Tuesday, April 24, 2018

NGÀY THỨ 6 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 15-3-1975: ĐỒNG LOẠT CHIẾN TRƯỜNG SÔI ĐỘNG KHẮP 4 VÙNG CHIẾN THUẬT NHƯNG NẶNG NHẤT LÀ QUÂN KHU 2 RỒI ĐẾN QK 1 VÀ QK 3

CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2 - BÌNH ĐỊNH

CŨNG TRONG NHỮNG NGÀY TỪ 10 -3 ĐẾN 15-3-1975

Trong lúc những trận giao tranh ác liệt bùng nổ ở Darlac, ba sư đoàn quân chính qui Bắc Việt với quân số và hỏa lực áp đảo đã tấn công dữ dội SĐ 22BB của Tướng Phan Đình Niệm tại vùng Bình Định. Tuy không đánh bật được lực lượng của SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm khống chế trục lộ giao thông trên QL19 đoạn qua đèo An Khê, nhưng các chiến sĩ SĐ 22 BB với sự yểm trợ của không quân đã gây thiệt hại nặng cho địch quân. Tướng Niệm hy vọng rằng SĐ3 BV với những thiệt hại nặng nề sẽ buột phải rút lui. Có một điều mà ông không thể nào tiên liệu được là những đột biến bất ngờ của tình hình tại các tỉnh còn lại thuộc QK2 đã làm những chiến thắng lừng lẩy của SĐ22 BB trở nên vô nghĩa!!

SĐ 3 BV bắt đầu cuộc phản công với những trận tấn công dữ dôị tràn ngập vị trí phòng thủ của lực lượng diện địa đang trấn giữ những cao điểm nhìn xuống đèo An Khê và các đơn vị điạ phương bảo vệ các cầu trên QL19 gần đó. Tướng Niệm lập tức cho tăng viện các tiểu đoàn bộ chiến thuộc SĐ22 BB chuẩn bị cho cuộc phản công tái chiếm các vị trí đã mất; nhưng Bắc quân lợi dụng những ưu thế bước đầu đã dàn toàn bộ lực lượng của các Trung Đoàn 2, 12, 14 thuộc SĐ 3 BV, cùng các đơn vị đặc công, pháo và các lực lượng yểm trợ địa phương tại vùng thung lũng Vĩnh Thạnh, nằm giữa đèo An Khê và Bình Khê.

Ngày 10 tháng Ba, 1975 khi SĐ 320 BV ào ạt tiến vào Ban Mê Thuột, ba trong tỗng số 4 trung đoàn của SĐ22 BB đã có mặt tại khu vực giữa quận An Nhơn, ngay giao lộ giữa QL19 với QL1, và vùng cực đông đèo An Khê. Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 47 BB, án ngữ đọan đường phía đông dẫn vào đèo An Khê, liên tiếp đẩy lui những cuộc tấn công ác liệt của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, 141 BV, và đánh bật lực lượng này ra khỏi chiến trường.

Vào ngày 11 tháng ba, Tiểu Đoàn 3 còn lại của Trung Đoàn 47 BB được không vận tới quận Bình Khê, hoàn tất việc chuyễn quân cho toàn bộ Trung Đoàn. Lúc này, Tiểu Đoàn 927-ĐPQ vẫn giữ một số vị trí bên trong đèo, nhưng không còn kiểm soát được trục lộ giao thông qua đèo nữa.
Ngày 11 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 209 ĐPQ; Tiểu Đoàn 218 ĐPQ còn lại với các Đại Đội rải quân quá mỏng để giữ đèo đã bị cô lập hoàn toàn và lâm vào tình huống có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào!

Trung Đoàn 42, SĐ 22BB với Bộ Chỉ Huy đặt tại Bình Khê, mở những cuộc tấn công về phía tây, dọc theo QL19, trong nổ lực nhằm bắt tay với các đơn vị đang bị vây hảm của hai Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 47 BB. Vào ngày 8 và 9 tháng Ba, Trung Đoàn 41BB từ Bồng Sơn di chuyễn tới vùng An Sơn trên QL19, để bảo vệ tuyến tiếp vận, liên lạc phía tây Bình Khê, và đồng thời bảo vệ an ninh cho căn cứ không quân Phù Cát. Trung đoàn 40 BB, trung đoàn thứ tư của SĐ 22 BB, vẫn nằm lại vùng phiá bắc tỉnh Bình Định, án ngữ cửa ngỏ vào thung lũng An Lão, và bảo vệ đèo Phù Ku trên Tỉnh Lộ 506, phía bắc Phù Mỹ.

Tới ngày 11 tháng ba, hai Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 2 BV đã bị hoả lực phi pháo của quân ta gây thiệt hại nặng nề. Tiểu Đoàn 7, Trung Đoàn 141 Bắc quân bị đánh bật khỏi ngả ba giao thủy cuả hai sông Cồn và sông Đồng Phổ, với hai đại đội gần như bị diệt gọn. Các Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn 12 BV cũng bị thiệt hại nặng. Nhưng Bắc quân đã nhanh chóng bổ xung quân số và vũ khí, đạn dược bằng những đoàn xe tải rầm rộ đổ vào vùng thung lũng Vĩnh Thạnh.

Ngày 13 tháng Ba, năm tiểu đoàn Bắc quân mở những đợt tấn công vũ bão vào vị trí của của Tiểu Đoàn 1 và 2, Trung Đoàn 47 BB, nhưng bị đẩy lui. Tính từ ngày 4 tháng Ba, 1975, liên tiếp bốn Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn 2 , Trung Đoàn 47 BB, khi lên thay thế nhau đã tử trận hết !

Tướng Niệm cho rút TĐ 2, với quân số chỉ còn phân nữa ra khỏi chiến trường, về dưỡng quân và tái phối trí tại hậu cứ SĐ. Trung Đoàn 47BB với hai tiểu đoàn còn lại bắt đầu mở những đợt tấn công vào vị trí quân BV tại khu vực phía tây dẫn vào đèo An Khê, nhằm bắt tay với lực lượng Điạ Phương Quân còn cố thủ trên đèo. Liên Đoàn 927 ĐPQ, dưới quyền điều động của Trung Đoàn 47 BB, đặt bộ chỉ huy tại phía tây đèo An Khê, với các đại đội đã hao hụt nặng của các Tiểu Đoàn 209, 217,và 218 ĐPQ nằm giữ những cao điểm dẫn qua đèo.

Ngày 12 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 218 ĐPQ cùng một đại đội của TĐ này, mặc dù Trung Đoàn 47BB đã hết sức nổ lực phá vòng vây của Bắc quân để bắt tay với lực lượng diện điạ tử thủ tại đây. Tiểu Đoàn 218 ĐPQ gom góp những thành phần sống sót của các đại đội, cố thủ tại khu vực phía tây dẫn vào đèo. Nhưng đơn vị này vào ngày 17-tháng Ba đã bị lực lượng của Trung Đoàn12 BV tấn công, tràn ngập.

NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH - QUÂN KHU 2

Giao tranh diễn ra rất khốc liệt giữa lực lương SĐ 22 BB và các đơn vị chính qui BV tại khu vưc nằm giữa đoạn cuối đèo về phía đông và quận Bình Khê kéo dài từ ngày 15 tới ngày 17 tháng Ba. Trung Đoàn 42 BB dồn mọi nổ lực tấn công nhằm đánh bật 3 tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm đang chiếm ngự gần cuối mạn đèo phía đông.

Mặc dầu gây thiệt hại nặng cho Bắc quân, giết chết gần 500 lính BV chỉ trong vòng hai ngày, Trung Đoàn 42 BB vẫn không thanh toán được mục tiêu. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 tuy bị thương hai lần khi chỉ huy cuộc tấn công, vẫn tiếp tục nằm lại với đơn vị.

Trong lúc đó, Tướng Niệm cho điều động Trung Đoàn 41BB lên vùng phía nam quận Bình Khê, và cho rút hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 47BB đưa lên vùng bắc Bình Định thay thế Tiểu Đoàn 2 và 3, Trung Đoàn 40 BB, đựợc Tướng Phú điều động qua tăng cường bảo vệ Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 47 BB, sau khi đưọc chỉnh trang và bổ sung quân số theo kế hoạch dự trù sẽ tiến lên phía bắc để thay thế Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 40 BB, rút về làm lưc lượng trừ bị cho SĐ.



NGÀY 9-3-1975 ĐẾN NGÀY 15-3-1975 : TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 – QUẢNG TRỊ - THỪA THIÊN HUẾ

CHIẾN TRƯỜNG PHÍA BẮC ĐÈO HẢI VÂN.

NGÀY 9-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

Sau khi bị đánh bật khỏi những cao điểm dọc QLI, phía nam thành phố Huế, trong những tuần lể đằu năm 1975, địch quân lập tức cho tăng cường thêm lực lượng trong khu vực này. Ngày 8 tháng Ba, những cuộc đụng độ lớn bùng nổ, khi Bắc quân tấn công chiếm 15 ấp xã ở phía nam tỉnh Quảng Trị và phía bắc Thừa Thiên. Đồng thời tại phía nam QK1, SĐ2 BV và Trung Đoàn 52 Bắc quân tấn công tràn ngập hai quận Hậu Đức và Tiên Phước, đe dọa tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quãng Tín.

Tới trưa ngày 9 tháng Ba, với chiến xa và M113 yểm trợ, một lực lượng đặc nhiệm của QĐ1 bao gồm Tiểu Đoàn 8 Dù, các Tiểu Đoàn 112, 120 ĐPQ và ĐĐ 921 ĐPQ đã đánh bật quân BV ra khỏi những vị trí địch quân chiếm được tại Thừa Thiên, gây tổn thất nặng cho địch.

Bắc quân lại mở những cuộc tấn công vào các xã ở vùng duyên hải tỉnh Thừa Thiên, đồng thời tấn công dữ dội các đơn vị ĐPQ đang bảo vệ những tuyến đường dẫn vào thành phố Huế.

Tại vùng đông nam Huế, 3 trung đoàn thuộc SĐ 324B BV bắt đầu chiến dịch Thừa Thiên với những đợt tấn công dọc theo khu vực dài 8 km từ sáng sớm mùng 8 tháng Ba. Với hoả lực pháo năng bắn tập trung yểm trợ, Bắc quân ào ạt tràn lên những ngọn đồi xung quanh. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 1 BB, vẫn giữ vững vị trí tại đồi 121; nhưng Tiểu Đoàn 1 thuộc trung đoàn này đã bi địch quân tràn ngập, đánh bật khỏi tuyến phòng thủ ở đối 224. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 54 BB bị đẩy khỏi đồi 144, nhưng sau đó đã chiếm lại được vị trí này trong ngày 9 tháng Ba. Đai Đội Trinh Sát Hắc báo SĐ1 BB cũng buộc phải bỏ vị trí tại đồi 50, phía tây bắc núi Bóng.

Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB, lập tức tung 2 Tiểu Đoàn 61 và 94 thuộc LĐ 15 BĐQ vào trận địa, nhằm chiếm lại những vị trí đã mất. TĐ 61 BĐQ càn qua trận phục kích của Bắc quân, tiếp tục phối hợp cùng TĐ 94 BĐQ mở những đợt phản công vào vị trí quân BV vào ngày 10 tháng Ba.

Những cung từ từ các cuộc thẩm vấn tù binh BV bắt được trong ngày 11-tháng Ba cho biết toàn bộ SĐ 325 BV đã di chuyễn về phía nam, sẵn sàng cùng lực lượng điạ phương địch tấn công quận Phú Lộc.

Với khoảng 20 chiến xa T54 yểm trợ, quân BV tấn công hành lang Sông Bồ nơi Lữ Đoàn 147 TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 TQLC và Tiểu Đoàn 130 ĐPQ trấn giữ. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt trong hai ngày, LĐ147 TQLC đã chiếm lại một vị trí bị địch quân tràn ngập trong ngày 11 tháng Ba; gây thiệt hại nặng cho Bắc quân với 200 lính BV bị giết chết và phá hủy hai chiến xa địch, gây hư hại cho 7 chiếc khác, cùng tịch thu nhiều vũ khí, dạn dược.

NGÀY 12-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG THỪA THIÊN HUẾ

Ngày 12-3 Một tiễu đoàn thuộc Trung Đoàn 6 chính qui BV xâm nhập vùng Phú Lộc, xử dụng 12 thuyền đánh cá cướp được cuả dân điạ phương, chuyễn quân qua Đầm Cậu Bảy, tấn công xã Vĩnh Hiền, quận Vĩnh Lộc ở đầu phía nam đảo, tiến ngược lên phía bắc, tấn công Vĩnh Giang. Một phần tiểu đoàn này tiến vào khu vực quận Phú Thứ, ngay phía đông thành phố Huế. Tiểu Đoàn 8 Dù được tăng cường bởi 2-đại đội của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 54 BB, với sự yểm trợ của một chi đoàn M113 chận đánh tiểu đoàn Bắc quân và tiêu diệt gọn đơn vị này.

NGÀY 16-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG THỪA THIÊN HUẾ

Ngày 16 tháng Ba, một đơn vị của Trung Đoàn 54 BB phục kích thành phần còn lại của tiểu đoàn chính qui BV, giết chết Tiểu Đoàn Trưởng cùng 20 lính BV. Theo lời khai của 5 tù binh CS thì đơn vị này đã bị thiệt hại rất nặng, chỉ còn khoãng 33 người sống sót mà hầu hềt đều bị trọng thương. Những cuộc đột nhập khác của quân CSBV thuộc Trung Đoàn 4 độc lập vào hai quận Phong Điền và Quảng Điền, tây bắc thành phố Huế cũng bị quân ta nhanh chóng chận đứng và tiêu diệt.
Mặt trận phía nam đèo hải Vân.

