 thế kỷ trước). Ông chuyên kinh doanh ngành xây dựng. Lĩnh vực của ông là thầu xây dựng các khu chợ thuộc các thị xã và thị trấn ở miền Tây Nam bộ, suốt từ Sài Gòn đến Cà Mau.
Ông có phong độ chững chạc của một doanh nhân lớn, công việc của ông lại rất rõ ràng và cụ thể, không ai có thể nghi ngờ. Khi nhận được "chỉ thị” từ con trai, ông cho chuyển các khoản tiền của C.130 về điểm quy ước là chợ Cà Mau.
Ở Cà Mau có một cơ sở kinh doanh của ông nhận khoản chuyển ngân đó. Họ rút ra thành tiền mặt. Lượng tiền mặt đó được đóng thùng như những thùng hàng bình thường rồi chuyển tới các sạp hàng ngay giữa chợ Cà Mau. Người của các quân khu VIII, IX nhận được mật hiệu thì đến đó để nhận "hàng". Giữa một khu chợ sầm uất, đông đúc và ồn ào như chợ Cà Mau, việc có người đem tới những thùng hàng nào đó và có người khác tới nhận mang đi là chuyện hoàn toàn bình thường, không ai để ý, cũng không ai có thể ngờ việc chuyển giao những khối tiền lớn cho các căn cứ kháng chiến lại được thực hiện ở đây.
Từ đó cho tới ngày giải phóng miền Nam, tuyến đường chuyển ngân qua tay ông Lữ Văn Buối là tuyến đường quan trọng nhất, là nguồn dinh dưỡng tài chính cơ bản cho toàn miền Tây Nam bộ. Sau ngày giải phóng miền Nam, ông Lữ Văn Buối đã trút bỏ "phần đời" của một nhà thầu khoán, sống cuộc đời thanh bạch của một chiến sĩ cách mạng lão thành trong lĩnh vực tài chính của miền Nam.
ĐẶNG PHONG
-------
Một hôm, ông Hai Xô cho gọi năm anh em bảo vệ đến giao nhiệm vụ. Ông nói đại ý: "Hiện có một số hàng cần bảo quản giữ gìn, đây là bí mật quốc gia, các chú phải coi trọng và bảo vệ an toàn tuyệt đối cho dù phải hi sinh cả tính mạng". Không có các thủ tục xuất, nhập, giấy tờ, biên bản. Làm sao để giữ?
Kỳ tới: Cất giữ "kho báu"
Những con đường Trường Sơn đặc biệt -
Kỳ 8 Cất giữ "kho báu"
C.32 đón đoàn xe vận chuyển hàng và tiền từ Bắc vào |
>> Kỳ 1: Vận chuyển quá cảnh
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
>> Kỳ 2: Nối các đường dây về nước
>> Kỳ 3: Quá cảnh đường hàng không
>> Kỳ 4: Cuộc chuyển tiền ngược chiều
>> Kỳ 5: "Quỹ ngoại tệ đặc biệt"
>> Kỳ 6: Đưa tiền vào Nam
>> Kỳ 7: Chuyển tiền về cứ
Bí mật quốc gia
Ông Nguyễn Thành Nguyên, người phụ trách kế toán của C.32, kể: "Tôi là trưởng kế toán và quản lý kho bạc, ký hiệu đơn vị tôi là B1/C32/BS107. Anh Hai Cảnh phụ trách kho quỹ. Tôi được phân công theo dõi toàn bộ khoản tiền trung ương chi cho B qua hai con đường. Tiền đôla được trung ương chuyển theo đường bộ qua đường dây của đoàn 559 (Trường Sơn) vào thẳng đến C.32. Tiền Sài Gòn, riel Campuchia, kip Lào được giao chuyển từ nhiều con đường đến C.32... Số cán bộ của C.32 lo "chế biến" có các anh Lý Hồng, Thanh Châu, anh Giàu, Năm Hải, Ba Hài. Các anh này là cán bộ phụ trách, mỗi chốt đều có thêm một số đồng chí khác cùng làm việc...
Mỗi lần trung ương gửi tiền mặt đôla hoặc chuyển khoản đôla đều có điện báo vào C.32, tôi đều vào sổ để đối chiếu số liệu với các bộ phận liên quan. Hằng tháng, quý, năm, kế toán chúng tôi đều có lập báo cáo viết và bản cân đối kế toán nộp lên Ban Kinh - tài. Ông Trần Dương là phó ban, ông Hai Xô, thường vụ Trung ương Cục, là trưởng ban".
Thượng tá an ninh Phạm Bạn - nguyên chiến sĩ cận vệ Trung ương Cục miền Nam - nhớ lại: "Một hôm, ông Hai Xô cho gọi năm anh em bảo vệ (trong đó có tôi) đến giao nhiệm vụ. Ông nói đại ý: Hiện có một số hàng cần bảo quản giữ gìn, đây là bí mật quốc gia, các chú phải coi trọng và bảo vệ an toàn tuyệt đối cho dù phải hi sinh cả tính mạng. Không có các thủ tục xuất, nhập, giấy tờ, biên bản. Chúng tôi chỉ biết đào hầm bí mật chắc chắn để chứa những hòm sắt dài độ 50cm, dày khoảng 20cm, nặng chừng 12kg, trong ruột có một hộp gắn thiếc nặng chừng 3kg. Bình thường các hộp đó để trong hầm, được canh gác nghiêm mật ngày đêm. Khi có động thì anh em tháo bỏ vỏ, cho các hộp vào balô con cóc, mỗi người mang bốn hộp bí mật chuyển cất giấu ở các cứ dự phòng. Chúng tôi làm công việc thầm lặng này một cách tự giác và nghiêm mật, tôi cảm thấy ngoài ông Hai Già (tức ông Hai Xô) và Ba Thái thì không còn ai biết "kho báu" cất giấu ở chỗ nào.
Một buổi chiều mùa khô năm 1972, hàng chục trực thăng quần đảo và đổ bộ xuống trảng, sát cứ kinh tài Miền. Nguy cơ bị "chụp" chỉ còn trong gang tấc. Anh em cảnh vệ đã tính đến phải mở đường máu để cứu nguy thủ trưởng hoặc chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ "kho báu". Song chính lúc đó, nhờ sự bình tĩnh và dày dạn kinh nghiệm chiến trường của ông Hai, chúng tôi đã giữ bí mật lực lượng cho đến khi màn đêm sập xuống, đối phương không dám nống ra.
Thời cơ ấy cho chúng tôi cắt rừng chuyển cứ suốt đêm, đảm bảo người và tài sản an toàn đến nơi ở mới. Sau này, giải phóng miền Nam, chúng tôi mới được biết mình đã từng bảo vệ "kho bạc" có đến hàng triệu đôla trong bom đạn không hề suy suyển một xu. Trong số năm người thì bốn người đã qua đời vì chất độc da cam và các căn bệnh hiểm nghèo, nay chỉ còn lại mình tôi. Còn ông Hai Già - người thủ trưởng năm xưa của chúng tôi - nay đã ở tuổi 91".
Những cái "kho"
Dưới nền căn nhà lá này là “kho báu” (người ngồi võng là Phạm Bạn, chiến sĩ cận vệ Trung ương Cục miền Nam), tại cứ R năm 1973 - Ảnh tư liệu |
Trong hệ thống phân phối tiền từ Trung ương Cục tới các phân khu, có hệ thống các kho quỹ của khu và tỉnh. Nói đến chữ kho, người ta thường hình dung những ngôi nhà kín cổng cao tường với những két sắt kiên cố...
Nhưng cái gọi là kho của các khu và các tỉnh thời kỳ này thật ra chỉ là một hòm sắt. Bà Đỗ Thị Lệ Hồng sau khi làm công tác vận chuyển tiền, năm 1970 được phân công phụ trách kho quỹ của Khu IX. Bà kể lại: "Cơ ngơi kho quỹ của tôi chỉ là một chiếc bàn nhỏ và một chiếc hòm sắt, vốn là thùng đựng đạn đại bác, có nắp kín, không thấm nước. Tiền để trong đó. Công việc tôi được giao là cấp phát tiền theo lệnh của khu cho các đơn vị. Tiền đó chủ yếu để chi tiêu cho các đơn vị như mua sắm, trả tiền thuê mướn, vận chuyển. Còn tiền lương thì tất cả miền Tây lúc đó không có, chỉ có sinh hoạt phí. Mức sinh hoạt phí của mọi người như nhau.
Bản thân tôi cũng như tất cả các đồng chí khác, từ lãnh đạo khu cho tới nhân viên đều được hưởng một khoản sinh hoạt phí mà tôi không nhớ là bao nhiêu, chỉ nhớ rằng tính ra hằng tháng chỉ mua được một ống kem đánh răng và một bàn chải. Còn cái "kho" của tôi thường xuyên phải dìm xuống sình 3-4 lần một ngày. Mỗi lần có máy bay, có đại bác bắn thì người phải chui vào hầm, "kho" thì dìm xuống sình để nếu lính càn tới không tìm thấy tiền, bom đạn bắn phá cũng không bị hư nát. Khi có người đến lãnh tiền, giao tiền lại phải kéo "kho" lên. Kéo lên xong thì rửa tay cho sạch. Làm xong công việc lại đưa kho xuống sình. Tay tôi vì thế suốt ngày lấm lem vì sình" .
Tại chiến trường Liên khu V, nguồn tiền trung ương đưa vào được ngân tín Khu V, thuộc Ban Tài - mậu Liên khu ủy, tiếp nhận, quản lý và phân phối. Nếu phải "chế biến" từ đôla Mỹ ra tiền Sài Gòn thì ngân tín các tỉnh được giao trách nhiệm thực hiện chế biến phân tán lẻ, theo sự chỉ đạo về số lượng và tỉ giá tối thiểu của tài - mậu khu ủy V... Ông Võ Văn Kiểu, người phụ trách ngân tín Bình Định, cho biết: "Năm 1968 tôi được Ngân hàng Trung ương cử đi B1, phụ trách trưởng tiểu ban ngân tín, trực thuộc Ban Tài - mậu Tỉnh ủy Bình Định. Nguồn tiền mặt đôla Mỹ, trung ương giao cho khu, khu giao cho tỉnh quản lý và chế biến. Số lượng đôla cần chế biến ra tiền Sài Gòn cũng như tỉ giá tối thiểu giữa đôla và tiền Z đều do khu ủy chỉ đạo.
Tiền đôla từ căn cứ chiến khu cần chuyển tới vùng ven thành phố Quy Nhơn, do cán bộ ngân tín phụ trách. Còn các cán bộ hoạt động hợp pháp trong thành phố thì liên hệ với các cơ sở thương nhân để đặt yêu cầu, xác định số lượng và tỉ giá. Nguyên tắc là "tiền trao cháo múc". Lấy "Núi Bà” vùng ven chiến khu làm nơi giao nhận tiền. Từ đây, tiền Sài Gòn tiếp tục do các cán bộ ngân tín đưa về căn cứ các nơi theo chỉ đạo của tỉnh và khu ủy. Trong những cán bộ ngân tín làm nhiệm vụ này, hiện ở Bình Định còn nhiều người đang công tác tại các ngành. Như anh Thao, giám đốc Vietcombank Quy Nhơn hiện thời, đã từng làm nhiệm vụ trên, khi đó anh Thao mới 17, 18 tuổi".
