Tuesday, April 24, 2018

Tài liệu tham khảo:

- Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản tại Canada 2001.
- Những Ngày Cuối Của VNCH , của Cao Văn Viên Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản Vietnambliography 2003.
- Những sự thật chiến tranh VN 1954 – 1975 của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn - Đại Tá Lê Bá Khiếu - Tiến Sỉ Nguyễn Văn
- Cuộc triệt thoái cao nguyên 1975 của Phạm Huấn, tác giả xuất bản năm 1987 và giữ bản quyền.
- Và phỏng vấn các chiến hữu Nhay Dù.

Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. Điện Thoại: 714-545-0105 email: votrungtin@hotmail.com


Ngày Tàn Cuộc Chiến I: Những Phi Vụ Cuối Cùng

Lời Người Viết:

Một nén hương thắp lên để tưởng nhớ tới những hoa tiêu Long Mã thuộc Phi Đoàn 219 đã bỏ mình tại Ban Mê Thuột và những Anh Hùng Mũ Đỏ đã anh dũng hy sinh cho Tổ Quốc tại mặt trận Khánh Dương trong những ngày tháng cuối.

Riêng tặng cho những phi công oai hùng của Phi Đoàn 534 Kim Ngưu, Phi Đoàn 524 Thiên Lôi và Phi Đoàn 548 Ó Đen tại căn cứ Phan Rang Không Đoàn 92 Chiến Thuật đã yểm trợ cho quân bạn trong những giây phút cuối cùng của mặt trận vùng II.

Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215, Thần Tượng

Ngày 11 tháng 3 năm 1975

Tôi lịm chết giữa điệu buồn chất ngất,
Thả hồn xuôi theo kỷ niệm xa mờ.
Phút vị vong thắp lại nén hương thừa,
Mà tưởng nhớ một thời xưa đã sống.


Nguyễn Ðịnh



Dựng chiếc xe Honda xong tôi lững thững đi vào Phi Đoàn, định quẹo lên lầu câu lạc bộ kiếm gì ăn sáng. Trên hành lang trước cửa Phi Đoàn một số đông hoa tiêu đang đứng tụm ba tụm năm bàn tán, trên khuôn mặt mọi người thấy rõ nét nghiêm trọng, khẩn trương hình như đang có một biến cố nào đã xảy ra, tôi vội vã bước tới đám đông nhập bọn, thấy Thiếu Úy Tòng đang đứng gần bên, tôi kéo tay anh hỏi:

– Này Tòng, có chuyện gì xảy ra vậy bạn?

– Tối hôm qua Ban Mê Thuột bị Việt Cộng tấn công, nghe nói là tụi nó chiếm phi trường L-19 rồi… Vừa nghe xong, chân tay tôi bủn rủn như vừa bị sét đánh ngang tai. Mấy hôm nay tôi đang thấp thỏm đợi lệnh đi biệt phái Ban Mê Thuột, đáng lý biệt đội 215 Thần Tượng phải có mặt tại Ban Mê Thuột từ hai ngày trước để thay thế phi đội Long Mã của Phi Đoàn 219 đã ở quá thời hạn, cho tới sáng hôm nay tôi vẫn chưa nhận được lệnh lạc gì, không hiểu vì lý do nào. Với tình thế hiện tại chắc là phi vụ biệt phái phải hủy bỏ. Tôi nóng lòng hỏi tiếp:

– Thế… còn biệt đội 219 tại phi trường L-19 như thế nào rồi bạn có biết không?

– Chưa ai biết rõ tình hình, nghe nói tất cả đều bị kẹt lại, chỉ có vài ba người chạy thoát, bay về được, hình như trong đó có Thiếu Tá Thu Biệt đội trưởng và Thiếu Tá Sua cùng với mấy người nữa. Thiếu Tá Sua thì bị thương, hiện đang nằm ở bệnh viện. Tòng trả lời.

Chợt nhớ tới vài người bạn thân trong Phi Đoàn Long Mã tôi hỏi Tòng:

– Bạn có biết Lý Hạnh với Võ Văn Còn và Quỳnh “móm” có đi trong kỳ biệt phái này hay không?

– Tôi cũng không biết nữa.- Tòng trả lời.- Hình như hôm qua tôi thấy Trung Úy Lý Hạnh xách nón bay đi ngoài bãi đậu trực thăng chắc là không đi kỳ này rồi.

Bàng hoàng, tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế kế bên, đầu óc quay cuồng khi nghĩ đến những người còn kẹt lại Ban Mê Thuột, chuyện gì đã xảy ra cho họ, chuyện gì sẽ xảy ra cho Phi Đoàn trong những ngày sắp đến ? Ngay giây phút này, tôi đã không ngờ rằng biến cố tôi vừa nghe được là một sự kiện vô cùng quan trọng, nó là một biến cố khởi đầu cho một khúc quanh của lịch sử và sẽ đưa đến sự sụp đổ của Miền Nam Tự Do, chấm dứt cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sau gần hai mươi năm chiến tranh máu đổ thịt rơi.

Ban Mê Thuột Thất Thủ…

Khoảng 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3/75, thị trấn Ban Mê Thuột đang triền miên trong giấc điệp, cả thành phố bỗng choàng thức dậy trong những tiếng nổ long trời lở đất. Hàng ngàn trái hỏa tiễn 122 và đại bác 130 ly bắn ào ạt như mưa bấc xuống những căn cứ quân sự. Như trận địa chấn kinh thiên động địa, dinh thự nhà cửa rung chuyển, cửa kính vỡ tung tóe, cây cối đổ nát khắp nơi. Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu khởi động một trận chiến cuối cùng, tiến chiếm miền Nam sau khi đã thất bại nặng nề trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.

Mũi dùi chính của Bắc quân nhằm tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột, trái tim của vùng Cao Nguyên đất đỏ, từ đó chúng sẽ làm bàn đạp để thôn tính miền duyên hải, và tất cả phần đất còn lại của miền Nam. Với một lực lượng khoảng 30 ngàn quân chính quy, đối đầu với hai Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 23 cùng với vài ngàn Địa Phương Quân trang bị yếu kém thiếu kinh nghiệm. Quân số của địch đông gấp bảy lần quân trú phòng. Sáng ngày 9 tháng 3 năm 75, tại phi trường L-19, Trung Tá Võ Văn Ân, Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 53 cùng Thiếu Tá biệt đội truởng Phi Đoàn 219 (Long Mã) Huỳnh Xuân Thu và Thiếu Tá Trần Văn Sua, biệt đội phó, đã bay trực thăng lên thám sát mặt trận vùng Đức Lập. Trên đường đi tàu đã nhiều lần bị phòng không bắn lên từ vùng kế cận Ban Mê Thuột, điều đó chứng tỏ rằng lực lượng của địch quân đang tiến rất gần thành phố. Theo tin tức ghi nhận được, Trung Tá Ân tiên đoán Cộng quân sẽ tấn công vào thị trấn đêm nay và đã đề nghị Biệt Đội 219 nên di tản về Đà Lạt. Tuy nhiên Thiếu Tá Thu không thể thì hành đề nghị đó khi chưa có lệnh của phòng hành quân Không Đoàn 62/CT tại Nha Trang.

Đúng như lời tiên liệu của Trung Tá Ân, ở phi trường L-19, tất cả Biệt Đội của 219 đang triền miên trong giấc điệp, bừng tỉnh dậy vì những tiếng nổ long trời lở đất. Bên ngoài những tiếng la hét dồn dập hỗn loạn khắp nơi, tiếng súng nổ cùng tiếng chân người chạy thình thịch. Chưa ai hiểu chuyện gì đã xảy ra, tất cả tung mền chạy ra khỏi phòng, đi tìm chổ ẩn núp. Thiếu Tá Thu, biệt đội trưởng là người đầu tiên may mắn cất cánh khỏi phi trường cùng với vài người trong biệt đội nhanh chân trước khi bọn đặc công Việt Cộng đột nhập vào căn cứ. Tại khu trú ngụ của biệt đội Long Mã, Thiếu Tá Sua vừa chạy ra khỏi cửa phòng ngủ, trong bóng đêm gặp ngay một toán đặc công Cộng Sản chạy ngang. Có tiếng la to: “Ai đó, đứng lại không thì chết”. ” Không Quân đây!” Thiếu Tá Sua vừa dứt lời thì một trái lựu đạn bay vèo rơi gần bên, nổ tung. Đây là loại lựu đạn nội hóa Beta của Cộng Sản, sát hại bằng sức ép, đẩy bật Thiếu Tá Sua té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Trong khi đó bọn đặc công bắt đầu tung hoành tấn công vào các vị trí khác trong doanh trại. Những trái lựu đạn được tung ra tới tấp vào những căn phòng ngủ của biệt đội nổ ầm, gây thương vong cho nhiều nhân viên phi hành và kỹ thuật, hầu như không có một khí giới nào trong tay để chống trả. Tình trạng vô cùng bi đát.

Ngoài bãi đậu một chiếc trực thăng cố trốn thoát khỏi phi trường, cất cánh hướng về rừng cao su. Vừa lên cao độ khoảng vài trăm bộ, con tàu lãnh nguyên một quả đạn phòng không bố trí ở một cao ốc gần đó, rơi xuống bìa rừng nổ tung.

Khoảng 7 giờ sáng, sau vài tiếng đồng hồ nằm bất tỉnh trên mặt đất, Thiếu Tá Sua mơ màng tỉnh dậy, mình mẩy bị bầm dập vì nội thương, máu chảy ướt hết mặt từ vết thương bên mắt trái. Nghe tiếng loa gọi của bọn đặc công kêu vang, ra lệnh cho tất cả những ai còn sống ra đầu hàng, Thiếu Tá Sua, cố gượng ngồi dậy, lết ra bãi đáp trực thăng gần đó. Sau khi dùng hết tàn lực trèo qua một hàng rào lưới sắt cao, anh chạy tới một chiếc tàu trực thăng võ trang đang quay máy. Trên ghế bay Trung Úy Sơn đang cầm cần lái, phía sau khoang tàu chen chúc hơn mười nhân viên kỹ thuật và phi đạo, đa số còn bận đồ ngủ hay chỉ bận độc nhất cái quần xà lỏn, nét mặt bàng hoàng, ngơ ngác như đang hy vọng rằng đây chỉ là một cơn ác mộng. Trời còn tờ mờ sương đêm chưa tan hẳn, tiếng súng M-16 của quân trú phòng xen lẫn những khẩu AK-47 đua nhau nổ vang rền cùng với những tiếng đạn pháo kích liên tục nã vào thành phố. Trong tình thế hổn loạn, Trung Úy Sơn đã vội vã cất cánh. Chiếc trực thăng cố vượt qua một công sự khá cao án ngữ trước mặt, dưới sức nặng của mười mấy người cùng đạn dược và rockets, chiếc trực thăng võ trang không đủ sức, rơi xuống đất trở lại. Tiếng hú của hệ thống báo động vang lên inh ỏi báo hiệu tàu bị mất “power”. Thiếu Tá Sua ngồi bên cạnh, mặc dù đang bị nội thương trầm trọng, là một test pilot già dặn trong nghề, vội vàng chụp cần lái phụ với Trung Úy Sơn, anh hạ cần cao độ để tăng vòng quay cánh quạt, quay đầu tàu trở lại hướng khoảng đất trống. Chiếc trực thăng nặng nề chạy một khoảng dài cố vươn mình lài trên bìa rừng cao su sau khi vượt qua đầu của một vọng gác vừa mới bị B-40 bắn sập còn nghi ngút bụi mù. Sau lưng những khẩu AK-47 nổ dòn, bắn vói theo. Chiếc trực thăng lấy cao độ, hướng về Nha Trang. Xa xa trước mặt con tàu, mặt trời vừa ló dạng đỏ ối trên đầu đỉnh núi phương Đông báo hiệu một ngày mới bắt đầu.

Vài ngày sau, Không Đoàn 62/CT nhận được tin một số nhân viên phi hành và kỹ thuật đã thoát khỏi vòng vây của địch quân, di chuyển bằng đường bộ theo nhóm quân nhân của Sư Đoàn 23 về tới Phước An, cách Ban Mê Thuột khoảng 12 km về hướng Đông Bắc, và đã phái trực thăng lên bốc tất cả về đơn vị.

Gần một phần năm số hoa tiêu của Phi Đoàn Long Mã đã hy sinh trong cuộc tấn công thành phố Ban Mê Thuột của Cộng Sản. Đó là một sự mất mát lớn cho Phi Đoàn Long Mã,và cũng là một cái tang chung cho tất cả anh em trong Phi Đoàn Thần Tượng.

Từ khi thuyên chuyển Phi Đoàn về Nha Trang từ căn cứ Đà Nẵng, Phi Đoàn 219 đã gặp nhiều chuyện không may xảy ra. Một trong những chuyện đó là vụ chiếc trực thăng của Phi Đoàn khi đậu tại bờ Hồ Xuân Hương ngày 7 tháng 11 năm 1973, bị đánh cắp bởi một Thiếu Úy trực thăng bị sa thải vì lý do an ninh. Trưởng phi cơ là Trung Tá Nguyễn văn Nghĩa, Phi Đoàn trưởng và Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu hoa tiêu phụ. Vụ mất cắp này đã làm chấn động giới phi hành, nhất là ngành trực thăng. Đây là một trong những sự kiện bất hạnh đã xảy ra cho Phi Đoàn 219, và cho một vị Phi Đoàn trưởng khả kính, lão luyện trong ngành trực thăng cũng như trong quân chủng Không Quân.

Mây Giăng Lối Về

Trước khi Ban Mê Thuột thất thủ, Cộng Sản Bắc Việt đã chủ tâm chuẩn bị chiến trường hơn mấy tháng trước đó. Trong giai đoạn này, biệt đội của 215 Thần Tượng và 219 Long Mã thay phiên biệt phái cho Trung Đoàn 53, SĐ/23 Bộ binh. Nhân viên phi hành đoàn cư ngụ tại Base-50 của Lôi Hổ trong phi trường L-19, sát nách trung tâm thành phố Ban Mê Thuột. Biệt đội Thần Tượng thường xuyên hoạt động cho vùng Gia Nghĩa tỉnh Quảng Đức,bay phi vụ đổ toán trinh sát ở sát vùng biên giới Cam Bốt, cũng như dọc theo đường mòn Hồ chí Minh, thám sát hoạt động của địch. Quân Đoàn II đã ghi nhận được nhiều sự di chuyển của Sư Đoàn 320 CSBV, cũng như khám phá nhiều ống dẫn dầu xuất phát từ biên giới và nhiều đoàn xe tiếp tế của địch chạy dọc theo đường mòn Hồ chí Minh. Riêng những phi vụ của biệt đội 215 thì đã không hề đối đầu trực diện với một lực lượng nào của Cộng quân trong thời gian này.

Trong giai đoạn hoạt động tại đây, một chuyến bay của biệt đội sau khi hành quân trở về đơn vị, đã ghi dấu như là một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời gian khổ của người hoa tiêu trực thăng.

Vào một buổi chiều sau cuộc đổ quân tại vùng Gia Nghĩa, hợp đoàn Thần Tượng, năm chiếc chở quân và hai trực thăng võ trang chuẩn bị rời vùng hành quân trở về lại Ban Mê Thuột. Cao Nguyên mùa mưa, thời tiết bất chợt, không khí nặng nề, ẩm ướt, từ phi trường Nhơn Cơ, Thiếu Tá Sơn Thái Huyền bay chiếc Charlie (Command and Control) cất cánh trở về Ban Mê Thuột trước đó không lâu, đã thông báo cho hợp đoàn biết thời tiết trên đường đi rất xấu, có thể mưa và đề nghị hợp đoàn nên ngủ lại tại phi trường Nhơn Cơ. Tất cả anh em trong hợp đoàn đều nôn nóng bay về Ban Mê Thuột, không ai muốn kẹt lại tại phi trường đèo heo hút gió này. Mặc dù thời tiết rất xấu, Đại Úy Nguyễn Hồng Huỳnh vẫn quyết định dẫn hợp đoàn bay về theo đường Quốc Lộ 14. Vào những ngày tốt trời, từ phi trường Nhơn cơ theo đường chim bay đến Ban Mê Thuột, chỉ mất hơn nửa tiếng đồng hồ. Với thời tiết như chiều nay, bay theo đường có thể lâu hơn 45 phút. Sau khi đổ xăng xong, bảy chiếc trực thăng bắt đầu cất cánh rời vùng Gia Nghĩa.



Hợp đoàn trực thăng nối đuôi bay dưới trần mây thấp trên đầu con Quốc Lộ 14. Đây là một đoạn đư#432;ờng núi non hiểm trở nhất của vùng Cao Nguyên, chạy quanh co giữa rừng già, uốn lượn theo những triền núi dốc đồi. Sau hơn mười lăm phút bay trời bắt đầu sẩm tối, trần mây hạ thấp dần, đường đi mỗi lúc một âm u một màu xám. Nhiều đoạn đường, sương mù quyện thấp, những cột sương trắng đục từ trần mây xám xịt thòng xuống mặt rừng như những cột thạch nhủ trong động thiên thai mờ ảo. Trên tầng số không một tiếng nói, mọi người đã mệt mỏi sau một ngày hành quân dài, không ai đủ sức mở miệng. Hợp đoàn lầm lũi nối đuôi nhau, nhấp nhô bay xuyên qua những cụm mây lơ lững trên đầu ngọn cây, xáo động bầu không khí đặc quánh hơi sương. Tôi lái chiếc trực thăng võ trang bay một khoảng cách an toàn, bám sau đuôi chiếc cuối cùng của hợp đoàn, theo sau tôi là chiếc gun số hai của Trung Úy Thành “râu” như thường lệ. Trời càng tối trần mây càng xuống thấp như muốn nhập lại với mặt rừng cây, năm chiếc trực thăng bay trước mặt tôi mờ ẩn trong bóng chiều chập choạng.

Tốc độ của hợp đoàn chậm dần…Mãi mê tập trung tinh thần vào chiếc trực thăng trước mặt, tôi không hề để ý đến vận tốc con tàu đến khi nhìn vào chiếc kim đồng hồ tốc độ đang chỉ gần 50 knots (knot = 1.8 km) và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn nữa. Nếu tình trạng này tiếp tục, con tàu sẽ bị triệt nâng (stalled), không còn điều khiển được nữa vì chiếc tàu chở đầy súng đạn quá nặng. Tàu chậm dần tới 40 knots…, mồ hôi tôi rịn ướt trong chiếc găng tay nomex từ lúc nào tôi không hay. Theo tôi ước đoán, hợp đoàn có lẽ chưa bay được một phần tư đoạn đường. Tôi thoáng nghĩ trong đầu quyết định cất cánh bay về Ban Mê Thuột trong điều kiện thời tiết này quả là một quyết định liều lĩnh và sai lầm. Tôi nghe tiếng của của Đại Úy Huỳnh “râu” nhắc nhở hợp đoàn trên tầng số:

– Đây là lead…, hợp đoàn bay theo khoảng cách an toàn, đừng gần quá. Trời mù quá, anh em cẩn thận…

Thời tiết càng lúc càng tệ hại. Những chiếc trực thăng như đang đi lạc vào một thế giới “bồng lại tiên cảnh” nào đó, không còn thấy được lối về.

– Hổ hai.., Thành nghe tao không ?

– Hai nghe.., nói đi.

– Đừng bay sát quá nghe, nếu mây xuống thấp nữa, tao sẽ quẹo U turn lại, mày coi chừng. Vừa gọi cho chiếc gun số hai xong tôi nghe tiếng của Huỳnh “râu” trên tầng số:

-Hợp đoàn đây lead…, trước mặt trần mây xuống gần đụng đọt cây rồi, lead chuẩn bị quẹo lui, trở về Gia Nghĩa. Hợp đoàn nghe rõ.

Nghe Huỳnh “râu” vừa nói xong thì trước mặt chiếc trực thăng tôi đang bám gót đột ngột giảm tốc độ gần như muốn đứng lại, cánh quạt đuôi của chiếc trail (chiếc sau cùng), chỉ cách cánh quạt chính đang quay vùn vụt trên đầu tôi chừng vài mét . Tôi hốt hoảng la lớn:

– Đ…m…, trail…., bay cái đ…gì kỳ vậy…

Vừa la tôi vừa đè cần cao độ, bẻ ngoặc cần lái, con tàu nghiêng qua phía trái lài trên đọt cây bìa rừng sát đường, vừa kịp thời để khỏi chém đứt cái đuôi tàu của chiếc trail trước mặt. Hú vía!…Tim tôi đập như muốn vỡ lồng ngực. Hai người mê vô xạ thủ đang ngồi sau hai thùng đạn chồm về phía trước la thất thanh. Tội nghiệp người hoa tiêu phụ, không làm gì được hơn là ngồi chết cứng trên ghế bay.

Vừa lúc đó tôi nghe tiếng nói hốt hoảng trên tầng số của Huỳnh “râu”:

– Lead break… trái… hợp đoàn coi chừng…

Con đường đất đỏ phía trước đang lên dốc đèo, đột ngột biến mất vào đám sương mù mịt. Tất cả hợp đoàn mạnh ai nấy quẹo lại, hỗn loạn trên mặt rừng âm u.

-Hợp đoàn, coi chừng…coi chừng đụng nhau…từ từ…lead đang quẹo lại 180 độ…hợp đoàn theo…lead..Tiếng Đại Úy Huỳnh hớt hãi.



Tôi đã cho con tàu quay ngược đầu lại đang bay sát trên mặt rừng cây trở lại con đường đất đỏ hướng về phi trường Nhơn Cơ, chiếc trực thăng võ trang số hai của Thành “râu” bám sau một khoảng không xa.

-Lead…Đây Mãnh Hổ…

-Nghe…nói đi… Đại Úy Huỳnh trả lời.

-Huỳnh, mày theo tao, còn đi được. Tao đang bay theo đường đây, tới đâu hay tới đó, chắc không về được Nhơn Cơ đâu.

Trời bắt đầu tối hẳn, con đường đất đỏ chỉ còn thấy lờ mờ chạy giữa đám rừng xanh thẫm. Khoảng năm phút bay sau, trước mặt tôi ẩn hiện một xóm nhà chừng vài chục căn, nằm im lìm trong bóng tối lù mù dọc theo con lộ. Tôi lên tiếng gọi Huỳnh râu:

-Huỳnh nghe tao không? Có xóm nhà trước mặt.., hết bay được nữa rồi, tao đáp xuống đường đây!

-OK.., tao thấy rồi, đáp trước đi, tụi tao ở sau lưng mày.

Bảy chiếc trực thăng từng chiếc một hạ thấp dần, rầm rộ đáp dọc theo con đường bên cạnh mấy căn nhà nhỏ lúp xúp, tiếng động cơ ầm ĩ khuấy động vùng rừng núi yên tỉnh. Tất cả hợp đoàn tắt máy. Tháo chiếc nón bay ra khỏi đầu, mồ hôi ướt đẫm mái tóc. Không gian bỗng dưng yên tỉnh lạ thường, tiếng dế rả rích kêu vang từ trong đám cỏ nào đó bên lề đường. Tôi móc điếu thuốc ra châm lửa hút, rồi ngả người vào lưng ghế, đốm lửa lập lòe trong bóng đêm, liên tưởng tới đoạn đường tử thần vừa qua, tất cả diễn tiến vẫn còn xao động trong đầu tôi.

Bên ngoài cockpit trời đã tối đen, bảy chiếc trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng đậu chơ vơ bên lề đường trên vùng đất xa xôi hẻo lánh, không có một đơn vị bạn nào gần đây để bảo vệ, tánh mạng của bảy phi hành đoàn không một vũ khí trên tay ngoài những khẩu súng lục không đủ sức để kháng cự vài ba tên du kích Cộng Sản. Trong giây phút này chúng tôi hoàn toàn giao phó mạng sống của tất cả phi hành đoàn và bảy chiếc trực thăng cho số mệnh định đoạt.

-Ê…mày…, ngồi luôn trên đó à, đi kiếm chỗ nào ngủ qua đêm chứ? Tiếng nói đột ngột của Thành “râu” đang đứng dưới đất kế bên hông cửa tự lúc nào tôi không hay. Tôi mở cửa, vừa leo xuống đất vừa nói:

-Đúng tụi mình quá ẩu, suýt nữa là tiêu tùng nguyên cả hợp đoàn, thôi ráng ngủ đây qua đêm đi, mai tụi mình dọt sớm. Tao nghĩ mình nên đi dọc theo đây coi căn nhà nào còn thức, gõ cửa mua đỡ thứ gì ăn lót bụng, đói quá rồi.

Đại Úy Huỳnh “râu” trong bóng đêm lò mò bước đến từ phía đuôi chiếc trực thăng.

- Huỳnh, mày hỏi xem hợp đoàn tối này ngủ đâu? Tôi hỏi.

Huỳnh “râu” chậm rãi trả lời:

- Tao nói rồi, tụi nó khui đồ hộp ăn rồi ngủ trong tàu.

