Cách mạng thành công và chính phủ đầu tiên có cả vua Bảo Đại và sự tham gia cp mới.. rồi đến sau ngày tuyên ngôn độc lập 02-09-1945.. thì bắt đầu có sự rạn nứt giữa các phe phái.. để sau đó.. hết vua Bảo Đại bỏ sang Hong Kong, đến cụ N Hải Thần bỏ đi và bí mật theo đám Lư Hán chạy sang Tàu...
Khoảng năm 1930.. HCM đã có mặt ở khu biên giới và có mặt của đảng Cộng sản VN thuộc đệ tứ quốc tế. Hoạt động trong bóng tối..
Cho đến 1940 gì đó khi nhóm Quốc Dân Đảng đem chủ thuyết Tam Dân của Tàu về và cụ Nguyễn Hải Thần đề ra Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (VNCMDMH) với chủ đích qui tập tất cả các lực lượng yêu nước thành một hội tập trung sức mạnh thì mới có thể đem lại kết quả hữu hiệu cho công cuộc chống Thực Dân..
Trong khi đó thì HCM cũng muốn gom các lực lượng Cách Mạng về dưới lá cờ Cộng sản, cho nên HCM lập ra Việt Nam Cách Mệnh Đồng Chí Hội (VNCMDCH), bỏ tên Cộng Sản đảng và đổi thành Đảng Lao Động VN..
Các tập hợp Cách Mạng nhân Dân không đồng tình với sự thay "bình mới nhưng vẫn là rượu cũ"... nên không cộng tác với Cách mạng đồng chí hội.. HCM đành phải nấp bóng về nhập với Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của cụ Nguyễn hải Thần và tên gọi chung mà dân ngoài Bắc biết đến là Việt Minh.
Cách mạng thành công và chính phủ đầu tiên có cả vua Bảo Đại và sự tham gia chính phủ mới.. rồi đến sau ngày tuyên ngôn độc lập 02-09-1945.. thì bắt đầu có sự rạn nứt giữa các phe phái... để sau đó... hết vua Bảo Đại bỏ sang Hong Kong, đến cụ N Hải Thần bỏ đi và bí mật theo đám Lư Hán chạy sang Tàu...
Sự vắng trống phe phái bỏ mặc đoàn viên lại cho HCM mặc sức tàn phá tận diệt đảng phái ở các vùng Lâm Thao, Yên Bái cho đến Bắc Giang, các căn cứ địa của Cách mạng.. điển hình ghi trong sử sách là vụ Ôn Như Hầu.. sau đó đảng Cộng sản hiện nguyên hình và đảng lao động nay đã xong nhiệm vụ, đi vào quên lãng..
HCM được Hoa Kỳ ủng hộ cho về VN trước để làm du kích hổ trợ cho Mỹ sắp đánh Nhật ở Đông Dương, nên khi Nhật vừa đầu hàng thì Việt Minh đã vào Hà Nội.
Còn chủ lực của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (sau này còn gọi là Việt Cách thay thế Đồng Minh Hội), Việt Nam Quốc Dân Đảng (sau này còn gọi Việt quốc), thì đi cùng đội quân Lữ Hán vào VN. Đã đi sau mà còn phải gặp nạn lụt ở Bắc Việt, lưu thông gián đoạn khiến cho các lãnh tụ quốc gia và quân đội Trung Hoa đến Hà Nội chậm 21 ngày, thời gian đủ để cho Việt Minh củng cố cơ sở, lập chính phủ, tuyên bố độc lập...