ĐẶNG PHONG
------
_______________________________________
Thẻ-biệt-kích
====================================
Nhảy Halow
1 - Bước qua năm 1970, những cuộc xâm nhập của SOG ( đơn vị chuyên về hành quân Biệt-kích ) bằng trực thăng gặp nhiều khó khăn, hay phải nói...xưa như trái đất! Yếu tố bất ngờ, nhanh chóng thực hiện xâm nhập bằng trực thăng không còn được kết quả như trước, khi mà địch quân đã có những biện pháp chống lại. Đơn vị chống Biệt-kích của Bắc-việt càng ngày càng tỏ ra hoạt động hữu hiệu, nguy hiểm và thành công. Ý tưởng xâm nhập ban đêm đang được nói đến nhưng các trực thăng không được an toàn khi đáp. Chỉ còn cách nhẩy dù xuống mục tiêu. Nhưng nó đòi hỏi phải có những nhân lực hảo hạng.
-
Chỉ huy trưởng mới của SOG lúc này là Đại-tá John Sadler. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhầy dù và Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió ) Thuật ngữ quân sự gọi là HALO ( High Altitude Low Opening ) Nhẩy dù ở độ cao 10.000 bộ ( 3.050 mét ) Đề rơi tự do, khi còn cách mặt đất khoảng 1.000 hay 2.000 bộ ( 305- 610 mét ) rồi mở dù lái đến mục tiêu. Quân đội Việt nam Cộng hòa chỉ có một số ít, thường là Huấn luyện viên Nhảy dù biết cách nhẩy loại này mà người ta gọi là Nhảy-dù điều khiển.
-Giữa năm 1970 Đại-tá Sadler ra lệnh thành lập Toán HALO đầu tiên tại CCN. Toán Virginia (Toán Mỹ, người Thượng) được chọn gồm có ba Biệt kích người Mỹ, hai người Thượng và một sĩ quan Lôi-hổ Nha kỹ thuật...Toán lấy tên là Florida...được đưa sang Liên đoàn Biệt kích số 1 của Quân đội Mỹ đóng tại Okinawa (Nhật bản) để bí mật huấn luyện. Chương trình huấn luyện Toán HALO bắt đầu lên khung. Tại trại CCN, song song với phần đông là các Toán Mỹ...có tám Toán Việt-nam tại trại do những cán bộ Nha-kỹ-thuật chỉ huy và phối hợp trong chương trình OP 35 của SOG (hành quân Biệt-kích đặc trách đường mòn Hồ chí minh) Được lệnh tuyển chọn và thành lập Toán Dù điều khiển (HALO) đầu tiên thụ huấn tại Trung tâm huấn luyện Biệt-kích Long-thành gồm có một Sĩ quan Lôi-hổ và năm Biệt-kích quân (SCU) Special Commando Unit được người Mỹ chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật chỉ huy. Rất tiếc trong khóa học người Sĩ quan thiệt mạng vì dù không bung. Chương trình bị trở ngại vì thiếu người chỉ huy dù rằng năm Biệt kích quân cũng đã xong khóa học.
-Chiến cuộc có những bất lợi do sự rút quân của quân đội Mỹ. Quân đội Việt-nam-cộng-hòa không đủ sức trám vào những khoảng trống chiến thuật được người Mỹ chuyển giao. Trong khi quân Bắc-việt ồ ạt xâm nhập và phát triển hệ thống đường tiếp tế, xây dựng thêm các căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt, Lào...trước sự bỏ ngỏ của Không-quân Mỹ. Lúc này...SOG phải chiến đấu trong đơn độc. Mọi trợ cấp bị cắt dần dần...ngoài những gì hiện đang có. Đứng trước những khó khăn hiện tại thêm vào quân đối phương biết cách đề phòng và bố trí lực lượng đối phó đã đem lại cho SOG những trở ngại lớn lao kèm theo tốn thất đáng kể về nhân mạng. Đầu năm 1971. Trại được đổi tên mới ... Lực lượng đặc nhiêm 1 (TASK FORCE 1) thay cho tên cũ... Sở chỉ huy Bắc (CCN) Cùng với lệnh các Toán thám sát Mỹ không được phép xâm nhập qua Lào, Căm-bốt. Chỉ được hoạt động trong nội địa Việt-nam. Đúng ý của chương trình " Việt-nam hóa chiến tranh" tiết kiệm xương máu lính Mỹ! Để duy trì hoạt động ngoại biên, SOG đã xử dụng các Toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật vào những mục tiêu tại Lào, Căm-bốt. Đó cũng chính là sự hãnh diện cho đơn vị Biệt-kích trên chiến trường theo đúng nghĩa.
- Chiếc C47 của hãng vận chuyển Air America từ Đà-nẵng đưa chúng tôi lên Kontum. Vừa xuống phi trường tôi mừng rỡ vì người đón chúng tôi lại là Đại-úy Đại đội trưởng (A Company- Hatchet Force) trước kia ở CCN mà tôi, lúc ấy là Thông dịch cho ông. Tây-nguyên mùa này nắng nóng cuối Hè. Xe Jeep chở chúng tôi vừa ra khỏi tỉnh lỵ. Những đám mây đen lốm đốm dần trôi, chẳng tạo được cơn mưa trong cái nóng hầm hập của thời tiết gần trưa. Ba chúng tôi nằm trong số người đã huấn luyện Nhẩy-dù điều khiển (HALO) được lệnh lên Kontum (TASK FORCE 2) trước kia là CCC...phối hợp công tác. Lần đầu tiên lên đây tôi rất ngạc nhiên vì con quốc lộ dẫn vào tỉnh lỵ như bổ đôi căn cứ Biệt-kích...giống một nút chặn vững vàng bảo vệ cửa ngõ ra vào Tỉnh. Sau ba ngày thực tập chiến thuật và nhẩy hai sô dù đêm. Toán HALO phối hợp đã sẵn sàng gồm ba người Mỹ, ba người Việt-nam. Toán trưởng là Đại-úy cùng hai Trung-sĩ Toán phó. Lực lượng đặc biệt Mỹ. Mọi đồ đoàn đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Toán lên xe lúc trời vừa tối để ra phi trường. Cơn gió mát lạnh từ dòng sông Dak Bla hiếm hoi thổi tung chiếc khăn ngụy trang trên cổ lên mặt làm tôi có cảm giác xa lạ mênh mông trước những gì sắp xẩy ra.
Phi cơ của Air America (Long Tiếng)
2- Phần đồ đoàn cuối cùng...chiếc ba lô đã được gài vào vị trí dưới cái dù bụng...cây Car 15 thắt bên hông. Con người trở nên nặng nề, dệnh dạng đi ra phía sau đuôi phi cơ...chiếc MC 130 (Blackbird) Dưới ánh đèn sáng từng cặp mắt sau tấm kính trong bộ phận mũ che chắn đầu mặt, kiểm soát lẫn cho nhau. Vị sĩ quan nhiệm vụ thả Toán được lệnh trong chiếc mũ bay ra hiệu cho Toán sẵn sàng...còn hai phút nữa. Cửa phi cơ đã mở. Gió mạnh hồng hộc thổi vào nhưng tôi không cảm thấy lạnh như lúc cửa còn đóng. Đèn xanh đã được bật lên kèm theo tiếng hô của viên sĩ quan thả Toán. Chúng tôi đi vào không trung.
-Phản ứng tự nhiên tôi nhanh chóng lấy được thế bay. Đưa mắt nhìn xuống đã thấy đốm sáng lân tinh trên lưng người Trưởng Toán...đang chếch về mé trái. Lồng ngực bỗng trì nặng và tôi biết là mình đang trong đám mây. Xoãi tay trái xa thêm, tôi điều khiển thân mình vùn vụt bay theo điểm sáng lân tinh nhưng không xa quá tay để bảo đảm thân mình không bị lật hoặc chúi đầu! Trời đêm tối đen ngòm trừ ánh sáng đốm nhỏ lân tinh phía dưới. Nhìn đồng hồ cao độ tôi chuẩn bị nghe tiếng báo động trong hai tai...âm thanh tiếng reng nổi lên. Gồng hai tay, cụp dần vào hai vai...
tay phải đã chạm chốt mở dù, tôi giật ra trong lúc toàn thân theo cái đầu chúi lao xuống...Tích tắc con người như được giữ lại rồi êm đềm tung lên trong lòng sung sướng vì dù đã mở và đưa mắt tìm hai dây lái. Nhìn đồng hồ đeo tay để xác định thời gian và đưa mắt tìm ánh sáng của Toán trưởng...lần này ở phía phải. Kéo dây lái căn hướng gió. Tôi cụp cánh dù dây lái tay phải bay theo điểm lân tinh khi mờ khi tỏ bên dưới. Đống hồ đeo tay đã chỉ gần hai phút tính từ lúc dù mở. Tôi tập trung chuẩn bị đáp đất. Hai tay kéo cụp dù, gống hai chân chụm bằng nhau tôi chờ đợi cú va chạm đầu tiên để bung dù nhằm làm giảm sức rơi. Nhìn bên dưới đêm đen như đen thêm và rồi soạt soạt...tôi vội bung dù hai tay co lại che chắn đầu. Thân mình va chạm vào cành cây, tai cũng đã nghe tiếng cây gẫy. Tiếng phịch vang lên rồi toàn thân ngã ngồi trên đất. Một cái gì đó làm đau nhói ở vai trái...nhìn đồng hồ đã ba giờ, năm phút sáng. Việc đầu tiên tháo cây Car 15 bên hông và vẫn nằm yên nghe ngóng động tĩnh. Loài chim ăn đêm kêu réo cùng tiếng côn trùng nỉ non xa vắng. Qua khoảng trống trên tầng cây bầu trời đầy sao . Tôi lần tháo chiếc ba lô, cái dù bụng và những đai dù chính. Một ý tưởng ngộ nghĩnh...tôi như một chiến binh mới vừa xâm nhập bằng trực thăng xuống mục tiêu! Công việc trước mắt kéo cái dù xuống cũng may nó không mắc dính trên cây và tìm cách chôn dấu. Gió đưa cái lạnh bất chợt với cơn thèm một điếu thuốc rạo rực. Tôi chặc lưỡi trùm cái dù nhẩy qua đầu tự thưởng cho mình một điếu thuốc...cơn thèm đã cho cảm giác tuyệt vời và quên đời một chốc. Thoải mái xong...bắt đầu đào đất bằng dao găm đi rừng để phi tang cái dù trong tiếng gà gáy dồn dập báo hiệu trời sắp sáng. Rắc lên vài vốc lá khô, tự mãn xoa tay cùng ánh sáng mờ mờ thấy cả làn sương bay bay. Tôi lấy ra chiếc máy...bật mở để tìm Toán trưởng. Đây rồi theo mũi tên chỉ và khoảng cách hiện lên 250 mét. Tôi theo máy di chuyển. Rừng cây chồi non nhưng chằng chịt dây leo cản trở. Bóng của một cây cổ thụ mờ trong sương sớm nhưng chẳng phải là hướng trong máy dò. Những giọt sương trên lá thấm dần trên khăn ngụy trang và hai vai. Khoảng cách trong máy được kéo xuống còn 150 mét. Một vài tiếng súng nổ về hướng Nam cách không mấy xa. Địch đi săn...tiếng bắn không phải là truyền tin hay báo hiệu gì đó, đúng hơn là hạ gục một con thú! Con trăng mỏng dính xuất hiện từ lúc nào bên cạnh một ngôi sao sáng long lanh lấp lánh. Đàn chim ăn đêm tham ăn về muộn kêu réo hay nói chuyện với nhau vang vang đáp xuống tàng cây cổ thụ phía sau. Tôi chợt rùng mình trong cảm giác lẻ loi hay bởi cơn gió lạnh đang mơn man trên gương mặt đẫm sương. Tiếng của đàn chim đêm vẫn gơị mở hình ảnh quái dị, ma chơi...thần hồn nát thần vía! Xua tan những vẩn vơ tôi nhìn vào máy. Con số 80, còn 60 mét nữa...số 20 trong máy là con số ấn định của Trưởng-toán để dừng lại. Giữ cái "máy mẹ" Toán trưởng biết hết mọi khoảng cách và hướng đến của những "máy con" Ông ta chỉ việc ngồi cố định một chỗ để tiếp nhận dần Toán viên của mình. Khoảng cách 20 mét được ấn định để trao đổi mật khẩu nhằm tránh là quân địch. Nhìn vào máy, tôi qua khỏi bụi lau ngồi chờ đợi... "Juliet" tôi vội đáp ngay mật khẩu "Romeo" Rồi tiếng "vào đi" của Toán trưởng ở phía trước.