NGÀY 11-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

Phía nam đèo Hải Vân, ngày mùng 8 tháng Ba, đặc công CS đột nhập Đà Nẵng, bắn B40 vào các công sở thuộc quận Hoà Vang. Ngày 11 tháng Ba, địch pháo kích dữ dội bằng hoả tiển 122-ly vào căn cứ không quân Đà Nẵng phá hủy một chiến đấu cơ F5E loại mới của Không Quân. Quân BV với trọng pháo yểm trợ cũng mỡ những cuộc tấn công vào các đơn vị thuộc SĐ3BB, SĐ Dù, và lực lượng diện điạ rải dài từ Đại Lộc tới Quế Sơn. Hầu hết các cuộc tấn công đều bị đẩy lui, nhưng đặc công CS đã phá sập được cây cầu chính trên TL540, phía bắc Đại Lộc.

Riêng tình hình tại tỉnh Quãng Tín khá nghiêm trọng. Cuộc tấn công được chờ đợi từ lâu của Bắc quân vào các quận đồi núi Tiên Phước và Hậu Đức cuối cùng đã diễn ra vào ngày 10 tháng Ba. Hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 31, SĐ 2 chính qui BV tấn công vào quận Tiên Phước từ hai hướng, tây và bắc; trong khi đó các đơn vị của Trung Đoàn 1 BV, mở cuộc tấn công từ hướng nam và đông nam lên. Ở Hậu Đức, một tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 31 chính qui BV, được sự yểm trợ của các lực lượng điạ phương, đã tràn ngập Tiểu Đoàn 102 ĐPQ.

Thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quãng Tín, cũng bị tấn công bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 11 tháng Ba; đồng thời địch pháo kích dữ dội căn cứ không quân tại Chu Lai.

Những thành phần sống sót của hai Tiểu Đoàn 116, 134 ĐPQ bị tràn ngập tại Tiên Phước, mở đường máu rút về phía đông, hướng Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 135 ĐPQ cũng rút khỏi vị trí tại núi Bàn Quan, phía đông quận Tiên Phước, lui về Tam Kỳ, bỏ lại 4 khẩu 105 ly Howitzer. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5, SĐ2BB, được tăng cường bởi Tiểu Đoàn 115 ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công chiếm lại vị trí trên núi Mỹ, cao điểm trọng yếu cuối cùng trên đường 533 giữa Tam Kỳ và Tiên Phước; nhưng sau đó buộc phải rút lui vì hỏa lực dữ dội của pháo binh đich.

Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB cho thành lập một lực lượng giải tỏa từ Tam Kỳ tiến ngược lên để bảo vệ cho các đơn vị diện địa và dân chúng di tản về từ Tiên Phước. Tuy nhiên Băc quân đã chiếm các cao điểm, gồm cả Núi Ngọc, một ngọn đồi cao, nằm dọc theo trục lô tiến quân của đoàn quân tiếp ứng. Vào ngày 11 tháng Ba, lực lượng tiếp ứng của Tướng Nhựt gồm hai Tiểu Đoàn 37, 39 BĐQ, và Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 5, SĐ 2 BB đã bị chận đứng ngay gần núi Ngọc.

NGÀY 12-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NAM & QUẢNG NGÃI

Ngày 12 tháng Ba, Tướng Nhựt cho điều Trung Đoàn 5 thuộc SĐ 2 BB từ Quãng Ngãi vào án ngữ phía tây Tam Kỳ. Ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 5 BB rải quân dọc lộ 533 với các vị trí tiền tiêu sâu vào tận phía đông núi Mỹ. Hai Tiểu Đoàn 115, 135 ĐPQ bố trí phía bắc Trung Đoàn 5 BB, giữa lộ 533 và các đơn vị của lực lượng đặc nhiệm BĐQ đóng dưới núi Ngọc. Tiểu Đoàn 21 BĐQ lập tuyến phòng thủ ngay sau vị trí đóng quân của TĐ 135 ĐPQ. Vào lúc này, Tưóng Nhựt đã dàn 9 tiểu đoàn tai phía tây Tam Kỳ, trong khi đó một lực lượng hùng hậu của Bắc quân đang ào ạt tiến về hướng Tam Kỳ và thị xã này đã nằm trong tầm pháo của địch.

NGÀY 12-3-1975 TẠI QUÂN KHU 1

Tại Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐ1, cũng đang lâm vào một tình huống hết sức khó khăn.

Ngày 12 tháng Ba. Bộ Tỗng tham Mưu tại Sài gòn ra lịnh cho ông trả SĐ Dù đang bố phòng bảo vệ Đà Nẵng về Sàigòn, đồng thời chuyễn lịnh của TT Thiệu cho QĐ1 phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng. Tướng Trưởng mạnh mẽ chống lại quyết định này của Sài gòn. Ngày 13 tháng Ba, ông đích thân bay về Sài gòn gặp TT Thiệu và Đaị tướng Viên để yêu cầu Sài gòn thu hồi quyết định, nhưng Sài gòn chỉ trì hoãn việc rút SĐ Dù khỏi Vùng I thêm được 4 ngày, và sẽ bắt đầu vào ngày 17 tháng Ba. Hai ngày sau, Tướng Trưởng trong một nổ lực cuối cùng đã thuyết phục được TT Thiệu cho phép Lữ Đoàn 1 Dù, LĐ cuối cùng dự trù tái phối trí để bảo vệ thủ đô Sàigòn và tham gia hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột, nằm lại Đà Nẵng, với điều kiện không được xử dụng đơn vị này trong hành quân tác chiến. Để thay thế cho việc rút quân Dù khỏi Vùng I Chiến Thuật, TT Thiệu ra lệnh cho Bộ TTM không vận Lữ Đoàn 468 TQLC, mới thành lập, với hai Tiểu Đoàn 14, 16 TQLC, và một Liên Đoàn BĐQ ra QK1 để tăng cường cho lực lượng chiến đấu của Quân Đoàn 1.

Để trám vào khoãng trống do việc rút SĐ Dù về Sài gòn, Tướng Trưởng quyết định tái phối trí lại lực lượng bố phòng của QĐ1. Ông cho điều SĐ TQLC từ Quảng Trị và vùng bắc Thừa Thiên về bảo vệ quận Phú Lộc và Đà Nẵng.

Ngày 13 tháng Ba, LĐ14 BĐQ tiến lên phía bắc để thay thế cho lực lượng TQLC rút đi. Tướng Trưởng chỉ đề lại lữ đoàn 369 TQLC đang nằm tại Phú Lộc, là lữ đoàn TQLC duy nhất còn hoạt đông ngoài vùng phía bắc đèo Hải Vân. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ 2BB, cũng được lịnh rút một trung đoàn đang tham dự cuộc hành quân Quyết Thắng tại quận Nghĩa Hành, Quãng Ngãi về tăng cường bảo vệ tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quảng Tín. QĐ 1 được lịnh phải bảo vệ Huế, Đà Nẵng bằng mọi giá, cho dù phải bỏ Quảng Trị, Quảng Tín, và Quảng Ngãi !

NGÀY 13-3-1975 CUỘC HỌP MẬT TẠI SÀI GÒN QUYẾT ĐỊNH SỰ SỐNG CÒN CỦA QUÂN ĐOÀN 1 & QUÂN KHU 1

Trong buổi họp mật ngày 13 tháng Ba tại Sài gòn với TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, và Đại Tướng Viên, Tướng Trưởng được thông báo quyết định về việc di tản chiến thuật của QK2, và được lịnh chuẩn bị cho việc triệt thoái khỏi QK1 của Quân Lực VNCH trong kế hoạch tái phối trí lực lượng cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng Dù sẽ rút hết khỏi QK1 vào ngày 31 tháng Ba để về phòng thủ Sàigòn, và LĐ 468 TQLC sẽ được TTM tăng cường cho việc bảo vệ Đà Nẵng vì vị trí chiến lược tối quan trọng của thành phố này cho dù phải hy sinh những tỉnh còn lại của QK1 kể cả cố đô Huế.

Tình hình chiến sự không được mấy khả quan cho Tướng Trưởng từ sau buổi họp mật tại dinh Độc Lập.

Quân Bắc Việt đã mở những cuộc tấn công dữ dội,tràn ngập vị trí của hai tiểu đoàn ĐPQ ở mạn sưòn phiá tây tuyến phòng thủ tại sông Mỹ Chánh, Quãng Trị. Lui sâu về phiá nam, tại hành lang Sông Bồ, Tiểu Đoàn 4 và 5 TQLC đẩy lui những đợt xung phong ác liệt của Bắc quân vào khu vực trắch nhiệm của LĐ 147 TQLC. Tại vùng trách nhiệm của SĐ1BB, hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, bị đánh bật khỏi căn cứ hỏa lực Bastogne, nhưng đã chiếm lại được ngay ngày hôm sau. Giao tranh dữ dội đã diễn ra tại tây nam Tam Kỳ. Quân BV tràn ngập vị trí phòng thủ của các đơn vị ĐPQ tại đây, và chiến xa BV đã xuất hiện ở phía nam quận Tiên Phước. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5 BB, Tiểu Đoàn 37 BĐQ đã đánh những trận sáp lá cà đẫm máu với quân BV, và có nguy cơ bi tràn ngập.

NGÀY 14-3-1975 TẠI BỘ TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 1

Ngày 14 tháng Ba, Tướng Trưởng họp với Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QK1, chỉ huy các đơn vị trực thuộc QĐ tại Quảng Trị và Thừa Thiên, cùng Tướng Lân, Tư Lệnh SĐ TQLC để phát họa kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng. Theo đó, ông sẽ đưa toàn bộ lực lượng chiến đấu của QĐ1 về Quãng Nam để bảo vệ Đà Nẵng với các SĐ1, 3BB, SĐ TQLC nằm án ngữ tuyến đầu, và SĐ 2BB làm lực lượng trừ bị. Nhưng kế hoạch này phải được tiến hành từng giai đoạn với các sư đoàn từ Quảng Trị và Thừa Thiên lui binh về Đà Nẵng, và vùng lãnh thổ phía nam quân khu sẽ được rút bỏ. Tướng Trưởng ra lịnh di tản lập tức tất cả các đơn vị chiến đấu tại hai quận miền núi Sơn Hà, Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi, kể cả hai Tiểu đoàn 68, 69 BĐQ đang đóng tại đây, cùng toàn bộ cư dân nào muốn di tản theo.

NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

Ngày 15 tháng Ba, LĐ14 BĐQ chuẩn bị nhận vùng trách nhiệm bàn giao từ LĐ 369 TQLC tại Quãng Trị. Trong lúc một lữ đoàn TQLC vẫn còn nằm lại vùng thung lũng Sông Bồ để bảo vệ Huế, Lữ Đoàn 369 TQLC sẽ được điều động về quận Đại Lộc, Quảng Nam, thay thế Lữ Đoàn 3 Dù di chuyễn về Sàigòn. Tướng Trưởng và Tướng Thi dự trù một cuộc di tản khỗng lồ của dân chúng Quảng Trị khi lực lượng TQLC rút đi, nên hai ông đã chỉ thị Bộ Tham Mưu Quân Đoàn chuẫn bị mọi phương án cần thiết để giúp đỡ quân chúng. Đồng thời, Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB giữ Trung Đoàn 6BB lại, án ngữ phía nam quận Nghĩa Hành để bảo vệ thị xã Quảng Ngãi. Vào ngày 14 và 15 tháng Ba, lực lượng Bắc quân mỡ những đợt tấn công dữ dội đều khắp tỉnh Quảng Ngãi, tràn ngập các tiền đồn quanh vòng đai thị xã. Lực lượng diện địa Tiểu Khu Quảng Ngãi đã suy yếu hẳn, sau khi các đơn vị chính qui của Trung Đoàn 5 BB được điều động qua bảo vệ thị xã Tam Kỳ, Quảng Tín, và phần lớn Trung Đoàn 4 BB đưọc đưa về làm lực lượng trừ bị cho Sư Đoàn 2BB tại Chu Lai. Tiểu Đoàn 70 BĐQ và Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 4BB, là hai tiểu đoàn chính qui duy nhứt còn nằm án ngữ phía tây quận Mộ Đức, cùng ba tiểu đoàn ĐPQ đóng quân giữa khu vực quận Mộ Đức và quận Đúc Phỗ, giáp ranh tỉnh Bình Định. Tại khu vực phía bắc, đêm 15 rạng 16 tháng Ba, quân BV tràn ngập vị trí của lực lượng diện điạ bảo vệ trục giao thông trên QL1, và cắt đứt đoạn đường từ Bình Sơn về Quảng Tín.

NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG TÍN – QUẢNG TRỊ - QUÂN KHU 1

Tại Quảng Tín, quân BV tấn công khu vực phía bắc Tam Kỳ, sát gần QL1, đánh tan một đơn vị ĐPQ ở phía bắc thị xã vào đêm 15 tháng Ba. Đồng thời, Bắc quân mỡ những đợt tấn công ác liệt vào vị trí bố phòng của Trung Đoàn 5 BB và LĐ 12 BĐQ tại khu vực phía tây Tam Kỳ, đánh bật lực lượng phòng thủ của ta ỡ đây, và tràn ngập Tiểu Đoàn 37 BĐQ.