Fondation du Parti Néo Dai Viêt et nouvelles alliances[modifier | modifier le code]
Drapeau du Parti Tân Đại Việt
Le 26 octobre, un Haut Conseil national fut créé avec à sa tête par Phan Khắc Sửu (chef d’État) et Trần Văn Hương (Premier ministre). La mise en place d'un nouveau gouvernement civil permit à Nguyễn Ngọc Huy de retourner dans son pays et d'y reprendre ses activités politiques. Mais les divisions au sein du Parti Đại Việt étaient telles que celui-ci implosa. Le 14 novembre 1964, Huy ainsi qu'un certain nombre de membres du parti, de jeunes cadres originaires pour la plupart du Sud, fondèrent une nouvelle organisation politique nommé Néo Đại Việt9. Celle-ci se plaça résolument dans le camp des démocrates et Huy fut nommé à la tête de l'organisation. La même année, il rénova la doctrine initiale du fondateur historique du parti, Trương Tử Anh, pour poser les bases théoriques d'un nationalisme scientifique et lutter pour la démocratisation du régime sudiste. Il publia en deux volumes une somme intitulée Dân tộc sinh tồn: Chủ nghĩa Quốc gia Khoa học (La survivance du peuple, un nationalisme scientifique)10,11.
Il ouvrit le champ des alliances en créant avec Nguyễn Văn Bông (1929-1971) le Mouvement national progressiste (Phong trào Quốc gia Cấp tiến) en 1969, une organisation de masse liée au Tân Đại Việt, dans le but d'attirer d'autres groupes politiques et de coopérer pour la démocratisation du Sud12,9. Malheureusement, l'organisation fut fortement affectée par l'assassinat de Nguyễn Văn Bông, son président, tué dans un attentat à la bombe perpétré par le Viêt Công en plein Saigon.
En 1969, il fut un des membres fondateurs puis coprésident de l'Alliance Nationale Social-Démocrate (Liên minh Quốc gia Dân chủ Xã hội), un front rassemblant six organisations politiques d'opposition avec pour objectif de promouvoir la démocratie au Sud13.
Toutes ces organisations ne survécurent pas à la chute de Saigon. Interdites par le nouveau pouvoir communiste, les membres du Tân Đại Việt furent pourchassés à l'instar des autres organisations politiques non communistes. Négociateur et universitaire[modifier | modifier le code]
En 1965, Nguyễn Ngọc Huy commença ses enseignements en Sciences politiques à l'Institut National d'Administration (sorte d'ENA sud-vietnamien). Il divulgua ses enseignements dans de nombreux établissements universitaires à Dalat, Hue, Cantho et dans les universités Minh Duc, Van Hanh, à l'université de Pédagogie de Saigon ou dans les écoles militaires et services de la Défense nationale de la Seconde République du Viêt-Nam (Sud)14.
En 1974, il fut l'un des fondateurs de l'école supérieure de commerce Minh Tri, créée sur le modèle de HEC Paris.
En 1967, sur le plan politique, il rejoignit le Conseil Populaire Militaire. De 1968 à 1970, il fut membre de la délégation de la Seconde République du Viêt Nam chargée d'engager des pourparlers à Paris avec le Nord Viêt Nam. Il participa en 1973 aux négociations de La Celle Saint Cloud14,13. Troisième exil et lutte à l'extérieur du pays[modifier | modifier le code]
Sigle de l'Alliance pour la Démocratie au Viêt-Nam
Après 1975, il se réfugia en exil aux États-Unis et reprit les chemins de la recherche académique. Il fut accueilli à l'université Harvard pour mener une grande étude sur le code vietnamien Hồng Đức en compagnie du professeur Tạ Văn Tài. Le code fut traduit et annoté par les deux chercheurs et publié en 198715.
En 1981, n'abandonnant pas la politique, Nguyễn Ngọc Huy rassembla d'anciens membres du Mouvement national progressiste et d'autres personnalités politiques pour fonder l'Alliance pour la Démocratie au Viêt Nam (Liên minh Dân chủ Việt Nam - Alliance for Democracy in Vietnam) qu'il dirigea. En 1986, pour assurer une assise internationale à ce mouvement, il créa le Comité International pour un Vietnam Libre (CIVL) (Ủy ban quốc tế Yểm trợ Việt Nam tự do) dont il devint membre d'honneur.