Căn cứ Air America (CIA)
3- Nét mặt hớn hở và câu nói "vào đi" lần này của Đại-úy Toán trưởng đã kết thúc tốt đẹp, thành công chuyến xâm nhập khi người Toán viên cuối cùng tụ tập. Nắng cũng đã nhấp nhô trên đỉnh núi. Rừng cây thưa toàn chối non quá đầu người. Toán viên nhiệm vụ đi đầu (Point man) đang căn lại địa bàn chuẩn bị. Toán theo đội hình định sẵn bắt đầu di chuyển. Tiếng chim trên cành cây cao líu lo bên hông và đàn vắt đã xuất hiện dưới lá cây mục. Đại úy đi hàng thứ hai, trước tôi ra lệnh dừng lại khi nghe tiếng Covey đang đến. Toán phó người Mỹ đi đoạn hậu đang cầm chiếc gương chiếu lấy ánh sáng sẵn sàng ra hiệu cho máy bay (Covey) cạnh người xạ thủ M79 (Biệt kích quân người Việt) và sau tôi Toán phó người Mỹ phụ trách truyền tin (Radio man) đang liên lạc...Covey ở trên đầu có lẽ đã nhận xong vị trí Toán bằng gương chiếu và Đại úy đang ghi chép tọa độ Toán do Covey thông báo. Khác với xâm nhập bằng trực thăng bãi thả đã được ấn định chính xác cho thuyết trình hành quân. Nhưng với bằng dù sự chêch lệch tọa độ buộc phải có và xác định lại tọa độ là điều cần thiết. Toán tiếp tục di chuyển. Covey cũng đã ra khỏi vùng. Nắng chan hòa và tầng mây trắng phau như càng lúc càng cao! Khu rừng trước mặt xanh mờ sương lam đầy bí ẩn nhưng bên này khu rừng lau trổ cờ trong gió bạc một mầu nghiêng ngả nhảy múa cùng nắng vàng chan chứa! Không gian yên ả trừ lũ chim trên tàn cây cao đứng lẻ loi bên cạnh tảng đá nổi lên như lưng Trâu. Người đi đầu mồ hôi nhỏ giọt rất vất vả vì cây dây leo. Thi thoảng Đại úy cũng phải thay thế dẫn đường. Đàn vắt dưới chân lau nhau ngửi mồi nhưng chẳng làm gì được vì chúng tôi toàn thân kín bưng trừ ra khuôn mặt nhưng đầy thuốc trừ muỗi. Tôi bỗng tiếc cho bộ Dù nhẩy... đúng là đánh giặc theo kiểu nhà giầu cũng khác!
-Rừng cây cao, tối hun hút. Tôi như đi vào đường hầm gió lùa và lạnh lẽo. Nửa ngày chúng tôi đánh vật với khu rừng chồi chằng chịt những dây leo. Vạt rừng lau bên cạnh dễ đi nhưng không phải là hướng di chuyển vào mục tiêu. Tiếng kêu của thú rừng vòng vọng và đàn khỉ chí chóe trên cành như lạ lẫm nhìn chúng tôi. Bữa ăn quá trưa cũng đã xong. Đại úy căn lại bản đồ để lấy hướng đi. Ngồi bên cạnh, tôi nghe ông nói...còn khoảng năm cây số nữa! Mục tiêu con đường có đường dây điện thoại mà một Toán thám sát đã báo cáo. Nhiệm vụ chúng tôi tiếp cận con đường tìm đường dây điện thoại để đặt máy thu mọi cuộc điện đàm và bắt tù binh nếu có thể. Trung sĩ truyền tin ngồi sau. Tôi nhìn và phì cười khi anh ta cố mò trong mông, lôi ra con vắt căng đầy máu trên tay. Cái mẹo mà khi còn ở Trung đội Thượng (Hatchet Force) trước khi vào rừng cứ kín đáo xoay lưng rồi ngắt bất cứ chiếc lá nào...nhai trong miệng cho nát rồi vất đi...có thể tránh được lũ vắt tấn công...nhưng theo tôi đã thực hiện nhiều chuyến...có hiệu quả đấy, trừ những con vắt tham, đói ăn điếc không sợ súng. Cách tốt nhất vẫn là áo quần kín bưng, tay và mặt luôn bôi thuốc trừ muỗi. Covey vừa bay ngang rồi biến mất như nhắc Toán...có tao đây! Chúng tôi đang xuống một con dốc thoải nhưng trước mắt là dẫy đồi cao. Thế đất như người ta gấp một tờ giấy. Mặt trời chiếu nghiêng, ánh nắng lung linh trên tàn cây, âm thanh xào xạc lắm khi rít lên cùng gió và gió chỉ đi qua không xuống được chỗ chúng tôi. Một tiếng súng nổ rất gần rồi liên tiếp hai phát như bắn vào Toán. Tôi sững người nhìn quanh...không có ai trúng đạn nhưng tự nhiên ngồi thụp cả xuống. Tiếng hú cất lên và giờ đây tôi đã xác định được vị trí tiếng súng. Có một tiếng hú ở xa hơn đáp lại. Tất cả đều nằm mé tay mặt của hướng di chuyển...cách chúng tôi chỉ khoảng hai, ba mươi mét. "hú...heo rừng...đến đây, gánh về...hú hú" Toán ngồi yên chờ đợi diễn tiến. Nhìn quanh tôi đã thấy tự động từ lúc nào mỗi người chọn một gốc cây sẵn sàng. Thời gian qua đi, rừng trở lại thanh vắng. Toán di chuyển đang qua cái đồi nhìn xuống khe trải dài hun hút. Tiếng của con chim đất lạnh lùng kêu khắc khoải như muốn dẫn chúng tôi vào sâu...nhưng thật ma quái! Ánh nắng đã khuất, qua khoảng trống bầu trời có tí ửng hồng trên tầng mây. Địa thế khác lạ với những cụm tre to lớn theo gió vặn mình răng rắc và ngọn ngả ngớn trên cao. Bên những bụi chuối có buồng chín còn một nửa bu đầy ong ruồi chưa biết thế nào là đêm tối. Đường dễ đi nhưng ẩm. Cây vừa đủ để che chắn hành tung. Toán dừng lại dựa lưng vào tảng đá chuẩn bị cho bữa cơm chiều rồi tìm chỗ ngủ đêm.
4-Choàng tỉnh trong mơ màng giấc ngủ. Tự nhiên tôi nhìn đồng hồ...tám giờ tối. Đã có tiếng cụ cựa trở mình của đồng đội. Động cơ xe lớn dần và gấp gáp như thử sức! Nó đang ở hướng Tây đúng hướng mục tiêu của chúng tôi. Tiếng người lao xao cùng tiếng động cơ náo động. Bản giao hưởng đêm rừng thêm mới với tiếng động cơ âm trầm cùng láo nháo tiếng người vang vang và quanh quanh côn trùng nỉ non lan xa hòa điệu. Một công trường khởi động hay đoàn xe thức giấc chuyển mình? Phải đợi thôi! Mọi người chắc cũng như tôi đều thức dậy và lắng xem hoặc đang ước lượng khoảng cách? Một tiếng thú kêu rống như xé toạc không gian tiếp theo là giọng gầm gừ như đối nhau càng lúc càng to rồi thét vang...bỗng chốc mất hút trong đêm. Tiếng của đoàn xe đi xa để lại lao xao tiếng người như dần xa vắng. Nghĩ trong bụng, đoán chỉ là trạm vận chuyển. Đêm cháy dần như ngọn nến, tôi cố nhớ đến bầu trời xanh ngắt và sâu thẳm mênh mông...mênh mông...để dỗ dành lại giấc ngủ.
-Có một thứ gì đang đi tới...tiếng động cây lá và bước chân nhịp nhàng quanh tiếng gà gáy vang. Trời đã sáng nhưng chưa rõ hẳn trong làn sương mù giăng găng, giơ tay lên mặt là chạm phải nhất là ở hàng mi. Mẩu C4 đang nấu nước cháy hết tạm ngừng. Một con chim lợn xà xuống thấp kêu thét một tiếng nghe rờn rợn. Nhìn những gương mặt căng thẳng tay lăm lăm trên cò súng trong thế ngồi dã chiến. Tôi bỗng phân định ra cái sự gì đó đang đến quyết không phải là địch quân! Nhưng toàn thân cũng nóng lên theo từng bước chân căng thẳng. Thời gian như doãi ra rồi ngừng lại cùng một sự yên lặng chợt đến thật khó hiểu...Tiếng khịt khịt vang lên nhanh chóng đánh tan bầu khí căng thẳng cùng mọi cái thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ bụi cây một con heo đen xì cái đầu đưa qua đưa về ngẩng lên nhìn chúng tôi. Nó đứng đó như khách xa lạ một lúc nhìn ngổ ngáo rồi tẽ ngang đi mất. Mẹ kiếp...sáng sớm đã dợt hộp! Cơn gió nhẹ bay cùng làn sương nổi hột làm cơn thèm cà phê chợt đến. Ngọn lửa C4 đang làm sôi ca nước...việc cấn thiết cho cái bao tử trong một ngày...đổ nước nóng vào hai bịch gạo sấy và nhâm nhi cà phê cùng thưởng thức điếu thuốc lá...thổi khói vào chiếc áo đi mưa để sát đất. Rừng yên lặng chỉ còn tiếng chim. Sương mù tự nhiên kéo đi đâu thật lẹ, chỉ còn những mảng mỏng luẩn quẩn bên vạt cây lá từng giọt đếm trên đất. Hai người Biệt kích Việt vừa gỡ xong mìn phòng thủ. Toán di chuyển.