Trong lúc sự sụp đỗ gần như không thể tránh khỏi ở hai tỉnh phía nam Quân Khu, việc hoán chuyễn các đơn vị tại Quảng Trị vẫn tiến hành như kế hoạch dự trù. Liên Đoàn 14 BĐQ đặt bộ chỉ huy ngay quận Hải Lăng, đã cho ba Tiểu Đoàn 77, 78 và 79 BĐQ nhận lãnh vùng trách nhiệm bàn giao từ các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC, đang chuẩn bị di chuyễn xuôi nam để thay thế cho SĐ Dù rút khỏi Quảng Nam.

Khi các lữ đoàn TQLC rút đi, tinh thần binh sĩ thuộc lực lượng điạ phương cũng như của dân chúng Quảng Trị sụp đỗ hoàn toàn, mặc dầu những đơn vị Bắc quân xâm nhập vào vùng bình nguyên Quảng Trị, cho tới ngày 16 thang Ba, đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Cung từ của một hồi chánh viên thuộc Trung Đoàn 101, SĐ 325 chính qui BV, tại Phú Lộc cho biết toàn bộ SĐ 325 Bắc quân đã có mặt tại vùng phía nam Thừa Thiên, được yểm trợ bởi các đơn vị sơn pháo 85mm, và các đại pháo tầm xa 130 ly thuộc Trung Đoàn 84 Pháo Binh BV. Tới ngày 15 tháng Ba, hai Trung Đoàn 18 và 101 bộ chiến BV đã nằm trong tầm tấn kich Phú Lộc.


CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 3

TỪ NGÀY 11-3-1975 ĐẾN NGÀY 15-3-1975

NGÀY 11-3 ĐẾN NGÀY 15-3-1975: TỬ CHIẾN TẠI DẦU TIẾNG

tháng-Ba, năm-một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm!!!!

Cuộc tiến công năm 1975 của Cộng Sản BV tại miền Nam Việt Nam được phối hợp đồng bộ trên toàn quốc. Song song với những đợt tấn công tại QK 1 và QK 2, Bắc quân mỡ đầu chiến dịch tỗng công kích tại QK3 bằng cuộc tấn công vào Trị Tâm, Quận lỵ Quận Dầu Tiếng, nằm về phía tây nam đồn điền cao su Michelin. Phía tây Trị Tâm, bên kia sông Sàigòn, Tỉnh Lộ 239 đi xuyên qua đồn điền Bến Củi, trước khi nhập vào LTL 26, chạy dài về phía tây bắc vào thị xã Tây Ninh và xuôi huớng đông nam tới tận một cứ điểm tiền đồn của quân lực miền Nam tại Khiêm Hạnh. Tất cả mọi giao thông đi lại đều phải ngang qua Liên Tỉnh Lộ 26 và Lộ 239, do các tiền đồn của lực lượng diện địa kiểm soát. Quận lỵ Trị Tâm được phòng thủ bởi 3 tiểu đoàn Điạ Phương Quân và 9 trung đội Nghĩa Quân. Bộ Tư Lệnh QĐ3/QK3 dự đoán Bắc quân sẽ tấn công vào Trị Tâm do tin tức tình báo thu lượm được về việc các đơn vị thuộc SĐ 9 chính qui BV đang tập trung tại phía bắc thị trấn này, nên ngày 10 tháng Ba, đã tăng cường cho lực lượng phòng thũ tại đây thêm hai đại đội ĐPQ.

NGÀY 11-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG TÂY NINH – QK 3

Cuộc tấn công vào Trị Tâm khởi sự lúc 6 giờ sáng ngày 11 tháng Ba với những đợt dập pháo dữ dội và các đợt xung phong ác liệt của quân bộ chiến tùng thiết địch vào vị trí quân ta. Trước đó, Bắc quân đã tấn công cắt đứt mọi đường liên lạc, tiếp vận của quân đồn trú; vào lúc 3:30 sáng bộ binh và chiến xa T54 địch tràn ngập môt tiền đồn của đơn vị ĐPQ trên TL239, khoãng 10 km phía tây Trị Tâm. Bộ Chỉ Huy TK Tây Ninh lập tức điều động 2 tiểu đoàn ĐPQ tiến về phía đông, dọc theo lộ 239 về hướng Bến Củi, nhưng lực lượng này đã bị chận đứng bởi hỏa lực dữ dội của địch khi gần đến tiền đồn ĐPQ bị địch chiếm giữ. Chiến xa địch đã xuất hiện ở khu vực đồn điền Bến Củi, yểm trợ cho lực lượng bộ binh địch, nhưng các đơn vị diện địa bảo vệ quận lỵ Trị Tâm, vẫn giữ vững vị trí, đẩy lui những cuộc xung phong ác liệt của Cộng quân, bắn cháy hai chiến xa T54 ngay trong khu vực thị xã. Mũi tấn công chính của Bắc quân vào Trị Tâm phát xuất từ hướng đông nên lực lượng phòng thủ tại đây đã cho nổ sập cây cầu trên lộ 239, phía đông thị trấn để ngăn chặn chiến xa địch. Giao tranh tiếp diễn dữ dội suốt đêm; cho đến hừng sáng 12 tháng Ba, quân trú phòng vẫn còn giữ vững Trị Tâm. Nhưng trong ngày 12 tháng Ba, lực lượng Bắc quân thuộc hai Trung Đoàn 95 C và 272 BV, được yểm trợ bởi một chi đoàn T54 cùng một trung đoàn pháo, mỡ những đợt tấn công liên tục, cuối cùng đã tràn ngập tuyến phòng thủ của quân diện địa trú phòng tại đây.

Bộ Tư Lệnh QĐ3 lập tức tăng viện cho chiến trường Trị Tâm một lực lượng đặc nhiệm. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 318 gồm các đơn vị chiến xa và thiết quân vận thuộc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Tướng Trần Quang Khôi, với Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân tùng thiết, đã bị chặn đứng bởi hỏa lực B40, 41 và pháo tầm xa 130 ly của địch khi tiến quân gần đến khu vực Trị Tâm. Với Trị Tâm trong tay, Bắc quân đã kiễm soát được hành lang sông Sàigòn chạy dài từ thượng nguồn sông, gần căn cứ Tống Lệ Chân, cho tới tận tiền đồn của quân lực miền Nam tại Rạch Bắp trong vùng Tam giác Sắt. Khiêm Hạnh, một tiền cứ của QLVNCH, nằm gần một giang cảng trọng yếu, và khu giao lộ tại Gò Dầu Hạ, với nhiệm vụ chính là ngặn chặn các đơn vị quân BV tiếp cận QL22 và QL1, đã nằm trong tầm pháo địch. Trị Tâm nay trở thành mục tiêu chính trong chiến dịch nhằm cô lập Tây Ninh với thủ đô Sàigòn. Trước đêm tấn công vào Trị Tâm, ba tiểu đoàn chính qui BV D14, 15, 18, với sự yểm trợ của Trung Đoàn 101, cùng Sư Đoàn 75 Pháo Binh BV, đã cắt đứt QL 22 giữa Gò Dầu Hạ và thị xã Tây Ninh. SĐ 75 Pháo Binh BV gồm 5 Trung Đoàn pháo hoạt động tại Tây Ninh trong chiến dịch này. Riêng SĐ 377 Phòng Không địch có khoãng 15 tiểu đoàn pháo cao xạ, mà một số các đơn vị của SĐ này đã yểm trợ trực tiếp cho bộ binh xung kích địch.

Trong khi các tiểu đoàn quân chính qui BV tại Tây Ninh cắt đứt QL22, phía bắc Gò Dầu Hạ, lực lượng thuộc Trung Đoàn 6 và 174, SĐ 5 Bắc quân, từ Kampuchia tràn qua biên giới, tấn công căn cứ Bến Cầu, phía tây bắc Gò Dầu Hạ, nằm giữa đường biên giới Viêt-Miên và sông Vàm Cỏ Đông. Những đợt tấn công đầu tiên của địch bị đẩy lui, với 2 chiến xa PT-76 bị bắn cháy.

NGÀY 12-3-1975 CHIẾN TRƯỜNG GÒ DẦU – TÂY NINH – QK 3

Ngày 12 tháng Ba, một lực lượng lớn chiến xa địch bị phát gìác tại phía tây Gò Dầu Hạ; các chiến đấu cơ của ta được gọi tới oanh kích phá hủy 8 tank địch và làm hư hại 9 chiếc khác.

Tuy nhiên, ngày 14 tháng Ba, các đơn vị diện địa phòng thủ Bến Cầu đã rút lui trước áp lực nặng của địch quân. Bến Cầu chỉ là một trong 8 tiền đồn nằm về phía tây sông Vàm Cỏ Đông bi địch tấn kích nặng nề vào ngày 12 tháng Ba. Hầu hết các cuộc tấn công vào các tiền đồn đều bị đẩy lui, nhưng đến ngày 14 tháng Ba, Bắc quân đã chiếm trọn các cứ điểm này.


NGÀY 13-3-1975 CHIẾN TRƯỜNG KHIÊM HẠNH – QK 3

Tướng Toàn, Tư Lệnh QĐ3 cho tăng cường lực lượng phòng thủ Khiêm Hạnh và dọc theo QL1 và QL22. Ông cho điều Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ với ba thiết đoàn cơ hữu, cùng hai Tiểu Đoàn 64, 92 Biệt Động Quân, và Trung Đoàn 48, SĐ18BB, đuợc tăng cường bởi các Thiết Vận Xa thuộc lực lượng trừ bị Quân Đoàn đóng tại Long Bình, Biên Hòa tới Khiêm Hạnh.và Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 7, SĐ 5 BB tại Lai Khê cũng được tăng phái cho chiến trường Khiêm Hạnh. Trong lúc một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 48 BB tấn công về phía tây Gò Dầu Hạ để khai thông đoạn QL 1 dẫn từ Gò Dầu tới vùng biên giới Việt-Miên, Trung Đoàn 46 BB tấn công về phía bắc dọc theo đường 22 để trợ lực các đơn vị diện địa khai thông đoạn đường dẫn về Tây Ninh đã gặp sự kháng cự và hoả lực pháo dữ dội của địch. Pháo phòng không địch dày đặc đến nổi trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn không thể nào đáp xuống Gò Dầu Hạ trong ngày 13 tháng Ba được. QL 22, đoạn giữa Gò Dầu Hạ và Tây Ninh vẫn bị địch quân phong toả.

Quốc Lộ 4 nối liền thủ đô Sàigòn và Vùng 4 Chiến Thuật, con đuờng huyết mạch trọng yếu dẫn về vùng châu thổ sông Cửu Long cũng bị đe doạ bởi các cuộc đụng độ đang lan rộng khắp QK3. QL 4 đi qua một vùng dân cư đông đúc với các ruộng lúa màu mỡ, bạt ngàn và các vườn thơm khóm của tỉnh Long An, nằm giữa ranh giới hai Vùng 3 và 4 Chiến Thuật. Lực lượng diện địa của TK Long An là một trong những lực lượng địa phương thiên chiến nhất trên toàn quốc, đã chứng tỏ thực lực của mình qua việc đè bẹp các tiểu đoàn chủ lực địa phương của địch tại đây trong những trận giao tranh khốc liệt diễn ra vào đầu tháng Ba với những tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Nhận thấy tầm mức quan trọng của việc bảo vệ giao thông trên QL4, Bộ TTM đã tăng phái hai Tiểu Đoàn 14 và 16 thuộc LĐ 468 TQLC mới thành lập để tăng cường phòng thủ khu vực Long An. Các đơn vị TQLC và ĐPQ Long An đã mỡ những cuộc hành quân phối hợp chặt chẽ, duy trì an ninh cho tỉnh Long An trong suốt tháng Ba, 1975.

Trong khi Tướng Toàn tung hơn phân nữa lực lượng của QĐ3 để bảo vệ cạnh sườn phía tây, Bắc quân mỡ những đợt tấn công vào khu vực phía Đông và vùng trung tâm QK3. Các lực lượng còn lại của quân lực miền Nam hầu như không đủ để đối phó với những cuộc công kích càng lúc càng lan rộng của Cộng quân. Quân miền Nam được lịnh bỏ các cứ điểm tại An Lộc và Chơn Thành vì không còn giá trị về mặt chính trị và quân sự chiến lựơc, để tăng cường phòng vệ các khu vực đang bị áp lực nặng nề của địch. Lúc này lực lượng địch đã tăng cường thêm một SĐ, SĐ341 tỗng trừ bị, mới xâm nhập từ miền Bắc vào. Để bảo toàn lực lượng cho các đơn vị BĐQ và diện địa tại An Lộc và Chơn Thành Tướng Toàn đã cho lịnh di tản lực lượng này khỏi các cứ điểm tại hai khu vực trên cùng 12 khẩu pháo 105 ly Howiter. Riêng 5 trọng pháo 155 mm được phá hủy tại chỗ vì Không Quân không có trực thăng loại nặng để bốc những loại pháo này. Nhìn chung, tình hình tại vùng trung tâm QK3 vẫn tương đối yên tĩnh, mặc dầu có sự xuất hiện của SĐ 341 và Trung Đoàn 273 BV mới xâm nhập vào miền Nam. Áp lực nặng nề nhât của địch tại Vùng 3 Chiến Thuật tập trung ở cạnh sườn phía đông.


http://motgocpho.com/forums/showthread.php/23496-TH%C3%81NG-T%C6%AF-%C4%90EN
NGÀY THỨ 7 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC


NGÀY 16.3.1975: QUÂN ĐOÀN 2 TRIỆT THOÁI

Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.

Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.

(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .

Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.

Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ.

Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ.

Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam của Quốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xã Pleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Hòa.

* Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.

Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.

Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là "quá sức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.

Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc qua sông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì vào những năm trước 1973, lực lượng Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc.

Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.
Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.

Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó".

Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy".

Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.

Theo lời Đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì. Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: "Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.

POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:22 PM


NGÀY TA BỎ NÚI


HỒI KÝ CỦA THIẾU TÁ VƯƠNG MỘNG LONG – TĐT – TĐ 82 BĐQ

Trích trong Tập san ĐA HIỆU.

Thiếu Tá TĐ Trưởng TĐ 82 Biệt Động Quân VƯƠNG MỘNG LONG








Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới.

Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn.

Chương 1.

Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Đức, Quảng-Đức lên thăm Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Đêm đó hai thày trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya. Tôi được Đại Tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Đại Úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng Sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại qui mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hãm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SĐ 320 chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Đơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Đêm đó tôi có nói với Đại Tá Tất rằng,

-”Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về phòng thủ Ban-Mê-Thuột, tôi sẽ có dịp ‘cưa’ với nó một lần nữa. Đại Tá yên chí! Nếu tôi chưa chết thì Ban-Mê-Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Đại Tá như vậy!”

Tôi thực lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống trong thành phố này. Ông Tất cười cười trả lời,

-”Cậu đừng lo! Ông Phú (Tư Lệnh QĐ2) đã giao cho ông Tường (Tư Lệnh SĐ23/BB) lo vụ này rồi!”

Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư đoàn 23/ BB sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban-Mê-Thuột và Pleiku. Tiếp đó Đại Tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa TĐ82/BĐQ của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh-Sát, Viễn-Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phát khỏi Liên đoàn 24 BĐQ để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.

Hôm sau, trước khi từ giã Đại Tá Tất, tôi có đi quanh một vòng thăm Trung Tá Lê Tất Biên, liên đoàn trưởng LĐ 23 BĐQ và vài người bạn đang tham gia phòng thủ vùng Bắc-Kontum. Thiếu Tá Thi, liên đoàn phó LĐ 23 BĐQ hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của liên đoàn. Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam Biên Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ. Trên đường về Quảng-Đức, tôi ghé Ban-Mê-Thuột thăm hậu cứ tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm. Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già Dương Đức Mai (cựu Trung Tá liên đoàn trưởng LĐ22 BĐQ, mới giải ngũ) xuất hiện giữa phố, dơ tay vẫy,

-”Chào người hùng Plei-Me. Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!”

Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình. Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở BCH BĐQ QK2. Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác ở kế hàng rào sân vận động Ban-Mê-Thuột. Vào tới sân, Trung Tá Dương Đức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi,

-”Theo ý cậu, tụi VC có dám đánh Ban-Mê-Thuột hay không?”

Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ,

-”Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban-Mê-Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!”

-”Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?” Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm.

-”Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.” Tôi cầm tay bác, trấn an bác,

Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm. Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường và Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi (Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh/SĐ 23 BB & Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac).

Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng. Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung Tá của Sư đoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được một năm. Ông cụ và bác Dương Đức Mai là bạn khá thân. Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay từ giã người cựu liên đoàn trưởng Biệt Động Quân Dương Đức Mai, rồi lên đường.

Vài ngày sau, ở Kiến Đức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng Sĩ của Trung đoàn 48/SĐ 320/ Điện-Biên đã khai, thì giữa tháng Ba tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Tôi lại nghe tin A2 phổ biến từ Phòng Nhì, Quân đoàn 2 thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên phòng Bản-Don. Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi và gia đình binh sĩ Tiểu đoàn 82 BĐQ đều ở Ban- Mê-Thuột.

Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Động Quân Quân- khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu đoàn 82 BĐQ được rời Kiến-Đức, Quảng-Đức để về phòng thủ Ban-Mê-Thuột. Tôi biết rất rõ về Trung đoàn 48 SĐ 320 CSBV, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê Thuột. Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đã hai lần chạm trán với trung đoàn CSBV này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư, 1974) và ở căn cứ biên phòng Plei-Me (tháng 7 & 8, năm 1974). Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua bộ chỉ huy Liên đoàn 24 BĐQ và qua bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn trưởng LĐ 24 BĐQ rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi.

Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin. Sáng ngày 9/3/75 đài tiếp vận “Tam Quái 82″ của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Đức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào chi khu Đức-Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh. Xế chiều, tôi nghe anh Binh nhì trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối,

-”Thiếu Tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu Tá ơi!”

Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa. Tôi thường gọi mấy anh Biệt Động Quân của Tiểu đoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam Quái”. Chỉ vì toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin. Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Động Quân lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Động Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào. Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua BCH BĐQ QLVNCH, TTHLBĐQ Dục Mỹ, TTHL Lam Sơn, Đơn Vị 2 Quản Trị Địa Phương, Quân Lao, kể cả Lao Công Phục Hồi. Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, sì-ke tôi nhận tuốt. Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung Tá Bùi văn Sâm,

-”Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch.Chỉ cần người lính chịu bóp cò là được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!”

Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác. Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt. Lính thong manh, không canh gác được thì cho trực truyền tin, nấu cơm. Lính điếc thì cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Điếc đâu cần bịt lỗ tai! Sì-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Hoàng, Đại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần. Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh! Theo lời dạy của cổ nhân,”Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau. Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu đoàn 82 BĐQ) là thế đấy! Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.

Sáng 10/3/75, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch pháo kích vào tiền cứ Liên đoàn 24 BĐQ ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Don. Thiếu Tá Hồng, chỉ huy tiền cứ đã bị thương. Sau đó là tin chiến xa VC bắt đầu tấn công vào trung tâm thị xã. Tin tức đứt đoạn vì không có đài tiếp vận và tiền cứ liên đoàn đã mất liên lạc. Đêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì hậu cứ cũng như gia đình binh sĩ của tiểu đoàn tôi đều ở Ban Mê Thuột.

Ngày 11/3/75 tôi nghe được tiếng Đại Tá Phạm duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn Tướng Lê trung Tường. Đại Tá Tất buồn rầu trả lời,

-”Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không.”

Trung Tá Lê quý Dậu là liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động Quân. Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung Tá Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ. Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng,

-”Trường-An cho phương tiện bốc tôi về Ban-Mê-Thuột đi! Trường-An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!”

Trường-An là danh hiệu truyền tin của Đại Tá Phạm duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân khu 2. Lúc đó tôi nghẹn lời, bên tôi người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Đăng mắt cũng đỏ hoe. Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, “Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phú) để bốc Thái-Sơn về.” Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân, thời 1967-69.

Được lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Đại đội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng bắc về. Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu đoàn 63 Biệt động Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến-Đức thay cho Đại đội 1/82 BĐQ của Thiếu úy Nguyễn văn Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi. Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng. Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào. Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.

Suốt ngày 12/3/75, tôi không nghe tiếng Đại Tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột. Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh. Tôi mô tả con đường Hàm-Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu hậu cứ Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân. Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt. Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài tình ca buồn. Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột tan trường. Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta. Mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa. Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay. Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày. Bên tôi là những cây hoa móng tay. Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu. Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó. Sau Noẽl 1974, tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay. Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Đầu óc tôi phừng phừng. Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can. Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng. Tôi oán trách ông Trời. Tôi oán trách Đại Tá Tất. Tôi oán trách Tướng Tường. Tôi oán trách Trung Tá Dậu. Tôi tự oán trách tôi.

Chuẩn úy Lê văn Phước (ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt,

-”Bình tĩnh lại Thiếu Tá! Đài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Đánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hi vọng chị và các cháu không hề hấn gì.”

Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời. Xa lắm, nơi chân mây hướng đông bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.

Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức gì của Ban-Mê-Thuột. Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến-Đức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ. Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường.

Sáng sớm 16/3/75, trung đội tuần đường của Đại đội 1/TĐ 82 BĐQ vừa tới đầu khúc cua chữ “S” cách Kiến-Đức hơn 3 cây số thì đại liên 12,7 ly choang choác nổ dòn. Ông Thượng Sĩ Y Ngon Near bị phòng không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược về hướng Kiến- Đức. Từ giờ này đoạn tỉnh lộ Kiến-Đức, Nhơn-Cơ bị cắt. Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị bỏ rơi nằm chình ình giữa lộ. Ngay lúc đó pháo địch từ hướng tây bắc nã khoảng gần 100 viên đại bác 105 ly trên đồi Kiến-Đức. Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân tỵ nạn để hỏi han họ lý do tại sao họ không về Nhơn-Cơ chiều hôm trước. Bây giờ thì rõ ràng rồi: địch chặn đường! Lúc này Thiếu Tá Hoàng đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 BĐQ báo cáo rằng chiến xa địch đang từ hướng Phước Long tiến về Bù Binh, nơi ông đang đóng quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi. Tối đó Tiểu đoàn 81/BĐQ được tôi chia cho phần nhiệm vụ phòng thủ mặt đông Ngã Ba Kiến-Đức, án ngữ hướng về Nhơn-Cơ. Đêm 16/3/75 Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu Tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của Cộng Quân để về phòng thủ quận Nhơn-Cơ.

Suốt ngày 17/3/75, đạn 12,7 ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng Sĩ Ngon. Tiểu đoàn 81 BĐQ không tiến được bước nào. Đêm xuống, con cáo già khóa 2 Đồng-Đế, Hoàng đình Mẫn cho đơn vị chui lòn trong rừng, đánh một vòng rộng về hướng nam, xa hẳn vùng Việt-Cộng đóng chốt để tìm đường vào phi trường Nhơn-Cơ. Ông Mẫn đã khôn khéo tránh né đụng độ, và đã hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu Tá Khánh, quận trưởng Kiến-Đức ở căn cứ Nhơn-Cơ buổi sáng ngày hôm sau.

Mờ sáng 18/3/75, súng cối 82 ly của địch từ hướng tây lại tái pháo kích vào BCH TĐ 82 BĐQ. Từ tuần lễ nay, đồi Bù Row bỏ ngỏ. Địch đã quay lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó, đạn đại bác 105 ly từ đằng xa phía bắc, nã không ngừng trên nửa ngọn đồi hướng bắc, nơi những ụ súng pháo binh đã bỏ hoang từ khi pháo đội 105 ly của SĐ 23 BB rút đi. Tôi phải bỏ cái hầm chỉ huy đã sập, rồi tụt xuống ngã ba Quốc lộ 14. Tôi dùng một cái hầm nhỏ của Đại đội 1/82 bên đường làm hầm chỉ huy. Tôi không cho lệnh phản pháo tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng tây do Đại đội 2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82 ly và nơi phụt khói 75 ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo binh Biên-Phòng đang ở với tôi và Pháo binh Diện Địa Nhơn Cơ mười phút để lột vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên bốn vị trí tôi đã chấm. Đại đội 2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh hai khẩu cối 82 ly đặt gần, ngay sau lưng một ngọn đồi trọc hướng tây. Đại đội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng. Sau Tết Âm Lịch vài ngày, Trung úy Danh (k24 VB) bị sốt rét đi nằm nhà thương nên Đại đội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu. Trung úy Đăng xin tôi cho anh chỉ huy Đại đội 2/82 trong lần ra quân này.Tôi ái ngại,

-”Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?”

-”Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi. Em còn gì đâu? Thiếu Tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện gia đình.” Đăng nghẹn ngào,

-”Ừ! Cậu đã muốn thế thì tôi cũng okay! Thôi đi đi!” Tôi tần ngần,

Tôi đứng trên đồi nhìn theo bóng dáng cao gầy của Đăng đang lẫn vào rặng cây xanh. Hồi 1969-70, khi tôi còn làm Ban 2 và Trinh Sát Liên đoàn 2 BĐQ thì Chuẩn úy Đăng là trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 22 BĐQ dưới quyền một anh bạn cùng khóa của tôi. Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ82 BĐQ thì Đăng đang là Trung úy đại đội trưởng của Tiểu đoàn 22 BĐQ. Khi đó anh có gặp và xin tôi nhận anh về làm việc với tôi. Tôi từ chối vì đơn vị tôi đã đủ sĩ quan đại đội trưởng. Sau đó Đăng bị thương; anh bị đứt một khúc ruột, chờ ra hội đồng y khoa để chuyển sang bộ binh, thương binh loại 2 yểm trợ. Đăng lại gặp tôi và tình nguyện làm sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh còn được tiếp tục ở lại phục vụ binh chủng Biệt Động Quân. Lần này tôi chấp thuận. Đăng xin xuất viện về làm việc dưới quyền tôi đã được gần một năm.

Khi cánh quân của Đại đội 2/82 báo cáo còn cách mục tiêu gần hai trăm mét thì tôi cho lệnh pháo binh khai hỏa. Đạn đi ! Mỗi mục tiêu một trăm quả hỗn tạp. Và chỉ năm phút sau khi đạn rơi, tiếng M16 nổ rộ như pháo ran chêm vào là những tiếng M 79. Khói súng và bụi che mờ một nửa ngọn đồi. Thoáng chốc, hai khẩu cối 82 ly đã đổi chủ, từ trung đoàn E 271/T10 của QK6/CSBV sang Đại đội 2/TĐ 82 BĐQ. Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền trong thung lũng. Tôi hỏi Đăng,

-”Ê! Delta! ngoài tiếng AK còn tiếng đại liên. Đại liên của cậu hay của địch vậy?”

-”Của tụi nó đó Thái Sơn ! Em đâu có đem theo M 60 !”