Le 28 mai 1988, il organisa avec l'ancien ambassadeur Bùi Diễm une réunion des différents responsables du Đại Việt à San Jose pour tenter en vain d'unifier le parti alors divisé en trois factions16. Le 28 avril 1990, malade d'un cancer, Nguyễn Ngọc Huy devait décéder à Paris après une vie politique bien remplie laissant derrière lui de nombreux travaux de référence sur la culture politique de la Chine ancienne, sur la géopolitique et l'histoire contemporaine du Viêt Nam.
Not
es[modifier | modifier le code] GS Nguyễn Ngọc Huy [archive] (biographie sur le site du Tân Đại Việt)
Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 1 https://youtu.be/njif6p9gmec
Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 2 https://youtu.be/nCfmnnZYoFk
Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 3 https://youtu.be/h9Fapfg0rIE
Giáo sư Nguyễn Ngọc Ngọc Huy tại Seattle.mov https://youtu.be/c17lPcSCoHk
Liên minh Dân chủ Việt Nam (tiếng Anh: Alliance for Democracy in Vietnam) là một tổ chức chính trị do cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy[1] thành lập tại California vào năm 1981, chủ trương của tổ chức này là đấu tranh cho quyền đa nguyên chính trị tại Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Huy (2 novembre 1924 - 28 juillet 1990) est un homme politique et un universitaire vietnamien. Il fut l'un des fondateurs du parti Tân Đại Việt (Néo Dai Viêt) et premier secrétaire général de ce parti. Il fut également le secrétaire général du Mouvement national progressiste (Phong trào Quốc gia Cấp tiến / National Progressive Movement) et membre de la délégation de la République du Viêt Nam (Sud Vietnam) aux pourparlers de Paris pour mettre fin à la guerre du Viêt Nam.
Enfance et éducation[modifier | modifier le code]
Il est né le 2 novembre 1924 à l'Hôpital indigène de Cochinchine (aujourd'hui Bệnh viện Chợ Rẫy) à Cholon. Sa famille est originaire du village de Mỹ Lộc, arrondissement de Tân Uyên dans la province de Biên Hòa. Dans son enfance, il fut scolarisé dans la commune de Mỹ Lộc puis à Tân Uyên avant de partir étudier à Saigon au Lycée Petrus Ky1,2.
Premiers pas en politique[modifier | modifier le code]
En 1943, il fut secrétaire administratif à Cần Thơ. C'est dans cette ville qu'il adhéra au Đại Việt Quốc dân Đảng (Parti du Grand Viêt Nam) au début de l'année 1945 et intégra le comité de pays du parti au Sud3,4. Lorsque les Français se lancèrent à la reconquête de l'Indochine par Saigon à partir de septembre 1945, il participa à la résistance pendant une courte période. Il revint à Saigon en 1946 pour travailler dans une bibliothèque. C'est à cette époque qu'il commença à rédiger des articles politiques sous différents pseudonymes (Việt Tâm, Hùng Nguyên, Cuồng Nhân, Ba Xạo) dans les deux journaux du Parti, Thanh Niên [Jeunesse] et Đuốc Việt [La torche vietnamienne]. En particulier, il rédigea les fondements d'une nouvelle doctrine nationaliste qui se voulait scientifique5.
Lorsque les Français cherchèrent à rétablir le contact avec les organisations politiques nationalistes pour contrer le Viêt Minh communiste, il décida, avec de nombreux autres membres, de sortir de la clandestinité dans laquelle se trouvait confiné le parti. En 1949, il fut chargé de l'instruction politique à l’École des Cadres de la Jeunesse à Nha Trang6. En 1950, il publia le recueil de poésies Hồn Việt (L'âme vietnamienne) sous le pseudonyme Đằng Phương. Sous couvert de rendre hommage aux héros historiques du Viêt Nam, il y exprima un fort patriotisme7.