Thấy mấy người xạ thủ đang lui cui cột cánh quạt trong bóng đêm, tôi hỏi:

-Hai bạn theo tôi kiếm gì ăn không hay là ở đây ?

-Tụi tui đi theo mấy ông luôn. Cả hai đồng loạt trả lời.

Gió lạnh từ vùng biên giới thổi những chiếc lá khô bay xào sạt trên mặt đường. Tôi cảm thấy lạnh, tay kéo fermeture lên tới cổ, bẻ cổ áo bay lên rồi bước theo hai người bạn cùng vài người xạ thủ mới nhập bọn. Tất cả lò mò đi trong bóng tối dọc theo đường đến bên một căn nhà gạch lợp tôn, bên trong ánh đèn dầu rọi ánh sáng vàng vọt qua khung cửa còn mở. Hình như là một cái quán cóc nhỏ, phía trước bày bán các thứ bánh kẹo, thuốc lá, nước ngọt và một vài thứ linh tinh khác… Một người đàn ông và một người đàn bà gầy gò, khoảng gần năm mươi, có lẽ là vợ chồng, đang ngồi trên ghế kế bên cái bàn gỗ, đưa mắt nhìn khi chúng tôi bước tới trước cửa. Nhìn Huỳnh “râu” đội chiếc nón rừng, bận bộ đồ hai mảnh, trên mặt bộ râu rậm trông ngầu như lính Lôi Hổ cùng một đám người súng ống đeo “lỏng dỏng” bên hông, hai nguòi e dè đứng dậy gật đầu chào. Thành “râu” bước vào bên trong lên tiếng hỏi:

- Chào anh, chúng tôi lỡ đường phải ở lại tại đây đêm nay, vô đây hỏi xem anh có bán gì ăn không ? Mì gói cũng được.

Người đàn bà trong bộ đồ bà ba nâu khúm núm đứng dậy trả lời:

- Dạ, tui có mì gói…Nghe người đàn bà nói xong, tất cả đám đang dứng trước cửa quán mừng rỡ bước vào trong.

Vài phút sau người đàn ông bưng ra mấy tô mì gói bốc khói từ căn chái nhỏ phía sau nhà. Mọi người ngồi vào bàn ăn. Có lẽ chưa bao giờ trong đời tôi được ăn một tô mì gói ngon như đêm nay. Ngồi nói chuyện một hồi mọi người trở về tàu kiếm chỗ ngủ. Còn lại tôi với Thành “râu” đứng lại mua vài cái bánh ngọt ăn thêm, nhìn thấy mấy cái bàn khá lớn có thể ngủ được tôi quay qua nói với hai vợ chồng chủ quán xin tá túc tại đây đêm nay Bên ngoài trời đang đổ mưa, những giọt nước rơi lộp độp rớt trên mái tôn cùng tiếng lá cây khua xào xạc…Tôi ngồi bên chiếc đèn dầu lù mù để cạnh chiếc bàn con gần đấy lui cui cởi đôi giày bốt, xong leo lên nằm trên chiếc bàn gỗ thông vừa đủ dài để khỏi thò bàn chân ra ngoài. Trên chiếc bàn kế bên Thành “râu” đang nằm ngửa, gối đầu trên chiếc áo jacket, tay vắt lên trán nhìn vào khoảng không trên trần nhà phì phà điếu thuốc lá…

Về khuya cái lạnh miền Cao Nguyên càng thấm thía. Không mền không gối co ro trên chiếc bàn trơ trụi, trên người đắp tấm bản đồ hành quân bằng nylon mỏng manh, tôi trằn trọc trong giấc ngủ chập chờn mong sao cho trời mau sáng. Bên ngoài tiếng côn trùng, tiếng dế kêu rả rích hòa lẫn với tiếng mưa rơi… Đêm đã trôi qua thật chậm, trời bắt đầu tờ mờ sáng, xa xa văng vẳng tiếng gà rừng gáy, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Bảy phi hành đoàn của biệt đội Thần Tượng đã trải qua một đêm bất ngờ giữa chốn rừng sâu heo hút, khỉ ho cò gáy, không hề biết rằng lẩn quất đâu đây hai Sư Đoàn của Bắc Việt đang âm thầm hoạt động chuẩn bị một cuộc tấn công dứt điểm vào thị trấn Ban Mê Thuột trong vài tháng tới.

Phi Vụ Tái Chiếm Ban Mê Thuột

Ba ngày sau khi Bắc quân mở cuộc công kích, Bộ tư lệnh Quân Đoàn II bắt đầu điều động quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Một cầu không vận vĩ đại được thiết lập, với sự tham dự hơn trăm chiếc trực thăng cũng như Chinook của các Phi Đoàn thuộc Vùng I và Vùng II/CT di chuyển cấp thời hai Trung Đoàn 44 và 45 của Sư Đoàn 23 đóng ở Hàm Rồng về giải cứu Ban Mê Thuột. Địa điểm đầu cầu làm bàn đạp sẽ là quận Phước An hướng đông bắc 12 km, trên Quốc Lộ 21. Hầu hết binh sĩ Sư Đoàn 23 BB đều nóng lòng trở về vì nhiều gia đình của những người lính đã định cư tại thành phố này trong thời gian theo chân binh sĩ hành quân.



Thiếu Tá Lê Hữu Đức, Phi Đoàn phó của Phi Đoàn Thần Tượng, dẫn đầu hợp đoàn hơn mười chiếc chở quân và hai trực thăng võ trang Mãnh Hổ. Bãi đáp được chọn ở phía đông phi trường Phụng Dực khoảng một cây số. Chuyến đổ quân đầu tiên đã không gặp một sự phản kháng nào của địch quân. Ngồi trên ghế bay của chiếc trực thăng võ trang Hổ một, tôi bay theo đuôi hợp đoàn bay trở về Hàm Rồng, gần Pleiku để bốc thêm quân. Bên ghế trái Thiếu Úy Thạch cầm cần lái, sau khoang tàu, hai người xạ thủ đang lúi húi kiểm soát mấy cái “feeder” (bộ phận nạp đạn) của hai khẩu mini-gun. Đang hút thuốc, nhìn trời nhìn đất, bất chợt trên dàn đồng hồ phi cụ chiếc đèn warning màu đỏ nhỏ như hộp quẹt diêm bật sáng, báo hiệu cho biết tàu có thể có mạt sắt vụn trong máy. Phản ứng tự nhiên tôi nhìn xuống vùng đất đang ở dưới bụng con tàu quan sát địa thế, tìm vùng đất trống nếu con tàu cần đáp khẩn cấp.

Sau đó tôi bắt đầu kiểm soát lại tất cả các đồng hồ phi cụ. Mọi hoạt động vẫn bình thường, động cơ vẫn nổ đều đặn. Tôi quay qua nói với người hoa tiêu phụ:

-Có thể đèn bị chạm điện, chờ chút coi sao.

Nói xong tôi vói tay gõ gõ vào mặt đèn. Đèn vẫn cháy sáng. Khi máy (transmission) có một sự trục trặc hay ma sát bất thường nào đó thì nó sẽ tạo ra những mạt sắt vụn trong buồng nhớt máy. Nam châm trong hệ thống censor sẽ hít vụn sắt và nối dòng điện làm đỏ đèn báo hiệu. Trong trường hợp trầm trọng, tình trạng này có thể làm chậm vòng quay cánh quạt và làm con tàu sẽ bị mất cao độ đột ngột. Cách đây vài năm, chiếc tàu của Phi Đoàn Lạc Long, 229 đã gặp một trường hợp tương tự. Trên đường về Pleiku từ Phù Cát, một người bạn cùng khóa tôi, Trung Úy Đảm đã coi thường “warning light” này, tiếp tục bay về phi trường Cù Hanh cách đó chừng vài chục phút. Cánh quạt đột nhiên mất vòng quay, chiếc trực thăng rơi xuống đất như hòn đá cuội, nổ tung, tất cả phi hành đoàn đều tử nạn.

-Charlie… ,đây Mãnh Hổ gọi.

-Nghe…, đây Charlie…, nói đi…

-Báo cáo “chip detector warning light” của Hổ một vừa cháy.

-Đèn gì cháy, lập lại Hổ một …

-”Engine chip detector” tàu tôi cháy…

-OK, nghe rõ…Hổ bay theo hợp đoàn về Pleiku check tàu lại.

-Không được đâu, xa quá… Tôi muốn đáp phi trường Khánh Dương gần đây để check tàu và đổ xăng luôn. Nếu tình trạng OK, tôi sẽ liên lạc với Charlie và lên đón khi hợp đoàn trở lại .

-OK…, nhớ mở máy liên lạc nghe Hổ .

Nghe xong chỉ thị, tôi cho tàu bay về hướng đông. Khoảng hơn mươi phút sau hai chiếc trực thăng võ trang đáp xuống phi trường Khánh Dương. Thị xã nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 80 km về hướng đông, sát bên QL-21. Tại đây có chừng năm bảy trăm nóc gia và năm sáu ngàn dân, hỗn hợp bởi nhiều sắc dân thiểu số cùng với những gia đình của quân nhân theo bước chân quân hành rồi ở lại lập nghiệp sinh sống.

Phi trường Khánh Dương là một giải đất dài vừa đủ để cho những loại phi cơ nhẹ như L-19 hay Caribou đáp. Theo sự suy tính của tôi, phải khoảng hơn tiếng đồng hồ nữa hợp đoàn mới trở lại LZ (landing zone). Tôi sẽ có rất nhiều thì giờ để kiểm soát tình trạng tàu và đổ xăng trong khi chờ đợi. Đã giữa trưa. Tôi tắt máy tàu, bảo Thạch chờ chừng mươi phút rồi quay máy, “check” đèn xong sẽ đổ xăng. Bước xuống đất tôi đi đến bên chiếc gun số hai, Trung Úy Thành “râu” đang đứng “tưới nước” sau đuôi tàu.

-Ê Thành…, kiếm gì ăn chớ?

-Tao có “cơm tay cầm” đây, mày ăn không ?

-Thôi cám ơn…mình còn nhiều thì giờ lắm. Chợ bên kia đường, qua làm tô phở đi.

Tôi và Thành đi theo con đường đất đỏ chừng vài trăm mét tới xóm nhà lúp xúp sát bên con Quốc Lộ. Gần đấy là một ngôi chợ gồm năm bảy sạp gỗ bán thịt rừng, rau trái…kế bên là một quán ăn nhỏ, hai đứa bước vào kéo ghế ngồi. Nói là tiệm ăn nhưng thật ra chỉ là một căn nhà gỗ nhỏ lợp mái tôn nóng hừng hực. Căn phòng nhỏ vừa đủ để kê hai cái bàn và khoảng chục cái ghế nhựa rẻ tiền. Ở xứ xa xôi hẻo lánh này kiếm được tô phở ăn là quý lắm rồi, tôi không có quyền đòi hỏi gì hơn. Kêu hai tô phở và hai ly trà đá cùng mấy bịch cà phê cho phi hành đoàn xong tôi quay qua nói với Thành:

-Lần này chắc đụng lớn rồi, tao không ngờ tụi nó “dớt” Ban Mê Thuột dễ dàng quá.

-Tao cũng không ngờ…, mùa hè đỏ lửa tụi nó đánh cả mấy tháng mà chẳng làm gì được…, tao không hiểu tại sao kỳ này lại xảy ra nhanh như vậy. Thôi tụi mình như thiên lôi chỉ đâu đánh đó, kệ mẹ đi…

Vừa nói Thành vừa đưa tay vuốt hàng râu mép. Ở Phi Đoàn 215, hoa tiêu trực thăng võ trang chỉ vỏn vẹn hơn mười người, chia làm hai toán thay đổi nhau bay, mỗi phi vụ có bốn hoa tiêu cho hai chiếc tàu, cho nên có những hoa tiêu hầu như thường xuyên bay chung với nhau. Do đó, Thành “râu” thường bay chung với tôi như hình với bóng. Thành là một trong những phi công đẹp trai của Phi Đoàn, cao ráo, khuôn mặt có nét tây phương, lúc nào cũng sạch sẽ tươm tất. Ngay cả dây đeo súng anh cũng đặc biệt, khẩu rouleau mới toanh bên con dao rừng to bản, cán nạm sừng trâu, bao da nâu chạm trổ tinh vi. Ngược lại với dáng dấp ăn chơi, anh là một người chồng mẫu mực, và có thể nói anh một người “nội trợ đảm đang”. Thời gian đi biệt phái Thành luôn luôn trang bị trong túi xách đầy đủ gạo, mắm, muối, tiêu, ớt…, cà phê, sữa đặc, nồi niêu son chảo…cọng thêm đồ ăn hộp C-ration của Phi Đoàn phân phát.

Thành là “master” của “survival”. Không bao giờ phải lo đói. Buổi trưa trong lần đi biệt phái Phan rang, mọi người ra phố ăn cơm, anh ở lại biệt đội, đem giây điện của mìn claymore câu điện xuống ao cá gần đầu phi đạo. Những con cá chép bị điện giật nổi lềnh bềnh được biến thành nồi canh chua hay cá kho tộ ngon lành. Thỉnh thoảng trong vài phi vụ anh đem về những rau cỏ hay măng rừng hái từ các buôn Thượng, hay bắn vài ba con gà rừng, con vịt trời nấu những món ăn đặc sắc. Tôi thường tìm đến Thành trong những lúc cháy túi vì những canh xập xám tại biệt đội. Một ly cà phê, một điếu thuốc hay một bữa cơm dã chiến cũng là một điều đáng kể trong giờ phút đó. Hình như cuộc sống gần gũi của đời phi công trực thăng đã làm cho tình người, tình động đội càng ngày càng gắn bó, thương yêu nhau hơn.

Có những sự kiện rất nhỏ đã xảy ra trong đời bay bổng mà tôi vẫn trân quý, không bao giờ quên được. Nhớ lại thời gian mặt trận Gia Nghĩa sôi động, biệt đội 215 được lệnh tăng phái cho tiểu khu Quảng Đức. Căn phòng của biệt đội cư ngụ nằm trong một barrack chơ vơ trên đỉnh đồi cao đất đỏ trơ trụi, rộng đủ chỗ chứa vài chục ghế bố vải cho phi hành đoàn. Ban đêm vào mùa đông gió lạnh lùa về từ vùng biên giới Hạ Lào thổi qua ngọn đồi, rít lên những âm thanh ma quái. Anh em thường gọi ngọn đồi này là ” Đỉnh Gió Hú”. Đêm đầu tiên tại biệt đội, sau khi cơm nước xong xuôi, mọi người bắt đầu leo lên dãy giường bố sắp hai hàng ngang như trong bệnh xá, còn anh bạn Thành “râu” của tôi loay hoay lục trong túi “hồ lô” biệt phái móc ra một cái lò dã chiến, bỏ mấy cục than đen vào rồi lúi húi châm lửa mồi. Chẳng biết anh ta đang làm trò gì, tôi hỏi:

-Thành! Mày đốt lò than làm gì vậy?

-Để dưới gường sưởi cho ấm mày à…

Vừa nghe xong tôi thấy thật buồn cười, liền chọc quê anh ta:

-Trời, , mày làm như đàn bà đẻ vậy. Đẻ được mấy ngày rồi, trai hay gái ?”

Mấy thằng bạn đang nằm trong mùng trên mấy chiếc gường bố kế bên nghe nói cười hô hố.

Anh ta tỉnh bơ trả lời:

- Ừa…, kệ tao. Trai hay gái …để khuya rồi tụi mày sẽ biết.

Đúng như lời Thành nói, tới nửa khuya gió lạnh từ miền Hạ Lào kéo đến, ào ào rít qua khe cửa. Gió luồn dưới ghế bố, nằm trên gường mà tưởng như nằm trên tảng nước đá, co rút trong cái chăn vải hoa Dù không ngủ được. Kế bên, Thành “râu” đang ngáy phì phò, ngay dưới ghế bố anh ta kê lò than riu riu cháy. Không chịu nổi cái lạnh thấu xương đang thấm vào người, tôi ngồi dậy rón rén vén mùng vói tay kéo cái lò than đem về để dưới ghế bố mình. Trong chốc lát, hơi nóng từ lò than tỏa rộng dưới mặt gường bố, một cảm giác ấm áp nhẹ nhàng ôm lấy cơ thể, tôi cuộn tròn trong chăn đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Đang ngủ say sưa, giọng la to của Thành râu trong đêm khuya thanh vắng làm tôi giật mình thức giấc, hé mắt nhìn.

-Đ.M…, thằng nào lấy lò than của tao!

Trong bóng đêm Thành lồm cồm chui ra khỏi mùng, ngồi dậy lôi cái lò than trở lại để dưới gầm gường bố của mình rồi lầm bầm:

-Mày hả…, mẹ…, thôi đủ rồi nghe…

Tôi nằm yên không nhúc nhích, miệng thở đều đặn như một người vô can.

-Coi chừng đến giờ phải đi rồi đó.

Câu nói của Thành làm tôi chợt tỉnh, đưa tay lên xem đồng hồ, đã đến giờ đi.

Tôi đứng dậy trả tiền, lấy mấy bịch cà phê đá, xong chui ra khỏi quán trở về tàu. Tại bãi đậu, hai chiếc trực thăng đã quay máy, cánh quạt thổi đất đỏ tung bụi mịt mù. Thạch ngồi trên tàu, ra dấu thúc dục. Leo lên ghế bay, tròng chiếc áo giáp nặng chịch lên người, tôi la lớn trong tiếng máy ầm ĩ:

-Tình trạng tàu ra sao rồi, đèn còn đỏ không ?

- Chắc OK… không thấy đèn nổi lên nữa, có lẽ bị chạm điện thôi à. Cách đây năm phút Thiếu Tá Đức kêu mình lên đón hợp đoàn, tôi trả lời đang “check” tàu chưa xong.

Nói xong Thạch nhìn tôi nháy mắt. Tôi gật đầu hiểu ý, trao bịch cà phê sữa đá cho Thạch, xong vội vã kéo tàu rời bãi.

Lên cao độ gió mát lồng lộng vào khoang tàu cửa mở toang, tô phở tái nạm gầu đã làm cho tôi tỉnh táo hẳn người.

-Charlie đây Hổ.

-Charlie nghe. Tình trạng tàu sao rồi ?

-Đèn tắt rồi, chắc không sao. Tôi vừa cất cánh từ Khánh Dương, mười phút nữa sẽ đến đón hợp đoàn vào.

-Không kịp đâu, hợp đoàn còn năm phút nữa đáp…Hiện có gunships của 219 đang ở trong vùng cover cho hợp đoàn của họ, có gì tôi sẽ nhờ họ, bạn cứ tới, kịp thì vào vùng không kịp thì theo hợp đoàn về sau khi thả quân xong, nghe rõ trả lời ?

Trong lòng hơi áy náy vì đã đến trễ, tôi chắc lưỡi trao cần lái cho Thạch ra dấu bay về hướng hợp đoàn, xong tôi ngồi dựa ngửa vào lưng ghế, móc điếu thuốc ra hút, đồng thời lắng nghe theo dõi cuộc đổ quân của hợp đoàn qua tầng số radio UHF.

Tầng số im lặng. Có lẽ giai đoạn này hợp đoàn đang chuẩn bị đáp. Bỗng tiếng Thiếu Tá Đức vang lên từ chiếc C@C:

-Hợp đoàn đáp hướng Tây như cũ cất cánh quẹo phải về luôn.

Đột nhiên tôi nghe có tiếng la chói lọi :

-Ground fire…ground fire…

-Charlie!…Charlie!…Gunship bị bắn cháy…Charlie!..

Vừa nghe xong tôi giật mình ngồi nhỏm dậy, búng vội điếu thuốc lá đang cháy dở qua khung cửa, chụp lấy cần lái…

-Hợp đoàn break..break…., ground fire…

-Break phải…, break phải…

Âm thanh xè xè…xạch xạch… do những điện đàm bị cắt đứt đoạn trên tầng số nhiễu loạn…

-Gun một của Long Mã trúng đạn…, hỏa tiễn…

-Coi chừng hướng Nam…, hướng Nam bãi đáp …coi chừng…

Những tiếng la trên tầng số, hỗn độn, không biết xuất xứ từ chiếc nào.

-Break phải…break phải , về hướng Bắc nghe rõ…hợp đoàn nghe không ? Lần này tiếng nói của Thiếu Tá Đức vang lên xen lẫn trong những tiếng nói của những chiếc tàu khác…

Tôi chúi mũi, cắm đầu lao hết tốc lực về hướng bãi đáp.

-Hổ hai…, có “monitor” tầng số không ? Gunship của Long Mã dính hỏa tiễn phòng không mày nghe chưa?

-Có…đang theo dõi trên tầng số đây…chắc tiêu rồi….

-Charlie… Hổ gọi…Hổ đang trên đường đến LZ… Charlie…

Không nghe C@C trả lời. Tôi nhìn xa về hướng thành phố Ban Mê Thuột, những cột khói đen bốc lên cao nhiều nơi, dấu hiệu của những cuộc giao tranh vẫn đang còn tiếp diễn đâu đó. Trên bầu trời mây xám, những chấm đen nối đuôi nhau của những chiếc trực thăng vừa rời bãi đáp. Tôi bẻ lái con tàu bay theo hợp đoàn.

-Charlie đây Mãnh Hổ gọi…, hợp đoàn ai nghe Mãnh Hổ không trả lời .

-Hổ, đây lead…Chiếc dẫn đầu trả lời.

- Hổ một đây….chiếc nào bị bắn vậy? Tôi hỏi chiếc lead.

-Chiếc gun của Long Mã bị trúng SA-7. Tàu nổ cháy khi “escort ” hợp đoàn đáp.

Nghe chiếc lead nói xong tôi xây xẩm mặt mày:

-Charlie.., Charlie…, Hổ gọi…, có phải gun một của 219 “down” hay không ?

-Đúng năm…, Hổ theo hợp đoàn về Pleiku, đừng vào vùng nữa. Charlie trả lời.

Điếu thuốc trên hai ngón tay tôi run rẩy, tôi rít một hơi dài để trấn an cơn cảm xúc mạnh đang bùng vỡ trong cơ thể, bàng hoàng, rung động như thấy mình vừa bị trái hỏa tiễn phòng không SA-7 bắn hụt. Chiếc đèn “chip detector” cháy trước đây một tiếng đồng hồ báo hiệu con tàu đang ở trong tình trang nguy hiểm hay là báo hiệu cho tôi biết lưỡi hái Tử Thần đang chờ đợi để cho tôi tránh né?

Tuần lễ vừa qua, ngày biệt phái Ban Mê Thuột dời lại, tôi không phải đối diện cuộc tấn công vào phi trường L-19 của đặc công Việt Cộng, và đây là lần thứ hai vì lý do kỹ thuật, tôi lại một lần nữa tránh được trái hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 đáng lẽ phải dành cho tôi thay vì phi hành đoàn gunship của Long Mã. Một câu nói bất hủ của một triết gia sau đây đã thường làm cho tôi suy ngẫm về cuộc sống quá nguy hiểm mà tôi phải trực diện hằng ngày: ” Nếu tên anh đã được khắc vào môt viên đạn nào đó thì không sớm hay muộn viên đạn đó sẽ tìm đến anh”. Hay nói một cách khác, nếu số anh phải chết thì anh không sẽ bao giờ tránh được lưỡi hái của Tử Thần.

Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, khi cuộc không vận đang tiến hành việc chuyển quân của hai Trung Đoàn 44 và 45 về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng các sĩ quan tham mưu cao cấp và Bộ tư lệnh chiến trường Quân khu 2 đã mở một cuộc họp khẩn cấp để đối phó với tình hình chiến trường khẩn trương đang diễn ra. Tại buổi họp này, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã được chỉ thị của Tổng Thống Thiệu triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân Khu II về miền duyên hải. Cuộc chuyển quân về giải cứu Ban Mê Thuột coi như hủy bỏ. Đây là một quyết định quan trọng đã mở đầu cho cuộc triệt thoái hỗn loạn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, và đã làm thương vong cho mấy trăm ngàn binh sĩ cũng như thường dân vô tội.

Phòng Tuyến Nhảy Dù tại Khánh Dương Tan Vỡ

Hơn tuần lễ từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, Cộng quân đã gia tăng áp lực nặng về phía tây của Khánh Dương. Theo tin tức tình báo Sư Đoàn 968 và hai Trung Đoàn 320 của Cộng Sản Bắc việt đang trên đường di chuyển trên QL-21 về hướng đông.

Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được chỉ thị tăng viện cho mặt trận Quân Khu II. Sau hai ngày dài lênh đênh trên mặt biển, ba Tiểu Ðoàn cơ hữu 2, 5, 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu Ðoàn Pháo Binh 105 ly và Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù đã cập bến Cầu Đá, Nha Trang. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tức thì nhận được lệnh từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II, di chuyển bằng đường bộ lên vùng lập tuyến phòng thủ rải dài từ chân đèo Phượng Hoàng chạy dài gần 30 cây số tới phía Tây của Khánh Dương dọc theo Quốc Lộ 21, con đường nối liền hai thành phố Ban Mê Thuột và Nha Trang. Đây là con đường Cộng Sản Bắc Việt phải đi qua trước khi tiến chiếm miền duyên hải. Tại phía nam Khánh Dương sát cạnh QL do Tiểu Đoàn 5 ND trấn thủ; Tiểu Đoàn 6 ND đóng tại cao điểm tại Buôn Ea Thi về phía đông. Và tại chân đèo Phượng Hoàng được Tiểu Đoàn 2 ND trấn ngự. Bộ chỉ huy Lữ Đoàn Dù đóng tại căn cứ Dục Mỹ.



Trong những ngày đầu, lực lượng Dù đã bắt đầu gặp áp lực của Sư Đoàn F10 của Cộng quân. Ngày 22 tháng 3/1975 Cộng quân đã mở một trận đánh đầu tiên vào quân bạn phía tây Khánh Dương, gần 100 xác địch đã bỏ lại trận địa, tuy nhiên bộ chỉ huy Nhảy Dù biết trước đây chỉ là trận đánh dò dẫm, thử sức kháng cự của phe ta. Sáng ngày kế tiếp, lực lượng địch bắt đầu dốc hết toàn lực mở cuộc tấn công vào phòng tuyến phía tây Khánh Dương do các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân trấn thủ, bắt đầu bằng một trận mưa pháo kinh hồn, tiếp theo là làn sóng biển người ào ạt xung phong với sự yểm trợ của nhiều xe tăng T-54. Các đơn vị Bộ Binh đã bị tan rã hoặc phân tán từng mảnh nhỏ, rút lui về phòng trú của Tiểu Đoàn 5 Dù tại Khánh Dương và sau đó triệt thoái về Diên Khánh, gần Nha Trang.

Sáng ngày hôm sau, thừa thắng xông lên, Cộng quân tiếp tục tấn công vào quận Khánh Dương bằng hàng trăm trái đạn pháo 122 ly, cùng mười mấy chiếc xe tăng tiến vào chi khu thị xã. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã chống cự mãnh liệt và đẩy lui nhiều đợt tấn công ào ạt của Bắc quân, gây nhiều tổn thương cho địch. Tuy nhiên lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch, nếu so sánh về quân số, vũ khí cũng như chiến cụ, địch đã ở thế thượng phong ngay từ lúc đầu. Mãnh hổ nan địch quần hồ. Tình hình càng ngày càng nguy ngập. Nhiều phi tuần phản lực của các Phi Đoàn 534 Kim Ngưu, 548 Ó Đen xuất phát từ căn cứ Không Đoàn 92 Chiến Thuật, Phan Rang do Đại Tá Lê Văn Thảo giữ chức chỉ huy trưởng đã liên tục yểm trợ mặt trận này và đã làm chậm bước tiến của Bắc quân phần nào. Tuy nhiên không như mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa, chiến trường thiếu sự yểm trợ của Không lực Hoa Kỳ. Vắng bóng những chiếc pháo đài bay B-52 trên bầu trời, Cộng quân không còn lo sợ những trận mưa bom kinh thiên động địa giáng xuống đầu bất thần, thêm vào đó, sự hiện diện của nhiều hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 của địch quân đã làm trở ngại lớn cho những cuộc chuyển quân bằng trực thăng cũng như những phi vụ yểm trợ của khu trục cơ, cán cân quân sự đã nghiêng rõ về phía Bắc quân.

Ngày 28 và 29/3/75, hai Tiểu Đoàn 5,6 của Dù hứng trọn hàng ngàn trái đại pháo 130 ly cũng như hỏa tiễn 122 ly, sau đó với tất cả các lực lượng của các Sư Đoàn Bắc quân gia tăng áp lực áp đảo phòng tuyến của Dù với quân số đông gấp mười lần, con đê quan trọng ngăn chặng đường tiến quân của địch trên đà tan vỡ. Trong tình trạng nguy kịch này, phi đội trực thăng võ trang của Phi Đoàn Thần Tượng được lệnh tăng phái cho mặt trận Khánh Dương yểm trợ cho lực lượng Dù đang trên đà bị tràn ngập bởi làn sóng biển người. Mấy ngày nay bầu trời xám xịt, trần mây thấp đã làm trở ngại rất nhiều cho những phi vụ yểm trợ của Không Quân. Hôm nay hai chiếc trực thăng võ trang của Thần Tượng trên đường đến mặt trận đang sôi động tại Khánh Dương. Ngồi trên ghế bay, tôi cho con tàu bay sát dọc theo thung lũng giữa hai sườn núi của rặng Trường Sơn cao chót vót, theo sau một khoảng khá xa, chiếc trực thăng võ trang số hai bay ở cao độ thấp hơn, cánh quạt quay chấp chóa. Dưới thấp, đèo Phượng Hoàng uốn lượn quanh co dọc theo triền núi. Đây là cửa ngõ độc nhất nối liền tỉnh Đắk Lăk với Khánh Hòa và cũng là hành lang quen thuộc của tất cả phi hành đoàn Thần Tượng. Vào những tháng mùa mưa, mây mù bất chợt, hành lang này trở thành một tử lộ cho những chiếc trực thăng mạo hiểm bay vào vùng. Gần năm năm trước, hợp đoàn Thần Tượng trên đường về Nha Trang từ mặt trận Quảng Đức, tranh thủ với màn đêm kéo nhau qua hẻm núi mù sương này, chiếc dẫn đầu do Đại Úy Nguyễn Thiện Tích cầm lái bị mây mù vây phủ đâm sầm vào triền núi nổ bùng như một quả bom lửa. Hình ảnh kinh hoàng đó đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng của một hoa tiêu vừa mới chập chững vào nghề như tôi, cho dù đã bao năm qua, hình ảnh thảm khốc của một buổi chiều mây mù ảm đạm vẫn luôn trở lại trong tâm trí tôi mỗi khi bay qua con đường đèo này.



Hai chiếc trực thăng võ trang ra khỏi chân đèo Phượng Hoàng, tôi quẹo con tàu về hướng tây, bay dọc theo con Quốc Lộ 21. Từ xa tôi đã nhận ra chiếc trực thăng của Thần Tượng đang ở trên vùng, chở bộ chỉ huy Dù điều động mặt trận đang tiếp diễn mấy ngày hôm nay.

-Charlie đây Mãnh Hổ gọi…, Hổ đã tới vùng…cao độ năm ngàn bộ, phía đông Khánh Dương khoảng hai dặm.

-OK…, Charlie thấy Hổ rồi. Tôi đang ở trên đầu quân bạn. Hiện địch đang tấn công bằng hỏa tiễn từ triền núi phía nam khoảng cây số. Hổ nhìn kỹ về phía nam Quốc Lộ dọc theo triền núi sẽ thấy mấy cột khói trắng. Đó là vị trí xuất phát của hỏa tiễn pháo vào đơn vị bạn…Hổ tác xạ vào đó, nghe rõ ?

Tiếng Thiếu Tá Lê Hữu Đức, Phi Đoàn phó Phi Đoàn 215 bay chiếc C@C ngày hôm nay. Thiếu Tá Đức là một người hoa tiêu vui vẻ, cao ráo, có khuôn mặt chữ điền. Trong thời gian Thiếu Tá Đức giữ chức vụ Trưởng Phòng hành quân, tôi vẫn nhớ mãi một mẫu chuyện vui về vị niên trưởng khả ái này. Trong một buổi họp Phi Đoàn, Thiếu Tá Đức đứng lên tường trình về cuộc hành quân trong ngày. Sau khi chấm dứt, Thiếu Tá Đức có một vài lời với những hoa tiêu trong Phi Đoàn:

- Gần đây tôi đã nghe báo cáo có một số anh em đã dùng những phi vụ liên lạc để đi săn bắn. Xin báo cho anh em biết thời gian sắp đến tôi sẽ thường xuyên đi kiểm soát những tàu đi bay về. Nếu có bằng chứng về chuyện làm ăn của các anh, tôi sẽ có biện pháp mạnh, khi đó các anh đừng trách tôi là đã không nói trước. Thiếu Tá Đức nói tiếp:

-Chiều hôm qua, tôi xuống bãi đậu Phi Đoàn check một chiếc tàu vừa đi Bảo Lộc về, xin tạm dấu tên phi hành đoàn, tôi tìm thấy trên sàn tàu đầy dấu vết làm ăn của các anh.

Một cánh tay “rụt rè” đưa lên:

-Thiếu Tá muốn nói “dấu vết” là có nghĩa như thế nào ?

-Đó bằng cớ để lại của những chuyện làm ăn của các anh trong khi thi hành phi vụ. Mặc dù các anh đã chùi rửa tàu nhưng tôi đã cho kỹ thuật gỡ mấy miếng sắt trên sàn tàu, máu me lông lá của nai hay heo rừng vẫn còn đọng đầy phía dưới.

Trong bầu không khí nghiêm trang của phòng họp, một tiếng nói phát xuất từ những hàng ghế phía sau, tuy không lớn nhưng đủ để cho mọi người nghe rõ ràng:

-”Thầy”!… Đúng là trong “nghề”.

Vừa nghe xong cả phòng họp rộ lên cười, quay lại nhìn phía sau. Ở hàng nghế sau cùng Trung Úy Tôn Thất Kim, biệt danh là Kim “nhi đồng”, đang ‘biểu diễn” một bộ mặt ngơ ngáo như không biết chuyện gì đang xảy ra.

Vừa đến vùng tôi nghe tiếng Thiếu Tá Đức nhắc nhở:

-Mãnh Hổ…lúc nào sẵn sàng thì vào đánh, đừng xuống thấp quá, quân bạn ghi nhận địch có trang bị SA-7, hai bạn cẩn thận.

-Nghe năm…, Charlie…Hổ đang quan sát mục tiêu.

Ở cao độ khoảng năm ngàn bộ tôi chăm chú nhìn tất cả địa thế phía dưới, mặt trận đang bùng nổ ác liệt, những căn nhà nằm sát QL-21 bốc lửa, từng cột khói đen vươn lên cao trên bầu trời xám xịt. Trên con đường nằm rải rác vài con cua sắt T-54 của địch đã bị mấy phi tuần A-37 “rang muối” cháy đen thui. Phía bắc con đường là một vùng đồi núi thấp, những khoảng ruộng nối tiếp nhau kế những suối cạn quanh co. Phía nam, rặng núi cong cong hình lưỡi liềm, cao khoảng ba ngàn bộ, đưa lưng sát con đường, là nơi Tiểu Đoàn 5 Dù đang trấn ngữ.

Kiểm soát dàn phi cụ lần cuối tôi bắt đầu cho chiếc gun vào vùng oanh kích. Hai chiếc trực thăng võ trang cắm đầu vào triền núi, những trái hỏa tiễn nổ bung lên những cụm khói trắng xám trên mặt rừng xanh thẫm. Từ trên cao độ, tất cả như yên ngủ, không một tiếng súng ngoài tiếng rống nhức nhối của những khẩu mini-gun sáu nòng đang quay vù. Sau vài vòng tác xạ, hai chiếc trực thăng đã cạn đạn dược.

-Mãnh Hổ đây Charlie, hai bạn về Nha Trang đi, tôi thả Bộ Chỉ Huy Dù xuống Dục Mỹ sẽ về sau.

Tôi bẻ lái con tàu trở về hướng biển. Trên bầu trời cao tiếng xé gió của hai chiếc oanh tạc cơ A-37 nối đuôi nhau vút ngang trên đầu, trên cánh sắt treo đầy những trái bom nặng chĩu. Trong khoảng khắc hai con chim sắt biến mất hút về hướng thành phố Ban Mê Thuột đang mịt mù khói lửa.

“Ta là đàn chim bay trên mấy xanh, khi nhìn qua khói những kinh thành tan… Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh…”

Bài ca hùng tráng Không Quân hành khúc mơ hồ văng vẵng đâu đây… Tôi chợt chạnh lòng nhớ đến người em gái mà tôi đã quen tại thành phố đất đỏ thủa nào, không biết giờ đây em đã trôi lạc về nơi đâu? Tên nàng là Nguyệt. Nàng có làn da thật trắng, mịn màng trên khuôn mặt trái xoan thật đẹp. Hằng đêm tôi thường đến Hội quán Biên Thùy nơi nàng làm việc để giải trí vui chơi cho quên đi những nhọc nhằn đã qua, và tìm thêm sức lực để tiếp tục những ngày dong duỗi, ngược xuôi trên những mặt trận nóng bỏng. Một kỷ niệm khó quên mà mỗi lần nghĩ đến, tôi vẫn còn cảm thấy hồi hộp vì hành động liều lĩnh nếu không nói là ngông cuồng của tuổi trẻ, và có thể nói dù xấu hay tốt nó cũng là những nét chấm phá trong cuộc đời vẫy vùng thỏa chí tang bồng hồ thỉ.

Buổi sáng hôm ấy tôi thức dậy sớm như thường lệ, sửa soạn trở vào biệt đội. Nguyệt, người bạn gái tôi lục đục sửa soạn thức ăn sáng sau nhà. Đang thưởng thức ly cà phê nóng, tôi nghe tiếng Nguyệt vọng lên từ bếp:

-Anh chờ tí nghe..em làm đồ ăn sắp xong rồi…

Tôi mỉm cười, cảm thấy vui trong lòng vì biết mình đã được may mắn và sung sướng hơn những người bạn tại biệt đội, có được một người bạn gái dễ thương và một tổ ấm nho nhỏ để trở về sau những phi vụ căng thăng mệt mỏi trên chiến trường.

Nguyệt trong bếp bước ra để dĩa trứng gà ốp la và khúc bánh mì lên bàn:

-Xong rồi đây, anh ăn lót lòng rồi đi. Nguyệt nói tiếp:

-Này anh…chút nữa em theo anh đi chơi nghe.

Vừa đưa ly cà phê lên miệng nghe Nguyệt nói tôi bỏ vội xuống bàn, nhìn nàng:

-Nè, em nói chơi hay thiệt đó. Em có biết anh bay trực thăng võ trang không ? Anh chỉ chở súng đạn chứ không chở người đâu.

-Anh cứ nói, cho em đi một lần cho biết nha…anh hứa hoài à. Chịu chưa, em đi thay đồ…

Nói xong, nàng bước đến gần tôi, tay vỗ ngang hông tôi như thúc dục. Chiếc vòng ngọc xanh biếc đeo trên cổ tay nàng vô ý đập vào bá súng “rouleaux” tôi đang đeo ngang hông, vỡ toang rơi xuống sàn gạch bông. Không ngờ chuyện xui xẻo xảy ra quá đột ngột, Nguyệt đứng sững nhìn xuống, hai miếng ngọc nằm lăn lóc trên sàn gạch bông. Nguyệt cau mặt, thoáng nét thất vọng:

-Tại anh đó…

-Anh làm gì mà tại anh.- Để an ủi Nguyệt tôi nói tiếp. – Thôi đừng tiếc nữa, để coi…, anh mua cái khác đền cho. Cái vòng này có đắt tiền lắm không?

- Khỏi đi anh, cho em đi bay với anh thì anh khỏi đền, chịu không ? Em đi thay đồ nghe…

Phân vân suy nghĩ tôi chưa biết quyết định thế nào, thật khó nghĩ. Ngày hôm nay làm việc cho Trung Đoàn 45 tại Đức Lập, nếu tôi cho Nguyệt đi theo thì tôi phải thả nàng xuống đó trước khi đi đổ quân. Không muốn nàng buồn, nhất là sau chiếc vòng ngọc yêu quý đã bị bể, tôi đành liều.

-OK..thay đồ nhanh lên, anh phải đi gấp, trể rồi.

-Anh ăn vài miếng đi, chờ em thay đồ. Nói xong nàng chạy biến vào phòng ngủ.

Hoa, người bạn gái ở chung nhà với nàng đang lục đục trong phòng tắm, nghe nói thò đầu ra:

-Cho em đi với Nguyệt cho có bạn nhe anh.

Có chở một hay hai người đi theo cũng giống nhau thôi. Tôi trả lời:

-Em nữa, thôi được, thay đồ mau lên nghe, gần đến giờ rồi …

Tại phi trường L-19 một quang cảnh khác thường xảy ra, hàng chục toán lính trang bị súng ống đầy đủ đang ngồi trên bãi cỏ kế bên những chiếc trực thăng đậu hàng dọc, kế đó những sĩ quan bộ binh trên tay cầm bản đồ lăng xăng chạy lui tới . Ở đằng xa, Trung Tá Phi Đoàn trưởng Thần Tượng Khưu Văn Phát bay chiếc C@C, đang đứng nói chuyện với một cấp tá Bộ Binh. Tôi nhủ thầm, hy vọng hợp đoàn sẽ ghé Trung Đoàn 45 tại Đức Lập tôi sẽ có cơ hội thả hai người bạn gái xuống.

Chiếc xe Jeep chở tôi và hai cô bạn gái ngừng ngay hai chiếc trực thăng võ trang đang đậu dọc phi trường. Nhảy xuống xe tôi vẫy tay gọi người xạ thủ đang check tàu gần đấy:

-Kiệt…, có gì lạ không bạn? Bữa nay tàu mình có khách đi theo chơi nghe. Nhờ bạn kiếm giùm hai thùng đạn để cho hai cô ngồi.

Kiệt nghe nói xong gật đầu, miệng cười tủm tỉm tôi chẳng hiểu lý do gì.

Cho Nguyệt và Hoa leo lên tàu. Những người lính ngồi trên bãi cỏ kế bên đang đợi lên tàu đi hành quân, trố mắt nhìn về phía chiếc tàu trực thăng võ trang, tò mò, bàn tán trước một cảnh tượng lạ lùng.

Tất cả tám chiếc trực thăng quay máy cùng lượt, tiếng động ầm ĩ vang động khắp phi trường. Chiếc Charlie của Trung Tá Phát rời mặt đất theo sau năm chiếc chở đầy quân. Tôi cho con tàu ra phi đạo, cắm đầu chổng mông lướt nhanh trên mặt đất, chạy dài tới cuối sân bay, tôi kéo nhanh cần lái con tàu vươn mình lướt qua bìa rừng cây cao su. Thành phố Ban Mê Thuột đang còn ngái ngủ trong sương mai, con tàu lên cao thành phố nhỏ dần… Gió lồng lộng thổi vào khoang tàu kêu phần phật, hòa lẫn với âm thanh của tiếng động cơ và tiếng cánh quạt gió. Lên cao độ, hai bên tàu cửa mở toang phơi bày khoảng không gian mênh mông trên vùng rừng núi trùng điệp. Tôi quay người ra sau, Nguyệt ngồi trên thùng đạn miniguns sau lưng ghế bay người hoa tiêu phụ, tóc nàng xỏa bay lòa xòa trên trán. Tôi vói tay nắm lấy tay Nguyệt bóp nhẹ như để trấn an nàng. Hai người mê vô và xạ thủ ngồi sau khoang tàu tò mò nhìn, nhếch mép cười.

Hơn hai mươi phút bay hợp đoàn đã đến địa phận Đức Lập.

- Khoảng năm phút nữa sẽ đến bãi đáp. Mãnh Hổ theo Charlie vào “clear” bãi đáp. Tôi sẽ thả trái khói.

Đột ngột nghe tiếng nói của Trung Tá Phát trên tầng số, tôi toát mồ hôi hột. Như vậy là chương trình thả hai người bạn gái xuống Trung Đoàn 45 đã bị “trật đường rầy”.

Hợp đoàn đang hạ cao độ chuẩn bị đáp. Đằng trước, không xa, một trảng cỏ xanh lá mạ vây bọc xung quanh rừng cây cao, một làn khói vàng đang vươn lên. Không còn có sự chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục thi hành phi vụ, tôi cố quên đàng sau khoang tàu có hai cô gái đang ngồi. Tôi cho hai chiếc gun kẹp sát hai bên hông hợp đoàn, bắt đầu cuộc oanh kích yểm trợ.

Xoẹt…Xoẹt…Những trái hỏa tiễn bất thần rời dàn phóng, rít lên những âm thanh chói tai, tiếng súng mini-gun sáu nòng quay vù rống lên nghe đinh tai nhức óc, vỏ đạn rơi rào rào trên mặt sàn, mùi thuốc súng khét lẹt quyện lẫn trong không khí… Hai cô gái không hiểu chuyện gì đang xảy ra, hoảng sợ, hai tay bịt tai, mắt nhắm nghiền co rúm người run rẩy trên hai thùng đạn…Chiếc trực thăng quay trở ngược lại, thân tàu nặng nề rung bần bật, vũ trụ quay cuồng điên đảo. Vài phút kinh hoàng trôi qua, cuộc oanh kích yểm trợ hợp đoàn chấm dứt, những chiếc tàu thả quân đã làm xong nhiệm vụ rời bãi đáp. Cuộc đổ quân trôi chảy êm đẹp, không một bóng dáng cũng như một tiếng súng nào của địch được phát hiện.

-Hợp đoàn về đáp Đức Lập, Charlie về sau.

Nghe chỉ thị của Trung Tá Phát tôi mừng thầm trong bụng, chuyển hướng lấy hết tốc độ về phía Đức lập. Chừng mười phút bay sau, hai chiếc gunships đáp xuống bãi đất đỏ trong vòng đai phòng thủ Trung Đoàn 45. Vừa tắt máy, tôi cởi vội dây seatbelt nhảy xuống đất, trên sàn tàu Nguyệt và Hoa ngồi yên không nhúc nhích, mặt mày tơi tả, tóc tai rối bời.

-Xuống đi mấy cô…vào đây nghỉ ngơi tí xong ăn cơm trưa.

Tôi đứng dưới đất đưa tay đỡ Nguyệt xuống tàu, bụng nghĩ thầm hai cô bạn không ói mữa là hay lắm rồi.

Từ chiếc trực thăng Hổ hai đậu cách đó không xa, Thành “râu” bước tới, nhe nụ cười bất hủ dưới bộ râu đậm, lắc đầu:

-Tao hết ý kiến với mày. Nếu mày bị bắn trên vùng thì hết đỡ.

Tôi phân trần:

-Ê, Thành, đây là ngoài ý muốn của tao…, tao tính là sẽ thả mấy cô này xuống đây trước đâu có ngờ bị bay thẳng ra vùng luôn.

Nói xong tôi quay qua nhìn Nguyệt:

-Em thấy chưa, tại em đòi đi nên anh phải chìu, không ai chở người yêu đi hành quân như anh đâu, có chuyện gì là anh lãnh búa, anh Thành mới “chửi” anh em thấy không ? Thôi nói vậy chứ không sao đâu em, lâu lâu xui xẻo lắm mới đụng trận em à… Bây giờ hai em bớt mệt chưa? Mình ở đây chờ, nếu có bốc quân thì em ở tại đây, chiều anh sẽ chở em về.

Hình như trong lòng hơi phấn khởi và nhất là có hai người đẹp đi kế bên, tôi hứng chí nói tiếp:

- Kể ra cũng nên để mấy em đi bay với anh một lần cho biết mặt thật cuộc đời của những người pilot như tụi anh, sống chết như thế nào ngoài mặt trận. Tụi em ở thành phố không biết gì cứ nghĩ mấy ông Không Quân chỉ biết ăn chơi bay bướm…

Bốn đứa chúng tôi bước đi theo con đường đất, hướng về căn lều của bộ chỉ huy. Ngang qua một khẩu đội pháo 105 ly đang khai hỏa, nổ đùng đùng. Hai cô bạn hoảng sợ, ôm chầm lấy tôi, mấy anh pháo thủ đang chuyền nhau trên tay những quả đạn, há hốc mồm nhìn, không biết đã bao lâu rồi họ mới thấy lại bóng hồng xuất hiện trên vùng đất địa đầu giới tuyến này.

Bước tới căn lều bộ chỉ huy, gặp Trung Tá Quang đang đứng với một viên Trung sĩ:

-Chào Trung Tá…Bữa nay tôi đưa mấy em gái hậu phương lên thăm Trung Tá nhân dịp cho mấy em “ủy lạo” anh em chiến sĩ luôn. Nói xong tôi nở nụ cười cầu tài.

-Chào mấy em, vừa đổ quân xong hả. Ngồi nghỉ đi…., nước uống cho khỏe, chút ăn cơm với Trung Tá luôn. Tôi hơi ngạc nhiên khi Trung Tá Quang không hề quan tâm tới hai cô gái cùng bước vào lều với tôi.

Tiếng trực thăng phành phạch bên ngoài, bụi đỏ tung mù mịt, chiếc Charlie của Trung Tá Phát, Phi Đoàn trưởng Thần Tượng vừa mới đáp xuống gần đây. Tôi ghé tai nói nhỏ với Trung Tá Quang:

-Chút nữa Trung Tá Phát vào đây nếu có hỏi hai em này ở đâu thì nhờ Trung Tá nói là người quen của Trung Tá lên đây, và bây giờ muốn theo trực thăng về Ban Mê Thuột nghe.