-Con đường chắn ngang. Tôi được lệnh theo Đại-úy lên thám sát. Đường nhỏ hẹp có dấu bánh xe đạp đi lõm hai bên nhưng bên này sâu hơn. Chứng tỏ địch vận chuyển thồ hàng từ hướng Đông sang Tây rồi lại dắt xe đi bộ trở về. Tôi được lệnh vượt qua đường sau khi đã lấy ít lá cây rụng lấp bên trên tạo thành một lối đi tránh để lại dấu vết. Toán phó, người cuối cùng vừa sang đang ngồi xóa dấu và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Tiếng Covey ì ì đang lên vùng. Một mảng trời trong xanh bên cạnh khoảng mây trắng đùn từ dưới lên cao. Mặt trời đứng khựng trên tàn cây như cố xuyên thủng lớp sương mù đang muốn thoát khỏi sức hút của đất và cây rừng. Toán dừng lại bên một gốc cổ thụ có những dây leo to như cổ đùi rũ xuống. Đàn khỉ thấy người đang dáo dác trên cành và to nhỏ gì đó. Người Mỹ truyền tin liên lạc Covey...đọc mật mã chuyển bức điện. Sự cô đơn của rừng đầy kỳ bí và lạnh lùng! Toán tiếp tục di chuyển để lại đàn vắt như tiếc rẻ con mồi...lồm ngồm dưới lớp lá rụng dầy. Một mùi hương hoa thoang thoảng, tôi bất chợt nhìn lên tàn cây. Mầu hoa tím nhạt đua lay trong gió dịu hiền bên lá xanh phơn phớt...hoa gấp bội lần lá! Đại úy mới vừa trượt chân, tôi phải ghìm người lại, đơn giản là chúng tôi đang xuống con dốc. Nắng ở trên cao nhưng không thể xuyên rừng xuống được đất. Buổi sáng đi qua thật lẹ...tôi đã cảm thấy đói bụng. Những bước chân khám phá cũng đã mỏi...dù sao cũng cần phải tiếp thêm năng lượng. Đại úy quay lại nhìn tôi rồi nhìn đồng hồ tay chỉ vào bụng, ý muốn hỏi có mệt, đói không? Tôi cười đưa tay ra hiệu...Ông và tôi sức vóc không bằng nhau! Nhưng dù sao tôi biết chắc rằng cũng phải qua khỏi con dốc trước mặt...chỗ nghỉ quân phải có địa thế tác chiến tốt. Luồng gió từ khe sâu giống như hơi thở của rừng luôn lạnh lẽo, âm u và huyền bí! Một tiếng súng nổ ở hướng Tây...địch đang báo hiệu gì đó hay là một mệnh lệnh trong khu vực? Nó đã quá quen với những cuộc hành quân Biệt-kích nhất là khi địch biết chắc có Biệt-kích trong vùng, lúc đó tiếng súng bắn để nghi binh hay tạo một cái bẫy dụ chờ Toán vào vùng phục kích do họ chọn lựa. Tiếng của một con chim lạ kêu trong sâu nghe âm vang thật rền rĩ, cô đơn.
5- Bữa cơm chiều, ăn xong là di chuyển ngay. Trời nhá nhem , sự yên tĩnh đến đáng sợ của rừng luôn làm căng thẳng thần kinh! Buổi chiều qua đi với hai lần vượt qua loại đường gùi xuyên rừng và con suối cạn róc rách từ kẽ đá...nó chỉ đổ nước ra suối lớn vào mùa mưa. Bóng tối đến thật nhanh cùng đàn muỗi thét vang bên tai, tức tối vì mùi thuốc bôi trừ muỗi. Bóng đêm đã ngự trị nhưng Toán vẫn lần mò chưa tìm được một gốc cây ưng ý hay một địa thế có những tảng đá để ẩn mình. Tiếng của loài chim ăn đêm như thúc dục đến não lòng, kinh dị. Cơn gió lạnh chợt đến như xé lòng, buốt giá bủa vây. Toán dừng lại khi bước chân tôi đứng trẹo đi vì hai cục đá cao thấp. Gốc cây lớn ngay trước mặt đã được chọn và chỉ trong tích tắc mọi người đã yên vị cùng lúc người Toán phó và người dẫn đường (point man) gài xong hai trái mìn phòng thủ...ở ngay đường vừa di chuyển...cùng hướng vào mục tiêu. Tôi ấm dần lên trong cái áo đi mưa, dựa người thoải mái vào ba lô và dây đạn khoác hờ vào hai vai rồi cởi khóa dây đạn trước bụng...Khi cần thiết...nhổm người dậy là mọi thứ đã sẵn nơi vai, chỉ việc gài chốt dây đạn là xong. Hướng thoát hiểm được ấn định luôn là phía trước...đường vào mục tiêu. Trong trường hợp đụng địch tại nơi ngủ đêm, sẽ có tiếng hô ra lệnh của Toán trưởng và hướng trái mìn Claymore của người đi đầu nổ tung...Đó là con đường máu thoát hiểm...Tôi đi dần vào giấc ngủ...lơ mơ trong điệp khúc đêm rừng gió rét.
- Vừa mở mắt thức giấc. Tôi liền tạ ơn Chúa ban sự bình an trong đêm. Sương trên cành nhỏ giọt từng giọt xuống chiếc áo mưa. Nó lộp bộp nhiều hơn khi làn gió thổi trên cao. Sương mù giăng khắp và gà gáy dồn dập. Núi rừng vẫn một mực yên lặng và hình như tiếng chim trong gió khe khẽ lẩn khuất bên trên cùng tiếng côn trùng rời rạc, mệt mỏi với chức năng về đêm?! Trời sáng dần, ngọn gió làm sương mù bay, tôi như ngủ trong cỗ màn tuyn trắng đục khi còn ở nhà chưa đi lính. Đại úy đang nấu nước sôi chuẩn bị cho cái bụng trong ngày. Mùi thuốc nổ C4 dùng nấu nước có mùi thơm thơm khi đốt lửa nhưng nó lại tạo khói khét lẹt lúc được kích hoạt nổ. Toán được phép mang theo những bánh thuốc nổ C4 dùng vào việc nấu nướng và khi hữu sự chúng tôi có thể gộp những bánh thuốc nổ C4 xài dở dang, tạo thành bánh lớn bởi độ dẻo của nó và gắn ngòi nổ đốn ngã bất cứ cây cao nào cản trở cho bãi đáp khi bất ngờ triệt xuất Toán. Điều quan trọng là phải tạo một lỗ sâu bằng cách ấn mạnh cây viết chì mà Toán trưởng vẫn dùng để ghi chép vào bánh thuốc C4 để cho ngòi nổ ở trung tâm, bảo đảm cho hiệu quả. Công việc của buổi sáng cứ tuần tự...sau màn vệ sinh cá nhân...Toán bắt đầu di chuyển.
- Nắng trên cao và gió mang cái mùi ngai ngái của loại cây mọc trong khu vực. Có lá như lá me, chiều cao chỉ bốn mét, tàn xòe rộng, quả rũ xuống như giàn đậu đũa. Mọc sát cạnh nhau an phận dưới những tàn cây cổ thụ cao lớn che trời. Một chùm lan rừng tím xậm vụt lên từ cành lá, đùa giỡn cùng nắng ban mai. Có một con ong vừa vụt bay, nhanh chóng mất tích. Tiếng chim líu lo và đàn khỉ the thé đùa giỡn chuyền cành! Bên gốc cây Đại úy liên lạc với Covey...Ông mới chuyển xong bức điện và có vẻ như đang chờ sự gì đó? Toán lại lên đường sau tiếng Covey nhỏ dần đi bao vùng khác. Di chuyển dần lên cao, địa thế dốc trì nặng đôi chân. Bầu không khí thay đổi hẳn, mát rượi và thơm lừng hương hoa. Trên cao cả một vạt rừng hoa tím...mầu tím hồng nhạt từ cây rắc những bông hoa trên đất, theo cơn gió nhẹ bay bay cả vào người chúng tôi như mừng người chiến thắng! Ai có tâm hồn mà chẳng rạo rực trước cảnh này? Người dẫn đường đã lên tới đỉnh dốc. Mảnh trời xanh lấp ló bên trên tầng cây và bên dưới chen cùng những gốc cây tảng đá đen xì rải rác lồm ngồm như đàn rùa biển lên bờ. Đại úy ra lệnh nghỉ và ăn trưa. Gió từ dưới lũng thốc lên vút tận tầng cây rào rào lao xao. Toán phó đang hút thuốc lá, thở khói thuốc vào ngực áo mình, cạnh người xạ thủ M79 nhai cơm. Đại úy bận bịu với tấm bản đồ và cái địa bàn...căn, đo xác định lại phương hướng. Mùi ruốc thịt ba lát đậm đà sao nước mắm ngon nhai với cơm sấy trong miệng làm tôi nhớ về ký ức khi xưa còn bé...Cứ mỗi lần Mẹ làm ruốc thịt heo y như rằng tôi căn để ăn vụng, nhai không biết chán...Miếng ăn vụng tôi nghiệm ra rằng ở những nơi kín đáo ăn miếng càng nhỏ nhai càng khoái, càng khích thích tợn! Tiếng Covey vừa bay ngang loãng dần về hướng Đông có lẽ nó lên đường về lại nơi xuất phát đổi tua cho chiếc khác bao vùng. Tôi cố gắng chống lại giấc ngủ trưa quen thuộc và thấy đời như là sự gì bất công tràn lan!