En 1951, il fut promu dans le Nord pour poursuivre ses activités d'instructeur au sein du mouvement de jeunesse du parti Đại Việt : les Thanh niên Bảo quốc Đoàn (Jeunesses pour la protection de la Patrie). Celles-ci furent démantelées par l’État vietnamien de S. M. Bao Dai peu de temps après l'assassinat du Général Chanson à Sadec par un jeune caodaïste affilié au mouvement. Il retourna alors à Saigon en 1953 pour enseigner la littérature à l'école privée Lê Bá Cang4.
Premier exil[modifier | modifier le code]
Après les Accords de Genève qui mirent fin à la guerre d'Indochine (21 juillet 1954), il dut se rendre en France pour échapper à la répression du nouveau pouvoir de Jean-Baptiste Ngô Đình Diệm. En effet, ce pouvoir avait lancé une offensive contre les autres forces nationalistes concurrentes dans le but de rétablir l'ordre et d'établir un État fort au Sud. Les partis nationalistes traditionnels du Đại Việt et du Parti national du Viêt Nam(VNQDĐ) furent poursuivis et leurs maquis démantelés par l'armée régulière. Nguyễn Ngọc Huy rejoignit alors le docteur Nguyễn Tôn Hoàn (1917-2001), chef du parti Đại Việt au Sud, exilé à Paris. Il seconda Hoàn au restaurant La Rivière des parfums (Sông Hương) rue de la montagne Sainte-Geneviève dans le cinquième arrondissement.
Installé en France, il en profita pour poursuivre ses études de sciences politiques à l'Université de Paris. Il reçut successivement son diplôme d'études politiques en 1958, sa licence de droit et de sciences économiques en 1959, son diplôme d'études supérieures en politique en 1960 et son doctorat en sciences politiques en 19638. Retour au pays et deuxième exil[modifier | modifier le code]
À la suite du renversement du régime diemiste par les militaires et l'assassinat du président Ngô Đình Diệm et de son frère Nhu, Nguyễn Ngọc Huy rentra au pays. Peu de temps après, Nguyễn Tôn Hoàn revint également pour participer au gouvernement du général putschiste Nguyễn Khánh, président du Conseil militaire révolutionnaire. Hoàn fut nommé vice-Premier ministre chargé de la pacification et Huy devint son chef de cabinet. Mais cette idylle avec les militaires tourna court car Nguyễn Tôn Hoàn démissionna peu après pour protester des pleins pouvoir que le général Nguyễn Khánh s'octroyait à travers le projet de la Constitution de Vũng Tàu. Huy démissionna également. En septembre 1964, il s'exila de nouveau, cette fois-ci à Hong Kong. En octobre 1964, il se rendit au Japon8. Après cet échec probant du Đại Việt au pouvoir, Nguyễn Tôn Hoàn décida de quitter la scène politique sud-vietnamienne en se rendant au Japon, puis en France et enfin aux États-Unis où il devait rester définitivement3. Il laissa la direction du parti au Sud à Nguyễn Ngọc Huy.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Ng%E1%BB%8Dc_Huy
https://fr.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Ng%E1%BB%8Dc_Huy
Foundation of the Neo Dai Party Viet and new alliances [edit | code]
Party Flag Tân Đại Việt On October 26, a National High Council was created headed by Phan Khắc Sửu (Head of State) and Trần Văn Hương (Prime Minister). The establishment of a new civilian government allowed Nguyễn Ngọc Huy to return to his country and resume his political activities there. But the divisions within the Đại Việt Party were such that it imploded. On November 14, 1964, Huy and a number of party members, young cadres mostly from the South, founded a new political organization called Neo Đại Việt9. She placed herself resolutely in the camp of the democrats and Huy was appointed head of the organization. The same year, he revived the original doctrine of the party's historical founder, Trương Tử Anh, to lay the theoretical foundations for scientific nationalism and to fight for the democratization of the southern regime. He published in two volumes a sum entitled Dân tộc sinh tồn: Chủ nghĩa Quốc gia Khoa học (The survival of the people, a scientific nationalism) 10,11. He opened the field of alliances by creating with Nguyễn Văn Bông (1929-1971) the National Progressive Movement (Phong Trào Quốc gia Cấp tiến) in 1969, a mass organization linked to Tân Đại Việt, with the aim of attracting other political groups and to cooperate for the democratization of the South12,9. Unfortunately, the organization was severely affected by the assassination of Nguyễn Văn Bông, his president, who was killed in a Viet Cong bomb attack in the middle of Saigon. In 1969, he was a founding member and then co-chair of the National Social-Democratic Alliance (Liên minh Quốc gia Dân chủ Xã hội), a front gathering six opposition political organizations with the aim of promoting democracy in the South13. All these organizations did not survive the fall of Saigon. Prohibited by the new communist power, the members of Tân Đại Việt were persecuted like other non-communist political organizations. Negotiator and academic [edit |