Trung Tá Quang nổi tiếng là chịu chơi, không một chút thắc mắc, trả lời liền:

-Chuyện nhỏ không sao đâu, để Trung Tá lo…, nhưng mấy em lần sau ghé đây phải đem một con nai tặng Trung Tá như kỳ trước, nghe chưa?

Dòng tư tưởng miên man đến đây, tôi bỗng bật cười lớn, Thạch đang cầm cần lái ngạc nhiên quay đầu nhìn tôi hỏi:

-Có gì vui mà cười vậy ?

-Không có gì, chỉ nhớ tới chuyện xưa lúc chở người bạn gái đi bay gunship mà cười thôi. Nguyệt đó, Thạch biết mà, không biết bây giờ em đang ở đâu, tội nghiệp quá.

Thạch nghe xong không nói gì, nét mặt có vẻ đăm chiêu, rồi đột ngột hỏi tôi:

-Không biết tụi mình còn lên làm việc vùng này nữa không, tôi thấy tình thế có vẻ nặng nề quá. Vợ tôi đang ở Nha Trang một mình tôi đang lo đây.

Nghe Thạch nói xong tôi chợt liên tưởng đến gia đình cha mẹ anh em tôi cũng đang còn ở Nha Trang. Sau bao năm trên chiến trường lửa đạn, những chiến công thu lượm trên mặt trận đều vô nghĩa khi đối diện với thực trạng ngày hôm nay, những chiến thắng của quân ta trong năm tháng trước hình như không còn ảnh hưởng đến cuộc chiến hiện tại, ngọn gió đã đổi chiều. Một cảm giác chán nản đang xâm chiếm tâm hồn, bất giác tôi lắc đầu, trước mặt những làn khói thuốc đang tan loãng vào hư vô. Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân sau mấy ngày giao tranh ngắn ngủi, Pleiku “phố núi cao” đã bỏ ngõ cho địch, trên liên tỉnh lộ 7B, nối liền Pleiku và Tuy Hòa, một cuộc rút quân hỗn loạn, vô tổ chức đang diễn ra. Hằng trăm ngàn dân vô tội cùng cả trăm ngàn binh sĩ đang xô đẩy, chen lấn cố chạy về Tuy Hòa, đằng sau Bắc quân bám sát. Phòng tuyến quan trọng cuối cùng tại ngọn đèo Khánh Dương này hình như không đủ sức để ngăn chận làn sóng Đỏ đang lan tràn, con đường vào vùng đồng bằng duyên hải, cửa ngõ tiến thẳng vào miền Nam đã mở rộng…

Hai chiếc trực thăng võ trang Thần Tượng trên đường trở về căn cứ, từ cao độ thành phố Nha Trang hiện rõ dần, im lìm sưởi nắng bên bờ biển cát trắng, những ngọn sóng bạc đầu nô đùa rượt đuổi nhau trên mặt biển xanh, vô tri vô giác…
NGÀY THỨ 10 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)

CŨNG TRONG NHỮNG NGÀY NẦY NGÀY 19-3-1975: Quân Khu 1 Rút Khỏi QUẢNG TRỊ


LỰC LƯỢNG QUÂN ĐOÀN 1 RÚT RA KHỎI QUẢNG TRỊ

3/1975 - Ngày 19 tháng 3/1975,

Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QD 1 – QK 1 về Sài Gòn để gặp Tổng thống Thiệu trình bày kế hoạch rút quân của Quân Khu 1. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, cùng với sự hiện diện của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của Trung tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo hai phương cách:

- Phương cách thứ nhất: Các lực lượng từ Huế và Chu Lai theo Quốc lộ 1 cùng một lúc rút về Đà Nẵng.

- Phương cách thứ hai: Nếu địch cắt Quốc lộ 1 thì sẽ rút quân về ba nơi: Đà Nẵng, Huế và Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng. Đà Nẵng sẽ trở thành nơi cố thủ của SĐ 1 BB, SĐ 2 BB, SĐ 3 BB, SĐ TQLC và 4 Liên đoàn BĐQ .
Sáu giờ chiều, Trung tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng. Khi phi cơ vừa hạ cánh, thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó QĐ 1 gọi từ bộ Tư lệnh Tiền phương QĐ 1 ở Huế. Tướng Thi báo rằng địch đang pháo đại bác 130 ly vào bản doanh của ông đồng thời tung ra những đợt tấn công quy mô với thiết giáp yểm trợ để tìm cách vượt qua vòng đai phòng thủ của lực lượng VNCH tại sông Thạch Hãn. Nhận được khẩn báo của Trung tướng Thi, Trung tướng Trưởng liền báo cáo cho Đại tướng Viên và yêu cầu cho Quân Đoàn 1 được giữ lại LĐ 1 ND, lúc đó đang có mặt tại Đà Nẵng chuẩn bị về Sài Gòn. Đại tướng Viên báo lại cho Tổng thống Thiệu. Là Tổng Tư Lệnh Tối cao của QLVNCH, Tổng thống Thiệu chấp thuận yêu cầu này với điều kiện: Lữ đoàn 1 ND được ở lại nhưng Quân Đoàn 1 không được sử dụng để tung vào chiến trận.


NGÀY 19-3 ĐẾN NGÀY 24-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH – QUÂN KHU 2

Tướng Niệm với vỏn vẹn 2 trung đoàn trong tay, và không còn lực lượng trừ bị, đã ra lịnh cho các tiểu đoàn bộ chiến của ông cố giữ vững những vị trí chiếm được, sau khi lực lượng SĐ22 BB không thành công trong nổ lực khai thông đèo An Khê.

Trong lúc đó, cuộc triệt binh xuôi đông của các đơn vị QĐ 2 đang tiến hành trên LTL 7B. Tới ngày 19 tháng Ba, Bắc quân đã kiểm soát được mạn đèo phía Tây dẫn vào vùng phụ cận của An Khê. Ngày 22 tháng Ba, Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn12 BV tiến vào An Khê. Mọi sự kháng cự của lực lượng phòng thủ tại đây chấm dứt. Hơn 5000 thường dân chen chúc trên những hưong lộ xuôi nam, cố gắng tìm đường thoát hiểm về Qui Nhơn.


NGÀY 24-3-1975

Ngày 24 tháng Ba, Trung Đoàn 42 BB triệt thoái dọc theo đường 19, phía đông Bình Khê, và Trung Đoàn 41 BB triển khai lực lượng phòng thủ Bình Khê.

Cùng ngày 24 tháng Ba, Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào Bình Khê, đồng thời bao vây, cô lập hai Trung Đoàn 41 và 42, SĐ 22 BB đang phòng thủ bảo vệ quận lỵ này. Các Trung Đoàn 141, và 12 thuộc SĐ3 BV ào ạt tiến về phía đông hướng Phù Cát. Mặt Trận B3 địch cho điều thêm Trung Đoàn 95 B từ Pleiku, tiến về phía đông, dọc theo QL19, để bắt tayTrung Đoàn 2 chính qui Bắc Việt, phối hợp tấn công nhằm tiêu diệt Trung Đoàn 42 BB, đang dàn quân bảo vệ phía đông quận Bình Khê. Nhưng Trung Đoàn 41 và 42 BB không để địch quân kịp thực hiện ý đồ, đã phá vở vòng vây của quân BV, rút lui về Qui Nhơn cùng với hơn 400 binh sĩ ĐPQ được trực thăng cứu thoát từ đèo An Khê ngày hôm trước. Khi lực lượng thụộc hai trung đoàn này đang đào hầm hố, cũng cố vị trí phòng thủ Qui Nhơn, thì Sàigòn cho lịnh di tản những đơn vị còn lại của SĐ 22BB.


NGÀY 31-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH – QUÂN KHU 2

Ngày 31 tháng Ba, Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào căn cứ Không Quân Phù Cát, 32 máy bay của Không Lực miền Nam đã bay thoát về được các phi trường quân sự ở phía Nam. Vào ngày 1 và 2 tháng Tư, 1975, khoãng 7000 quân còn lại của SĐ 22 BB và lưc lượng diện địa tỉnh Bình Định được các chiến hạm của Hải Quân VN, tại cảng Qui Nhơn, bốc về cảng Vũng Tàu. Trong lúc đó, quân chính qui Bắc Việt với chiến xa yểm trợ đã tràn ngập thành phố Qui Nhơn !! Quân Khu 2, Vùng 2 Chiến Thuật đang thực sự bước vào cơn hấp hố i!![/COLOR][/SIZE]


TRẬN ĐÁNH PHI TRƯỜNG PHỤNG DỰC, BAN MÊ THUỘT VÀ NHỮNG KHÚC BI TRÁNG CUỐI ĐỜI CHIẾN BINH


4 giờ sáng ngày 10.03.1975

Sau những trận mưa pháo suốt 2 tiếng đồng hồ, Cộng quân với chiến xa và biển người tiến chiếm Ban Mê Thuột. Và với một lực lượng đông gấp 10 lần, địch đã làm chủ tình hình ngay từ phút đầu.
Sự chống trả mãnh liệt của những đơn vị phòng thủ thị xã cùng với sự yểm trợ hữu hiệu gan dạ của các phi công anh hùng đã chặn bớt được sức tiến của quân thù.
Nhưng ngày hôm sau khi Cộng Sản Bắc Việt tung thêm Sư Đoàn Tổng Trừ Bị 316 mới từ miền Bắc vào, và một phần Sư Đoàn 968 từ Pleiku kéo xuống, thì lực lượng hai bên ,giữa ta và địch, trở nên quá ư chênh lệch cả về quân số, chiến xa cùng vũ khí hạng nặng các loại !

8 giờ sáng hôm sau. 11.03.1975

10 chiến xa T.54 của CSBV bắn trực xạ vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Vị Tư Lệnh Chiến Trường chấp nhận rủi ro nguy hiểm yêu cầu Không Quân đánh bom thẳng vào những xe tăng địch. Những phản lực cơ A.37 lao xuống. 3 chiếc T.54 bốc cháy, nhưng rồi 2 trái bom khác rơi trúng hầm chỉ huy và truyền tin của Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23 BB. Cắt đứt liên lạc với Tư Lệnh Chiến Trường và Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột từ lúc đó.

8 giờ sáng ngày 11.03.1975

Giờ phút của định mệnh, và cũng là khởi đầu ngày thứ hai, trong trận đánh quyết định giữa hai miền Nam Bắc 1975. Chiến trường Ban Mê Thuột coi như kết thúc với sự tràn ngập của Bắc quân !
Nhưng tại mặt trận phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột khoảng 8 km về phía đông, 1 Trung Đoàn của Sư Đoàn 23 BB, Trung Đoàn 53 BB vẫn tiếp tục chiến đấu thêm một tuần lễ nữa. Chiến đấu dũng mãnh, dai dẳng, phi thường . . . cho đến những người lính cuối cùng và những viên đạn cuối cùng được bắn đi !
Đó là một huyền thoại trong cuộc chiến đấu chống Cộng thần thánh nhất của Quân Dân miền Nam Việt Nam. Đó cũng là biểu tượng tinh thần gang thép, sắt đá của người chiến sĩ QLVNCH.

Trận thử sức dò dẫm của hai Trung Đoàn CSBV và Trung Đoàn 53 BB đầu tiên xảy ra lúc 14 giờ trưa ngày 10.03.1975 với kết quả địch bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết !

Nhưng chưa đầy một ngày sau, 5 giờ sáng ngày 11.03 khi những chiến xa T.54 của CSBV nghiền nát những đường phố Ban Mê Thuột tiến thẳng vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh cũng là lúc địch quân rửa hận cho “đồng bọn” chúng tại mặt trận phi trường Phụng Dực.

Sư Đoàn 316 Tổng Trừ Bị của Cộng Sản Bắc Việt, lần đầu tiên được tung vào chiến trường Cao Nguyên và miền Nam Việt Nam. Từ “xa lộ đất” Hồ Chí Minh, Sư Đoàn này bất chấp mọi thiệt hại di chuyển ngày đêm không nghỉ để tới trận địa đêm 10.03.1975 và ngay sáng hôm sau dốc toàn lực lượng tấn công Sư Đoàn 53 Bộ Binh !

45 phút khởi đầu là những cơn mưa pháo phủ chụp lên đầu những người lính VNCH, chiến sĩ ta “chìm ngập” trong giao thông hào. Sau đó Bắc quân với những tên lính trẻ xuất trận lần đầu hung hăng hò hét xung phong . . .

Từng lớp. từng lớp người đổ rạp nhưng chúng vẫn hô, vẫn tiến điên cuồng.

Trận thư hùng thứ hai ngày 11.03 này kéo dài 2 giờ 40 phút. Gần 200 người anh hùng của chiến trường miền núi vĩnh viễn buông súng gửi thân xác của Họ ở lại với vùng Cao Nguyên Việt Nam !
Nhưng những người còn lại, vẫn tiếp tục chiến đấu. Chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tê, không tải thương, không tắm gội, 24/24 giờ ngoài chiến hào phòng thủ !


Quá 1/2 lực lượng bị thiệt hại, từ khi ở mặt trận Quảng Đức rút về. Trung Đoàn 53 Bộ Binh hiện còn hơn 1 Tiểu Đoàn với khoảng 500 “tay súng”, và Họ đã chiến đấu một cách đơn độc sang ngày thứ ba,12.03. Ngày thứ tư,13.3. Ngày thứ năm,14.3. Ngày thứ sáu,15.3. Ngày thứ bảy,16.3. Và hôm nay, ngày thứ tám . . . 17.03.1975 !!

Thật anh hùng ! Thật vĩ đại ! Thật phi thường ! Không còn từ ngữ nào khác hơn để ca ngợi, vinh danh Họ, Và đó cũng là một huyền thoại bi tráng nhất của chiến tranh Việt Nam, trong trận đánh sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên !



Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh chiến trường Cao Nguyên

Bay trên đầu của những người anh hùng của phi trường Phụng Dực, trưa ngày 12.03.1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh chiến trường Cao Nguyên đã nói chuyện với hai người quân nhân “lớn” nhất và “nhỏ” nhất của Trung Đoàn 53 Bộ Binh.

Người anh hùng Võ Ân, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng.
-Buồn ngủ quá . . . “Mặt Trời”ơi ! (Mặt Trời là danh hiệu truyền tin cũa Tướng Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II hôm nay )
-“Chú mày” . . . chịu nổi không ? Tinh thần anh em ra sao ?
-Bị . . .“sứt mẻ” kha khá ngày hôm qua, nhưng chưa sao .”Mặt Trời” yên tâm !
-“Chú mày” muốn gì . . . đặc biệt không ?
-Dạ không, nhưng sao “Mặt Trời” không bay trực thăng hôm nay ?
-Tại “qua” muốn “ở chơi” với “chú mày” và những anh em khác lâu lâu một chút. Mà tại sao “chú mày” hỏi như vậy ?
-Tại vì tôi muốn mời “Mặt Trời” đáp xuống coi “kho vũ khí Việt Cộng” ở phòng danh dự phi cảng . . . cho anh em lên tinh thần !
Tướng Phú cười:
- Ý kiến hay đấy ! Thôi để lần sau vậy !
- . . .

Người anh hùng Nguyễn Văn Bảy, Binh Nhì xạ thủ súng cối 81 ly.
- Em tên gì ?
- Dạ . . . binh nhì Nguyễn Văn Bảy, 18 tuổi !
- Em thấy Việt Cộng chết nhiều không ?
- Nhiều, nhiều lắm Thiếu Tướng !
- Em muốn xin Thiếu Tướng gì nào ?
- Xin thuốc hút và . . . lựu đạn.
- Gì nữa ?
- Thôi!
- Thiếu Tướng thăng cấp cho em lên Binh Nhất ! chịu không ?
- . . .
Một giọng cười khúc khích trong máy
- “ Ông thầy !” . . . Ông Tướng tặng tôi cái “cánh gà” chiên bơ !
- Không được, . . . “tao” phản đối !!
- . . .

Cái “cánh gà”, chữ V, đó là hình dáng của chiếc lon Binh Nhất. “Ông Thầy” là tiếng gọi thân mật vị Trung Tá trung Đoàn Trưởng mà người “binh nhất vừa được tân thăng” Nguyễn Văn Bảy gọi người chỉ huy của mình.

Mẫu đối thoại trên cho thấy tình chiến hữu anh em của những người lính Trung Đoàn 53 BB. Đó cũng là một cách để chứng minh, tại sao trong những ngày cuối cùng, họ vẫn sống chết cùng nhau, chia nhau từng viên đạn , từng dúm gạo sấy, từng hớp nước, từng hơi thuốc . . .

Theo thời gian, bày ngày đêm chiến đấu dài hơn 7 năm tại mặt trận phi trường Phụng Dực. Đã 3 ngày kể từ khi lệnh triệt thoái Cao Nguyên được ban hành, Trung Đoàn 53 không còn nhận được bất cứ một tiếp tế, liên lạc nào với Quân Đoàn. Họ đã phải sử dụng súng đạn tịch thu được của quân thù trong trận đánh đầu tiên để bắn lại chúng !!
Nhưng hôm nay, 17.03.1975, sẽ là ngày . . . dài nhất trong cuộc đời lính chiến của Họ !

7 giờ 40 sáng, khi rừng núi Cao Nguyên vẫn còn ngủ yên với những tầng sương mù phủ kín. Thì hàng trăm hàng ngàn đạn pháo của Bắc quân dội vào những chiến hào của Trung Đoàn 53 BB. Cỏ cây rạp xuống, những cột đất đỏ tung cao. Trận địa pháo kéo dài 1 tiếng đồng hồ. Tiếp theo sau là tiếng loa kêu gọi đầu hàng, tiếng hò reo như sóng vỡ của biển người,
Và rồi tiếng gầm rú của hàng đoàn chiến xa T.54 trên khắp ngả tiến vào cày nát phi đạo phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột !

Hôm nay là ngày đầu của cuộc rút quân của Quân Đoàn II. Sư Đoàn 316 CSBV quyết “khai tử” Trung Đoàn 53 Bộ Binh/ QLVNCH. Quyết nhổ đi “cái gai” cuối cùng của Mặt Trận Ban Mê Thuột, của Chiến Trưởng Cao Nguyên để mở đường tiến về Duyên Hải !
8 giờ 30 sáng, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, vị Tướng lớn nhất của Quân Đội, gọi yêu cầu được tường trình đặc biệt về Mặt Trận Phi Trường Phụng Dực, và . . . số phận các Chiến Sĩ Trung Đoàn 53 Bộ Binh.

Đây cũng là một vinh dự, một hãnh diện cuối cùng dành cho những”Dũng Sĩ” tại mặt trận này ! Nhưng Đại Tướng Viên chỉ được báo cáo, qua nguồn tin không chính xác, của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Hành Quân ở Phước An: Trung Đoàn 53 Bộ Binh đang bị đánh rất nặng, Bắc đã quân tràn ngập vị trí phòng thủ của Họ !

Đạn hết, lương thực hết. Không còn cấp chỉ huy, không còn được yểm trợ, không còn máy móc để liên lạc, để . . . kêu cứu. Những chiến sĩ Trung Đoàn 53 Bộ Binh gục ngã từng người, từng tổ, từng Tiểu Đội trong những chiến hào cho đến người cuối cùng !
11 giờ 30 sáng 17.03 Tiếng súng im bặt. Bắc quân cắm ngọn cờ đỏ trên đài kiểm soát không lưu của phi trường Phụng Dực và thu dọn chiến trường.

Không có tù binh, không có cả những người lính bị thương. Những Dũng Sỉ của Trung Đoàn 53 Bộ Binh không còn chiến đấu nữa. Họ đã tan ra, đã nát ra . . . từng mảnh vụn và trộn lẫn vào đất đỏ của miền Cao Nguyên hùng vĩ !
Ngày 17.03.1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh/ QLVNCH bị Bắc quân xóa tên. Đó cũng là một ngày bi tráng và đau buồn ! Lần đầu tiên trong 21 năm chiến đấu chống Cộng và giữ Nước, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II triệt thoái khỏi Cao Nguyên !!

Nhưng không ! đó vẫn chưa phải là những giòng chữ cuối cùng viết về các Dũng Sĩ Trung Đoàn 53 Bộ Binh ! Bởi vì, vẫn còn những anh hùng của QLVNCH mang phù hiệu cũa Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 22 BB trên vai áo !

Hai ngày sau, khi Bắc quân tràn ngập phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, một nhóm quân nhân của đơn vị này đả “về” được Phước An và tiếp tục chiến đấu tại mặt trận Quốc Lộ 21. Một tuần lễ sau nữa, ngày 24.03.1975, ba “người anh hùng” khác, sau 7 ngày 7 đêm vượt cả trăm cây số đường rừng núi “sống với cỏ cây, thiên nhiên”, từ Ban mê Thuột đã lên tới buôn Thượng Dam Rong, Đà Lạt ! Họ là những quân nhân bất tử của Trung Đoàn 53 Bộ Binh ! Họ thật vĩ đại và thật phi thường !!
Và đó là một trong những huyền thoại của chiến tranh Việt Nam, trong những trận quyết tử Nam-Bắc sau cùng 1975 !

Trở lại những ngọn đồi vô danh

11 giờ sáng ngày 31.03.1975 tại Bộ Tư Lệnh Hành Quân Mặt Trận Bình Định vị Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB nhận được lệnh “điều động” Sư Đoàn về phòng thủ Quy Nhơn.

11 giớ phút trên hệ thống truyền tin chỉ huy giữa Sư Đoàn với Trung Đoàn, và sau đó Trung Đoàn – Tiểu Đoàn, các trung Đoàn Trưởng, tiểu Đoàn Trưởng đều nghẹn ngào khi nghe lệnh này. Cả 3 Trung Đoàn 41, 42, 47 lúc đó đều đang giao tranh với địch. Trung Đoàn 41 và 42 BB tại các mặt trận trên Quốc Lộ 19 cách Quy Nhơn 30 cây số, và Trung Đoàn 47 ở phía Bắc Bình Định.

Có những người quân nhân nhà nghề đã chiến đấu trong các Đại Đơn Vị này suốt 2 thập niên ngay từ khi Sư Đoàn mới thành lập. Đã trải qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, nếm đủ vinh quang, bi hùng trong suốt 20 năm trận mạc dòng dã. “Những người lính già của chiến trường”, tưởng không bao giờ bị gục ngã. Nhưng với cái lệnh rút khỏi vùng hành quân hôm nay, họ biết ngay đây là giai đoạn chót cuối đời binh nghiệp !!!

Sư Đoàn đã từng bị đánh tan tành và tưởng đã bị xóa tên trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Họ đã rút lui , đã tan hàng, đã từng mở đường máu suốt mấy chục cây số đường rửng núi để về “điểm tập trung”.

Nhưng họ không sờn lòng nản chí, họ vẫn vững tinh thần tin ngày hồi sinh của Sư Đoàn !
Một cuộc rút quân khác nữa mà họ không bao giờ quên. Đó là cuộc chuyển quân thần tốc của một Trung Đoàn, TĐ 42 BB, từ Tây Nguyên trở về Bình Định tái chiếm Đèo Nhông. Đây cũng là một chiến thắng huyền thoại nhất của Trung Đoàn 42 trong năm 1974. Trung Đoàn 42 Bộ Binh đang hành quân tại vùng Pleime, Tây Nam Pleiku, trong một buổi chiều được lệnh giải tỏa áp lực của địch tại Mặt Trận Bình Định. Cuộc chuyển quân tưởng rằng phải thực hiện trong vòng hai hay ba ngày. Nhưng ngay đêm hôm ấy toàn bộ Trung Đoàn đã về tới Bắc Phù Cát, và từ đó không nghỉ, như một bàn đạp đánh thẳng vào hậu phương địch, khiến Bắc quân trở tay không kịp, những trận kịch chiến đẫm máu dòng dã suốt hai ngày sau đó. Trung Đoàn 42 đã tiêu diệt gần trọn 1 Trung đoàn CSBV của Sư Đoàn 3 Sao Vàng dựng nên “Chiến Thắng Đèo Nhông”.

Trước khi mặt trận Ban Mê Thuột bùng nổ, một lần nữa Trung Đoàn 42 BB lại biến 2 ngọn đồi vô danh vùng Tây Nam quận Hoài Nhơn, Bình Định thành những “di tích” của chiến sử nói lên tinh thần chiến đấu chống Cộng phi thường của người chiến sĩ QLVNCH.

Hai ngọn đồi vô danh đó là những ngọn đồi chiến lược, được mang số trên bản đồ hành quân 82 và 147 nằm trên huyết lộ vận chuyển của cộng quân, trên trục Quảng Ngãi – Bình Định. Cũng tại hai cao điểm chiến lược này, bọn nhà báo bất lương ngoại quốc, sau gần 20 năm xuyên tạc chiến tranh Việt Nam đã phải ngả nón kính phục về tinh thần dũng cảm của QLVNCH. Một phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ cũng được gởi tới đó để quan sát chiến trường, khi về nước đã lên tiếng bênh vực, ủng hộ Việt Nam . Nhưng . . . mọi chuyện đã quá muộn !