6- Tiếng cười đùa vang vọng xé tan sự yên lặng kỳ bí của rừng. Gió mạnh từ lũng liên tục thổi lên rồi luẩn quẩn làm đôi lúc giọng trong trẻo nhỏ nhẹ, đôi khi khanh khách vụt cao. Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tôi đã thấy cái nhíu mày trên trán Đại úy. Tôi biết ông đang quyết định một việc gí đó? Vì nếu di chuyển ngay theo hướng vào mục tiêu, Toán sẽ bỏ lại sau lưng tiếng cười đùa của địch bên hông...chẳng phiền toái gì cả! Y như tôi linh cảm. Đại úy đến bên Toán phó và họ thảo luận gì đó? Giờ thì cũng như mọi người tôi có thể ước lượng khoảng cách đến địch chỉ vài chục mét. Trở về Đại úy ra lệnh thám sát khu vực và tôi thông báo cho hai Toán viên biết. Người đi đầu đã đứng lên. Toán cứ theo hướng có tiếng người đi tới. Cây rừng tương đối dễ di chuyển. Sự che chắn tốt và chúng tôi cẩn trọng lần bước. Con Sóc đuôi dài leo vụt lên cây đến nửa chừng dừng lại nhìn chúng tôi. Tiếng người mỗi lúc một gần rồi đột nhiên tắt hẳn? Ánh nắng ngang tầm mắt nhưng lúc này bị tàn cây che chắn. Tiếng ì ì của Covey ở một nơi xa hướng Nam cho chúng tôi thêm tin tưởng. Toán dừng lại Đại úy ngoắc tay gọi tôi và cùng lên phía trước. Một con suối trước mặt cùng mắt tôi chạm ngay vào dẫy nhà sàn nằm nép bên suối ở sườn dốc. Một khoảng ánh nắng chiếu rọi tấy rõ con nước lao đi trong đá chắc chắn là không sâu. Nhìn gần, dưới dốc những trái su su ngồn ngộn trên dây leo cùng những luống khoai môn bên hàng ớt đỏ rực. Toán cảnh yên lặng như ma quái, đến nước dưới suối cũng câm lặng!? Tiếng của một con chim đất rúc lên nghe như kêu mời và một, hai, ba, bốn rồi năm người từ nhà sàn vừa đi ra. Nhìn kỹ ba dân quân và hai bộ đội. Không trang bị súng nhưng người bộ đội đi thứ hai quấn băng xanh mầu lợt trên đầu. Có tiếng gọi từ phía bên kia con suối nhưng chẳng hiểu nói gì? chỉ thấy cả năm người sắn quần lội qua. Nắng chiều tỏa ánh sáng chiếu chói lọi xuyên cành lá và chúng tôi phát hiện thêm những làn khói tỏa không muốn rời mái nhà. Một tên bộ đội bất chợt từ trong ra ngoài sân, cây súng chỉ thiên nổ một phát rồi lại tất tưởi trở vào. Tất cả mọi sự việc hẳn không qua được cái ống nhòm của Đại úy. Ông có vẻ say mê, rồi thình lình ra lệnh rút quân, di chuyển theo hướng vào mục tiêu. Ánh sáng ửng chiếu khắp trên vùng trời đằng Tây cứ như vầng than hồng lóe trong đêm. Người đi đầu phải luồn lách để tránh những cây dây leo trong một địa thế xuống dốc luôn phải hãm đôi chân. Trên một cành cây thấp ngước nhìn loài chim xâu bé tí thoăn thoắt nhẩy tìm mồi như chả biết thế nào đã gần đêm. Đại úy ra lệnh ngừng lại, chả gì cũng đã quá bữa cơm chiều. Đàn muỗi tự nhiên xô lại vây quanh cùng tiếng kêu của một loài chim lạ nghe đơn côi và khắc khoải. Cơm ăn vừa xong cũng là lúc bóng đêm vừa đến. Điếu thuốc lá cuối cùng trong ngày được phép, tất cả được thở sâu vào ngực áo. Lệnh qui định, nơi ngủ đêm cấm hút thuốc lá cho đến sáng ngày hôm sau. Toán di chuyển tìm chỗ ngủ đêm và hình như có tiếng ầm ì nơi xa vọng lại. Chân bước nhưng tai dóng lên để nghe...quả đúng vậy! Nó xen lẫn với điệp khúc đêm rừng quanh quanh và rõ nhất đanh nhất có một loài giống như tiếng Ve kêu mùa không biết mỏi với mầu Phượng rực nắng nhưng ở đây "tiếng Ve...?" trong đêm. Động cơ xe, giờ tôi có thể nói như vậy và xác định được càng lúc càng đến gần. Cơn gió làm lao xao cây lá. Những bước chân giữa đêm rừng đầy kinh dị, sợ hãi vây quanh...chân tuy bước mà lòng cứ mãi về phía sau chỉ sợ bị "vồ..." Dù rằng tôi biết chắc còn ba đồng đội đang đi theo. Một mùi hương hoa thoảng trong đêm nhưng không gây được sự thích thú kèm theo cái lành lạnh. Đại úy đi trước tôi đang ho vào vạt áo, có lẽ ông bị dị ứng "làn gió lạ" Một bóng đen to lớn án phía trước che dần bầu trời sao. Chúng tôi như bước vào con đường hầm gió lạnh và tối om. Gió ào mạnh bên trên rồi dịu đi chạm lá tựa tiếng réo rắt phong cầm lúc trầm lúc bổng. Tôi vướng vào một dây leo và chân chạm rễ cây suýt ngã. Đại úy ra lệnh nghỉ đêm và tiếng động cơ xe bỗng đứt quãng vuột biến. Tôi nghe Đại úy nói với Toán phó chỉ gài một trái mìn Claymore. đường thoát hiểm vẫn là hướng vào mục tiêu. Gốc cây cổ thụ và những rễ bạnh nổi lên như ôm lấy chúng tôi. Tiếng kêu của con tắc kè tận trên cao chậm rãi từng tiếng chắc nịch giống như nắm đấm dội vào lồng ngực gây tưng tức hay có thể tầng cây dầy che lấp không gian thoáng đãng và sương mù tuy chẳng thấy nhưng cũng hình dung qua cái lạnh mơn man trên mặt, phơn phớt ẩm hơi.
7- Buổi sáng thức dậy, công việc tuần tự cứ như mọi ngày hành quân. Covey lấy xong bức điện rồi di ngay. Sương mù cũng tan biến để lại giọt mưa trên lá. Người đi đầu bỗng dừng lại, tay ra hiệu con đường phía trước. Ánh nắng chói lọi lọt qua tầng cây làm hai vai người đi đầu tỏa khói và tôi thấy Đại úy đang quan sát con đường. Theo lệ thường tôi lên để yểm trợ...vẫn là loại đường gùi để vận chuyển, nhìn những dấu chân in trên đường, chứng tỏ địch di chuyển thường xuyên nhưng hẳn nhiên chưa phải là con đường có đường dây điện thoại mà nhiệm vụ Toán phải tìm. Sáng nay khi chấm bản đồ Đại úy nói rằng chỉ còn khoảng hơn một cây số sẽ chạm mục tiêu. Chúng tôi băng qua đường sau khi Đại úy chụp vài pô ảnh. Địa thế khu rừng chồi rất ít cây to nhưng Toán đang đi vào bóng mát cùng tiếng chim lanh chanh trên cành cao. Một mảng mây trắng bấu chặt lấy bìa rừng trước mặt cùng ngọn gió làm lạnh hai vai và chắc chắn sẽ khô dần đi cái khăn ngụy trang. Tạm nghỉ chốc lát rồi lại lên đường. Hai con chim thật lớn tự đâu bay đến một con đứng quạt cánh trên tàn cây nhưng không đậu xuống còn một con bay vòng trên cất tiếng kêu la như vai trò của một huấn luyện viên! Đại úy nhắc tôi "đi đi..." cũng vừa lúc súng nổ ở phía sau rất gần và tiếng đáp trả phía bên hông nghe đanh, nhọn như không cùng một loại súng. Khu vực bỗng trở nên đáng sợ. Tôi cảm thấy nhiều mũi tên đang bắn tới và cái lạnh chợt đến đang tỏa từ sống lưng đến gần mông. Đại úy ra lệnh dừng lại. Phía trước khe dốc lên cao trông như bức tranh với đụn mây trắng tinh khôi cuồn cuộn cùng bầu trời xanh thẳm. Tiếng hú từ xa vang vọng mà chỉ có thể là tiếng người cùng tạo cho rừng một thoáng kỳ quái, thâm trầm đến lạnh lùng. Giọng hú đáp trả hai lần nghe vọng dội âm thanh như đi từ Nam lên Bắc...Tôi tưởng tượng đến có một trận đồ đang vây hãm...giữa thanh thiên bạch nhật! Chúng tôi đến gần sự hoạt động nơi địch đóng quân. Đại úy chỉ hướng cho người đi đầu và ra lệnh xuất phát. Nắng đã gần trên đỉnh đầu và làm khô mọi thứ ướt bởi sương sớm. Toán đang đi vào bìa rừng với cây cao bóng rợp. Vẻ âm u vắng lặng chào đón...nhìn, ai mà chẳng chột dạ?! Tôi theo thói quen xoay người ngắt một lá cây tiện nơi tay bỏ vào miệng nhai để chống vắt. Nụ cười của người Toán phó (radio man) đi sau nhìn tôi tinh quái và thoáng ngạc nhiên, dù rằng việc này tôi cũng đã giải thích lúc cùng thực tập. Rừng cây tương đối dễ di chuyển vừa đủ để che chắn. Những tảng đá chen nhau như đua cùng cây nhưng an phận bởi loài cây mọc từ trong đá xanh biếc nhưng thấp xỉn phát triển theo sức sống ở những đường kẽ và trũng cùng loại rêu xanh đậm bấu chặt. Chúng tôi ăn trưa ở gốc cây có những tảng đá rải rác vừa đủ để che đầu người ngồi. Ánh nắng chiếu rọi, giống những hạt kim cương thi thoảng hiện trên những khuôn mặt và điệp khúc rừng cứ mãi trôi theo thời gian bất tận! Tiếng ào ạt phía bên hông làm những cây chồi non nghiêng hẳn một vạt trước ngọn gió quẩn quanh quanh...rồi chạy đuổi về phía sau. Đại úy ăn xong ông lại căn hướng đi...Ông ta có vẻ sốt ruột, nóng lòng vì nhiệm vụ hoặc bởi những ước lượng đường di chuyển bị sai trật. Nhưng tôi nghĩ là không thể! Lệnh di chuyển ngay đúng ra là phải có chừng một tiếng nghỉ ngơi. Nhưng cả Toán không ai tỏ vẻ uể oải ngược lại hăng hái tiến bước. Tôi cười nhìn lại đàn vắt cố công bò đến ngổn ngang...chúng cứ ngóc lên cao đưa cái vòi qua lại dò con mồi...tôi ngộ nghĩnh vẫy tay chào...chào lũ mày, Vắt. Ánh sáng vẫn rọi trên khuôn mặt Đại úy vụt biến mất...nhìn lên hai con chim rất to vừa đậu vào tàng cây cất tiếng kêu như gọi con trong tổ? Ngọn gió quẩn hình như quay lại đẩy chúng tôi vào sâu.
-Người đi đầu dừng lại ra hiệu có con đường. Đại úy nhìn tôi như ra lệnh cùng lên thám sát. Phía sau Toán đã ở vào vị trí chiến đấu dàn hàng yểm trợ hai bên và mặt sau. Ngồi xuống mép đường bụi rậm quan sát. Đường cơ giới, dấu bánh xe và vết chân dấu giầy trên đường...nhưng không thấy dây điện thoại. Đại úy nét mặt đang suy tính, con đường này rất đúng trong báo cáo. Tôi cũng biết như vậy và nghĩ là dây điện thoại chỉ có ở bên kia đường? Đại úy khoắt tay ra hiệu vượt qua...Vẫn là người phải sang trước để lập chốt yểm trợ...Men theo những đốm lá cây rụng tôi nhanh chóng vượt qua sáu... bẩy mét con đường thật êm ái và chân vướng ngay vào sợi dây điện thoại. Lập xong đầu cầu, quan sát hai mé đường tôi ra hiệu cho Toán di chuyển. Vẫn con gió quẩn lúc này thổi ào trên đường bốc lên những chiếc lá bay bay.