In 1965, Nguyễn Ngọc Huy began his studies in Political Science at the National Institute of Administration (a sort of South Vietnamese ENA). He divulged his teachings in many academic institutions in Dalat, Hue, Cantho and at Minh Duc, Van Hanh Universities, at Saigon Pedagogy University or Military Schools and National Defense Services of the Second Republic of Viet Nam (South) 14. In 1974, he was one of the founders of the business school Minh Tri, created on the model of HEC Paris. In 1967, on the political level, he joined the Military People's Council. From 1968 to 1970, he was a member of the delegation of the Second Republic of Vietnam charged with initiating talks in Paris with North Vietnam. He participated in 1973 in the negotiations of La Celle Saint Cloud14,13. Third exile and struggle outside the country change the code] Acronym of the Alliance for Democracy in Vietnam After 1975, he fled into exile in the United States and took the path of academic research. He was welcomed to Harvard University to conduct a large study on the Vietnamese code Hồng Đức with Professor Tạ Văn Tài. The code was translated and annotated by the two researchers and published in 1987.15 In 1981, not abandoning politics, Nguyễn Ngọc Huy gathered former members of the National Progressive Movement and other political figures to found the Alliance for Peace. Democracy in Vietnam (Liên minh Dân chủ Việt Nam - Alliance for Democracy in Vietnam) which he led. In 1986, to ensure an international base for this movement, he created the International Committee for a Free Vietnam (CIVL) (Ủy ban quốc tế Yểm trợ Việt Nam tự do) of which he became a member of honor. On May 28, 1988, he organized with the former ambassador Bùi Diễm a meeting of the various leaders of the ệi Việt in San Jose to try in vain to unify the party then divided into three factions16. On April 28, 1990, Nguyễn Ngọc Huy, who was diagnosed with cancer, was to die in Paris after a busy political life, leaving behind many works of reference on the political culture of ancient China, on geopolitics and the contemporary history of China. Vietnam. Notes [edit | edit the code]
GS Nguyễn Ngọc Huy
[archive] (biography on the Tân Đại Việt website) Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 1 https://youtu.be/njif6p9gmec Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 2 https://youtu.be/ nCfmnnZYoFk Di Sản Nguyễn Ngọc Huy 3 https://youtu.be/h9Fapfg0rIE Giáo sư Nguyễn Ngọc Ngọc Huy tại Seattle.mov https://youtu.be/c17lPcSCoHk Liên minh Dân chủ Việt Nam (tiếng Anh: Alliance for Democracy in Viet Nam) there is a chinah trị do cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy [1] thành lập tại California vào năm 1981, chủ trương của tổ chức này there đấu tranh cho quyền đa nguyên chính trị tại Việt Nam. Nguyễn Ngọc Huy (November 2, 1924 - July 28, 1990) is a Vietnamese politician and academic. He was one of the founders of the party Tân Đại Việt (Neo Dai Viet) and first secretary general of this party. He was also Secretary General of the National Progressive Movement (Phong trào Quốc gia Cấp tiến / National Progressive Movement) and member of the delegation of the Republic of Vietnam (South Vietnam) to the Paris talks to end the Vietnam War . Childhood and education [edit | edit the code] He was born on November 2, 1924 at the Native Hospital of Cochin China (today hui Bệnh viện Chợ Rẫy) to Cholon. His family comes from the village of Mỹ Lộc, district of Tân Uyên in the province of Biên Hòa. In his childhood, he was educated in the commune of Mỹ Lộc and then in Tân Uyên before leaving to study in Saigon at Lycée Petrus Ky1,2. First steps in politics [edit | In 1943, he was administrative secretary at Can Tho. It was in this city that he joined the ệi Việt Quốc dân Đảng (Grand Vietnam Party) early in 1945 and joined the party's country committee in the South3.4. When the French embarked on the reconquest of Indochina by Saigon from September 1945, he participated in the resistance for a short time. He returned to Saigon in 1946 to work in a library. It is at this time that he began to write political articles under different pseudonyms (Việt Tâm, Hùng Nguyên, Cuồng Nhân, Ba Xạo) in the two Party newspapers, Thanh Niên [Youth] and Đuốc Việt [The Vietnamese Torch].