22 giờ đêm Tướng Phạm Văn Phú. Tư Lệnh cuối cùng của Quân Đoàn II và chiến trường Cao Nguyên bay trên đầu những cánh quân của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Với phương tiện có thể có và hải pháo yểm trợ của Hải Quân vùng II, ông hy vọng sẽ cứu được 50 % lực lượng của Sư Đoàn. Tuy nhiên , điều mong ước của Ông không bao giờ đến !

Giờ phút này, trước đó và sau đó suốt 22 tiếng đồng hồ, các trung Đoàn 41, 42, 47 trên chặng đường rút quân và cũng là một trận tuyến dài hơn 30 cây số, từng đơn vị bị phục kích, bị đánh tan tác, bị chặt đứt ra từng khúc nhỏ .

Đây là cuộc trả thù man rợ nhất, tàn ác nhất trong trận chiến sau cùng của chiến tranh Việt Nam. Trên 30 cây số đường máu, chiến đấu không yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương vì “hậu phương” rã ngũ, bỏ súng !
Trước mắt là địch, sau lưng cũng là địch !


Đối thủ tuy vẫn là Sư Đoàn 3 Sao Vàng và những Tiểu Đoàn Đặc Công Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng Bắc quân ở thế thượng phong. Có pháo nặng, chiến xa yểm trợ và một “hậu phương lớn nổi dậy”. Những người Cộng Sản đã không cần biết đến quy luật của chiến tranh. Chúng thẳng tay tàn sát kẻ thù mà trước đây đã từng gây cho chúng những tổn thất lớn lao, những thất bại đau đớn.

Trên 30 cây số đường máu các chiến sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã chiến đấu trong tình trạng tuyệt vọng nhưng dũng cảm anh hùng. Họ đã bắn đến viên đạn cuối cùng rồi gục xuống, Đả có những hành động hào hùng, phi thường, bi tráng xảy ra ở đây ngay trên chiến trận này !

Một cấp chỉ huy Trung Đoàn 47 đã quỳ xuống, ôm lấy người lính bị thương rồi bật khóc. Người lính hấp hối, thoi thóp nhưng ngón ta vẫn để trên cò súng. Ông đau đớn, Ông đứng dậy bỏ đi. Nhưng rồi lặng lẽ quay trở lại ông rút súng kết liễu đời đứa em thân yêu và thật bình tĩnh để súng lên màng tang tự bắn vào đầu mình !


Có một “người Anh Lớn” khác sau khi tiễn các chiến hữu của mình lên tàu hết, rồi lững thững quay trở lại. trời bừng sáng nhưng anh đã không chọn hướng đi về phía ánh mặt trời. Anh trở lại con đường cũ, trở lại phía có những “Ngọn Đồi Vô Danh”. Nơi đó Anh sẽ gặp Dũng Sĩ Mai Hồng Bướm, người Binh Nhất Trung Đội Trưởng Anh Hùng của Sư Đoàn 22 BB – người Trung Đội Trưởng thứ . . . sáu của Trung Đội đã chỉ huy đơn vị đánh bật kẻ thù khỏi đỉnh Du Tự, Hoài Ân trước khi gục ngã. Và gặp lại rất nhiều những anh hùng vô danh khác của Sư Đoàn, những Người đã lấy máu mình tô thắm cho màu cờ Đơn Vị, trong những năm tháng sau cùng !!!

Ngày thứ 7 của cuộc rút quân và sau hai tuần lễ Cộng Sản Bắc Viết tấn chiếm Ban Mê Thuột. 2/3 Chủ Lực quân của Quân Đoàn II tan tành. Đó là Sư Đoàn 23 BB và 7 Liên Đoàn Biệt Động Quân, những Đơn Vị này đã bị thiệt hại từ 60~70 % quân số.

Lực Lượng Pháo Binh nặng 175 ly, 155 ly, các Thiết Đoàn Chiến Xa coi như “bất khiển dụng” 90%. Gánh nặng đè xuống cho các đơn vị còn lại: Sư Đoàn 22 BB và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Lữ Đoàn 3 Dù được tăng phái phòng thủ tuyến đèo M’Drak, mặt trận Khánh Dương.
Niềm hy vọng cuối cùng và cũng là đại đơn vị duy nhất còn lại của Quân Khu II- Sư Đoàn 22 Bộ Binh- được trải dài , bao vùng cả 3 mặt trận.


Các trung Đoàn 41, 42 và 47 trấn giữ Quốc Lộ 19 và mặt trận Bình Định. Hàng ngày “ đối diện” với Sư Đoàn 3 Sao Vàng cùng các đơn vị trọng pháo, chiến xa của CSBV. 2/3 quân số Trung Đoan BB và Bộ Chỉ huy TĐ tăng cường cho mặt trận Khánh Dương. Tư Lệnh Phó SĐ Bộ Tham Mưu Nhẹ được lệnh tới “cố vấn” đánh chốt tại Phú Yên, và bảo vệ Đèo Cả trên Quốc Lộ 1 giữa đường Phú Yên Nha Trang .

Sư Đoàn 22 BB được xem như một biểu tượng, một uy dũng, một kỳ diệu cho tinh thần chiến đấu tuyệt vời , thần thánh cùa QLVNCH. Sư Đoàn với danh hiệu” Tam Hắc Sơn, Bạch Nhị Hà, Trấn Sơn - Bình Hải” này đã từng đại bại, tan hàng tưởng như bị Bắc quân xóa tên từ nhiều năm trước. Nhưng rồi vẫn oai hùng trở lại phong độ, chiến đấu dũng mãnh cho tới ngày cuối cùng.

Trận đánh lớn đầu tiên của chiến tranh Việt Nam xảy ra tại Cao Nguyên năm 1961. Gần một Trung Đoàn BB bị thiệt hại Vị Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB trong thời gian này là Trung tá Nguyễn Bảo Trị.
Hồi đó vùng trách nhiệm của Sư Đoàn còn kéo dài theo biên giới trên Quốc Lộ 14: Từ Dakto, Banhet qua Dak Sut, Dak Pek và lên tới Dakrơtah . Sau trận này tôi đã có dịp lên sống trên một ngọn đồi gần Toumorong 40 ngày để nghiên cứu viết về mặt trận B3 của địch và . . . để chia xẻ những đau đớn tủi nhục của một đoàn quân bại trận (!!)

Một lần nữa , tháng 4 .1972, Sư Đoàn tan hàng tại Tân Cảnh (Dakto, Komtum). Tư Lệnh Sư Đoàn tử trận, Bộ Tham Mưu ,Trung Đoàn Trưởng 42 mất tích. Hai Trung Đoàn 42 “về” được Pleiku 50 người. Trung Đoàn 47 khoảng 300. Tại mặt trận Bắc Bình Định, sau những trận bị tấn kích tại Bồng Sơn và khi địch chiếm Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn rồi, Trung Đoàn 40 “chạy” được tới Phú Bài, Quy Nhơn gần 100 người !
Thời gian này, Sư Đoàn 22 Bộ Binh xuống còn 1 Trung Đoàn và cần được bổ xung thêm quân số !

Nhưng rồi như một phép nhiệm màu, với chính sách “tam cùng”: cùng ăn, cùng ngủ, cùng sống chết có nhau. Sư Đoàn đã hồi sinh mau lẹ. Đúng 4 tháng sau, Sư Đoàn 22 BB đã chiếm lại tất cả những phần đất mà chính mình đã để mất vào tay giặc, vùng Bắc Bình Định.

Những trận đánh ròng rã suốt mấy tháng trời tại Bắc Bình Định, Trung Đoàn 21 CSBV của Sư Đoàn 3 Sao Vàng bị khai tử hoàn toàn. Một Trung Đoàn Chủ Lực khác của địch, trung Đoàn 141 ngoài Quảng Ngãi được chuyển vào thay thế.
Một thời gian sau các chiến sĩ Sư Đoàn 22 Bộ Binh một lần nữa trở lại Tây Nguyên. Đây cũng là dịp để người anh hùng “ Trấn Sơn Bình Hải” này trả được cái hận cũ: hận “tan hàng” tháng 4/1972.

Trung Đoàn 40 lên Bắc Komtum cùng với các chiến sĩ Biệt Động Quân, đương đầu với Sư Đoàn F10 CSBV. Trung Đoàn 42 tăng cường trấn giữ mặt trận Tây Nam Pleiku, với sự hiện diện thường trực của Sư Đoàn 320 CSBV.
Và “cái hận cũ” đã được trả. Những lực lượng của SĐ 22 BB đã chận đứng, phá vỡ được cuộc hành quân quan trọng của Sư Đoàn 320 CSBV trong ý đồ tấn chiếm căn cứ Pleime, và sau đó mở trục tiếp vận từ căn cứ này tới Quốc Lộ 19. Trong một cuộc phản phục kích tuyệt vời gần Pleime, Trung Đoàn 42 BB đã tiêu diệt gọn gần 2 Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 64 VC. Trung Đoàn 40, Sư Đoàn 22 BB hôm nay gặp lại đối thủ cũ: Sư Đoàn F10 CSBV tại mặt trận Bắc Komtum khi trước. Âu đó cũng là . . . định mệnh !!!

Đoàn quân Mũ Đỏ

20 giờ 20 ngày 29.03.1975. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nhận được báo cáo từ mặt trận Khánh Dương. Quốc Lộ 21: Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đang bị tấn công nặng.

Lực lượng Mũ Đỏ bây giờ là linh hồn của Mặt trận Khánh Dương. Quân Khu II. Tuyến Dù vỡ, Nha Trang không bị đánh cũng vào tay giặc. Và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ lại di tản lần thứ hai !

Đà Nẵng mất,Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, vừa đ0au buồn, vừa lóe lên một tia hy vọng . Chiều mai 30.03.1975 hay chậm lắm là hai ngày nữa. Mặt trận Khánh Dương, Nha trang sẽ được tăng cường bởi Đoàn Quân Mũ Xanh Thủy Quân Lục Chiến.
Tướng phú dùng máy STS liên lạc với Trung Tá lê văn Phát, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, hiện đang là Tư Lệnh Mặt Trận Khánh Dương. Ông ra lệnh, Ông yêu cầu anh em Dù ráng chống đỡ đêm nay. Ngày mai sẽ có 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân, và sau đó 1 Lku74 Đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ Đà Nẵng về cùng lên chiến đấu tại Mặt Trận này !
Vị Tư Lệnh Chiến Trường, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Dù, ra lệnh cho các đơn vị lập phòng tuyến thép, không lùi !
. . .





Nhưng đêm nay ? Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù sau những thiệt hại tại Quân Đoàn I, và hơn 1 tuần lễ tại Mặt Trận Khánh Dương, quân số chỉ còn hơn 1000 . . .

Không chiến xa, không Pháo Binh nặng làm sao họ đương đầu được với 3 Sư Đoàn chủ lực quân CSBV F10, 320, 316 đông hơn gấp 10 lần, và với nhựng Trung Đoàn Pháo, Trung Đoàn Chiến Xa T-54 đã tiến sát cận kề ?

Tuyến đầu tiên của Lữ Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù bị CQ vây kín 4 mặt, bị đánh trộn chấu, biển người.

Tiểu Đoàn 5 ND là Đơn Vị tôi có khá nhiều kỷ niệm. Tôi đã ôm dù nhảy tập, nhảy hành quân theo họ nhiều lần. Tôi có “những người anh em” từ cấp Binh Nhì đến Tiểu Đoàn Trưởng ngay từ cuối thập niên 1950. Như NQT, Ngô Lê Tĩnh, Hà Huyền Chi, Nguyễn Chí Hiếu, Bùi Quyền và nhiều nữa .

Nhưng hai người mà tôi nhớ nhất, đó là một “chú em nhỏ” Binh Nhì 17 tuổi , đã bắn hạ Chiến Xa Bắc Việt tại An Lộc trong Mùa Hè đỏ Lửa 1972. Chú em này sau trở thành con đỡ đầu của cụ Trần Văn Hương, Phó Tổng Thống VNCH. Và “người phóng viên già” Nguyễn Đạt Thịnh, Đã quyết định in hình người anh hùng Mũ Đỏ trẻ tuổi này lên trang bìa một tờ báo quân đội thay vì in hình Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Vanuxem “xuống“ An Lộc ngày 7.7.1972 !!

Một người nữa là Bùi Quyền. Anh là một Tiểu Đoàn Trưởng có tư cách, một anh hùng, người Tham Mưu Trưởng tài ba của Lữ Đoàn và . . . ngèo nhất nước. Anh biết chia sẻ những nguy hiểm, và những thiếu thốn với những anh em binh sĩ. Khi anh làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 ND, vợ của ông Tiểu Đoàn Trưởng, của các sĩ quan cũng như những bà vợ của anh em binh sĩ đều sống trong những dãy nhà tôn của trại gia binh, và chia nhau đồng đều quyền lợi của Đơn Vị .

Đó cũng là người niên trưởng “hắc búa” nhất, thần tượng của nhà văn Phan Nhật Nam ngoài chiến trường, cũng như khi còn học ở trường Võ Bị Đà Lạt !

Hơn một tuần lễ Lữ Đoàn 3 ND tới trấn đóng đèo M’ Drak, chúng tôi mới gặp nhau 1 lần. Đêm nay Bùi Quyền và những người anh em khác của tôi đang “ngập chìm” giữa vòng vây địch. Đường Nha Trang- Khánh Dương 20 phút bay ! tôi muốn được đến gần họ ngay bây giờ. Dù chỉ để nghe tiến họ kêu vang và để biết rằng Họ vẫn còn đang chiến đấu !!

19 năm trước khi còn “tuổi trẻ hân hoan đợi gói trong cờ”, tôi được đào tạo thành một quân nhân nhà nghề. Tôi được gởi đi học lớp Đại Đội Trưởng tại một trưởng bộ binh Hoa Kỳ. học đánh nhau theo kiểu Mỹ !

Có lần trong phần kết thúc của một bài học về tác chiến, người sĩ quan huấn luyện viên nói một câu, tôi còn nhớ mang máng rằng :
“ Khi tôi còn nhỏ, Mẹ tôi thường nói: con muốn điều gì, hãy nhắm mắt lại và mơ ước. Lúc mở mắt ra, Mẹ cho con tất cả những gì con muốn. Lớn lên khi chỉ huy ngoài mặt trận, lúc bị vây hãm tràn ngập: tôi nhắm mắt lại và tin rằng khi mở mắt ra tôi sẽ thấy . . . một đám mây hình nấm !”

“ Đám mây hình nấm” là hình dáng cột khói tạo nên bởi trái bom B-52 thả xuống , là “bức tường mây” của mấy chục khẩu pháo cùng bắn hiệu lực vào mục tiêu.

Đó là đánh nhau “theo kiểu Mỹ” ! người Mỹ đã huấn luyện tôi, huấn luyện những cấp chỉ huy của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đánh nhau như vậy, đúng 20 năm nay đã quen và không sai chạy. Nhưng bây giờ, người Mỹ phản bội, bỏ chạy. Và chúng tôi không B-52, không đại bác, không chiến xa. Và trước một quân thù hung bạo với một rừng xe tăng, đại pháo, với biển người lớp lớp hàng hàng !!!
Nhìn về phía Khánh Dương, tôi thấy mịt mù xa tắp. Tự nhiên tôi nhắm mắt lại. Tôi theo đạo Công Giáo, nhưng đã hơn 10 năm rồi chưa một lần bước vào nhà thờ. Và đêm nay, tôi đã nguyện cầu. Tôi cầu xin cho những người anh em tôi qua được một đêm. Ngày mai . . . quân tăng viện sẽ đến !!!


. . .

Trích từ Cuộc triệt thoái cao nguyên của Phạm Huấn




CÙNG NGÀY 19-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2

TRÊN CHIẾN TRƯỜNG QK 2 - CHIẾN TRƯỜNG QUỐC LỘ 21 - KHÁNH DƯƠNG

Sau khi cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột của chiến đoàn đặc nhiệm của Tưóng Phú tại Phước An bị SĐ 10 Bắc quân với quân số và hoả lực áp đảo chận đứng tại sông Ea Nhiêu, thành phần sống sót của LĐ 21 BĐQ, của các đơn vị thuộc SĐ 23 BB và lực lượng diện điạ Tiểu Khu Darlac đã mở đường máu, rút về phía đông dọc đường 21. Tất cả được tập trung tại quân Khánh Dương, một quận miền núi của tỉnh Khánh Hòa, nơi QL21 đổ qua đèo Cả xuôi xuống vùng bình nguyên Khánh Hòa. Đèo Cả là điểm phòng ngự lý tưởng để bảo vệ Nha Trang, nơi đặt đại bản doanh mới của QĐ2, Quân Khu 2, cùng Bộ Tư Lệnh của Hải Đội 2 Duyên Phòng, và SĐ2KQ. Nha Trang còn là nơi có các trung tâm huân luyện quốc gia Lam Sơn, và trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Về phía tây Ninh Hòa, nằm lưng chừng giữa vùng duyên hải và vùng đồi núi của quận Khánh Dương, là trung tâm huần luyện Dục Mỹ của binh chũng BĐQ và binh chũng Pháo Binh. Về mặt quân sự chiến lược thì Khánh Hòa là nơi tập trung các lực lương quân sự còn lại, một cứ điểm cuối cùng của Vùng 2 Chiến Thuật, để ngăn chặn đường tiến quân dọc theo QL1 về hướng Sàigòn của các binh đoàn Bắc Việt, cũng như là nơi phát khởi moi cuộc phản công trong tương lai nhằm tái chiếm Tây Nguyên.

Hầu hết những thành phần sống sót của các đơn vị rút về từ Darlac, được đưa khỏi Khánh Dương bằng đường bộ hay bằng trực thăng. BĐQ được bốc về Dục Mỹ để tái phối trí, còn các binh sĩ SĐ 23 BB được đưa về các trung tâm huấn luyện tại Cam Ranh và Lam Sơn để tái huân luyện và bổ sung quân số.

Một bộ chỉ huy tiền phương được thành lập tại Khánh Dương để chỉ huy các lưc lượng tăng phái bảo vệ đèo gồm Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, trên đường rút về bảo vệ thủ đô Sàigòn từ chiến trường Thường Đức-Quảng Nam, đã chuyễn hướng lên thẳng Khánh Dương; và bộ chỉ huy của hai tiểu đoàn bộ chiến thuộc Trung đoàn 40, SĐ 22 BB điều qua từ Bình Định.

Lực lượng đich là SĐ F10BV, sau khi đánh bại chiến đoàn đặc nhiệm của tướng Tường tại Phước An, tiến như thác lũ xuống vùng bình nguyên theo đường 21, đã nhanh chóng tiếp cân khu vực Khánh Dương. Trung Đoàn 40 BB tức tốc tiến sâu vế phía tây để chặn đánh lực lượng tiền phương của Bắc quân. Trong khi đó LĐ 3 Dù dàn quân trên những cao địa bên trong khu vực đèo Ma’Drắc, ngay sau tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 40 BB.

Ngày 22 tháng ba, lưc lượng tiền tiêu của SĐ10 BV, với chiến xa yểm trợ đã tràn vào vị trí của hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 40 BB. Với hoả lực và quân số áp đảo, SĐ10 Bắc quân đã đánh bật Trung Đoàn 40 BB ra khỏi vị trí bố phòng. Lưc lương còn lại của Trung Đoàn 40 BB rút lui ra tuyến sau, nhường chiến trường lại cho Lữ Đoàn 3 Dù.

Với một hệ thống đường mòn xuyên qua vùng rừng rậm đầy những triền dốc đứng nằm về phía tây tỉnh Khánh Hòa, nếu bị ngăn chặn bởi Lữ Đoàn Dù đang bố trí quân trong khu vực đèo trên đuờng 21, Bắc quân có thể điều một lực lượng lớn tiến về phía nam, đi vòng qua vị trí của quân Dù, tràn xuống Nha Trang từ phía tây qua ngả Diên Khánh. Để tránh điều này, QĐ2 đã rút Trung Đoàn 40 BB về Dục Mỹ, đi ngược về phía nam, dàn quân tại vùng phía đông quận Diên Khánh, dọc hai bên Tỉnh Lộ 420, con đường dẫn từ hướng đông vào Diên Khánh và vào thành phố Nha Trang.Trung đoàn 40BB được tăng cường một tiểu đoàn ĐPQ và được yểm trợ bởi một đại bác 155-mm và hai khẩu 105 ly, Howitzers. Các toán viễn thám được tung vào khu vực rừng phía nam Khánh Dương nhằm phát hiện những dấu vết của lực lượng lớn Bắc quân trên đuờng di chuyễn về nam, hướng Diên Khánh; nhưng quân ta không phát giác được những dấu vêt gì khả nghi quan trong.

Lữ Đoàn 3 Dù cũng cố công sự phòng thủ tại đèo Ma’Drắc, với các vị trí tiền tiêu đặt tại núi Chu Kroa, một cao điểm trên 1000 mét, nằm đợi SĐ10 Bắc quân mà một trung đoàn của SĐ này, Trung Đoàn 28 chính qui BV với T54 yểm trợ đã có mặt tại Khánh Dương. Về phía nam tuyến phòng thủ của LĐ 3 dù là vị trí của một tiểu đoàn ĐPQ. Riêng Tiểu Đoàn 34, LĐ 6 BĐQ, tiểu đoàn đã tả xung hữu đột vượt trận điạ sát của Bắc quân trên LTL 7B, bảo vệ mạn bắc đèo, đoạn dẫn vào Ninh Hòa.

Với LĐ 3 Dù vẫn còn trụ lại Khánh Dương trên đường 21, Tướng Phú vào ngày 29 tháng Ba, bổ nhiệm những tư lệnh trong vùng đất còn lại của QK2. Tướng Niệm, Tư Lệnh SĐ22 BB, chịu trách nhiệm hai tỉnh Bình Định và Phú Yên.

Thị xã Qui Nhơn, cứ điểm cuối cùng của SĐ 22 BB tại Bình Định thất thủ ngày 2 tháng Tư, 1975. Riêng hai tỉnh cao nguyên còn lại là Tuyên Đức và Lâm Đồng đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Lâm Quang Thơ, Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Quốc Gia. Ngoài lực lượng điện đia của 2 tiểu khu TĐ và Lâm Đồng, Tướng Thơ còn có trong tay một tiểu đoàn BĐQ thuộc LĐ 24, đơn vị đã vượt rừng về Tuyên Đức sau khi Quãng Đức thất thủ.

Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tư Lệnh Phó QK2, được giao trách nhiệm phòng thủ Đặc Khu Cam Ranh, và hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Trách nhiệm nặng nề nhất, bảo vệ tỉnh Khánh Hòa, được giao phó cho Tướng Trần Văn Cẩm, chỉ huy toàn bộ lực lượng phòng thủ Nha Trang gồm LĐ3 Dù, Trung Đoàn 40BB, TĐ 34 BĐQ và các đơn vị diện địa.

Ngày 30 tháng Ba, SĐ F10 chính qui BV thay vì chuyễn hướng về phía tây để tránh Lữ Đoàn 3 Dù đang dàn quân bảo vệ Khánh Dương, đã tiến thẳng vào trận điạ bố phòng của quân Dù. Cùng ngày Bắc quân tấn công Tiểu Đoàn 3 Dù tại đèo Cả. Được yểm trợ bởi Trung Đoàn 40 Pháo tầm xa và hai chi đoàn chiến xa T54, các đơn vị thuộc Trung Đoàn 28 và 66 BV bao vây TĐ 2 Dù mà quân số lúc này chỉ còn hơn một Đại Đội !

Lữ Đoàn 3 Dù bố trí sâu trong vùng phía nam núi Chu Kroa chừng 15 km dọc trên những cao điểm nhìn xuống QL21. Hoả lực pháo tầm xa 130 ly của địch quân đã bắn cháy 5 trên tỗng số 14 Thiết Vận Xa yểm trợ quân Dù, và buột 3 pháo đội 105- ly của Lữ Đoàn 3 Dù phải rút về tuyến sau, thiết lập các cứ điểm hỏa lực yểm trợ quân Dù gần buôn Ea Thi. Rất tiếc là các cứ điểm hỏa lực mới đã quá tầm bắn yểm trợ cho các vị trí tiền phương của quân Dù ! Hoàn toàn thiếu sự yểm trợ của hỏa lực phi pháo, lại phải gánh chiụ những mưa pháo khũng khiếp của đại pháo 130 ly, kết hợp với những đợt tấn công ác liệt cuả quân bộ chiến tùng thiêt của Bắc quân, Lữ Đoàn 3 Dù, dù sao đi nữa cũng chỉ là một lữ đoàn khinh chiến cơ động, hoàn toàn không thích hợp cho lối đánh phòng thủ, Tại buôn Ea Thi, lực lượng SĐ10 BV đánh bọc sườn các vị trí của quân Dù đóng dọc theo quốc lộ và tấn công vị trí của Tiểu Đoàn 6 Dù. Mặc dù quân Dù chống trả mãnh liệt, bắn cháy ba chiến xa T54 của Bắc quân, nhưng trưóc áp lực nặng nề của địch quân, TĐ 6 Dù buột phải bỏ vị trí. Với Lữ Đoàn 3 Dù bị cắt đôi tại Buôn Ea Thi, các đơn vị còn lại phải nhanh chóng tháo lui để bảo toàn lưc lượng.