8- Đại úy cũng vừa sang đường, tôi chỉ cho ông dây điện thoại. Nét vui mừng rõ trên mặt, ông buông một câu "tuyệt vời" và ngay lập tức ra lệnh di chuyển dọc theo con đường để chọn địa thế. Toán đã đến được một nơi cay chồi mọc cùng dây leo chằng chịt bên dưới, có những tảng đá rải rác...Một địa thế tác chiến tốt và quan sát cũng như ẩn nấp chả chê vào đâu được. Nắng đã siên ngang...chiều đi thật mau...cũng nhanh như chúng tôi vào vị trí. Đại úy và radio man nằm ở trung tâm để ghi âm. Tôi và người đi đầu (point man) hai đầu tả hữu còn Toán phó và người xạ thủ M79 án ngữ mé sau lưng. Hai trái mìn phòng thủ được gài hai đầu do tôi và Point man giữ. Lệnh cho hướng đào thoát là chốt phía sau của Toán phó. Con đường vẫn im lìm vắng lặng. Mé tay trái gió vừa bốc lên những chiếc lá trên đường tung cao rồi xoay tròn chạy ra xa. Dựa lưng vào tảng đá, tôi trong một bụi rậm bắt đầu tạo những khoảng trống nhỏ để tiện quan sát trên đường nhất là lỗ hổng để nhìn được vị trí đặt mìn phòng thủ. Đại úy đến bên tôi từ phía sau như là để kiểm soát và thông báo máy ghi âm của người Toán phó radio man đã hoạt động. Mặt trời đã lặn và bắt đầu cho đêm rừng. Miếng cơm nhai trong miệng bữa nay sao ngon lạ! Trời mây trắng nhưng phía Bắc cơn đen che hẳn nửa bầu trời. Con đường đi xuống lũng sâu quẹo hẳn vào núi cao. Bìa rừng cây cao rậm che chắn cho con đường lại là ranh giới giữa rừng già và rừng chồi non. Bóng tối đem bản giao hưởng rừng đêm cùng sương mù chen lấn. Gió bắt đầu lạnh thêm thổi từ trong sâu. Trong chiếc áo đi mưa tôi chợt rùng mình về sự lẻ loi, cô đơn...dù rằng chắc chắn cách đây chỉ khoảng mười mét là đồng đội! Tiếng của loài chim ăn đêm nghe não lòng gợi nét quỉ ma, chông chênh giữa thực và mộng...Bất chợt nghe từ thẳm sâu ký ức một khoảng trời học đường...ngày ấy những bài học làm người, bài học cuộc đời trước khi bước ra một sân chơi lớn: đời người. Mầu hoa Phượng đỏ như lửa ấy cứ rực mỗi Hè. Tàn mùa Phượng đã nghe mùa Thu gõ tiếng trống trường...lăn dọc thời trẻ con hoang dại. Lăn dọc những vui buồn không tuổi, không tên. Để bước vào những mùa thi...Lần cuối, năm ấy mình không qua nổi kỳ thi, sẽ là ngã rẽ cuộc đời! Trò chơi lớn bắt đầu...Xua đi những ý nghĩ, tôi tập trung vào giấc ngủ. Đưa mình lên bầu trời xanh thăm thẳm, cứ thế xa tít rồi xa tít và tôi ở trong vùng cao xa ấy.
-Đêm qua đi, trời lại sáng và tôi thức giấc lúc còn tối có lẽ cái chân bị tê vì thế ngủ ngồi quái ác. Tiếng côn trùng nghe đã có phần rời rạc chỉ lũ gà là xung. Biết bao chuyến hành quân và ở bất cứ rừng núi nào tôi chỉ nghe tiếng gà chứ chưa bao giờ thấy chúng! Sự ẩn mặt của lũ gà rừng tôi chưa thể lý giải được? Ánh mờ mờ của sáng sớm làm tôi nhận rõ hơn phía trước mặt thung lũng chạy xa trong biển xanh ngàn cây. Xa hơn núi cao chắn lối và bên này con đường đang đi xuống sâu vào rừng. Cơn thèm cà phê ghê gớm làm tôi phải nấu nước thôi. Mùi chất nổ C4 bị đốt tự nhiên sộc vào mũi...không biết có phải của tôi...ô hay chắc chắn rồi! Hay thêm quanh đây đồng đội cũng đang nấu và tôi liền nghe tiếng "tắc kè" mật hiệu qui định...tiếng một rời rạc là liên lạc với nhau còn nhanh gấp gáp là báo động...Tôi liến đáp lại, Đại úy xuất hiện. Nhìn quanh ông yên tâm, xong lại biến. Đổi lại thế ngồi và thưởng thức ca cà phê cùng khói thuốc ém chặt say say. Gió nhẹ bay bay sương sớm thấy cả hột li ti rồi nhẹ nhàng rơi. Trời đã sáng, mây trên cao xa...cao hơn một ánh sao to lấp lánh chưa chịu nhường mặt trời mà tôi đoán cũng sắp lên khỏi núi hướng Đông. Tiếng chim trên cành cây cao càng rõ hơn náo động dần không khí...Ngày của rừng thật sự bắt đầu và tôi nghe tiếng súng nổ ở về hướng Tây.
-Một mình lẻ loi, ngồi buồn chết đi được. Hai viên kẹo "cao su" trong khẩu phần ăn nhai lọt thỏm vẻ còn thèm thuồng không đã.Nghe bên vị trí của Đại úy vẫn một mực im lìm nhưng chắc chắn ít ra họ đã thu âm được hai cuốn băng. Ánh mặt trời chói lọi xuyên cành lá tức khắc đang đẩy lùi lớp sương mai mà giờ hình như đã tan biến. Có thể nó chạy trốn trước khi mặt trời đến! Tôi bỗng nhìn về hướng dốc con đường và mắt vừa chạm hai người đang dắt xe đạp đi lên. Tôi...miệng trong loa tay kêu "tắc kè" liên tục rồi nghe tiếng "tắc kè" đáp lại. Mật hiệu đã được nhận và chờ đợi cho sự sẵn sàng.
9-Hai tên địch dần đi lên, chỉ một tên có mang súng, cây AK đeo trước ngực. Cả hai trang phục chính qui chính hiệu...nón cối, giầy vải, áo quần kaki xanh, lưng thắt dây da nâu loại Trung quốc. Tên đi sau mang cặp da bên hông ,không súng. Vì đường lên dốc nên cả hai dắt xe đạp, loại Trung quốc, mầu đen, hai thắng tay liền với ghi đông lái. Tôi dõi theo từ bước đi họ lên, giờ thì có thể nhìn rõ mặt...tên mang súng còn rất trẻ có thể nói là con nít! Còn tên kia, mặt dầy dặn, khoảng ngoài ba mươi. Đếm từng bước chân có lúc chậm vì lên dốc vả lại còn phải dắt xe. Tôi cố chấn tĩnh...doãi tay gồng mạnh như để lấy lại sức và cái của chết người càng lúc càng gần cùng thời gian nóng lên và như ngừng trôi nhưng nhích dần. Một giọng hót mượt mà, thanh cảnh của một con chim trên cây giúp tôi phần nào thoát cơn căng thẳng đang lên và hai tên địch bất ngờ rẽ vào lề đường bên kia có tảng đá cao rồi dựng xe. Động tác rất nhanh hắn tháo cây súng khỏi cổ dự vào xe đạp rối tất tưởi đi đến bụi rậm gần đó...biến mất. Tên mang cặp vào sâu một tí thản nhiên thò tay móc "..." đứng đái nét mặt vẻ thoải mái, tay đu đưa rồi chợt rùng mình nghiêng hẳn người quay đi ra. Hình như có gió to nổi lên phía giữa con dốc, lá cây bay tung về bên kia đường và bóng rợp đen của đám mây dần dần từ sau lưng hướng Nam trôi từ từ lên hướng Bắc. Tên bộ đội con nít cũng vừa đi ra. Rất tự nhiên như đã quen thói lấy cái túi vải sau xe đạp, ngồi xòa xuống cục đá thấp tay kia móc ra hai nắm cơm, đưa cho tên kia một...thản nhiên cắn ăn một cách lạnh lùng! Trò chơi ú tim lại theo từng miếng nhai, thoáng chốc đã hết nửa nắm cơm. Khoảng cách vào quãng mười mét nhưng tôi thấy rõ còn hơn khi đi xem kịch diễn trên sân khấu. Sự hồi hộp căng thẳng cứ dần được đẩy lên có thể đã chạm vào được ánh nắng. Tôi bỗng nhiên tự trách sao lại chọn đầu dốc, nhưng đó là việc của Đại úy...về mặt chiến thuật rất có lợi cho tác chiến, nhưng tâm lý đã lên dốc là phải nghỉ ngơi?! Giờ đây chắc mọi người cũng có ý nghĩ như tôi trước tình thế này. Vừa ăn xong tên con nít vơ lấy cây súng, tưởng đeo vào người nhưng không hắn chĩa lên trời nổ một phát xong nói " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..." Họ dắt xe ra đường tự dưng mắt tên bộ đội mang cặp da cứ nhìn chăm chăm vào bụi cây tôi ẩn nấp và một vẻ trù trừ gì đó hiện trên gương mặt hắn...khuôn mặt vừa đi qua vùng ánh sáng chiếu trực diện chói sáng từ tàn cây. Tôi thấy nhột nơi sống lưng và tâm trí tập trung ngay vào cò súng. Vẻ lanh chanh, tên con nít lên yên xe trước, gồng chân, cong người đạp lấy đà...còn tên đeo cặp, thênh thếch trên bi đan xe, một chân đẩy dăm bước, lên xe theo kiểu Pháp. Qua chỗ tôi, mắt hắn không hiểu sao cứ mãi chằm chặp nhìn như say mê? Đàn chim trên cao bỗng kêu réo loạn xạ. Nhìn lên có vài con bay tuá ra và hai con đuổi đánh nhau bay xà xuống đúng vào lúc bóng hai tên bộ đội mất hút bỏ lại sau ánh tia chớp phản chiếu phát ra từ hai chiếc xe đạp. Không gian trở lại yên ả, tĩnh mịch. Chim trên cành cũng im tiếng sau màn báo động. Tai tôi nghe tiếng Covey ở một nơi xa vọng lại. Làn gió hơi lạnh mơn man trên da mặt và tôi nghe ám hiệu "tắc kè..." chậm rãi. Vội đáp lại và Đại úy xuất hiện đang ngồi xổm đi vào bụi rậm với câu hỏi đầu tiên "ổn chứ..." Dáng điệu nóng lòng ông hỏi tôi có nghe hai tên địch nói gì với nhau. Tôi dịch lại và xác định họ chỉ nói với nhau có một câu " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..." Nghe xong nét mặt của ông trở nên đăm chiêu suy nghĩ nhíu mày. Hai cặp mắt nâu nâu như chớp sáng. Tôi hiểu ngay ra rằng vai trò của người Thông dịch trong lúc này thật cần thiết! Đại úy dặn dò một vài việc chiến thuật rồi theo thói quen lấy ra thanh kẹo "cao su" vừa nhai vừa đi khỏi. Một con sóc chạy trên đường, đến chỗ có ánh nắng dừng lại dương mắt nhìn quanh như muốn sưởi ấm. Lại một tiếng súng địch nổ ở hướng Tây chẳng bao xa. Hai bịch gạo sấy giờ thì no đủ...đã thành cơm. Tôi bắt đầu nhai phần cơm buổi sáng và nghĩ đến nhiệm vụ của Toán...Bắt tù binh. Trong thực tập, Toán phó là chuyên gia bắt tù binh. Ông ta có quyền quyết định ra tay hay không trong giây phút chót. Theo lệ thường địch quân vẫn cử người đi kiểm soát đường dây điện thoại và nhiệm vụ thu âm vẫn đi đôi với bắt tù binh. Khi được mật hiệu Toán phó chỉ việc dời chỗ ẩn nấp từ phía sau đi lên phía trái hay phải tùy theo hướng địch, phối hợp với Toán viên đã có sẵn để hành động. Nhưng việc quan trong vẫn là địa thế...có bãi đáp hay không? Thực tại Toán chúng tôi từ ngày qua đã phải luôn tránh những khoảng trống... còn mọi việc khác dĩ nhiên nằm trong kế hoạch...đều phải sẵn sàng tại căn cứ xuất phát.