In particular, he drafted the foundations of a new nationalist doctrine that sought to be scientific5. When the French sought to re-establish contact with nationalist political organizations to counter Communist Viet Minh, he and many other members decided to break out of the clandestine confinement of the party. In 1949 he was entrusted with political instruction at the School of Youth Leadership at Nha Trang. In 1950, he published the collection of poems Hồn Việt (The Vietnamese Soul) under the pseudonym Đằng Phương. Under the guise of paying tribute to the historical heroes of Vietnam, he expressed a strong patriotism. In 1951, he was promoted to the North to continue his activities as an instructor in the youth movement of the ViĐạt party: the Thanh niên Bảo quốc Đoàn (Youth for the Protection of the Fatherland). These were dismantled by the Vietnamese state of SM Bao Dai shortly after the assassination of General Chanson in Sadec by a young Caodaist affiliated with the movement. He returned to Saigon in 1953 to teach literature at the private school Lê Bá Cang4.
First exile After the Geneva Accords that ended the Indochina War (July 21, 1954), he had to go to France to escape the repression of the new power of Jean-Baptiste Ngô Đình Diệm. Indeed, this power had launched an offensive against other competing nationalist forces in order to restore order and establish a strong state in the South. The traditional nationalist parties of Đại Việt and the Vietnam National Party (VNQDĐ) were persecuted and their maquis dismantled by the regular army. Nguyễn Ngọc Huy then joined Dr. Nguyễn Tôn Hoàn (1917-2001), leader of the Đại Việt party in the South, exiled in Paris. He seconded Hoàn at the restaurant La Rivière des Fragrances (Sông Hương) rue de la Montagne Sainte-Geneviève in the fifth arrondissement. Installed in France, he took the opportunity to pursue his studies of political science at the University of Paris. He received successively his diploma of political studies in 1958, his license of law and of economic sciences in 1959, his diploma of graduate studies in politics in 1960 and his doctorate in political science in 19638. Return to the country and second exile [edit]
After the overthrow of the diemist regime by the military and the assassination of President Ngô Đình Diệm and his brother Nhu, Nguyễn Ngọc Huy returned home. Shortly after, Nguyễn Tôn Hoàn also returned to take part in the government of coup leader Nguyễn Khánh, chairman of the Revolutionary Military Council. Hoan was appointed deputy prime minister in charge of pacification and Huy became his chief of staff. But this idyll with the military came to a halt because Nguyễn Tôn Hoàn resigned soon after to protest the full powers that General Nguyễn Khánh granted himself through the V deng Tàu Constitution project. Huy also resigned. In September 1964, he Exiled again, this time in Hong Kong. In October 1964 he went to Japan. After this convincing failure of the ệi Việt in power, Nguyễn Tôn Hoàn decided to leave the South Vietnamese political scene by going to Japan, then to France and finally to the United States where he had to remain definitively3. He left the leadership of the party in the south to Nguyễn Ngọc Huy.
Nhóm Đại Việt
No comments:
Post a Comment