Sau một tuần lể giao tranh khốc liệt với Bắc quân và không được tiệp tế lương thực và vũ khí đ, Lữ Đoàn 3 Dù với quân số chỉ còn được một phần tư, rút lui qua khỏi Dục Mỹ, và Ninh Hòa, lập tuyến phòng thủ mới tại đoạn đường hẹp nơi QL 1 chạy dọc theo ven biển bên dưới núi Hòn Sơn, ngay phía Bắc Nha Trang. Với sự triệt thoái của quân Dù, các đơn vị tại các trung tâm huấn luyện Dục Mỹ và Ninh Hòa cũng bỏ vị trí rút lui.

Ngày 1 tháng Tư, 1975, chiến xa Bắc Việt tiến vào Dục Mỹ, vượt qua Ninh Hoà, tiến thẳng về Nha Trang. Các thành phần còn lại của quân Dù, BĐQ, Trung Đoàn 40 BB và lực lượng diện điạ QK2 triệt thoái về Phan Rang. Lúc 15 giờ cùng ngày, các máy bay tại căn cứ Không Quân Nha Trang cất cánh bay về các phi trường phía nam.

Ngày 2 tháng Tư, chiến xa Bắc Việt tiến vào thành phố Nha Trang. Bộ Tỗng Tham Mưu tại Sàigòn ra lịnh lập tức di tản các đơn vị còn lại của QĐ 2 ra khỏi Cam Ranh. Trong khi đó, các lực lượng diện địa của Tiểu Khu Tuyên Đức và Lâm Đồng cũng trìệt thoái qua ngả Phan Rang. Quân Đoàn 2, Quân Khu 2 kể từ giờ phút này đã bị chính thức xoá tên!!




TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 - QUẢNG TRỊ


NGÀY 19-3-1975 TẠI QUÂN KHU 1

Ngày 19 tháng Ba, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để gặp TT Thiệu và Thủ Tướng Khiêm. Tại đây ông lại được lịnh ngưng việc di tản khỏi Huế và phải bố phòng bảo vệ các cứ điểm tại Huế, Đà Nẵng,Chu Lai, và thị xã Quãng Ngãi. Trong trưởng hợp bất khả kháng, ông được phép rút khỏi Chu Lai và Quãng Ngãi, nhưng phải bảo vệ Huế và Đà Nẵng bằng mọi giá!

NGÀY 19-3-1975 TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ

Ngày 19 tháng Ba, chiến xa và bộ binh BV vượt lằn ranh ngưng chiến ở Quãng Trị, tiến thẳng về phía nam mà chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt của lực lượng điạ phương. Các đơn vị tiền tiêu của Bắc quân dừng lại tại tuyến Mỹ Chánh giáp ranh giới tỉnh Thừa Thiên chờ lịnh tấn công. Cuộc tấn công của địch bắt đầu vào sáng sớm ngày 21 tháng Ba, khi các tiểu đoàn tiền phương của SĐ 324B và 325 BV, cùng Trung Đoàn độc lập Trị Thiên, với sự yểm trợ của pháo tầm xa, ào ạt tràn vào vị trí bố phòng của quân ta tạị vùng hành lang Sông Bồ trải dài tới Phú Lộc. Hoả lực pháo nặng của địch cũng bắt đầu bắn vào thành phố Huế.


Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng Tại BTL QĐ I (Đà Nẵng)

Tác giả/Nhân vật: Lê Đình Cai

Tối ngày 15-3-75, tôi hẹn gặp Hồ Văn Cường, Phó tỉnh trưởng Thừa Thiên tại Câu lạc bộ Thể Thao trên bờ của Tả ngạn sông Hương, Huế. Cường và tôi là bạn học đồng lớp, nên chơi thân với nhau khi chúng tôi cùng làm việc tại Huế. Tôi muốn gặp Cường để xem có tin gì mới về tình hình chiến sự và chính trị hay không. Dịp này tôi may mắn gặp được tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh tiền phương Quân đoàn I tại Huế, đang ngồi cùng bàn với Cường. Tôi cũng biết tướng Thi khi tôi đang dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia VN tại Đà Lạt (68-70).

Khi tôi nêu câu hỏi về tình hình, “liệu chúng ta có đủ lực lượng để đương đầu với sự tấn công của địch quân từ hướng bắc không?”. Tướng Thi tỏ vẻ tin tưởng là chúng ta có thể cầm cự được vì hiện tình hình chưa có gì đáng ngại.

Chúng tôi ngồi không lâu thì vội vã cáo từ ra về vì trong lòng tôi nỗi lo âu tràn ngập khi làn sóng người chạy loạn từ Quảng Trị đổ dồn về Huế ngày càng đông trong đó có cả gia đình ba má và các em tôi. Khi từ giã Cường tôi hỏi liệu có nên đem gia đình vào Đà Nẵng hay không? Cường nói là nên. Đêm đó tôi thuê xe để sáng mai (16.3) đưa ba má, các em và vợ con tôi vào Đà Nẵng.

Trên con đường từ Huế vào Đà Nẵng là cả một đoàn người di tản dài dằng dặc, xe cộ chỉ nhích từng chặng một nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng đến được Đà Nẵng vào lúc trời nhá nhem tối. Thành phố này giờ trông thật hổn độn, đoàn người tứ phương từ Quảng Trị, Huế đổ vào, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đổ ra tràn ngập trên các ngã đường và các trường học bây giờ là nơi tạm trú cho dân cư tứ xứ tập trung về đâỵ Chính quyền địa phương cũng đã làm hết sức để ổn định trật tự và chú tâm vào việc cứu trợ đồng bào tị nạn.
Qua sáng ngày 18-3-75 (?), sau khi ổn định tạm thời cho toàn đại gia đình ở trại tạm cư, tôi ghé lại trường Đại học Quảng Đà thăm giáo sư Ngô Đồng, viện trưởng trường Đại Học nàỵ Anh Đồng và tôi bàn định cùng nhau là nên tiếp tay chính quyền địa phương ổn định tình hình cứu trợ và đồng thời tìm cách động viên anh em binh sĩ đang cầm súng ở tiền tuyến. Chúng tôi đi đến quyết định thành lập “Ủy ban Nhân dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến”, liên lạc với các tổ chức chính trị địa phương để mời tham gia và yểm trợ phương tiện. Chúng tôi dự định xin giờ phát thanh để phát đi lời kêu gọi của Ủy ban hầu động viên tinh thần chiến sĩ và trấn an tâm lý đồng bào đang hoảng loạn. Chúng tôi dự định đề cử giáo sư Ngô Đồng nắm giữ chức vị chủ tịch uỷ ban này.

Chiều ngày 18-3-75 (?), khoảng 4 giờ anh Ngô Đồng và tôi cùng vào Bộ tư lệnh Quân Đoàn I, để thăm tướng Ngô Quang Trưởng, và nhân dịp trình bày cùng tướng Trưởng về ý định thành lập Ủy ban Yểm trợ Tiền tuyến của chúng tôi. Tôi đã gọi điện thoại cho trung tá Đức, chánh văn phòng của tướngTrưởng để nhờ sắp xếp cuộc gặp gỡ. Dù bận rộn với bao việc, tướng Ngô Quang Trưởng vẫn dành thì giờ tiếp giáo sư Ngô Đồng và tôi.

Ở đây tôi xin mở dấu ngoặc để nói đến mối giao tình thân quý mà tướng Trưởng đã dành cho chúng tôi từ trước. Giáo sư Ngô Đồng vì làm viện trưởng đại học Quảng Đà nên thường gần gũi hàng ngày công việc giao tiếp với tướng Trưởng khi ông còn nắm giữ chức Tư Lệnh quân khu I kiêm đại biểu chính phủ tại vùng I đóng ở Đà Nẵng. Rìêng cá nhân tôi khi đổi về giảng dạy tại đại học Huế (70-75) có dịp trực tiếp gặp gỡ một số sĩ quan cao cấp ở vùng địa đầu giới tuyến và qua báo chí được biết về tướng Trưởng với rất nhiều huyền thoại, nhất là từ lúc tướng Trưởng chỉ huy lực lượng tái chiếm thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa 1972. Chìến thắng vang dội này đã đưa tên tuổi tướng Trưởng lên cao và tướng Trưởng đã trở thành thần tượng trong lòng các chàng trai thế hệ trên dưới 30 tuổi như chúng tôi hồi đó.

Khi xuất bản quyển sách “34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu- (1691-1725)”, vào năm 1971, tôi đã gửi đến tướng Ngô Quang Trưởng bản đặc biệt in trên giấy trắng tinh với lời đề tặng trân trọng. Mỗi lần có dịp đi công tác vào Đại học Quảng Đà, tôi đều dành thì giờ ghé qua bộ tư lệnh thăm tướng Trưởng. Có lần tôi nhờ trung tá Đức báo lại với trung tướng là tôi trên đường đi Saigon chỉ ghé lại Đà Nẵng được 2 tiếng rồi phải ra sân bay cho kịp giờ phi cơ cất cánh. Thế mà trung tướng vẫn dành cho tôi buổi gặp gỡ hết sức thân tình dù tinh hình quân sự vào dạo đó rất là căng thẳng.

Trong thời gian phong trào chống tham nhũng của L.m. Trần Hữu Thanh lên cao mà anh em chúng tôi hồi đó được chỉ thị của trung ương (của một đảng chính trị) phải tích cực tham gia (khoảng 74-75), tôi được cấp trên ủy thác dò ý xem liệu tướng Trưởng có thể đứng đầu một hội đồng tướng lãnh đảo chánh ông Thiệu không? Và lần đó tôi đã ngồi nói chuyện với tướng Trưởng khá lâụ Trong câu chuyện, tôi xin trung tướng cho biết nhận xét của trung tướng về tình hình quân sư. tại vùng địa đầu giới tuyến, rồi nhân đó xin được biết ý nghĩ của ông về tình hình chính trị tại Sàigon khi phong trào chống Tổng thống Thiệu ngày càng lên cao. Tướng Trưởng tỏ ra hết sức kín đáo, không bộc lộ thái độ gì rõ rệt đối với giới cầm quyền trung ương, chỉ nói là ông ngày đêm lo bảo vệ an ninh vùng địa đầu nên ít quan tâm đến các biến chuyển chính trị. Khi tôi nhin thẳng vào mắt trung tướng và nói: “Thưa trung tướng, trong chính gìới và nhất là trong lớp thanh niên sinh viên trẻ tuổi mà tôi được nhiều dịp tiếp xúc, mọi người đều kỳ vọng trung tướng là người có thể làm chuyển đổi tình hình ngày càng xấu đi rõ rệt của miền Nam cả về quân sự lẫn chính trị.”

Tướng Ngô Quang Trưởng không nói gì. Ông đưa điếu thuốc lên môi rồi châm lửa đốt. Đôi mắt ông mơ màng nhìn theo khói thuốc tan loãng vào không trung… Thấy cuộc gặp gỡ cũng đã lâu và nhân dịp trung tá Đức, chánh văn phòng của ông vào trình công việc, tôi xin phép kiếu từ. Khi bắt tay, trung tướng nhìn tôi và nói: Tình hình khó khăn và phức tạp lắm giáo sư ạ. Có những điều mà mình tưởng là có thể thực hiện được trên chiến trường mà củng đành bó tay, huống hồ gì… Trung tướng ngừng ở đây không nói tiếp… chúng tôi xiết tay từ giã.

Bây giờ xin trở lại buổi gặp gỡ giữa trung tướng, giáo sư Ngô Đồng và tôi vào những ngày mà Đà Nẵng hấp hối và quân đoàn I coi như sắp sửa tan hàng.

Khi chúng tôi đến bộ tư lệnh quân đoàn khoảng 4 giờ chiều ngày 18-3-75 (?) thi trung tướng đã có mặt để tiếp chúng tôi. G.S. Ngô Đồng liền trình bày ngay dự định của chúng tôi muốn kêu gọi mọi thành phần dân chúng địa phương thành lập “Ủy ban nhân dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến” để tỏ rõ sự đoàn kết quân dân một lòng trong việc bảo vệ quê hương. Tướng Trưởng tỏ ra hết sức xúc động. Tuy nhiên giọng ông buồn buồn: “Tình hình quân sự bây gìờ đang ngày càng trầm trọng. Việc giữ an ninh cho vòng đai chung quanh Đà Nẵng bây gìờ chỉ còn được tính từng ngày từng gìờ”. Trung tướng bày tỏ lòng cảm ơn về ý kiến của G.S. Ngô Đồng nhưng ông không có đề nghị gì hay thái độ hổ trợ tích cực cho dự định nàỵ Bây giờ sau hơn 1/4 thế kỷ, đọc lại lời trần tình của Trung tướng trên báo chi mới hay rằng việc mất Huế và Quân đoàn I cũng như mất Cao nguyên (vùng II) đã được tổng thống Thiệu quyết định và thông báo cho tướng Trưởng ngày 13-3-75 khi ông được TT Thiệu triệu tập về Dinh Độc Lập.
Xin hãy nghe tướng Trưởng kể lại:

”Ngày 13-03-1975, tôi được lệnh vào Sàigòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôị Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Saigon họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một minh tôi thôị Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi TT Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ quân đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôị Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường sư đoàn Dù cùng với Thủy quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp nhận. Lệnh bất di bất dịch là: “Phải rút quân đoàn I càng sớm càng hay.”

…Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin TT Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều.

Tổng thống Thiệu rung động chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18-3-75, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó quân đoàn I) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị : Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên thừa lệnh TT yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Lệnh đó làm cho tôi chết lặng ngườị Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đâỵ Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướngThị Tướng Thi trả lời ngay: “Ơ? Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm saỏ”. Tôi buồn bã trả lời, “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được.” .Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng.

23-03-2975 - Tàu hải quân VNCH chở người dân từ Huế di tản vào Đà Nẳng

Xin xem thêm ở báo Chính Luận ở Seattle số 139 ra ngày 6-8-99 dưới tựa đề :”Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I” của tướng Ngô Quang Trưởng.

Xin trở lại buổi gặp gỡ cuối cùng tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ngày 18-3-75 (?).. bắt tay tiễn chúng tôi ra khỏi bộ tư lệnh lúc đó khoảng 4 giờ 30, tôi nhìn kỹ tướng Trưởng thấy ông gầy hơn trước rất nhiều, đôi mắt sâu hơn dù vẫn còn linh động. Khi ra tới cửa, trung tướng nắm tay tôi và nói nhỏ :”Giáo sư nên đem gia đình vào Sài gòn càng sớm càng tốt”. Tôi nhìn thẳng vào ông và có cảm tưởng khó gặp lại vị tướng mà mình đã từng coi như là thần tượng. Và quả thật, từ lần gặp gỡ đó, cho đến mãi 20 năm sau (tháng 4/95) trong chuyến về thăm Hoa Thịnh Đốn, sau khi vừa đến Hoa Kỳ tôi mới gặp lại tướng Trưởng tại tư gia ở thành phố Springfield, Virginiạ
Sau khi liên lạc được với đại tá Đào Mộng Xuân (người rất gần gũi với tướngTrưởng ở hải ngoại), tôi xin đại tá thu xếp để tôi có dịp hạnh ngộ với tướngTrưởng sau 20 năm trời cách biệt. Tướng Trưởng hẹn gặp tại một quán phở (tôi không nhớ tên) ở Hoa Thịnh Đốn vào buổi trưa. Cùng đi với tôi lúc đó có giáo sư Nguyễn Lý Tưởng và anh Lê Quyền (chủ tịch ban Đại diện Cộng đồng Hoa Thịnh Đốn lúc ấy). Chúng tôi gặp lại nhau trong một hoàn cảnh thật bất ngờ. Tôi nắm chặt tay tướng Trưởng vẫn khuôn mặt khắc khổ đó vẫn dáng dấp cao và ốm đó, vẫn với đôi mắt sâu và sáng đó, 20 năm sau vẫn không có gì thay đổi, chỉ có mái tóc đã ngã màu muối tiêụ Sau khi dùng bữa ăn trưa nhẹ, anh Tưởng và anh Quyền chào từ giả, còn tôi lên xe về nhà tướng Trưởng ở Springfield và ở lại cho đến tối mịt mới từ giã ra về.

04-04-1975 - Dân chúng di tản từ các thành phố tràn về Sài Gòn

Có những chuyện gì để nhắc lại, để nói ra sau 2 thập niên xa cách?

Vừa bước vào cổng, chúng tôi gặp ngay bà Ngô Quang Trưởng. Bà vẫn còn giữ lại nét đẹp quý phái của ngày nàọ Tôi cúi đầu chào khi tướng Trưởng giới thiệụ Bà Trưởng đi vào trong một chốc rồi trở ra với hai tách cà phê sữa để trên bàn và một dĩa bánh bích quị Bây giờ tôi mới có thì giờ nói chuyện với tướng Trưởng nhiều hơn. Không có gì thú vị và quý bằng gặp lại cố nhân, nhất là khi ngồi trước mặt mình là con người mà 20 năm về trước là một vị tướng với hào quang sáng chói và nếu miền Nam không mất, biết đâu chừng tướng Trưởng sẽ đóng vai trò quan trọng trên giòng sử Việt. Quả thật, biết đâu chừng khi thế hệ trẻ như chúng tôi và bao lớp thanh niên sinh viên khác ở miền Nam đều coi tướng Trưởng là vị tướng không những hết sức tài ba mà lại còn rất trong sạch nữạ Tôi khỏi cần nhắc lại ở đây nhận xét của Đại tướng Mỹ Norman Schwazkopf trong cuốn sách hồi ký mang tên: “It does not take a hero”, trong đó có đoạn khá dài dành để ca ngợi thiên tài quân sự của tướng Trưởng khi ông này còn là đại tá và tướng Norman là thiếu tá cố vấn.
Tướng Trưởng vẫn giữ thói quen hút thuốc lá liên miên như 20 năm trước, khiến tôi trong câu chuyện hàn huyên và bên cốc cà phê bốc khói mà bên ngoài thì mưa lâm râm như bầu trời ở quê nhà, cũng đã phì phà điếu thuốc phả khói mông lung. Có điều tôi không thấy bà Trưởng tỏ dấu phiền hà gì cả khi khói thuốc tràn ngập cả phòng khách.
Sau những han hỏi về gia đình, con cái, tôi nói với tướng Trưởng là tôi định viết cuốn sách về chiến tranh VN và hy vọng tướng Trưởng sẽ là một trong những nhân chứng sống vào giai đoạn sụp đổ của nền Đệ II Cộng Hòạ Trong câu chuyện, tôi đề nghị tướng Trưởng nên viết lại hồi ký để giúp cho các nhà sử học sau này có nhiều tư liệụ Tướng Trưởng cho biết là bè bạn đã thúc đẩy ông làm việc này nhưng ông vẫn cứ đắn đo mãi vì sự thật khi phải nói ra sẽ mất lòng nhiều ngườị Và giọng ông trầm xuống buồn buồn: “Trong tâm tư sâu thẳm, tôi vẫn cảm thấy mình có tội với Tổ quốc, với người dân khi không bảo vệ được vùng đất mà mình trách nhiệm. Nỗi buồn càng lớn hơn khi mình vượt thoát ra được nước ngoài trong khi biết bao chiến hữu của mình phải vào các nhà tù khổ sai, số khác phải bỏ mình trên đường vượt thoát…” Tôi kính trọng ý nghĩ đầy tinh thần trách nhiệm này của Trung tướng. Tôi tin rằng lịch sử rất công minh khi luận xét công tội của những ai thực sự chịu trách nhiệm trong việc sụp đổ của chế độ Cộng Hòa tại Miền Nam.
Gặp tướng Trưởng lần cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đóng ở Đà Nẵng vào tháng 3-75 rồi đến 20 năm sau vào tháng 4-95, tôi mới có dịp gặp lại vị tướng mà mình hết lòng quý trọng trong chuyến về thăm Hoa Thịnh Đốn khi tôi vừa mới đến Hoa Kỳ theo diện HO 28 (tháng 11-94). Hai thập niên không là bao so với chiều dài của lịch sử dân tộc, nhưng 20 năm so với đời người thì đâu phải là ngắn ngủi, nhất là 20 năm đầy thăng trầm dâu biển của một thân phận tù đầy trên quê nhà tăm tốị Gặp nhau trên một đất nước xa quê nhà cả một đại dương mênh mông quả là điều vươ.t quá mong ước của con ngườị Thế mà điều này trong thực tế, đã trở thành hiện thực.

San Jose, những ngày hồi tưởng lại tháng Tư đen 1975…
Lê Đình Cai
Chưa có Phê Bình nào


QUẢNG TRỊ 19-3-1975

Hương Lộ 555 Lẻ Loi

Tác giả/Nhân vật: MX Lưu Văn Phúc
MX Lưu Văn Phúc

Lời mở đầu của người viết:

Đã hơn 28 năm qua, bây giờ viết lại chỉ mục đích nhắc lại một giai đoạn ngắn của cuộc hành quân triệt thoái chiến trường Quảng Trị.
Với cái nhìn hạn hẹp của một người chỉ huy cấp Pháo đội. Mong rằng những gì không được đẹp lòng, xin quý vị có liên quan rộng tình thứ lỗi.


Thứ I: Những ngày trung tuần tháng 3 năm 1975.

1. Lược qua thành phần chỉ huy thuộc Tiểu đoàn 1 Pháo binh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, thời điểm đầu và trung tuần tháng 3 năm 1975:

- Tiểu đoàn trưởng: Thiếu Tá Nguyễn Hữu Lạc (Khóa 8 Sĩ Quan Pháo Binh)
- Tiểu đoàn phó: Thiếu Tá Trương Công Thuận (K13, SQPB)
- Trưởng ban 3 (Sĩ Quan Hành Quân & Huấn Luyện): Đại úy Huỳnh Văn Vân (K12, SQPB)
- Sĩ Quan Phối hợp Hỏa Lực cạnh TTHQ Lữ Đoàn 258/TQLC: Đại úy Lâm Quốc Vân (K22, SQPB)
- Pháo đội trưởng Pháo đội Chỉ huy & Công vụ/Hành Quân: Trung úy Hà Minh Công (K26, SQPB)
- Pháo đội trưởng Pháo đội A: Đại úy Nguyễn Văn Thiết (K20, SQPB)
- Pháo đội trưởng Pháo đội B: Đại úy Lưu Văn Phúc (K21, SQPB)
- Pháo đội trưởng Pháo đội C: Trung úy Nguyễn Văn Tuấn (K26, SQPB)


2. Cuộc họp quan trọng tại Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn 258.

Trưa ngày 14 tháng 3 năm 1975, Đại tá Nguyễn Thành Trí, Tư lệnh phó Sư Đoàn Thủy Quân lục chiến từ Bộ Tư lệnh tại Quận lỵ Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên đến Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 258 đang trú đóng gần ngã tư Hội Yên, Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị để mở cuộc họp khẩn cấp với Đại tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 258 cùng các Sĩ Quan Tham Mưu Lữ Đoàn và tất cả các đơn vị trưởng trực thuộc Lữ Đoàn, trong đó có Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Pháo binh Thủy Quân Lục chiến.
Cuộc họp được biết qua tình cảm bạn hữu, một vị Sĩ Quan có mặt trong cuộc họp đã tiết lộ chút ít nội dung: “Hai Lữ Đoàn 258 & 369 Thủy Quân lục chiến cùng Bộ Tư Lệnh và các Tiểu đoàn tác chiến, Quân Y, Truyền Tin, Công Binh, Yểm Trợ Thủy Bộ… sẽ hành quân về Đà Nẵng.