10- Nắng chếch ngang mặt. Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Buổi sáng qua đi thật mau với vài lần phải trở mình để thoải mái cho thế ngồi, tránh tê chân. Không gian tĩnh lặng nhưng thi thoảng tiếng con chim đất kêu lên như thương nhớ! "tắc kè..." tôi vội đáp lại mật hiệu rồi tức thời Đại úy xuất hiện. Vẫn câu hỏi đầu môi "ổn chứ..." Rồi ông ra lệnh bắt tù binh sau khi hỏi tôi " Anh có nghĩ rằng hai tên địch lúc sáng sẽ trở về vào lúc trưa..." Tôi không chút ngần ngừ đáp lại "chắc chắn rồi...tự miệng họ nói ra mà." Ông đưa cho tôi thanh kẹo rồi rút lui. Tình huống hiện tại người Toán phó phải đến chỗ của Toán viên đi đầu để xem xét địa thế và đón lõng hai tên địch. Phần tôi chỉ lo căn coi phía đường trách nhiệm và sau cùng là tháo trái mìn phòng thủ. Mọi việc chắc đã lên kế hoạch và sự bàn định giữa Đại úy và Toán phó hiển nhiên cũng đã xong trước khi đến tôi. Có giọng hú ở về cuối dốc và tiếng đáp lại hơi xa. Tôi căng mắt chờ đợi nhưng vắng lặng tút đến phần đường chìm vào rừng cây. Ánh nắng như phân chia con đường thành từng khúc có nơi loang lỗ chói chan, chỗ tối hù nhưng dài hơn, thấy cả cái lạnh lẽo âm u. Thời gian nhích dần và dĩ nhiên người trong cuộc cũng chuẩn bị mang tâm trạng căng thẳng. Tôi nhìn lại đồng hồ...nó nhích mãi mà chưa qua con số mười một! Vùng lên, chửi đổng một tiếng trong bụng "đồ con rùa..." Tôi bò ra dịch dần đám dây leo để có thể mở rộng tấm nhìn về phía tay phải, nơi có thể sắp diễn ra cảnh sôi động chết người chỉ cách chỗ tôi khoảng chưa tới ba mươi mét. Vị trí mới không có tảng đá nhưng khi tác chiến tôi có thể thụt lui ẩn nấp một cách dễ dàng. Trên cây cao, tiếng của những con chim Mẹ dẫn mồi cho đàn con khi dồn dập lúc đứt khúc...nghe chanh chách! Covey đang ở hướng Nam tiếng xa hẳn chúng tôi nhưng vọng lại có lúc rõ theo vòng bay. Nó đã được thông báo tình hình...chắc chắn là như thế và cái mắt xích trong cỗ máy chiến tranh đang hoạt động. Tôi sửa lại thế ngồi vì thấy tức nơi hông hay có phải tại mới ăn trưa...ăn quá sớm. Thời gian cháy dần nhưng chậm. Sự căng thẳng theo nhịp kim đồng hồ được đẩy dần lên...đang ở con số mười một giờ ba mươi lăm. Rừng núi im như chết. Gió biến đi đâu mất làm gia tăng cái nóng trong người. Con tim tôi bỗng chỗi dậy khi đàn chim bất chợt kêu thé lên tiếng liên hồi. Tôi sửa lại thế ngồi mắt đăm đăm phía đường về của địch và thoảng nghe có tiếng người. Mọi sự chuẩn bị vào cuộc...cuộc chơi sinh tử! Hai bánh xe đạp đang lao tới nhưng chưa thấy phần trên bởi bụi rậm án ngữ. Đột nhiên như một cánh đại bàng quái dị...tiếp sau là bóng cao lớn của Toán phó xuất hiện. Tức khắc hai thân người đổ nhào trên đường còn hai xe đạp văng xa. Đại úy và người truyền tin (radio man) chia nhau khống chế hai tên địch chưa kịp hoàn hồn bò dậy với nét mặt ngạc nhiên thất thần. Toán viên xạ thủ M79 cũng vừa xong nhiệm vụ thắt khăn vào miệng và bịt mắt tù binh...đã bị còng tay bằng chiếc còng nylon. Tôi vội gỡ mìn phòng thủ. Toán phó vừa phi tang đi hai chiếc xe đạp và hai mũ cối vào bụi rậm...trông thật oai bởi đeo hai súng và chiếc cặp da. Người đi đầu gỡ mìn vừa xong chuẩn bị di chuyển. Mọi việc diễn tiến thuần thục như khi thực tập! Bình tâm, khúc phim được điễn ngay trong đầu khi đang di chuyển. Hết sức nhanh chóng và thật đơn giản...Sự tấn công đầy kinh ngạc bằng chiếc áo lạnh đi rừng quả thật như một cánh đại bàng quất thẳng vào hai tên địch cùng một lúc. Tôi chứng kiến tận mắt như người đi xem kịch ngồi ở ghế hạng nhất. Cái khó khăn ở đây chính là lực tấn công...Toán phó hiển nhiên phải xoay chiếc áo, quật thật đúng lúc và đầy sức mạnh mới có thể đánh chính xác vào phía sau địch quân...không phải một mà cả hai...trong tình trạng đón đầu địch. Thật tài tình và nghề nghiệp...hai con mồi đều ngã về phía trước vừa vặn lọt vào tay của Đại úy và Radio man lao ra chờ sẵn. Tất cả đều được diễn ra trong thời gian cực nhanh...bằng những cái nháy mắt...rồi tức khắc Toán biến vào khu rừng chồi bên cạnh. Covey ở trên đầu từ lúc nào và Đại úy cũng đã đổi balo để trực tiếp giữ liên lạc. Một tiếng súng nổ ở hướng Tây. Tên bộ đội đi trước đứng khựng lại vẻ chần chừ nhưng khi mũi súng chĩa vào lưng, hắn mới chịu bước tới. Toán phó vừa đi vừa chiếu gương cho Covey. Đại úy bỗng ra lệnh đổi hướng , theo hướng Bắc...Covey đã chỉ điểm bãi đáp. Tôi và người Radio man rất bận với hai tù binh. Toán đã thoát ra khỏi vạt cây chồi đến một vùng cỏ tranh mịn óng vàng và hai chiếc A1 trên bầu trời đang đến theo cái dõi mắt của Đại úy. Ông ta ra lệnh trải tấm panel hồng đỏ và luôn chỉ điểm mục tiêu. Một rocket khói được Covey phóng ra và rồi loạt bom chùm từ A1 vãi tới tấp vào đúng khu rừng già có con đường. Tiếng súng địch từ dưới đất vang dội cùng tiếng người nghe lao xao hò hét...nhưng chưa thấy phòng không. Loạt bom napalm bùng lên khói lửa chạy dài cả vài trăm mét. Đại úy ra lệnh tôi và radio man mỗi người phụ trách một tù binh thoát trên chiếc trực thăng đầu tiên. Trên bầu trời hướng Đông những đốm trực thăng lớn dần và hai Cobra thế nào cũng đến trước. Tôi rút ra bình sịt gây mê...bằng cách sịt thẳng vào mặt mũi hai tên tù binh đang ngồi. Chiếc A1 xả loạt đại bác...tiếng nổ lan tràn từ trên lẫn bên dưới cùng với khói và lửa. Đoàn trực thăng nhanh chóng nhập cuộc. Sáu trực thăng thuộc phi đoàn 20 Air Commando biệt hiệu Green Hornets thuộc không quân Mỹ. Hai Huey gunship đang vòng trên bãi đáp và một chiếc xả loạt đại bác 20 ly dọn bãi. Đại úy ra dấu chuẩn bị...Toán viên đi đầu sẵn sàng phụ tôi khiêng tên tù binh lên trực thăng. Chiếc Gunship vừa vụt lên với hàng loạt tiếng đạn 40 ly nổ dài và sau nó chiếc Huey đang xuống bãi, cặp kè cùng chiếc Gunship theo yểm trợ. Toán phó radio man bồng tên tù binh đợi sẵn, cùng tôi cũng sẵn sàng.
- Trên đường về căn cứ, người sĩ quan rước Toán khui chai sâm banh. Tôi thấy rõ nút chai bắn vút ra ngoài cửa trực thăng. Bên dưới sàn hai tên tù binh vẫn còn bất tỉnh dù rằng đã được cột chặt vào trực thăng theo nguyên tắc. Một điếu thuốc hút tự do sao mà sướng thế! Nhất là hòa cùng sâm banh uống ngụm to chất ngất. Nghe trong cái mũ bay...người sĩ quan rước Toán nói " Bên kia...Đại úy cũng đang uống mừng." Và theo tay chỉ...Nắng vàng chiều rực rỡ trên phông nền xanh cây lá.
Biệt Kích Nguyễn Văn Hải
Phước Long mới được tái chiếm lại. Ngày ấy ,Trung Tá Mã Sanh Nhơn là tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng. Trại B-34 LLĐB/HK lúc ấy chưa có LLĐB/VN .
Thời gian ở đây trôi qua chậm chạp, lượn lờ và nhàm chán. Trừ một số nhân viên nhà bếp, giúp việc người Việt còn lại toàn là người Mỹ. Cuộc sống an nhàn nhưng vô vị không hứng thú. Nửa năm ở đây thế là đủ, tôi muốn thay đổi.