-”Delta đây Thái Sơn ! Cuốn gói ! Đừng về đường cũ ! Hãy theo hướng ba ngàn hai trăm ! Tôi với thằng An Bình đón cậu trên đường. Tôi lập lại ! Ba ngàn hai trăm ! Nghe rõ chưa ?” Tôi cho lệnh Đại đội 2/82 rút lui,

-”Ba ngàn hai! Nhận 5 !”

Nếu trở về đường cũ thì Đại đội 2/82 sẽ phải qua một cái thung lũng. Và hai khẩu đại liên địch không để cho họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau. Đại liên địch cứ nổ dòn, đạn lửa đan chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng bắn tiều chứ chúng chẳng rõ BĐQ đang ở chỗ nào. Tôi chấm vị trí hai khẩu đại liên địch và giao cho Đại Úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng Sĩ Năng, trưởng khẩu 81 ly sẽ rót cối vào đầu chúng! Từ hướng bắc, đạn đại bác 105 ly địch lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Với đại bác 105 ly thì vô phương! 105 ly của khối Cộng đã bắn dài hơn 105 ly của ta, mà súng của ta lại đặt sau hậu quân. Hai khẩu 155 ly của Sư đoàn 23 Bộ Binh tăng cường cho tôi đã bị tiểu khu đòi lại từ hai tuần lễ trước. Hiện thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng. Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái, chưa hề hấn gì !

Nửa giờ sau tôi và An Bình (Trung úy Trần văn Phước, ĐĐT/ĐĐ3/82) cùng một trung đội thuộc Đại đội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Đăng. Đại đội 2 đã hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta là một trong những người đi đoạn hậu của Đại đội 2/82 . Tôi thấy Trung úy Đăng vừa thở, vừa cười hì hì khi leo lên mặt Quốc lộ 14. Vừa gặp mặt tôi Đăng đã oang oang,

-”Có ngay hai khẩu 82 cho Thái Sơn đây !”

Sau lưng Trung úy Đăng là hai anh lính Thượng đang hì hục vác 2 cái nòng 82 ly. Hai người lính Jarai hớn hở khoe,

-”Cái ông Thiếu Tá ơi ! Tụi Việt Cộng này đánh dở lắm ! Chưa chi đã bỏ súng mà chạy ! Dở hơn mấy thằng đánh với mình ở Trà-Ku nhiều !”

-”Mấy hôm nữa tụi mình lại về Trà-Ku. Mấy chú có nhớ Trà-Ku không ?” Tôi cười,

Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà-Ku. Tôi ở Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết nhiều tiếng thường dùng của họ. Khi nhắc tới Trà-Ku, không ai cố ý khơi chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thày trò chúng tôi cùng ngước nhìn nhau, rồi cùng nhìn về phương bắc, rưng rưng…

Hướng Nhơn-Cơ có chạm súng, vì ở cuối gió nên tôi nghe rõ tiếng đạn đại liên và đạn cối nổ đì đùng. Trên máy truyền tin có giọng Thiếu Tá Khánh, chi khu trưởng Nhơn-Cơ và Thiếu Tá Mẫn BĐQ gọi nhau. Thiếu Tá Mẫn báo cáo với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu xưởng cưa cách quận Nhơn-Cơ hai trăm mét về hướng đông. Hai khẩu 105 ly Biên phòng của tôi phải trở ngược nòng về hướng đông, yểm trợ cho Thiếu Tá Mẫn suốt đêm. Sáng hôm sau có nhiều phi tuần A 37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn-Cơ. Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng cho tới trưa 19 tháng Ba.

Trong khi đó thì tình hình vùng tôi chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng nam Kiến-Đức, có cả tiếng động cơ. Những toán chống tank đã được gởi đi nằm phục trong rừng. Ở đây, tôi không ngán tank VC một chút nào, vì tôi đã trấn giữ cái đồn này gần nửa năm. Tôi đã nghiên cứu, thám sát và nắm chắc địa hình vùng này. Chỉ có hai hướng xe tank có thể áp sát đồn Kiến- Đức. Cả hai ngả đều có bãi mìn chống tank của tôi. Mỗi bãi chôn bốn mươi quả mìn đĩa. Mỗi quả mìn đĩa được kèm theo một đầu đạn 105 ly. Quan trọng nhất là việc bảo vệ bãi mìn. Bãi mìn không người bảo vệ coi như vứt đi, vô dụng. Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm 1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng đông căn cứ Plei Djereng tôi đã thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên bãi mìn của Quân đoàn 2 đặt gần Plei De Chi hướng tây Pleiku mà chẳng nghe mìn nổ. Công Binh Quân đoàn 2 đã bỏ công sức hàng tháng trời để thiết lập bãi mìn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ thí, không người canh gác. Công binh VC chỉ cần hai hàng bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua. Ở Kiến-Đức, mỗi bãi mìn chống tank của tôi, khi hữu sự được bảo vệ bằng một đại đội BĐQ. Đại đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh đi dò, dọn đường cho tank.

Sáng 20/3/75, Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt cái chốt của VC trên tỉnh lộ 344 để link-up với một đại đội thuộc TĐ63/BĐQ của Thiếu Tá Trần đình Đàng. Đại đội này đang trấn giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ. Tôi thu Đại đội 4/82 của Thiếu úy Trần văn Thủy từ hướng bắc về hợp lực với đại đội của TĐ63/BĐQ tăng phái để giữ đồn Kiến-Đức. Tôi dặn dò Đại Úy Tiểu đoàn phó về sự quan trọng của hai bãi mìn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải giữ. Vì nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập kích từ đàng sau thì không tài nào trở tay. Đại Úy Hoàn chần chừ một lúc rồi gãi đầu xin tôi cho đi nhổ chốt,

-”Thái Sơn cho tôi đi khai thông con đường có được không ?”

Quả thực, từ xưa tới nay (từ đại đội tới tiểu đoàn) tôi chưa bao giờ xử dụng người phụ tá của mình làm nỗ lực chính bao giờ. Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống. Đại Úy Ngũ văn Hoàn đã phục vụ dưới quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào. Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ,

-”Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn cho tôi đi bứt chốt đi !”

Nghe ông nói có lý, tôi gọi hai đại đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ĐĐ3/82) và Trung úy Đăng (ĐĐ2/82) lên dặn dò, chỉ bảo họ đường đi, nước bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong tình huống này. Bộ chỉ huy nhẹ TĐ 82/ BĐQ của Hoàng Long (Đ/úy Hoàn) cùng hai đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ sáng 20 tháng Ba.

Trong khi tôi đang theo dõi diễn tiến hành binh của Đại Úy Hoàn thì tổ báo động hướng Bù-Binh báo cáo có tiếng xe tank địch. Để tiện quan sát, tôi lại cùng toán hộ tống leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Trần văn Thủy (ĐĐT/ĐĐ4/82) trấn giữ thay cho Đại đội 2/82 đang đi nhổ chốt. Từ đỉnh đồi tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập cách Kiến-Đức gần hai cây số. Khẩu SKZ 57 ly của tiểu đoàn lúc nào cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đã điều chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt thì tổ chống tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay. Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi thì tiếng 12,7 ly nổ rền hướng Nhơn-Cơ. Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quýt. Tôi nghe Delta và An Bình báo cáo đang chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối bên trái đường lộ. Delta yêu cầu An Bình giữ an ninh bên phải dùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ “S”. Chuẩn úy Đức và trung đội đi đầu của Đại đội 2 đã bị thất lạc. Tôi không nghe tiếng Hoàng Long trên máy. Tôi vào máy hỏi Delta và An Bình sao không nghe Hoàng Long, thì hai anh đều không rõ ông Đại Úy TĐP ở chỗ nào. Tình hình có vẻ nghiêm trọng. Tôi giao cho Thiếu úy Thủy lo vụ chống tank rồi tụt xuống đồi.

Chương .2

Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh tới cái nút chặn hướng đông của Đại đội 1/82. Từ đây tôi và toán cận vệ chạy bộ lên chỗ Đại đội 3 và Đại đội 2 đang chạm địch. Quân của Trung úy Phước (ĐĐ3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng đông tây. Còn Trung úy Đăng ở bên trái con đường. Đại liên VC từ hai hướng nam bắc con lộ đang bắn tới tấp vào bên trái dốc chữ “S” nơi đơn vị của Trung úy Đăng bị sa lầy. Đại đội của Đăng đang kẹt trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường. Tôi gọi pháo binh và cối 81 bắn cản trước mặt đại đội của Đăng để đơn vị của anh bò từ từ lên cao, bắt tay với Đại đội 3/82. Khi Đại đội 2 bắt tay được Đại đội 3, tôi ra lệnh cho hai đại đội quây tròn trên đỉnh đồi bên phải tỉnh lộ. Tôi xử dụng pháo từ Kiến-Đức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích. Nhưng tiếng súng của địch đã êm. Như thế là chúng không chủ tâm giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với TĐ 82/ BĐQ. Chỉ nhìn thoáng qua trận địa, tôi đã hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ “S” rồi chúng dùng hai khẩu 12,7 ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh địch bao vây chia cắt hậu quân của ta. Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh một đoàn quân đang khai lộ. Trung úy Đăng báo cáo với tôi rằng khi đơn vị anh còn cách cái xác của Thượng Sĩ Ngon chừng một trăm thước thì đại liên địch khai hoả. Đại Úy TĐP hăng hái xông lên với trung đội đi đầu của Đại đội 2/82. Ông Hoàn nói với Đăng,

-”Kỳ này mình lấy cây 12,7 ly về cho Thái Sơn giải buồn !”

Nhưng chỉ năm phút sau, từ con suối bên trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt đơn vị anh thành ba phần. Trung đội đi đầu của Chuẩn úy Đức bị mất liên lạc. Tình trạng của Đại Úy TĐP không biết ra sao.

Xế trưa, tôi áp dụng cách rút sâu đo, cho quân lui từ từ về hướng Kiến-Đức. Chiều đó chúng tôi mới về tới tiếp điểm của Đại đội 1/82. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát,

-”Tôi đi với đứa con đầu của thằng Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đàng sau. Hiện tôi ở trên triền một ngọn đồi hướng bắc con đường, nhưng không xác định được tọa độ. Chúng nó (VC) đang đuổi theo tôi.”

- ” Rồi! Bình tĩnh! Anh còn bao nhiêu người cho tôi biết đi?”

- “Tôi còn sáu chục người!”

- “Sáu chục thì đủ mạnh để đánh mở đường về với tôi rồi. Cứ hướng bốn nghìn tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!”

Có tiếng bấm ống nghe “xẹt!xẹt!” rồi tiếng Hoàng Long thì thào,

-”Thái Sơn ơi! Tôi còn có sáu người thôi! Tôi ngụy thoại thành sáu chục đó (!) Tôi với năm thằng lính của Delta là sáu. Tụi tôi bị chúng nó (VC) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy này là của trung đội đầu của thằng 2″

Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi cũng an tâm là ông Hoàn vẫn còn sống. Tôi ôn tồn,

“Thôi được rồi ! Bây giờ làm theo tôi chỉ. Đi thẳng hướng sáu nghìn tư cho tới con suối hướng bắc ngọn đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược dòng con suối đi riết về hướng tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi !”

- “Tôi nghe 5 ! Thái Sơn nhớ báo cho tụi thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe !”

- “Ừ! Thôi! Lẹ lên !”

Từ đồn Kiến-Đức, Thiếu úy Thủy báo cáo rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù-Binh bò lên đã hiện nguyên hình là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. Ba tên cán binh VC trên xe, đã vứt xe, nhảy xuống đường định chạy thoát thân khi trái hỏa tiễn XM 202 xé nát đầu chiếc máy cày. Hai băng M16 đốn ngã 3 tên giặc. Ba khẩu AK 47 và một khẩu phòng không 12,7 ly cháy theo chiếc xe tank dỏm. Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đã trở thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù-Binh, Kiến-Đức.

Gần tối hôm đó Đại Úy tiểu đoàn phó và năm người lính theo ông về tới tiền đồn bắc của Đại đội 1/82. Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn úy Đức chui ra khỏi rừng hướng nam con lộ và liên lạc được toán tiếp đón của Đại đội 1. Người mang máy PRC 25 cho Đại Úy Hoàn có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Đức. Cái máy truyền tin của ông tiểu đoàn phó đã bị bắn bể từ phút đầu tiên. Tính tới 5 giờ chiều, Đại đội 2/82 còn thiếu 14 người. Đêm xuống, sương mù dày đặc, trăng thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài mìn bẫy vì sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy. Gần sáng, Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi bỏ Kiến-Đức, tìm mọi cách rút về Nhơn-Cơ.