Nhiệm vụ thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù. Ngoại trừ một Pháo đội thuộc Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC được chỉ định ở lại Quảng Trị; Thiếu Tá Lạc đã chọn Pháo đội B nhận lãnh trách nhiệm đó. Cá nhân tôi thoáng một chút lo âu, bối rối. Vì cách ngày này một tuần lễ, tôi có xin phép Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn để cho vợ tôi đem 2 đứa con nhỏ (3 tuổi và 9 tháng) ra thăm. Dự định, chờ chuyến liên lạc gần nhất sẽ cho vợ con trở về Sài Gòn. Bây giờ biết giải quyết ra sao?
Tôi hỏi lại người bạn: “Có chắc rằng Thiếu Tá Lạc chỉ định Pháo đội B?”.
Người bạn đáp: “Chắc. Mày ráng mà liệu cho vợ con của mày về Sài Gòn càng sớm càng tốt”.
Ngay trong buổi chiều, tôi thu xếp và nhờ Trung úy Huỳnh Thái Sơn, Pháo đội phó, người Sĩ Quan phụ tá, đưa dùm vợ con của tôi ra Huế. Cố gắng mua vé máy bay Hàng Không Việt Nam cho vợ tôi và 2 con rời Huế, về Sài Gòn.
Cám ơn Thượng Đế, cám ơn Sơn, may mắn đã mua được vé phi cơ chuyến chót Huế – Sài Gòn. Trung úy Sơn liên lạc với tôi từ phi trường Phú Bài, Huế bằng máy PRC 25 qua trung gian tiếp vận tại hậu trạm. Biết được vợ và 2 con đã ngồi trên máy bay rời Huế về Sài Gòn, tôi thật sự thở phào nhẹ nhõm.


3. Nhận lệnh:

Gần tối 14-03-1975, Thiếu Tá Lạc cho lệnh gọi tôi lên Bộ Chỉ huy TĐ1/PB/TQLC họp hành quân. Ông nói rằng họp hành quân cũng không đúng ý nghĩa. Vì Thiếu Tá Lạc ra lệnh trực tiếp cho Pháo đội trưởng PĐB, không có bất cứ Sĩ Quan nào hiện diện, kể cả Thiếu Tá Tiểu đoàn phó hoặc Đại úy Trưởng ban 3. Cũng tương tự như những gì tôi đã được người bạn thân tiết lộ. Chỉ có vài chi tiết sau đây, cho đến bây giờ ngồi viết những dòng chữ này, sau hơn 28 năm trời dài đằng đẵng, tôi vẫn chưa tìm được câu giải đáp; đó là: “PĐB/TQLC sẽ đơn độc, không có một đơn vị tác chiến nào bảo vệ phòng thủ vòng ngoài, hay yểm trợ an ninh. (Ai đã quyết định như thế?)

Chiều 16-03-1975, PĐB phải chuyển giao tất cả 7 xe G.M.C cơ hữu cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. (Pháo không xe kéo! Trong lúc quân bạn không còn hiện diện tại vùng hành quân. Một lệnh kỳ quái nhất, chưa từng xảy ra trong lịch sử cuộc chiến!) “Lãnh tiền ăn (mua thực phẩm ở đâu?) và gạo cùng điện trì cho 10 ngàỵ.”


4. Thủy Quân Lục Chiến rời vùng Quảng Trị.

Sáng sớm ngày 17 tháng 03 năm 1975, BCH/LĐ258/TQLC, các đơn vị trực thuộc đó là 3 tiểu đoàn tác chiến TQLC, TĐ1/PB gồm BCH/TĐ và Pháo đội A, Pháo đội C, các đơn vị Thiết Giáp tăng phái…lần lượt di chuyển đoàn xe rời vùng hành quân.
Vẫy tay chào quân bạn mà lòng chẳng có gì đáng vui.
Đã chấp nhận vào cuộc chiến là chấp nhận hy sinh, nhưng chỉ phiền rằng cấp trên đã “lột” hết phương tiện di chuyển và đem con bỏ bơ vơ một mình.


Thứ II: PĐB/TQLC hành quân đơn độc 4 ngày Hương Lộ 555.

1. Nhiệm vụ Yểm Trợ:

Phòng tuyến của LĐ258/TQLC được bàn giao cho Liên đoàn 913 Địa Phương Quân/Tiểu Khu Quảng Trị gồm 4 Tiểu đoàn.
Phòng tuyến của LĐ369/TQLC chỉ còn lại TĐ6/TQLC. Pháo đội B có nhiệm vụ yểm trợ tất cả các lực lượng kể trên. Nhận lệnh trực tiếp từ Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh BTL nhẹ SĐ/TQLC/Hành Quân. Pháo đội B đã nhanh chóng liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Khóa 13 Võ Bị Đà Lạt), báo cáo tình hình: quân số (không quá 90 pháo thủ), vũ khí (6 Đại bác không xe kéo, cùng các vũ khí cá nhân), đạn đại bác, đạn súng cá nhân, 10 ngày gạo + điện trì, không phương tiện mua và tiếp tế thực phẩm!
Nội dung cuộc điện đàm qua hệ thống vô tuyến giữa Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Đà Lạt) với Đại úy Lưu Văn Phúc (Phúc Yên)
- Phúc Yên: kính chào Thẩm Quyền Đà Lạt, tôi Phúc Yên, Bravo 1.
- Đà Lạt: chào Phúc Yên, đây Đà Lạt, nghe bạn rõ. Cho biết tình hình của bạn. (Bằng ngụy hóa, Phúc Yên đã báo cáo đầy đủ lên Đà Lạt như nêu trên).
- Đà Lạt tiếp: Đây là các tần số liên lạc yểm trợ. Tôi đã ra lệnh các Đề Lô vào hệ thống tác xạ của bạn. Bạn có câu hỏi gì cần giải quyết?
- Phúc Yên: Chúng tôi đơn độc. Cần đi, lại dễ dàng. Nhưng cả 7 GMC của Pháo đội B, Lạc Long trưng dụng. Mong Thẩm Quyền can thiệp và hơn nữa Lạc Long còn lệnh cho chúng tôi dọn sạch các kho đạn: Hội Yên, Phong Điền, Điền Môn đưa về Thuận An.
- Đà Lạt: Tôi can thiệp để Lạc Long hoàn trả bạn những GMC ngaỵ (Thế nhưng mãi chiều ngày 19-03-1975, Pháo đội B mới đón nhận được đoàn xe trở về vị trí. Cám ơn các tài xế, các bạn đã hoàn thành xuất-sắc nhiệm vụ khó-khăn, vượt lằn đạn pháo của địch từ cây-số 17 trở ra Hội Yên với Pháo đội).


2. Diễn tiến từ 17 đến tối 21/03/1975

Sau cuộc liên lạc với Thiếu Tá Đạt, Pháo đội B đặt trong tình trạng ứng chiến. Sẵn sàng “Yểm trợ Quân Bạn” và tự “Phòng Thủ”.
Ngay chiều và tối 17/03/1975, nhiều đơn xin Tác xạ các Sĩ Quan Tiền sát viên thuộc 4 Tiểu đoàn Địa Phương Quân và Tiểu đoàn 6/TQLC.

Thiếu hẳn Trung tâm Phối hợp Hỏa lực nên không có sự thống nhất chỉ-huy. Pháo đội B tính yếu-tố bằng 3 xạ bảng, 3 hệ thống tác xạ khác nhau, cố gắng thỏa mãn những yêu-cầu Yểm Trợ. Cần thêm đạn – dược, Pháo đội phải xử dụng 1 xe jeep chuyên chở đại-bác không thùng gỗ, và vác bộ bởi các pháo thủ được cử ra của mỗi khẩu đội, các ban Truyền tin, đại liên, tạp vụ…và mỗi khẩu đội cử 2 người làm vào công tác chuyển đạn từ Tiền trạm Hội Yên về vị trí Pháo đội (khoảng cách chừng non 1 cây số).
Gần nửa đêm, chấm dứt Tác xạ Yểm Trợ. Pháo đội chia phiên tăng cường phòng thủ, thay nhau ăn, ngủ, canh gác, dọn dẹp dư liệu tác xạ…

Một đêm nặng – nề trôi qua . Những ngày sắp đến ra sao?

Ngày 18/03/1975, mới từ sáng sớm tôi được đánh thức bởi Hạ sĩ quan trực, dù rằng chỉ chập-chờn ngủ hơn 1 tiếng đồng hồ trước đó.
- “Ông thầy dậy đi, vọng lính gác cao nhất phát hiện có nhiều quân di chuyển về hướng mình” [Sở dĩ anh ta gọi tôi là "ông thầy" vì vào năm 1967, chúng tôi là thầy trò cùng một toán Tiền sát Pháo Binh].
Nhanh chóng đi đôi giầy trận, tôi theo Trung sĩ Thiềng, người Hạ sĩ quan trực, tiến lên vọng canh gác. Chiếu ống nhòm quan – sát, quả thực nhiều cánh quân đang di chuyển về phía chúng tôi. Quay sang Trung sĩ Thiềng, tôi nói: “Kẻng báo động”
Pháo đội từ Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh sĩ gần 90 pháo thủ nhanh chóng vào vị – trí với đầy đủ súng, đạn cá nhân, áo giáp, nón sắt, mặt nạ. Tiếp tục quan sát, vào hệ – thống Tiền sát viên để liên lạc, biết được quân bạn là các đơn vị Địa-Phương Quân đã rời tuyến phòng thủ bên bờ Thạch-Hãn để tái phối – trí lực-lượng tại phía tây cầu Vân Trình đến Quốc lộ 1.
Tuy nhiên, còn được an – ủi phần nào vì Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến vẫn vững tay súng gần thị – xã Quảng Trị đổ nát. Kể từ lúc này, trước mặt và bên hông phải không còn quân bạn. Pháo đội B: “6 Đại bác + không xe kéo súng + gần 90 pháo thủ chưa từng tác chiến bộ binh” ở vị trí cao nhất, xa nhất! Từ điểm đóng quân Pháo đội về đến Hương Điền, nơi đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Đoàn không còn quân bạn, ngoại trừ một toán (tương đương cấp tiểu – đội) canh gác kho đạn Điền Môn! Tha hồ mà mát mẻ, anh em pháo thủ Pháo đội B ơi! Mát cả mặt, mát lưng và lạnh cẳng! Nhưng ngoài mặt, tôi với nhiệm vụ Pháo-đội-trưởng vẫn cố giữ vẻ bình thản. Chỉ bàn riêng với Trung úy Pháo độ#7897;i phó Huỳnh Thái Sơn và 3 Sĩ Quan Trung đội trưởng. Tăng cường canh gác và phòng thủ. May thay! Quân Cộng Sản Bắc Việt chưa biết phòng tuyến Thạch Hãn đã bỏ trống. Hay chúng lo ngại “nghi binh để lừa chúng vào vòng” của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng Hòa?

Nhưng đối với tôi, 1 đơn vị nhỏ cấp Pháo đội = cấp Đại đội, cứ yên được lúc nào hãy mừng lúc đó.
Một đêm 18/03/1975 nặng nề, u ám đã qua .
Ngày 19/03/1975, tôi ngủ thiếp trong đài tác xạ. Giật mình thức vì tiếng súng đại bác. Ngồi dậy, tôi hỏi: Yểm trợ đơn vị nào?
- Trung úy Sơn nói: Dạ, yểm trợ cho Tiểu đoàn 6/TQLC.
- Pháo đội trưởng: Pháo đội yểm trợ lâu chưa?
- Trung úy Sơn: Mới tác xạ điều chỉnh xong và bắt đầu bắn hiệu quả.
- Phúc Yên: Sơn có cho lấy thêm đạn từ kho đạn về không?
- Trung úy Sơn: Anh em đang vác thêm.
Không dùng xe Jeep, vì tài xế cho biết còn rất ít xăng!
- Phúc Yên: Đáp ứng theo yêu cần của quân bạn. Nhưng tác xạ 5 khẩu, còn 1 khẩu phòng thủ. Giải quyết cho hết số đạn tại kho đạn Hội Yên!
Quay sang âm thoại viên, tôi bảo:
- Dùng máy PRC25 khác gọi Hậu Trạm (Thành nội Huế).
Sau khi gọi nhiều lần. Chúng tôi liên lạc được Hậu Trạm, đoàn xe cơ hữu của Pháo đội B mới từ Đã Nẵng về đến Huế.
Mỗi xe một tài xế, không lực lượng hộ tống! Can đảm thay và cũng thương các chiến sĩ tài xế này. Vắn tắt, tôi an ủi anh em và bảo họ nghỉ ngơi vài tiếng tại Hậu Trạm, yêu cầu Ban 4 Tiểu đoàn (còn lại vài nhân viên) cho lãnh nhiên liệu, thu xếp vào vị trí Pháo đội trước 4 giờ chiều.
Các tài xế thi hành nghiêm chỉnh lệnh, và chiều ngày 19/03/1975 đoàn xe 7 GMC đã chạy ngược từ Huế (tương đối còn an toàn) vào Hội Yên, Hải Lăng, Quảng Trị đầy dẫy bất trắc dọc đường vì đạn địch pháo kích, quân bạn chạy ra Huế, dân chúng chạy theo…
Toàn thể Pháo đội hoan hô và tuyên dương các bạn tài xế.
Trung úy Thái Sơn ra lệnh phân tán các GMC để tránh đạn pháo kích của địch.
Trung úy Tri Thường, Thiếu úy Lương Văn Phúc, Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn đôn đốc việc phòng thủ.

Ngày 19/03/1975 là ngày đầu tiên chẳng được đơn vị nào “cover” phía trước. Sau này tôi được biết: TĐ 7/TQLC bàn giao vị trí phòng thủ cho Tiểu đoàn 6/TQLC. Trong ngày này, TĐ 6 di chuyển vào Đà Nẵng.
BCH/TĐ7/TQLC phòng thủ tại cầu Phổ Trạch, một Đại đội ngược hướng Bắc đến ngã tư Hội Yên (nơi Pháo đội B đang chiếm đóng đơn độc) và Hương Lộ 555. (Nhưng thời gian ấy, Pháo đội không được nhận được bất cứ lệnh gì từ bất cứ cấp chỉ huy nào).

Ngày hôm sau 20/03/1975, TĐ 7/TQLC nhận được lệnh của Đại tá Tư lệnh phó SĐ/TQLC chuẩn bị di chuyển vào Đà Nẵng thay thế TĐ 11 Dù nằm trên đèo Hải Vân. (Cam Ranh: TĐ 7/TQLC và LĐ147, những ngày cuối tháng 3 tại chiến trường Huế).

PHÚC YÊN TỰ QUYẾT ĐỊNH LUI BINH:

Màn đêm buông xuống, cảnh vật vắng lặng đến “lạnh mình”, đằng trước không quân bạn!, liên lạc cấp trên không có trả lời.
Hệ thống truyền tin “im lặng vô tuyến”.
Lòng tôi buồn vời vợi, lo âu ngập tràn. Tôi “uống thuốc liều”, ra lệnh các sĩ quan họp khẩn cấp, và quyết định: LUI BINH, chấp nhận mọi hậu quả đến với cá nhân mình sau này.

Thứ 1: Rút toán tiền trạm Hội Yên và Pháo đội cho GMC gom hết tất cả đầu nổ đạn Đại bác – Di chuyển thêm đạn dược được chừng nào hay chừng nấy.

Thứ 2: Lợi dụng ban đêm, hơn 7 giờ tối Trung úy Sơn cùng Thiếu úy Lương Văn Phúc dùng 3 GMC kéo 2 đại-bác, đạn dược, truyền tin, tác xạ di chuyển về hướng Nam, theo Hương lộ 555, đóng quân gần ngã ba Vân Trình, sẵn sàng yểm trợ Pháo đội. Chỉ hơn 2 tiếng đồng hồ sau, Bích-Chiêu 3 do Trung úy Thái Sơn giám-sát và Thiêú úy Lương V. Phúc trực tiếp chỉ huy đã báo cáo: “sẵn sàng”.

Thứ 3: Trong khi chờ Bích Chiêu 3 hoàn trả 3 GMC về Pháo đội. Tôi chỉ thị Trung úy Tri Thường đem con cái Bích Chiêu 1 cùng 2 đaị-bác, đạn dược, lương thực, vũ khí cá nhân, dùng 3 GMC khác: “Thế lên đường” và suôi nam Hương lộ 555, qua mặt Bích Chiêu 3, tìm vị trí thuận lợi đóng sau Trung đội 1/B/TQLC khoảng 3 cây số. Hướng súng yểm trợ Bích Chiêu 3 và Pháo đội. Chú trọng việc phòng thủ vị trí. Gửi trả Pháo đội 3 GMC. Báo cáo sẵn sàng.

Thứ 4: “Đúng là trời đất mênh mông, đâu là quân bạn?!” Trung đội 2/Pháo đội B/TQLC với Ban Chỉ huy Pháo đội chưa đếm đủ con số 40, bây giờ ở ngay “tuyến đầu”. Chốt sang sông, đâu mong gì trở lại. Nhưng khi gom đủ 7 GMC, Phúc Yên nói Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn (ông SQ trẻ này đã được Phúc Yên chấp thuận cho rời nhiệm vụ vào ngày 25/4/1975 tại Long Thành để cùng cha mẹ, vợ con di tản sang Hoa Kỳ ngày 28/4/1975, hiện định cư tại tiểu bang Wisconsin) thu dọn tất cả đạn dược, cuộn mìn Claymore dọc theo các vòng rào phòng thủ, đem tất cả những gì có thể đem được, chất lên 7 GMC và 1 jeep. Báo cáo Phúc Yên khi sẵn sàng, nhưng đừng quên canh gác trong lúc dọn dẹp vị trí Pháo đội. Thiếu úy Kim Sơn cho biết: Đạn dược chỉ có thể mang theo 1 cấp số và tất cả đầu đạn. Tôi ra lệnh: “Gài chất nổ các kho đạn để phá hủy.” Đây là 1 quyết định LIỀU LĨNH. Nhưng cấp trên đã bỏ chúng tôi, chúng tôi phải làm như thế để tìm con đường SỐNG! Liên lạc Thái Sơn & Tri Thường theo dõi “những vòng bánh xe âm thầm” của gia đình Bích Chiêu (PĐ-B (-)). Vẫy tay vĩnh biệt vị trí cũ thân yêu để theo Hương Lộ 555 suôi Nam.

Cho xe ghé đón toán tiền trạm Điền Môn. Vượt qua Bích Chiêu 3 & 1 thì đồng hồ đã chỉ hơn 3 giờ sáng ngày 20-03-1975.
Ngày 20-3-1975, ngồi trên xe, dẫn đoàn xe đưa gia đình Bravo tìm chỗ “dung thân”, Phúc Yên chỉ thị Bích Chiêu 1 và 3 chỉ liên lạc nội bộ. Toàn bộ còn lại của Pháo đội chiếm đóng vị trí phía Bắc cầu Đại Lộc. Công việc xong thì trời hừng sáng. Tôi nói Ban ẩm thực lo cho các tài xế và Trưởng ban Quân Xa vấn đề ăn uống.

Lúc này Pháo đội phó phải chỉ huy Trung đội 3, nên việc gì tôi cũng cần trực tiếp. Thiếu úy Kim Sơn lo tổ chức vị trí và phòng thủ.
Các ban tác xạ truyền tin làm Đài Tác Xạ, ban đại liên và công vụ lo canh gác. Tôi chỉ thị ông Hạ sĩ quan Quân xa cho 3 GMC về vị trí Trung đội 3 và 3 GMC về vị trí Trung đội 1. Mấy chú em của tôi thật giỏi.

Đài tác xạ chưa thiết lập xong, truyền tin còn đang dựng ăng ten dù, thì họ đã đem cho tôi và Thiếu úy Kim Sơn mỗi người một tô mì gói và nửa ca cà phê, riêng tôi còn có thêm gói thuốc lá PallMall. Thôi thì cũng cố mà ăn để còn lấy sức, tới đâu hay tới đó.
Ngó vào đài tác xạ đang được thiết lập, tôi thấy Trung úy Nguyễn văn Phú đang giúp hướng dẫn các nhân viên Ban Tác xạ thiết lập xạ-bảng; chỉ bảo Hạ sĩ quan Tác xạ cùng Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn gióng hướng súng sẵn sàng yểm trợ Bích Chiêu 1 va Bích Chiêu 3.
Phúc Yên ra lệnh Gia Đình Bích Chiêu 3: “Thế lên đường”.

Hơn 8 giờ sáng, Trung đội 3/PĐ-B “dọn” đến ngang chỗ Pháo đội đóng quân. Tôi lái jeep ra gặp Thái Sơn và Lương v. Phúc ngay trên lộ 555, chỉ vị trí đóng quân cho Trung đội 3/PĐ-B gần Chợ Biện.

Khoảng 10 giờ sáng 20/3/1975, Bích Chiêu 3 báo cáo: sẵn sàng tác xạ. Phúc Yên tiếp tục chỉ thị Bích Chiêu 1 do Trung úy Tri Thường chỉ huy “nhổ neo” dọn nhà về đóng chung với vị trí Pháo đội. Công việc hoàn tất hơn 12 giờ trưa. Cho đến giờ phút đó, địch vẫn chưa biết thật sự tình hình phòng tuyến quân ta tại chiến trường Quảng Trị, tôi đoán thế. Mệt mỏi, tôi nằm xuống “ghế bố” đặt trong đài tác xạ ngủ thiếp.
Giật mình thức dậy khi nghe nhiều tiếng đạn nổ.

À, vậy ra địch cũng tìm được vị trí của tôi! Chúng đang chào mừng Pháo đội B đó! Tôi nhỏm dậy, hỏi nhân viên tác xạ: “Pháo đội có sao không?”
Phương, hạ sĩ trực truyền tin nói: “Dạ thưa không có gì, đại úy.”
Tôi chụp nón sắt lên đầu, khoác áo giáp bước ra khỏi căn hầm. Đài tác xạ tạm làm bằng thùng đạn đổ đất, trên có vỉ sắt và 3 lớp bao cát chống pháo kích.
Tiếng người trưởng đài tác xạ cất lên: “Nó đang pháo kích ông thầy ra ngoài chi vậy?” Tôi trả lời: “Xem anh em thế nào. Coi chừng sau màn pháo là nó đánh. Loạng quạng ‘tiêu’ với nó.”
Đạn pháo kích vẫn nổ, nhưng chưa quả đạn nào lọt được vị trí. Đa số rơi xuống sông chảy ngang cầu Đại Lộc. Tôi ra lệnh anh em cứ ẩn nấp, sẵn sàng chiến đấu, đừng nghĩ chuyện phản pháo. Yêu cầu Trung úy Tri Thường và nhờ Trung úy Phú cùng đo phương giác, ước lượng khoảng cách đưa lên xạ bảng để tôi cùng Ban Tác Xạ xác định vị trí súng địch. Có được những điểm nghi ngờ, tôi ra lệnh Trung úy Sơn cho Bích Chiêu 3 phản pháo kích của địch quân.
Không biết phản pháo có hiệu qủa hay không, nhưng địch im tiếng súng.
Lúc đó, trời đã ngã về chiều. Tôi nói Tri Thường, Kim Sơn hãy lo thay nhau cơm nước, nghỉ ngơi và đôn đốc canh gác.
Tôi cũng nhắc Thái Sơn đừng quên “đang ở một mình, ráng mà giữ thân.”
Thái Sơn trả lời: “Phúc Yên cứ an-tâm, Sơn và Lương v. Phúc sẽ thay nhau chong mắt nhìn màn đêm, gia đình Bích Chiêu 3 cảnh giác cao độ.”

Đêm 20/3/75 rạng 21/3/75, khoảng gần 3 giờ sáng, lợi dụng sương mù dày đặc ban đêm địch đã bò từng toán từ rặng đồi dương liễu và ven sông để mong đột nhập vào vị trí pháo đội. Nhưng các trạm canh gác phát hiện sớm, chúng bị ăn đạn súng cá nhân và đại bác nên bỏ chạy.
Sáng sớm chúng tôi không dám mạo hiểm hành quân lục soát, lính Pháo binh thì chỉ biết bắn đại bác và phòng thủ vị trí đã khá lắm rồi.

Ngày 21-3-1975, đợi sáng hẳn, tôi cho mời Thường vụ Pháo đội đến gặp tôi nhận công tác.
“Anh chỉ huy 1 toán gồm 7 người kể cả 1 binh sĩ truyền tin với máy PRC25. Di chuyển bộ, vượt cầu và đến phía Nam, bên trái có 1 trường học có lẽ bỏ trống lâu ngày; chiếm giữ, canh gác an ninh 2 bên đầu cầu và vị trí trường học. Pháo đội sẽ di chuyển sang ngay sau khi anh báo cáo bố trí an-ninh phòng thủ xong. Quân trang, quân dụng của 7 Pháo thủ này sẽ do Trung đội Công vụ bảo quản và đưa lên GMC.”