Lên gặp Trg/tá Joseph E Roy , tôi xin chuyển đến toán A.341 Bù Đốp. Nghe nói ở trại A đời sống sôi động hơn (lương cũng cao hơn)
Yêu cầu được chấp thuận, cắp theo cây guitar, tôi lên chopper vù đến Bù Đốp đất đỏ .
Mừng vui được gặp lại nhau, tôi được Đ/úy Hannawald trưởng trại cho tôi chọn lựa, hoặc quanh quẩn ở trại làm việc với ông, hoặc đi theo đại đội hành quân. Tôi xin đi hành quân thay vì ở trại. và tôi sẽ được phân bổ khi đại đội đi hành quân về.
Ông nói đại đội A thiếu thông ngôn, có lẽ tôi sẽ làm việc với đại đội Nùng này.
Tôi chờ đợi những mới lạ và sống động. Đại đội còn đang hành quân, chưa về. Tôi tha thẩn quanh trai, tìm hiểu, truyện trò và ngắm nhìn lung tung.
Trong trại, anh em biệt kích phần đông là Nùng, một ít người Kinh và còn lại là người Thượng (Montagnard). Tôi mến người Thượng. Họ chân chất và thật thà. Họ không sõi tiếng Kinh. Điều này sẽ rất tồi tệ khi có chuyện, lúc ấy tôi sẽ không làm tốt công việc của mình. Chưa chính thức nhận nhiệm vụ rõ ràng với đại đội thì điều tôi lo sợ đã xảy ra…
Chạng vạng tối hôm sau, ngoài sân bắn , lúc thử súng, một hạ sĩ quan người Mỹ còn rất trẻ (không biết tên) đã để đạn lạc trúng một thanh niên Thượng khi đi ngang qua sân bắn. Viên đạn vô tình đã cướp đi một mạng người.
Biết chuyện sẽ không hay, Đ/úy Hannawald cho gọi gấp một Cessna, bốc ngay người lính Mỹ trẻ về B-34 Phước Long, chờ phương tiện đưa đi Nha Trang.
Ông chuẩn bị việc chia buồn, tạ lỗi cũng như đền bù cho gia đình người xấu số. Nhưng mọi việc không như ông nghĩ.
Khi chiếc Cessna khuất bóng sau rừng cao su, đất đỏ còn mù mịt cuối airfield, một số đông người trong buôn làng túa ra tụ tập trước doanh trại. Những ngọn đuốc bập bùng ánh lửa, những thân người đen nhãy mồ hôi chạy rầm rập, những khuôn mặt đầy kích động đang ra sức hò hét, trên tay họ là cung, tên . nỏ, rựa, dao cồng, chiêng, phèng, mõ đua nhau khua gõ rầm trời, họ cho thấy họ sẵn sàng sống chết mạng đổi mạng.
Trai được đặt trong tình trạng báo động, bạo loạn có thể xảy ra vì trong trại cũng có nhiều biệt kích người Thượng.. Mọi việc khó lường..
Ngột ngạt ..Căng thẳng .. dễ sợ . .
Ông Hannawald lịnh cho tôi theo và chỉ được đi tay không.
Ông bước ra với cử chỉ thân thiện khi người thân của người xấu số được dẫn tới.
Chắp tay trước ngực, ông chào theo cung cách người Việt.
Trước mặt ông, một bà cụ người Thượng gày gò móm mém, lưng còng đang vật vã, khóc lóc lu loa, nước mắt nước mũi ràn rụa, tay chân khoa múa loạn xạ.
Tiếng khóc thương của người Thượng thật não lòng, khó diễn tả nếu không phải là một nhà văn.
Thật tiếc vì tôi không làm được việc đó. Nó như tiếng rú, tiếng gọi, trầm bổng, ỉ ôi, dai dẳng, khằng khặc , nghe não nuột và bi ai làm sao !
Ông Hannawald muốn biết tương quan giữa bà cụ và người xấu số. Tôi chậm rãi hỏi bà và hy vọng bà hiểu. Đáp lại, bà cụ chỉ khóc và rú từng chập trong sự kích động của đám đông người dân trong buôn làng
Ông Đ/úy giục giã hỏi tôi những lời kể lể của bà cụ. Nào tôi có hiểu gì?
Lời thúc giục của ông cộng với tiếng hò hét vang dậy của đám đông khiến tôi hoảng.
Tôi cố gắng hiểu cụ và cuối cùng biết rằng nạn nhân là cháu của cụ. Bố mẹ nó chết hết rồi.. Đau đớn quá ! Bà cụ chỉ còn mình nó …
Mỗi lân ông Hannawald hỏi tôi là tiếng hò hét lại to hơn, sự kích động được đẩy lên cao hơn. Đám người vây quanh chúng tôi nhưng ông không nao núng hoặc sợ sệt.
Sự tự tin của người sĩ quan LLĐB được hun đúc ở Fort Bragg của ông đã giúp tôi bình tĩnh trở lại. Cả tôi và ông đều đổ mồ hôi. Ông tháo mồ hôi vì hơi nóng của lửa đuốc, của hơi người. Tôi đổ mồ hôi vì nóng và vì sợ hãi.
Sự tự tin của người sĩ quan LLĐB được hun đúc ở Fort Bragg của ông đã giúp tôi bình tĩnh trở lại. Cả tôi và ông đều đổ mồ hôi. Ông tháo mồ hôi vì hơi nóng của lửa đuốc, của hơi người. Tôi đổ mồ hôi vì nóng và vì sợ hãi.
Cái sợ này khác hẳn với cái sợ trước lằn tên mũi đạn. Xông trận, sống chết có số. Hơn nữa, lằn ranh địch ta rõ nét. Đối mặt, ta chậm bóp cò ta tiêu. Mi chậm bóp cò mi ngủm.
Vậy thôi ! Nhưng, giờ này ở đây… trước mặt tôi không phải quân thù. Tôi đang ở phía người bị lên án. Chúng tôi có thể lãnh một loạt cung tên, một loạt vết rựa, dao và đủ thứ giận dữ man dại đổ lên đầu, lên người. Trong khi, chúng tôi lại không có vũ khí trên tay để chống trả. Nhưng nếu có , chắc gì tôi dám xả súng vào đám người người dân vô tội kia ? Nếu tôi chết trong hoàn cảnh này thì đau quá ! Chẳng fair tý nào
Vòng người xiết chặt hơn, tôi có thể cảm nhận qua cái nóng của đuốc, của mồ hôi người, mùi da khét nắng lẫn hơi thở dồn dập, giận dữ, xô đẩy của đám đông. Không khí ngột ngạt. Bà cụ bỗng ngã qụy xuống đất ngất xỉu vì mệt và ngộp thở. Tiếng hò hét to hơn, tiếng cồng chiêng điên loạn om trời cùng tiếng dậm chân thình thịch, tôi nghĩ chắc chết vì sẽ có bạo động nếu không biết kềm chế ..
Nhưng, mọi việc dường như chựng lại ..tất cả im bẵng khi ông Hannawald quỳ một chân xuống đỡ lấy bà cụ. Rút mu soa từ trong túi, ông lau nước mắt, chùi nước mũi dãi cho bà cụ. Đám đông dõi nhìn việc làm của ông, lẳng lặng ẵm bà cụ lên tay, ông chầm chậm đưa bà vào trại, hướng về phía trạm xá .
Ông Hannawald rất nhỏ con so với người Mỹ bình thường. Ông chỉ cao khoảng hơn thước sáu một tý. Chân thấp chân cao có lẽ do bị thương .
Hình ảnh người Đ/úy Mỹ nhỏ con, khập khiễng ẵm một bà cụ Thượng trên tay, lặng lẽ bước qua cổng trai khi người lính gác cổng đứng nghiêm chào thật xúc động. Không còn sự kích động nào, tiếng hò hét nay chỉ còn tiếng xì xào từ đám đông. Sự xúc động đều giống nhau nơi con người. Vài người người thân của bà cụ theo sau ông Hannawald đi vào Dispensary.
Ông Hannawald muốn bà cụ được chăm sóc thật tốt. Cái TÂM của ông được thể hiện rất rõ. Anh em biệt kích thẳng người khi ông bồng bà cụ bước qua.
Bên ngoài cổng trại, đám đông tản mạn ra về. Tôi tạm thở phào…
Những y tá người Kinh hiểu tiếng Thượng, họ giúp tôi giải thích cho ông. Ộng gật gù lắng nghe vẻ xúc động ..
Việc mai tang được tiến hành theo nghi thức của buôn làng với sự trợ giúp của trại.
Gia đình người xấu số được bồi thường.
Hành động của ông Hannawald phần nào hóa giải phẫn uất của buôn làng. Họ đã tha thứ .
Ông đứng ra nhận trách nhiệm cho thuộc cấp và tỏ ra hối tiếc về việc không hay.
Nếu không phải là ông, tôi nghĩ mọi việc chắc chắn sẽ rất tồi tệ.
Mọi việc trở lại bình thường
Phần tôi, tôi vẫn sợ.. Tôi SỢ lắm. Sẽ còn nhiều việc xảy ra vì ngôn ngữ bất đồng và điều đó sẽ khiến tôi không làm tốt công việc của mình. Suy nghĩ cạn cùng, viện cớ người nhà đau, tôi xin về phép . Được chấp thuận, bỏ lại cả cây đàn guitar, tôi gói ghém đồ lên chiếc C-123 chuồn thẳng. Tôi quay về B-34 và ở lỳ không dám về Bù Đốp nữa.
Bái bai Bù Đốp !!! Bái bai Bye A-341 !!! Tính ra , tôi ở Bù Đốp mới chỉ mấy ngày.
Khi biết tôi không quay lại, ông Hannawald đã “Phắc” và “Cà chua” om sòm ! Sau đó , nghe nói ông đã tử trận trong một cuộc hành quân không xa trại lắm và ông được vinh thăng Thiếu tá.
Ít giòng viết về ông thay nén nhang tưởng nhớ đến người quân nhân Hoa Kỳ nhân hậu vì Tư Do của đất nước Việt Nam tôi , ông đã hy sinh.
Nghiêng mình kính cẩn vĩnh biệt Thiếu Tá HANNAWALD C.O Det A-341
Trước khi về làm C.O của Bù Đốp, ông Hannawald là X.O của B-34 Phước Long. Thời gian này ông còn là Đại úy và tôi cũng đã được làm việc dưới quyền ông
Trước khi về làm C.O của Bù Đốp, ông Hannawald là X.O của B-34 Phước Long. Thời gian này ông còn là Đại úy và tôi cũng đã được làm việc dưới quyền ông
Tôi trở lại trại B-34 sống cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ..
Saigon 15 tháng tám 2013
DSCĐ Đinh Đỗ Chung
Dược Sư Cao Đẳng
Dân Sự Chiến Đấu
Để mỹ miều hơn ta gọi: Biệt Kích Quân hoặc Sờ Cu (SCU=Special Commando Unit)
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/08/so.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-2094129090800624608Fri, 16 Aug 2013 15:26:00 +00002013-08-18T11:07:10.950-07:00
No comments:
Post a Comment