Thường vụ Pháo đội thi hành lệnh nhanh chóng cùng toàn Thám sát vị trí lên đường. Triệu tập Tri Thường, Kim Sơn, tôi nói: “Cơm nước nhanh, dọn dẹp lẹ, thay phiên trực gác để có thể ăn uống và sẵn sàng thế lên đường khi có lệnh.”
Nhờ Phú chỉ thị Thái Sơn tính yếu tố bắn yểm trợ cho Pháo đội rút lui nếu cần.
Không thể liên lạc được với Bộ Tư Lệnh nhẹ SĐ/TQLC/HQ, mất liên lạc với mọi đơn vị bạn từ trưa 19/3/75.
Với nhiệm vụ người chỉ huy một đơn vị nhỏ mà ở ngay tuyến đầu, nặng nề với súng đại bác, công tác dọn các kho đạn không thể thi hành. Trong lịch sử chiến trận chưa bao giờ Pháo binh lại đơn độc như tình hình Pháo đội B hiện nay.
May thay, quân Cộng sản Bắc Việt chưa xua quân vượt Thạch Hãn để truy đuổi chúng tôi. Chúng nó còn sợ bóng vía cứ tưởng rằng phòng tuyến Quảng Trị vẫn còn những chiến sĩ Cọp Biển anh hùng, từng cắm cờ Cổ Thành Đinh Công Tráng, từng tay đôi với xe tăng bọn chúng. Nếu chúng biết rõ tình hình lúc đó tại tuyến đầu Quảng Trị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 1 Pháo đội với khoảng 90 tay súng. Từ Thạch Hãn đến Nam Cầu Vân Trình đường thênh thang rộng mở, thì bọn địch chỉ cần xử dụng 1 đơn vị cấp Tiểu đoàn là có thể đưa gia đình Bích Chiêu đi nghỉ phép dài hạn ở thế giới bên kia.
Phúc Yên và các Sĩ Quan trong Pháo đội lo âu và bàn tính mọi cách bảo toàn lực lượng. Nhưng anh em pháo thủ vẫn hoạt động bình thường vì họ chẳng biết gì về tình trạng nguy nan của đơn vị.
Mọi lệnh đưa xuống, các Trung đội, các khẩu đội, các ban trực thuộc đều nghiêm chỉnh thi hành.
Xin dừng ở đây để viết lời cám ơn anh em.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 21/3/7, Pháo đội B đã “sang sông”, tạm chiếm đóng tại sân trường học đổ nát, tọa lạc tại phía Nam cầu Đại Lộc. Chưa kịp làm hầm hồ phòng thủ, Pháo đội lại bị Pháo kích. Tôi nghĩ có Đề-lô của địch bám sát và trà trộn trong dân chúng địa phương.
Vài quả đạn đã bắn gần vị trí. Rơi ngay các thửa ruộng sũng nước làm tung toé nước lẫn bùn. Vài quả đạn địch bắn dài hơn.
Tiếng của Tri Thường gọi Thái Sơn phản pháo. Bên ngoài đài tác xạ, có Kim Sơn và tôi đang cùng anh em tìm chỗ khả dĩ có thể tránh đạn pháo kích, nhưng vẫn lo phòng thủ.
Có lẽ đại quân chưa xuất hiện, chỉ đơn vị nhỏ của địch Pháo kích chúng tôi bằng súng cối. Nhưng tôi thật nóng ruột. Mù mờ về tình hình bạn và địch. Phải chi còn liên lạc được với cấp chỉ huy thì đỡ biết chừng nào.
Bớt đạn pháo kích, tôi chạy nhanh vào đài tác xạ và nghĩ miên man. Tiếng nói vang lên từ loa khuếch đại của hệ thống truyền tin.
- Đà Lạt: Bích Chiêu đây Đà Lạt, nghe rõ trả lời.
- Âm thoại viên: Đà Lạt đây Bích Chiêu, tôi nghe Đà Lạt 5/5.
- Đà Lạt: Cho gặp Phúc Yên, thẩm quyền của bạn.
- Phúc Yên: Chào Đà Lạt, Phúc Yên nghe.
- Đà Lạt: Bạn bây giờ ở đâu? Sao không liên lạc báo cáo cho tôi?
Giọng nói của Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt khá gay gắt.
Tôi bình tĩnh trả lời: “Trình Thẩm Quyền, từ trưa 19/3/75 tôi cố liên lạc hoài không được với thẩm quyền và bất cứ đơn vị bạn nào”. Tôi đoán rằng Thiếu Tá Đạt thông cảm hoàn cảnh không sáng sủa gì của Pháo đội B.
Nên ông dịu giọng: “Thôi, gỡ loa đi, về nhà pháo (33.40 #33.41)”.
- Phúc Yên: Đáp nhận.
Tóm tắt cuộc điện đàm như sau:
1- BTL nhẹ SĐ do Đại tá Tư Lệnh phó Nguyễn Thành Trí trực tiếp chỉ huy tại Hương Điền, chỉ có 1 trung đội Viễn Thám canh gác bảo vệ.
Phòng 3 còn 1 vài Sĩ quan cấp nhỏ và số ít nhân viên. Trung tá Nguyễn văn Nhiều, Trưởng Phòng 4 và một số nhân viên trực thuộc còn ở lại. Pháo binh vỏn vẹn 4 thầy trò Thiếu Tá Đạt.
2- Kho đạn Hương Điền với hơn 20,000 đạn đại bác được phòng thủ và bảo quản bởi toán tiền trạm không hơn 15 người do Trung úy Phan Đông, Sĩ Quan Đạn dược, Tiểu đoàn 1 Pháo binh chỉ huy. Tại đây còn có 1 trung đội Công Binh TQLC? (Phan Đông hiện định cư tại Ohio).

Chi khu Hương Điền không biết rõ họ còn bao nhiêu quân nhân tại chỗ? Ôi, Tư Lệnh cả một chiến trường mà lực lượng phòng thủ mỏng đến thế hay sao? Tôi nghe mà thở dài ngao ngán.
3- Tiểu khu Quảng Trị đã về đến Huế (để thi hành nhiệm vụ gì?).
4- Lệnh cho Pháo đội B lui binh, không có bộ binh tác chiến bảo vệ đằng sau.:
Phải rút về cửa Thuận An khoảng trước sau 5 giờ chiều, không sớm cũng không muộn.
5- Thiếu Tá Đạt yêu cầu tôi báo cáo vị trí Pháo đội.
Tôi vì muốn dấu vị trí thật, nên báo cáo láo như sau: Gia đình Bích Chiêu phân tán, tôi cho một đứa con Bích Chiêu 3 ra ở riêng, buôn bán gần Chợ Biện; còn lại thì thầy trò tôi ở Điền Môn.
Thiếu Tá Đạt sốt ruột và nói: Sao giờ này còn ở đó? Chờ đến bao giờ mới về gần nơi đây? Tôi trả lời: Có giới chức nào cho lệnh gì đâu mà dám di chuyển?
Thiếu Tá Đạt là cấp chỉ huy đầu tiên của tôi vào thời gian tháng 8/1966 lúc tôi vừa đáo nhậm đơn vị sau khi tốt nghiệp khóa 21 Sĩ Quan Pháo Binh, Dục Mỹ, Nha Trang.
Ông ta hiểu tôi là “ưa liều lĩnh”, nhưng càng trải chiến trận, tôi càng thận trọng hơn trong mọi việc “xuất, sử,” tuy nhiên tôi chỉ làm những gì theo bổn phận, trách nhiệm, tuyệt đối chưa bao giờ “nói hay hơn làm” để vừa lòng cấp trên.
Bởi vậy tôi thường hay lận đận, khoá 21 SQ Pháo Binh phục vụ binh chủng TQLC tất cả 5 người thì 4 SQ kia lần lượt đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng từ năm 1970. Riêng tôi thăng từ Đề Lô cấp đại đội, tiến lên Đề Lô cấp Tiểu đoàn, rồi làm Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh các BCH Lữ Đoàn cho đến tháng giêng năm 1973. Nước cạn bèo dính đất, khoá 22, 23, 26, 2/68 đã là Pháo đội trưởng chả lẽ tôi cứ tiếp tục Sĩ Quan liên lạc, nên tháng 4/1973 cấp trên cũng giao cho tôi 1 Pháo đội tình trạng đang đà tuột dốc.
Được dịp “khảo sát khả năng lãnh đạo chỉ huy,” nên cấp trên chỉ định tôi cùng Pháo đội B ở lại “trần trụi” với chiến trường Quảng Trị bỏ ngỏ!!!
Cho nên Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt thương cho hoàn cảnh của chúng tôi.
Ông bỏ nhỏ: “Ráng mà đem gia dình Bravo về cửa Thuận An trước trời sập tối của ngày 21/3/75″.
Tôi đáp nhận. Chấm dứt liên lạc.
Tôi chỉ thị Pháo đội (-) các chi tiết lui binh.
Gọi Bích Chiêu 3 chờ đón, xe Jeep đưa 4 thầy trò tôi về gặp Thái Sơn.
Gặp anh em Trung đội 3/PĐ-B đóng gần Chợ Biện, tôi họp nhanh với Thái Sơn và Lương v. Phúc.
Cho 2 Sĩ Quan này biết kế hoạch triệt thoái và giờ giấc. Chúng tôi quay lại vị trí Pháo đội (-). Mới về đến gia đình Bích Chiêu, bước vào đài tác xạ, người trực truyền tin cho tôi biết Trung úy Phan Đông. Chỉ huy Tiền trạm Hương Điền chờ tôi trên hệ thống nhà Pháo (33.40).
Tôi vào máy và qua điện đàm, Phan Đông cho tôi biết phải mau chóng qua được Nam Cầu Đại Lộc, vì Công Binh TQLC có lịnh phá cầu. Tôi cám ơn Phan Đông nhưng không hề tiết lộ vị trí thật và chúng tôi cũng đã dự trù để ngăn chặn chiến xa địch nếu cần thì chính Pháo đội B sẽ giật xập cầu trước lúc lui binh. Bây giờ có anh em Công Binh làm công tác đó, càng khoẻ cho chúng tôi. Cám ơn bạn Phan Đông.

RÚT LUI VỀ THUẬN AN.

Khoảng gần 3 giờ chiều 21/3/75, tôi ra lệnh trung đội 1 do Trung đội trưởng Trung úy Tri Thường kéo đại bác, đạn dược, vũ khí, quân dụng rút trước.
Tôi nói khéo với Trung úy Phú để ông ta đi cùng Trung đội 1 rút lui trước. Ban chỉ huy Pháo đội và Trung đội 2/B cùng tất cả các ban rút sau. Về ngang Chợ Biện, nhập với Trung đội 3/B. Pháo đội chúng tôi cho xe ghé vào kho đạn Hương Điền đón toán tiền trạm của Trung úy Phan Đông.
Tôi chỉ bốc đầu đạn (mà cũng không hết) và quyết định bỏ mặc kho đạn Hương Điền. Sức kham không nổi. Tôi quyết định “uống thuốc liều”, tới đâu hay đó, tôi nghĩ: “giữa cái chết của đơn vị và cái án tù bất tuân thượng lệnh dành cho cá nhân mình, thì nên chọn cái nào, bên nào nặng, bên nào nhẹ?”
Đoàn xe về đến cửa Thuận An chừng độ 5 giờ chiều, tôi nói với Thái Sơn cho hạ càng súng đại bác, xe phân tán, phân chia các trung đội phòng thủ, nghỉ ngơi ăn uống. (Pháo Binh có thuốc bồi đạn đại bác, nên nấu nước chế gạo xấy, hay hâm nóng thịt hộp, nấu cà phê, pha trà, thậm chí nấu cơm rất nhanh.)
Tôi lái đến gặp sĩ quan chuyển vận Phòng 4/SĐ/TQLC và được cấp 1 phà quân sự lần lượt đưa toàn bộ Pháo đội gồm tất cả Pháo Thủ với xe kéo súng, xe jeep, quân dụng, vũ khí, 1 cấp số đạn đại bác…qua phía Nam cửa Thuận cũng phải 4 chuyến mới hoàn tất. Qua đến phía Nam, trời đã về chiều.
Tôi cho gọi Hậu Trạm Pháo đội B tiếp tế lương thực, nhiên liệu cho Pháo đội chuẩn bị kéo súng di chuyển đường bộ về Đà Nẵng, có thể sáng hôm sau 22/3/75.

Vặn Radio để nghe tin tức, rà mãi chẳng nghe đài phát thanh Huế phát sóng lên tiếng. Hơn 7 giờ 30 chiều, Trung sĩ Nguyễn văn Mới, Hậu trạm Pháo đội B gặp Pháo đội bằng 1 GMC, tuy có nhiên liệu nhưng đáp ứng rất ít! Lương thực hoàn toàn không. Anh ta chỉ kịp ghé chỗ quen mua tạm cho Pháo đội ít cà phê, đường, và thuốc lá.
Trung sĩ Mới cho biết: Hậu trạm các Tiểu đoàn kể cả Hậu trạm Tiểu đoàn 1 Pháo binh đã di chuyển về Đà Nẵng.
Hiện vài thầy trò Thượng sĩ Huỳnh Nghiệm lo dọn nốt quân dụng. Nếu họ di chuyển thì chỉ còn lại Hậu trạm Pháo đội B với 3 GMC trong dó 2 GMC hư hỏng không phụ tùng sửa chữa.
Tôi trấn an anh ta: “Nếu Pháo đội về Đà Nẵng, tôi cho liên lạc trước, toán hậu trạm của anh sẽ đón chúng tôi, trên đường chạy xuống phi trường Phú Bài, thứ gì có thể đem được thì đem, còn lại bỏ hết, kể cả 2 GMC hư hỏng. Không có gì phải lo lắng. Yên trí, Pháo đội không bỏ rơi các anh đâu!”.

Lệnh Trở Lại Chiến Trường: NHƯNG, lại có chữ NHƯNG. Đời qủa là rắc rối.
Người âm thoại viên tới, chào và nói: “Trình Đại úy, Thiếu Tá Đạt cần gặp”.
Tôi bước đến xe jeep có thiết trí máy PRC25 và gặp Thiếu Tá Đạt qua hệ thống vô tuyến. Ông cho tôi biết: Lệnh của Đại tá Trí là Phúc Yên phải quay lại ngay nhận lệnh; toàn thể Pháo đội kéo đại bác trở lại sau. Tôi thở dài ngao ngán. Nhưng Lệnh phải thi hành.
Cho mời Trung úy Phú, cựu Pháo đội phó Pháo đội B, hiện đang cùng Pháo đội ở lại Quảng Trị, (lý do tại sao thì chỉ Thiếu Tá Lạc biết).
Phú vừa tốt nghiệp khóa Pháo Binh Trung cấp. Đáng lẽ Phú xứng đáng giữ chức vụ Pháo đội trưởng bất cứ Pháo đội A, B hay C. Nhưng cấp trên lại giao cho một Sĩ Quan cùng khóa 26 Pháo Binh với Phú từ đơn vị khác thuyên chuyển về đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng.
Đời thường vẫn có cảnh: “Bụt nhà không linh thiêng” là thế đó.
Cá nhân Phúc Yên đôi ba lần đề nghị giao PĐ-B để Phú chỉ huy, đồng thời Phúc Yên đã làm đơn nộp xin thuyên chuyển xuất binh chủng TQLC.

Ngày nào còn phục vụ trong PB/TQLC thì sao chiếu mệnh là “sao quả tạ”.
Vì để tránh nguy hiểm đến với Phú. Từ ngày 16/3/75 đến hôm nay (21/3/75) tôi đề nghị Trung úy Phú chỉ nên ở trong Đài tác xạ. Giúp được gì tùy ý, tôi không muốn Phú lao ra ngoài nguy hiểm như những ngày còn quân số Pháo đội B.
Trung úy Phú gặp và hỏi tôi: “Đại úy cho gọi tôi có việc chi, tôi sẵn sàng”.
Làm như có lệnh trên, tôi nói: “Tiểu đoàn gửi công điện từ Đà Nẵng, yêu cầu Phú về Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC. Bây giờ Phú đi cùng Trung sĩ Mới về Huế. Cố gắng tìm phương tiện nhanh nhất về Đà Nẵng. Chúng tôi sẽ về đó sau”.
Phú nói: “Đại úy báo cáo với Tiểu đoàn, tôi ở lại cùng Pháo đội và sẽ cùng về Đà Nẵng một lượt”.
Tôi nói: “Phú ơi, bạn phải về Tiểu đoàn. Tôi không còn phương tiện liên lạc với họ. Tôi chỉ được Thiếu Tá Đạt chuyển lệnh”. Tôi phải nói dối để Phú rời vùng Pháo đội hành quân. Chúng tôi quay trở lại Quảng Trị với nhiệm vụ trì hoãn chiến ngăn sức tiến quân của địch. Đơn vị ở lại được xem như thành phần không có hy vọng trở về nguyên vẹn.
Phú buồn bã chào tôi và từ biệt Pháo đội, bắt tay những người đứng gần và thu xếp ba lô lên xe GMC cùng Trung sĩ Mới về Huế.
Bằng cách nào Phú về đến Đà Nẵng an toàn, tôi chưa hề hỏi lại Phú.
Quay sang Thái Sơn, tôi nói: “Sơn ơi, bây giờ tôi, Phương (âm thoại viên), Tài (cận vệ) và Thông (tài xế xe jeep) xuống phà trở lại trước. Bạn chỉ huy Pháo đội kéo súng xuống phà, quay lại sau, thứ tự ưu tiên: Trung đội 1, 2, Trung đội chỉ huy và Trung đội 3. Giữ liên lạc. Gần đến Hương Điền, tôi sẽ đón”. Tôi hạ giọng và nói nhỏ với Thái Sơn: “Tụi mình vào nơi gió cát xa trường làm một nhiệm vụ khó hoàn thành: Trì hoãn chiến”.

Thay lời kết:

Thái Sơn và các bạn Pháo thủ Pháo đội B thân mến, cám ơn các bạn đã sát cánh cùng tôi chu toàn nhiệm vụ khó khăn. Cá nhân tôi không có gì xuất sắc, nhưng tôi đã làm tròn lời nói với Pháo đội B khi tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy: “Không bao giờ bỏ anh em để tháo chạy lấy thân, nếu khi rút lui, tôi sẽ đoạn hậu“.
Mong có dịp may gặp lại các bạn sau gần 30 năm một người một nơi.

MX Lưu-văn-Phúc
Washington State, USA (21-11-2003)
Kỷ niệm ngày Gia đình Thái Sơn đến Mỹ định cư.
Thân tặng Pháo thủ, Pháo đội B Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Đặc biệt mến tặng Huỳnh Thái Sơn người đến Mỹ muộn màng (Ngày 21 tháng 11 năm 2003).
Theo http://tqlcvn.org/chiensu/cs-td1pb-huonglo-555-75.htm


NGÀY THỨ 11 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 20.3.1975: TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

Suốt đêm 19 và rạng sáng ngày 20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng phòng thủ VNCH dọc theo bờ nam sông Bến Hải, kể cả liên đoàn Địa Phương Quân, 1 tiểu đoàn BĐQ và vài chi đoàn Thiết giáp đã rút về phòng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Sáng ngày 20 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng bay ra bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn TQLC cách Mỹ Chánh chừng 8 km. Tại đây, Tướng Trưởng đã gặp các cấp chỉ huy của những đơn vị trong khu vực để cùng họ duyệt lại tình hình cùng kế hoạch phòng thủ Huế vì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh phải giữ với bất kỳ giá nào, khác với chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế. Tình hình lúc đó không đến nỗi quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa vẫn còn nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và tinh thần chiến đấu cao. Việc triệt thoái khỏi Quảng Trị tuy có ảnh hưởng phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân sĩ nao núng. Dù sao thì dân chúng đã bỏ đi trước đó, nên không còn gây trở ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa với 1 lữ đoàn TQLC tại phía nam sông Mỹ Chánh và 2 lữ đoàn TQLC trừ bị tại Đà Nẵng thì Quân Khu 1 vẫn còn đủ lực lượng nòng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ vững Huế.

Trên đường trở về Đà Nẵng, Tướng Trưởng đã ghé vào Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân Đoàn 1 tại thành Mang Cá, Huế. Sau đó, ông cùng Tướng Thi đi một vòng thanh tra các hệ thống phòng thủ trong thành phố Huế. Tinh thần Tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn vì sự bố phòng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ rưỡi trưa, đài phát thanh Huế tiếp vận đài Sài Gòn phát đi lời của Tổng thống Thiệu, đặc biệt với dân chúng Huế, rằng quân đội sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Tướng Trưởng rời Huế, lòng vẫn tin tưởng với quyết tâm cao.

Khi vừa đặt chân xuống Đà Nẵng, Trung tướng Trưởng nhận được một công điện "mật khẩn" của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Ngược lại những gì nói trên đài phát thanh Huế, Tổng thống Thiệu khuyên Tướng Trưởng tùy nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi vì không thể nào phòng thủ nổi ba thành phố Huế, Đà Nẵng và Chu Lai cùng một lúc được. Đồng thời Lữ đoàn 1 ND được lệnh lên đường về Sài Gòn ngay khuya đêm đó.



NGÀY 20-3-1975 TẠI MẶT TRẬN THỪA THIÊN HUẾ

Mặc dầu việc bảo vệ Đà Nẵng là ưu tiên một của SĐ TQLC, ngày 20 tháng Ba, SĐ lại được lịnh tử thủ tại các vị trí phía bắc cố đô Huế. Cùng ngày LĐ 468 TQLC được không vận bằng C130 tới Đà Nẵng, và dàn quân từ mạn bắc đèo Hải Vân, dọc QL1 về tới Phước Tường. Trong khi đó LĐ147 đựoc biên chế thành 4 tiểu đoàn bộ chiến, một tiểu đoàn pháo binh, và các đơn vị yểm trợ. Tiên liệu sẽ có những trận đánh đẩm máu trong những ngày sắp tới, Bộ Tư Lệnh SĐ TQLC đã tăng cường cho LĐ 147, Tiểu Đoàn 3 TQLC thuộc LĐ 258. Với một lực lượng chiến đấu khoãng 3,000 người, LĐ 147 TQLC đã chuẫn bị tinh thân và tâm lý sẵn sàng cho cuộc thư hùng sống mái với Bắc quân trong những ngày sắp tới để bào vệ cố đô Huế. Nhưng chỉ hai ngày sau đó, toàn bộ lữ đoàn lại được lịnh lui binh về phía nam tới bờ biển Tân Mỹ để được tàu Hải Quân bốc về Đà Nẵng.

NGÀY 20-3-1975 TẠI BỘ TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 1

Ngày 20 tháng Ba, Tướng Trưởng bay trở lại Bộ Tư Lệnh QĐ1. Ông ra lịnh ngưng việc chuyễn các pháo đội 175 ly cùng vũ khí, đạn dược từ Huế vào Đà Nẵng. Cố đô Huế phải đưọc bảo vệ với bất cứ giá nào, mặc dầu ngày 19 tháng Ba, pháo binh địch đã bắn vào thành nội, và hàng trăm ngàn dân tị nạn đã nghẹt cứng trên QL1, đoạn đường xuôi về phía nam.

Việc tổ chức phòng ngự co cụm cho cố đô Huế đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Lâm Quang Thi, được phân bổ cho Đại Tá Trí, Tư Lệnh phó SĐ TQLC, người chịu trách nhiệm mặt trận phía bắc thành phố Huế, và Tướng Điềm, Tư Lệnh SĐ1 BB, chịu trách nhiệm khu vực phía nam của Huế. Các tiền đồn của Đại Tá Trí, nằm ngay trong vùng giáp ranh giữa Quãng Trị-Thừa Thiên, chừng 30 km phía tây bắc Huế. Tại đây, dưới quyền điều động của LĐ 14 BĐQ là Tiểu Đoàn 77 BĐQ, 7 tiểu đoàn ĐPQ, và một chi đoàn Thiết Vận Xa M113 thuộc Thiết Đoàn 17Kỵ Binh. Bốn tiểu đoàn bộ chiến của LĐ 147 TQLC bố trí ngay trong vùng thung lũng trọng yếu Sông Bồ, trong tầm pháo binh nhẹ yểm trợ từ Thành Nội. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 78 và 79 BĐQ rãi quân ở tuyến đầu, cách vị trí của các đơn vị TQLC chừng 10 km về phía tây.Về phía nam của LĐ 147 TQLC, tại căn cứ hỏa lực Lion, tức căn cứ Núi Gió là 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51, SĐ1BB.

Vùng trách nhiệm của Tướng Điềm bắt đầu từ phía tây nam của Trung Đoàn 51, SĐ1 BB, đơn vị tăng phái cho lực lượng của Đại Tá Trí. Trung Đoàn 3 BB với hai tiểu đoàn án ngữ trên những cao điạ quanh căn cứ hỏa lực Birmingham, nhìn xuống sông Hữu Trạch, phía nam Huế. Về phía đông của Trung Đoàn 3 BB, là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 54 BB bảo vệ khu vực Mõ Tàu, trong lúc Trung Đoàn 1BB với ba tiểu đoàn cơ hữu, được tăng cường một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51 BB, một chi đoàn chiến xa M48, và một chi đoàn thiết quân vận M113, rải quân dài về hướng đông nam tới tận khu vực Núi Bóng. Về phía đông của quận lỵ Phú Lộc ba tiểu đoàn của LĐ15 BĐQ, cùng một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, chiếm lĩnh các cao điểm dọc theo QL1. LĐ 258 TQLC, với hai tiểu đoàn đóng quân gần Phú Lộc, và LIên Đoàn 914 ĐPQ gồm ba tiểu đoàn được giao trách nhiệm bảo vệ đèo Hải Vân.

No comments:

Post a Comment