Sáng 21/3/75, tôi chuẩn bị đánh một trận nhổ chốt thần tốc. Tôi xin pháo binh của tiểu khu một hỏa tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều một cây số từ đầu tới cuối khúc đường chữ “S”. Pháo 105 ly Nhơn-Cơ bắn không ngừng từ khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu. Về phần pháo binh Biên Phòng Kiến-Đức thì 500 quả đạn nổ 105 ly được chất lên xe. Hai khẩu đại bác được hai toán BĐQ đẩy bằng tay di chuyển trên hai bên bìa đường. Đại bác trực xạ ngay sát mép rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước hai chục thước. “Đùng ! Đoàng !” “Đùng ! Đoàng !” ra khỏi nòng một, hai giây là đạn nổ. Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên phải. Khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái. Sở dĩ phải bắn như thế vì bắn mục tiêu ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng. Cứ thế, “Đùng ! Đoàng !” hai họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục . Đàng sau lưng tôi là khẩu 81 ly của tiểu đoàn và bốn khầu 60 ly của các đại đội. Tôi cho cối 81 ly bắn đạn thời nổ chậm (delay) trong khi cối 60 ly bắn đạn chạm nổ. Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa tăng lên một vòng tay quay. Tiếng cối depart “kinh ! kinh !” liên hồi kỳ trận, âm vang dội trong khe núi. Đạn cối nổ “ùm ! ùm !” Cây cành gãy răng rắc. Mưa đạn cối đang rơi hai bên đoạn đường ngắn ngủi hơn một cây số rừng rậm. Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo hò, la hét. Khói và bụi cuồn cuộn trước mặt. Biệt Động Quân hàng ngang trong rừng, song song với hai khẩu đại bác ngoài đường. Những người lính miệng hô “Biệt Động ! Sát !” vừa bước tới, vừa bóp cò. Quân đàng trước vừa hết đạn thì dừng lại, thay băng đạn mới; quân đàng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn vừa tiến. Người thì thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời. Theo thế sâu đo, Biệt Động Quân tiến ào ào, khí thế như nước vỡ bờ. Đây là một trận đánh chớp nhoáng nhưng lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang. Mỗi cánh quân hai bên đường có sáu toán an ninh cạnh sườn. Sáu toán trang bị mìn Claymore và M79 bắn đạn chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường mòn, triền dốc, những toán này dừng lại gài mìn bố trí chờ. Ra quân lần này tôi đã tận dụng tất cả hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên thở. Khẩu 12,7 ly VC bên hướng nam con lộ chỉ bắn được vài viên là câm họng.



Đúng như tôi đã dự đoán. Khi quân của tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ “S” nơi cái xác của Thượng Sĩ Ngon đang bốc mùi, thì hai khẩu phòng không VC đặt trong khu mả của dân Thượng bên trái đường khai hỏa. Lập tức, khẩu 105 ly di động bên phải đường tương hai quả khói trắng về hướng nghĩa địa Thượng để che bớt tầm quan sát của xạ thủ địch . Hoả tập pháo binh trên mặt đường chữ “S” được chuyển xạ sang khu mả Thượng. Đạn 105 ly nổ “Oành ! Oành !” trên khu ngã ba đường xe be. Dưới khe bên trái lộ, mìn Claymore bắt đầu nổ. Ba toán BĐQ ngăn chặn lực lượng bao vây chia cắt đã phát giác địch và cho mìn nổ. Những chuyên viên của chiến thuật bao vây chia cắt CSBV đang gặp khắc tinh ! Hôm nay các mũi xung kích chia cắt của VC chưa kịp phóng viên B40 nào, các xạ thủ B40 đã vỡ sọ. Tiếng rên la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om xòm dưới khe suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh. Lúc này đạn M 79 của ta bắt đầu tới tấp câu xuống khe. Tôi đang chỉnh 105 ly trên trục nghi ngờ có khẩu phòng không di động của địch thì trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên trời,

-”Thái Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay ! Bắc Bình mới xin tôi lên làm việc với Thiếu Tá đây !”

Bắc Bình là ông Thiếu Tá Trần văn Bường (k18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng-Đức. Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng nói quen thuộc của một hoa tiêu L19 mà trong nửa năm hành quân ở đây, tôi đã nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng khu vực Nhơn-Cơ , Kiến-Đức. Tôi và anh phi công này đã nhiều lần đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc. Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát cái nghĩa địa Thượng nơi ngã ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ giùm hai khẩu phòng không di động đang trụ ở điểm này. Tôi sơ lược tình hình bạn địch cho anh ta rõ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam-Bắc, vì quân tôi tiến theo trục Tây-Đông. Chiếc L 19 đảo sát ngọn cây một vòng. Khẩu phòng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi chiếc L 19.

-”Okay ! Tôi thấy rồi ! Một cái xe bò cài lá ngụy trang có khẩu phòng không. Tôi chơi ngay !”

Một trái khói phụt xuống sát bên khu mả Thượng.

-”Được chưa ? Thái Sơn !”

-”Được rồi ! Cứ từ đó dài về hướng 360 độ là địch, đánh tự do !”

Sau câu trả lời “Okay ! Do !” chiếc quan sát cơ bay tránh sang hướng đông. Tôi che mắt tìm những chiếc máy bay oanh tạc. Trời trong xanh. Có hai chiếc A 37 đang lượn rất cao. Hai chiếc tàu lấp lánh trong nắng. Hai chiếc tàu nhỏ tí ti. Tiếng rè rè từ A 37 “Bom đi ! Pass số 1! Chỉnh !” Tôi trả lời,

“Nhận !” Tôi trả lời “nhận”, nhưng tôi phải che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào. Đời tôi đã có hàng trăm lần được không quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Đây là lần đầu tiên tôi thấy máy bay yểm trợ cho tôi đã thả bom ở tầm cao quá sức là cao. Có lẽ bom được thả từ trên cao độ mười ngàn bộ (feet) có dư ! Mắt tôi thấy một chấm đen từ trên thăm thẳm hướng đông đang bay về phía mình. Chấm đen tới gần, nó vẫn giữ hình thù một cái chấm. Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái chấm ! Thôi bỏ mẹ ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó tức là nó đang nhắm vào đầu mình rồi ! Tôi la thất thanh, “Nằm xuống ! Nằm xuống !” Vừa xô thằng Bích xuống cái rãnh khô bên đường, tôi vừa nói với người phi công trên A 37,

-”Sáng nay anh đã giết một tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân rồi đó ! Anh ơi !”

Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa thì quả bom đã chạm đất. “Ầm !” Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay tung, phủ trùm một vùng. Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh bắc của con đường, sát bờ suối, đàng sau một mô đất. Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc trên đó đã bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng “Ầm !” vừa rồi. Chưa rõ tổn thất quân bạn ra sao, chưa rõ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin,

“Check Air ! Check Air !” Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự anh phi công A 37, “Đ.M ! Toa làm ăn như con c…c !” Rồi anh hỏi tôi:

-”Sorry ! Sorry ! Thái Sơn có sao không ?”

-”Cám ơn anh ! Thôi ! Cho họ về đi ! Tôi không cần họ nữa !”

Tôi ném cái ống nghe của máy không lục xuống đường. Đoàn người mình mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt cò. “Đùng ! Đoàng !” Chỉ một khẩu đại bác bên trái đường còn nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh. Một người chết vì quả bom. Binh nhì Đức Điếc bị vỡ sọ. Xác của Đức Điếc được kéo sang lề đường để tạm trên cỏ. “Đùng ! Đoàng !” Tiếp tục ! Còn một khẩu, ta chơi theo một khẩu ! “Tiến lên đi ! Anh em ơi ! Biệt Động ! Sát !

Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Son và toán viễn thám của Binh nhất Lê văn Tuấn được gom lại thành một đội xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ trình rút lui của ông tiểu đoàn phó ngày hôm qua.

Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Son xin tôi ngừng tác xạ pháo binh trên khu mả Thượng. Rồi M72 nổ. Tiếp đến là M16. Sau cùng là lựu đạn. Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Son reo trong máy,

-”Báo cáo Thái Sơn xong rồi ! Hai cây phòng không. Một trên xe bò, một trên gò mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngã ba.”

Đoạn giữa cái eo chữ “S” là nơi địch đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam đã rách tả tơi nhưng còn bay phần phật bên lộ. Đại đội 1/82 ào lên. Đạn của ta réo như mưa bão. Từ bìa rừng bên phải đường, một tên VC có lẽ là cấp chỉ huy, nhảy ra giữa đường, tay nó giơ cao khẩu K 54 bắn chỉ thiên.

-”Các đồng chí! Giữ vững…”

Hắn chưa hô dứt câu thì thân hình hắn đã gập xuống; khẩu K54 rơi trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn. Từ ven rừng phía nam con lộ, nhiều cán binh VC phóng nhanh qua đường tìm cách nhào xuống suối. Súng cứ nổ ròn rã, hiệu lệnh của cuộc hành quân hôm nay là “Giết !” Bất cứ cái gì nhúc nhích trước mặt đều là mục tiêu. “Giết !” Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả lòng căm thù.

Chúng tôi đã tiến tới cuối đoạn cua chữ “S” hướng đông. Đại đội của Tiểu đoàn 63 BĐQ trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Nhơn-Cơ thấy hỏa lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận bắn càn nên họ bỏ vị trí rút về bên kia suối.

Tiếng súng tạm yên thì hai cánh quân hai bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh hai hông phải và trái chiến địa. Tổng kết, quân bạn có bốn chết, ba bị thương nhẹ. Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ. Con số địch bị giết vào khoảng trên dưới một trăm. Vũ khí chúng tôi tịch thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết. Sự hứa hẹn khen thưởng vì chiến công không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này. Tôi vào quận đường Nhơn-Cơ và chỉ gặp Thiếu Tá Khánh, quận trưởng. Vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con đường, liên đoàn đã cho Tiểu đoàn 81 BĐQ của Thiếu Tá Mẫn rút về Gia-Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi vào đồn đóng quân chung với Địa Phương Quân của Thiếu Tá Khánh và đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi. Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ. Tôi tin chắc rằng, sau khi hai bãi mìn ở Kiến-Đức rơi vào tay Cộng Quân thì chỉ cần hai chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn-Cơ tí teo. Đồn Nhơn-Cơ chỉ có một cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến-Đức về. Sau lưng đồn, sát hàng rào là một cái đập nước rộng và sâu. Chui vào đồn là chui vào rọ.

Đại Úy Hoàn, tiểu đoàn phó được lệnh gom quân đang giữ Kiến-Đức, cuốn chiếu qua mặt tôi rồi lui về đàng sau quận Nhơn-Cơ. Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái đồi Kiến-Đức trước lúc rút đi. Chuẩn úy Bảo, một sĩ quan trung đội trưởng của Đại đội 4/82 là người sau cùng rời Kiến-Đức. Những quả mìn cơ động do Bảo gài lại nơi điếm canh hướng đông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng chào đón những cán binh trung đoàn 271/ T10 CSBV khi họ vào tiếp thu đồi Kiến-Đức. Đại đội tăng phái của Tiểu Đoàn 63/BĐQ đã theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi trả lại Gia-Nghĩa cho Thiếu Tá Trần đình Đàng. Khẩu 105 ly bị bể bánh đã được phục hồi. Cả bốn khẩu pháo binh biên phòng đều được kéo về nơi dự trù đóng quân của ông tiểu đoàn phó cùng Đại đội 2/82 và Đại đội 4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn-Cơ cách tôi chừng hai cây số về hướng Gia-Nghĩa. Trưa 21 tháng Ba tôi bố trí bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội 1/82 và 3/82 ngay ngã ba đường xe be, nơi đầu khúc cua hướng đông của đoạn đường chữ “S”. Chiều hôm ấy, cách Kiến-Đức hơn bốn cây số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ ùm ùm, lép bép vọng về. Ngọn khói đen bốc lên cao dần. Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những ngôi mộ mới. Chúng tôi đã chôn Thượng Sĩ Y Ngon Near, Binh nhì Đức Điếc, ba anh BĐQ mới chết sáng nay và gần chục anh BĐQ chết hôm qua bên lề tỉnh lộ này. Lù lù giữa tỉnh lộ là một đống vũ khí chiến lợi phẩm tịch thu được của địch. Bên đường là một rờ-mọoc (remorque) súng dư dùng của ta. Một núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ cần hai quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết! Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, lòng tôi tê dại, dửng dưng…

Sáng sớm 23/3/75, tiền đồn hướng tây báo cáo có tiếng hô “xung phong” trên đồi Kiến Đức. Pháo binh đã chuẩn bị yếu tố. Hai chục tràng đạn đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi này. Tiếp đó là một tiếng “Ùm!” từ hướng tây vọng lại. Như vậy là bãi mìn chống tank đã nổ! Không rõ tank địch đã vô ý cán lên bãi mìn, hay bangalore của công binh CSBV đã phá hủy nó? Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy nghĩ phải làm gì để đương đầu với xe tank địch trong những ngày sắp tới ?

Ngày 25/3/75, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông Thiếu Tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Từ mấy ngày trước, Thiếu Tá Khánh đã ra Gia Nghĩa và ở lại ngoài đó không về. Tôi đi ngang hầm truyền tin thì nghe tiếng loa khuyếch âm oang oang. Thiếu Tá Khánh ra lệnh cho lực lượng đồn trú:

-”Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu Tá Biệt Động Quân nghe được thì rầy rà !”

Người Chuẩn úy trực chi khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống cuống phân bua,

-”Trình Thiếu Tá, không phải lỗi em !” Tôi xua tay,

-”Đừng ngại ! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi sẽ gặp xếp của anh !”

Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nhìn khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106 ly), đạn còn nhiều quá ! Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở khẩu súng này lên cho ông Đại Úy Hoàn. Thượng Sĩ Năng là chuyên viên bắn 106 ly của tôi, khi chúng tôi còn ở Plei-Me. Thượng Sĩ Năng chắc phải vui lắm khi nhận được khẩu cối này. Trước khi Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân Nhơn-Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu Tá Trần văn Bường ra lệnh cho sĩ quan pháo binh Diện-Địa đồn Nhơn-Cơ phá hủy những khẩu đại bác 105 ly. Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn-Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến-Đức, trong đó có những viên đạn phostpho. Sau cùng, họ đã thả từng quả lựu đạn màu đỏ, hủy từng khẩu pháo. Tôi nhìn cách phá súng của họ và học lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, nòng súng thụt xuống không xử dụng được. Tới trưa hôm đó thì quận đường Nhơn – Cơ trống trơn.

Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt mìn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn-Cơ. Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc giữa đường Nhơn-Cơ, Gia-Nghĩa. Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng sau cái miếu Thổ Địa nơi đầu dốc. Bốn khẩu 105 ly Biên Phòng hướng về phía tây sẵn sàng đạn chống tank. Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa thăm vị trí của ông Hoàn. Có tiếng động cơ xe từ hướng Kiến-Đức vọng về. Tôi quyết định cho cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó rút qua mặt tiểu đoàn và ngủ đêm bên bờ con sông hướng bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số. Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn. Khi đi ngang xóm nhà của khu dinh điền Nhơn-Cơ, nơi TĐ 81 BĐQ và địch đã giao chiến suốt đêm 18 và sáng 19 tháng Ba, chúng tôi nghe mấy người lính đi bên trái báo có thương binh bạn nằm bên lề đường. Một Biệt Động Quân mang phù hiệu TĐ 81 BĐQ nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ trên mặt cát. Đầu mặt, tay chân anh máu đã khô. Kiến lửa và ruồi nhặng lúc nhúc bu trên người anh. Người chiến sĩ BĐQ chỉ còn thoi thóp nhẹ. Tôi lần tay vào cò khẩu súng Colt. Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn mình.Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm làm việc này ! Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đã hôn mê; chắc anh ta không còn biết đau đớn là gì nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát của tôi. Tôi và Đại Úy Hoàn lấy một cái poncho phủ lên người anh. Hai chúng tôi đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng. Cách chỗ anh BĐQ nằm chừng năm chục mét trên dốc là hai cái xác Việt-Cộng đã sình. Hai cái xác trương to như hai con bò, áo quần căng cứng. Nắng hầm hập. Một vùng ngập chìm trong tử khí.

Trưa 25/3/75, khói đen bốc lên hướng thị xã Gia- Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng báo cho tôi biết tin Tiểu khu Quảng Đức đang bắt đầu rút về BLao. Bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu đoàn 63 & 81 BĐQ đang án binh chờ tôi về rồi mới tính sau. Tôi lên xe chạy về Gia-Nghĩa. Gặp lại Trung Tá Thanh, tôi cùng ông duyệt lại tình hình Quảng-Đức. Chúng tôi thấy những ngày trước đó, quân ta chưa có gì sứt mẻ. Tinh thần còn vững vàng. Tiếp liệu còn đầy kho. Chỉ có Kiến-Đức là nóng bỏng. Chúng tôi còn đứng vững, chưa cần tới tiếp viện. Tôi không hiểu vì sao ông tỉnh trưởng bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ. Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi địch chưa tỏ ý định đánh chiếm nó. Kho tàng đã bị đốt hết. Chúng tôi có tử thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút cũng không được. Tôi vội kêu Trung úy Đăng giao Đại đội 2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh dùng xe GMC đi theo bộ chỉ huy tiểu khu. Tới BLao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn cho đơn vị. Ra khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia-Nghĩa. Chợ quán thưa vắng. Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua hai ký tép khô. Giá ba trăm đồng một ký. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy một nghìn, không nhận tiền thối lại.

-”Sao bà con còn nấn ná ở đây? Người ta đi hết rồi!”

-”Biết đi đâu bây giờ Thiếu Tá ơi! Con thì nhỏ, đường thì xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có chết cũng đành!” Chị bán tép sụt sịt,

Tôi buồn bã nói với bà con đôi lời từ giã. Lúc đó có tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng bên trái có bóng đi ra đi vô của một bộ quần áo rằn ri. Tôi hỏi chị bán tép chuyện gì huyên náo, chị nói,

“Cướp, có hai anh lính Biệt Động Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái.”

Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn Chi và Hạ sĩ Mom Son sẵn sàng. Hai người này và anh tài xế đã rõ câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh. Tôi đứng trước đầu xe hét to,

“Ê ! Hai anh kia đi ra không tôi bắn !”

Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M 26. Tôi ra lệnh, “Bắn !” Hai viên M16 trúng sọ thằng ăn cướp. Nó nằm giãy tê tê trước bục cửa ra vào. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm. Thằng thứ nhì cũng mặc quân phục Biệt Động Quân từ trong nhà chạy ra, trên tay cũng có hai trái M 26. Tôi hét lớn,

-”Ném hai quả lựu đạn ra sau nhà !”

Tên cướp ném hai trái M26 ra sân cỏ sau nhà. Chỉ một trái đã bị rút chốt an toàn. Một tiếng “ùm !” làm bay tấm tôle trên mái sau. Tôi ra lệnh tiếp,

-”Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra !”

Hắn riu ríu làm theo lệnh.

-”Còn ai trong nhà nữa không? Ra hết đi !”

Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo nhau chạy ra ngoài lộ. Ba thày trò tôi tiến lên chổ tên cướp đang run như cầy sấy.

-”Mày ở đơn vị nào ?”

-”Dạ em là lao công của Sư đoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây !”

-”Quần áo Biệt Động Quân tụi mày lấy ở đâu ra ?” Tôi hỏi vặn,

-”Dạ nhiều lắm ! Trong tiệm giặt ủi đàng kia !”

Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và túi thằng đã chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho họ. Gia chủ căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám ơn. Tôi đá liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng. Tôi quát, “Cút đi !” Nó lồm cồm bò dậy, chạy một mạch xuống triền đồi khuất dạng. Tôi phân trần với dân phố đang bu quanh,

-”Tụi này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Động Quân. Biệt Động Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi này !”

Nói xong câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không còn hiện diện ở nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như thế? Tôi buồn bã lên xe hướng về bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức. Tòa hành chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi. Khu Trung-Tâm Yểm-Trợ Tiếp-Vận chỉ có kho xăng đã cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt lam nham. Những chỗ khác vẫn còn nguyên vẹn. Trên mặt đất, quân trang, quân dụng, lương thực vương vãi khắp nơi. Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với Trung Tá liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ sông Kinh-Đà chờ bộ chỉ huy và hai tiểu đoàn. Điểm vượt sông tôi sẽ định sau.

Sáng 26/3/75, tôi ra lệnh phá hủy bốn khẩu 105 ly ngay trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần một ngàn viên đạn về hướng Kiến-Đức. Khẩu 106 ly được ném xuống dòng sông bên đường sau khi đạn đã được gởi hết qua bờ nam đập nước. Mười giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ sông, tôi gặp một trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm-Đức. Tôi thấy một Nghĩa Quân ngồi trên chòi gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc. Tôi hỏi anh lính,

-”Sao em còn ngồi đây ? Người ta đi hết rồi !”

-”Ủa ! chứ người ta đi đâu Thiếu Tá ?” Anh lính ngơ ngác,

-”Người ta rút về BLao hết rồi ! Em đi đi !”

Anh Nghĩa Quân nhìn tôi bán tin bán nghi. Đến lúc thấy quân lính theo tôi đông ngời ngời, anh phát hoảng, co giò chạy về hướng thị xã. Tôi cho tiểu đoàn đi song song với bờ tây của sông Đa-Dung, xuôi về hướng nam chừng nửa cây số thì dừng lại. Càng xa những đường lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo chuyện rủi ro trên bờ đối diện. Tôi quyết định vượt sông nơi vắng vẻ đìu hiu nhất. Tôi chọn hai anh lính gốc dân chài cùng tôi bơi qua sông làm đầu cầu. Ba khẩu M16, ba băng đạn, ba cuộn dây nylon, ba thày trò tôi bu theo ba cái phao poncho độn bằng cành lá. Chỉ có tôi và một anh lính tới bờ bình yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi chìm nghỉm giữa dòng, sau một tiếng “Ối !” thất thanh. Đa-Dung nổi tiếng là sông nhiều cá sấu !

Chương 3.

Qua tới bờ đông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh BĐQ bạn yên tâm cột giây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng. Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm. Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát. Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi bộ chỉ huy liên đoàn bắt đầu xuống mảng thì Tiểu đoàn 82 BĐQ cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao. Cách bãi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước, lội ngược dòng về thượng nguồn. Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau. Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo Trung Tá Thanh liên đoàn trưởng, Trung úy Minh sĩ quan truyền tin liên đoàn và ba người khác bị thương. Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi giây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung Tá liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán. Sau khi băng bó,Trung Tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.

Sáng 27/3/75, trực thăng từ Đà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này còn có Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng TĐ81 BĐQ. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính. Như vậy là chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Đức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi vùng. Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc hướng về phía đông. Chiều đó đang đi trên một lối mòn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu VC gần đâu đây ? Tôi báo cáo tình hình cho Trung Tá Đào Đức Châu (k12 VB) liên đoàn phó, lúc này đang Xử Lý Thường Vụ chức liên đoàn trưởng Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đề nghị ông cho những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt. Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Động Quân. Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút khói, dưới chân một cái nhà sàn. Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch.
Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Đại đội 3/82. Tôi và Binh nhì Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào. Trung úy Trần văn Phước (ĐĐT3/82) và cả chục BĐQ dưới quyền anh đang quây quần bên một vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya. Với tôi, thì uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu trong khi hành quân thì tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước. Tôi rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.

-”Cuốn lều ! Đại đội 3 cuốn lều ! Hướng một ngàn sáu trăm zu lu ! Làm ngay !”

Trung úy Phước và “tòng phạm” riu ríu thi hành lệnh. Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Đại đội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Đại đội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ. Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 tôi bàn giao căn cứ Đức-Cơ và Tiểu đoàn 81 BĐQ cho Thiếu Tá Hoàng đình Mẫn để về giữ chức trưởng phòng 2/BCH BĐQ QK2 thì Chuẩn úy Trần văn Phước mới mãn khoá Tình-Báo Cây-Mai. Đã có lần tôi gởi Chuẩn úy Phước vào Plei M’rong làm ban 2 cho Thiếu Tá Phạm duy Ánh, tiểu đoàn trưởng TĐ63 BĐQ (1973). Thiếu Tá Ánh chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của Chuẩn úy Phước. Cuối cùng Phước lại khăn gói quả mướp về trình diện tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước ở với tôi từ đó cho tới cuối 1973 thì thày trò tôi vào Plei-Me. Chú Phước và chú Minh (sĩ quan truyền tin LĐ24 BĐQ sau này) là hai sĩ quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi Tiểu đoàn 82/ BĐQ bị tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974 trên căn cứ 711. Rồi cũng chính Thiếu úy Trần văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trở lại trên căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị sáu tiểu đoàn của SĐ 320 Điện Biên xa luân chiến. Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi. Sau trận Plei-Me, Thiếu úy Trần văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề quân báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng. Đây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước. Đầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt,

-”Em xin lỗi Thái Sơn ! Em xin lỗi anh Hai !”

-”Thôi ! Ngủ đi ! Chờ mai anh lên với chú !” Tôi cũng thấy mủi lòng, xốn xang,

Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế !

Trăng sáng như ban ngày. Gần chín giờ đêm, trung tá liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng. Ông Châu nhờ tôi xin trực thăng tản thương cho ông ta ra khỏi vùng. Đại Úy Trần dân Chủ, ban 3 liên đoàn cũng xin phép tôi để đi theo trung tá liên đoàn phó. Tháp tùng Trung Tá Châu, ngoài Đại Úy Chủ còn hai hạ sĩ quan truyền tin liên đoàn.

Sáng 28/3/75, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan của bộ chỉ huy liên đoàn vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào. Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng.

-”Em không về đâu ! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng !”

Người đàn bà này đã theo đoàn quân của TĐ 81/BĐQ từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giãy giụa, miệng chị la bài hải,

- “Em không sợ chết đâu ! Cho em ở lại đi ! Các anh ơi !”

Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà. Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Động Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm. Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.

Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 Hành Quân chỉ định Thiếu Tá Hiện Dịch Vương mộng Long khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi mời Thiếu Tá Đàng và Thiếu Tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu đoàn 82 BĐQ sẽ mở đường, Tiểu đoàn 81 BĐQ đi giữa, Tiểu đoàn 63 BĐQ có nhiệm vụ đoạn hậu. Đối với Thiếu Tá Nguyễn hữu Tài, tôi không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là tiểu đoàn phó của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 81 BĐQ. Anh Trần đình Đàng xuất thân khóa 15 Võ-Bị và phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân từ những năm binh chủng mới được khai sinh. So với Thiếu Tá Đàng, tôi là đàn em rất xa, về cả hai xuất xứ, Biệt Động Quân cũng như Võ-Bị (tôi xuất thân từ k20). Tôi xin ý kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại gì khi anh phải nằm dưới sự chỉ huy của tôi không? Anh Đàng trả lời một cách khẳng khái,

-”Chú chỉ huy là phải rồi ! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên chí đi !”

-”Cám ơn Niên Trưởng !” Tôi xiết tay anh Đàng thật chặt. Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn.

Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành trình theo dự trù. Cứ theo hướng 1600 ly giác, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về thị trấn BLao. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy; trên đường chỉ có dấu chân voi. Địa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968 tôi đã lặn lội, lùng sục không sót một ngọn đồi nào trong vùng này. Đã bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ đông sông Đa-Dung qua Quốc lộ 20 tới cao nguyên Gia-Bắc giáp giới quận Thiện-Giáo, Bình-Thuận. Ngày đó, Trung Tá Bùi văn Sâm LĐT LĐ2 BĐQ đã biệt phái TĐ11 BĐQ của Đại Úy Hồ khắc Đàm (k16VB) cho Task Force South của Tướng Trương quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23/Bộ Binh. Tôi lúc đó là đại đội trưởng ĐĐ1 TĐ11 BĐQ dưới quyền anh Đàm. Chúng tôi được trực thăng Hoa-Kỳ tải vào rừng. Tìm mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Mười ngày sau chui ra bãi trống nhận tiếp tế gạo mắm. Rồi lại leo lên trực thăng, đổ xuống bãi khác. Lại tìm mục tiêu. Lại leo hết đồi này tới đồi khác. Lại tiếp tế… Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng tôi lần mò trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có dịp nhìn thấy phố… Bảy năm sau, tôi lại lội trên những con đường mòn ngày xưa tôi đã dẫn quân đi qua. Bảy năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên Đại-Nga, hướng nào về Tân-Bùi, ngả nào qua Tân-Rai. Lương thực của chúng tôi đã gần cạn. Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua.

30/3/75, mặt trời vừa lên, trong máy nội bộ của TĐ82/BĐQ đã có tiếng người trên trực thăng hối thúc,

-”Yêu cầu Thái Sơn kiếm bãi đáp nhận chỉ thị gấp !”

Lúc đó chúng tôi đang ở gần một bãi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống. Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy bay để nghe anh ta nói,

-”Tôi được lệnh Quân đoàn lên đón Thiếu Tá về Đà-Lạt. Thiếu Tá lên tàu mau đi !”

-”Thế còn liên đoàn thì sao ?”

-”Chúng tôi chỉ ‘rescue’ một mình Thiếu Tá thôi ! Những người khác, bỏ !”

-”Thôi ! Nếu thế thì tôi không đi đâu ! Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một mình. Anh về báo với Quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm tôi.” Tôi xua tay,

Nói xong câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi thì người phi công cởi giây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn,

-”Tôi không ngờ giờ này quân đội ta còn một vị chỉ huy đáng nể như Thiếu Tá ! Thiếu Tá cho phép tôi chào kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông.”

Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn giơ tay vẫy vẫy giã từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây.


Binh nhất Y Don Near mang máy truyền tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đã nghe tất cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đã kể lại chuyện này cho bạn bè. Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân, vài anh lính Rhadé, Jarai đã đến xúm quanh người chỉ huy của họ,

-”Ông Thiếu Tá ơi ! Đừng bỏ tụi em, tội nghiệp !”

- “Ừ ! Thiếu Tá không bỏ các em đâu ! Thiếu Tá lúc nào cũng ở bên các em. Chúng mình sống chết có nhau !” Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn trên những gò má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình ấm lại.

Chúng tôi đã cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói. Răng người nào cũng đen thui vì nhựa chuối rừng. Điều khổ nhất phải chịu đựng là, sau khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối thì chất sơ của chuối làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn đau rát lắm. Đi tiêu xong người nào cũng bước cà-náng, hai hàng. Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ bát canh rau tàu bay của chú Bích thì Thiếu úy Học rón rén tới gần. Học thì thầm,

-”Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn cho phép bắn làm thịt nghe ?”

-”Ừ! Bắn đi !” Tôi sáng mắt lên,

Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau chú quay lại, mặt tiu nguỷu,

-”Thằng lính gác muốn bắn nhưng lại sợ Thái Sơn la. Đợi khi em xin phép xong thì con gấu đã chạy mất tiêu rồi !”

Tôi thì buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất ăn một bữa thịt gấu. Vui vì tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay. Chúng tôi đang ở bên bờ một con suối lớn. Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ý lạ: Đốt cá ! Tôi gọi Thiếu Tá Tài và Thiếu Tá Đàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho ba tiểu đoàn tản xa theo dòng nước. Mỗi tiểu đoàn trấn giữ một khúc suối. Nơi đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt ba quả lựu đạn M26 là liên đoàn có một bữa cá no nê. Tôi học được cách đốt cá từ khi còn ở Đại đội Trinh-Sát Liên đoàn 2. Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt đi. Bẻ đầu một viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn. Đốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên. Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong lòng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng, lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con gì trong nước cũng nổ con ngươi nổi lên mặt nước. Buổi chiều chúng tôi mỗi người được chia một lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên đường.

31/3/75, chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi cách Bảo Lộc trên dưới hai chục cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nhìn thấy thung lũng dưới chân đồi là một mật khu trù phú. Kế hoạch đặt ra như sau: Đại đội 3/82 sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu đoàn sẽ cắt hai chục người tải lương thực về. Kế hoạch đã được thi hành như dự liệu và không có gì trục trặc xảy ra. Đại đội 3/82 thanh toán mục tiêu rất nhanh. Một cán bộ VC quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn chờ ly cà phê phin nhỏ giọt thì bị một viên M16 ghim vào ngực. Hai cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị mỗi tên một viên M16 vào ngực. Mấy anh cán binh đang tưới cây trong vườn cũng bị mỗi anh một viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là một trung tâm huấn luyện của Tỉnh-Đội Lâm-Đồng Việt-Cộng. Trung tâm có khoảng trên ba trăm khẩu súng gỗ và cả chục khẩu súng thật. Có một khẩu cối 82 ly với một kho đạn. Tên VC đang chờ uống cà phê có vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đã xuất trại vắng. Quân ta làm chủ tình hình một cách lẹ làng. Có một tai nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà-lọt của tôi đã lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của hạ sĩ. Đói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên đồi. Ăn xong bữa thịt gà hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre còn lòi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ Ba cả tấc. Quân y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba vì không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng kìm cắt cọng tre ngắn đi cho đỡ vướng. Vốn là một tay viễn thám gan lỳ, người tà-lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt đi theo đoàn tùy tùng của Đại Úy Hoàn. Tôi cũng quên dặn dò các cánh quân coi chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả, đạn của Đại đội 3/82 đã sượt qua cổ một anh BĐQ TĐ63 BĐQ thay vì trúng đầu một con gà. Người trúng đạn bị thương nhẹ.

Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đã rút lui an toàn. Mới vài ngày trước, tôi đã chứng kiến cảnh BĐQ hoan hô người đàn bà can đảm của TĐ81 BĐQ trên bãi trực thăng, vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ dưới chân đồi hì hục leo lên. Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại vì ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ý của các đơn vị Việt-Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của chúng lúc này. Khi rút lui, Trung úy Phước đã sơ ý không phá cơ bẩm khẩu súng cối. Vài giờ sau khi chúng tôi rút đi thì đạn cối 82 ly bắt đầu câu theo đít quân ta. Chúng tôi nhanh chân vượt qua hai ngọn đồi rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy. Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt- Cộng “ùm! ùm!” rơi bâng quơ trong núi.

1/4/75 Lên đường! Sáng nay mọi người đều no bụng. Đoàn quân tìm lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào! Đội hình một hàng dọc! Thứ tự như cũ! Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Binh nhì viễn thám viên Triệu Tân mở đường. N gười thứ nhì là Thiếu úy Học. Người thứ ba là tôi. Sau tôi là thằng Don. Sau thằng Don… là đoàn rồng rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc. Đường độc đạo, hai bên là lau sậy và gai mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung bình mỗi người cách nhau 3 mét, thì toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu Tá Đàng phải trên 2 cây số. Tới chiều thì chúng tôi bắt đầu đi lên một cái dốc khá cao. Tình hình vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh bình thì cảnh này thật lý tưởng cho các thi nhân lang thang đi tìm ý thơ…

“Choác !” Thằng Tân té ngửa ! Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. Một giây sau tôi và chú Học mới bóp được cò hai khẩu M16 theo phản xạ, nhắm về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc. Đạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Đạn văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu “Tăng ! Tăng !… Tằng ! Tằng !…” rồi… “Xèo !” chui xuống cỏ. Toán viễn thám của Binh nhất Tuấn phóng nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn. Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc, nhưng tên bắn tỉa đã cao bay. Viên đạn súng trường Nga trúng ngay giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ còn nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá. Chỉ với một viên đạn, Thượng Cộng đã loại ra ngoài vòng chiến một viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi. Khi đại đội của Thiếu úy Học đã bố trí an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng BĐQ Triệu Tân. Thêm một cái thẻ bài mất chủ bị cất trong ba lô của Thiếu úy Hoàng, ĐĐT Đại đội Công Vụ của TĐ 82 BĐQ. Tôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi để nghỉ qua đêm. Đêm đó toán viễn thám của Binh nhất Tuấn âm thầm lên đường. Điểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ chúng tôi dừng quân gần hai cây số. Mờ sáng hôm sau một quả Claymore nổ. Tên Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lãnh nguyên trái mìn cơ động, khẩu súng trường bá đỏ văng trên bãi cỏ bên đường: Có vay có trả !

Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho hai tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Đoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được sự theo dõi của Thượng Cộng. Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của mình. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, nhưng đồn Tân-Rai đã bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường cho được !

Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đã ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con Hinh Đa. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!” Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đã rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, tìm đường lên Đức-Trọng, Liên-Khương. Không biết tình hình Đà-Lạt ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hi vọng, có còn hơn không!

Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng năm cây số. Bên kia lộ là vườn trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì một chiếc xe tải đi tới.
Toán cận vệ BĐQ bắn đại vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít ! Tôi không biết vì sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà ? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Đà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi, tìm đường ra biển.

Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng tìm được đường tới Liên-Đầm. Rồi từ Liên-Đầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga bắn “tắc! bụp!” Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng còn có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà ! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. “Đoàng!” thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người.

Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Đơn vị CSBV này cũng cỡ một E pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ ba mươi sáu trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã. Anh Thiếu Tá Đàng đi đoạn hậu, còn ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Đêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Đèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì, eo ơi ! vắt nhiều không đâu bằng !

Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung Tá Hoàng kim Thanh LĐT/LĐ24/BĐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3.

Trên tàu là Trung Tá BĐQ Nguyễn khoa Lộc (k18 VB); anh đang đi tìm tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung Tá Thanh đã về tới Sài-Gòn. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung Tá Thanh đã tới trình diện Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông Tướng rằng Thiếu Tá Vương mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BĐQ trên đường tìm về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung Tá Lộc đi tìm bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Đàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào bìa rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc. Đêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Đàng đóng quân chung. Đó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn Niên Trưởng Trần đình Đàng đã phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu Tá Đàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Động Quân còn duy trì toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần đình Đàng khóa 15 Võ-Bị.

Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BĐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Đổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho Tướng Lê minh Đảo (k10 VB), Tư Lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Hôm sau, hai tiểu đoàn 81 BĐQ và 63 BĐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu Bình Thuận.

Khoảng năm giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME!


Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới.
Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn.


Seattle, ngày 21 tháng Tư năm 2006
Vương Mộng Long

TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

NGÀY 16-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI

Cuộc triệt thoái khỏi Sơn Hà và Trà Bồng được tiến hành vào ngày 16 tháng Ba, khi hai trực thăng CH47 bắt đầu di tản thường dân ở đây. Các đơn vị của Tiểu Đoàn 68 BĐQ và lực lượng địa phương được bốc về Sơn Tịnh, phía bắc thị xã Quảng Ngãi. Có khoãng 12000 dân Trà Bồng di tản theo dọc quốc lộ để về Bình Sơn, dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 69 BĐQ và các đơn vị diện địa. Khi cuộc di tản vừa bắt đầu, quân BV mỡ những cuộc tấn công tràn ngập các tiền đồn phía bắc Bình Sơn, cắt đứt QL 1, đoạn đường giữa Bình Sơn và Chu Lai.

Tướng Nhựt, Tư lệnh SĐ 2 BB, lập tức ra lịnh cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 6 BB, trung đoàn còn nằm lại bảo vệ thị xã Quãng Ngãi, di chuyễn từ Nghĩa Hành về tăng cường vòng đai phía tây thị xã Quảng Ngãi. Phía băc đèo Hải Vân, tại quận Phú Lộc, Thừa Thiên, Liên Đoàn 15 BĐQ đã tái chiếm những vị trí trên khu vực Núi Bóng vào ngày 17 và 18 tháng Ba. Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QĐ1, đặc trách lực lượng bảo vệ cố đô Huế, cho điều 2 chi đoàn M48 còn lại của Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, từ phía băc về để tăng cường phòng thủ khu vực phía nam thành phố Huế.

NGÀY 17-3-1975– TẠI CHIẾN TRƯỜNG - THỪA THIÊN HUẾ

Tới ngày 17 tháng Ba, LĐ 258 TQLC đã hoàn tất việc chuyễn quân thay thế LĐ 2 Dù tại Đà Nẵng.

Ngày 18 tháng Ba, Tướng Lân cho dời Bộ Tư lệnh SĐ từ Hương Điền, Thừa Thiên về phi trường Non Nước, phía đông nam Đà Nẵng, chỉ cách Bộ Tư Lệnh QĐ 1, đặt tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng chưa đầy vài cây số.

Trong khi đó Lữ đoàn 2 Dù di chuyễn ra Cảng Đà Nẵng để chuẫn bị rút về Sàigòn. Để tăng cường phòng thủ Đà Nẵng, Tướng Trưởng cho điều các pháo đội 175 ly đang ở phía bắc đèo Hải Vân về Đà Nẵng cùng với một chi đoàn chiến xa M48. Như vậy Thiết Đoàn 20 Chiến Xa chỉ còn hai chi đoàn M48 tại Thừa Thiên.

TÁI PHỐI TRÍ LẠI LƯC LƯỢNG TẠI QK 1

Từ 1973, năm ký Hiệp Định ngừng bắn Paris, SĐ TQLC của QLVNCH vẫn nằm án ngữ tại vùng gìới tuyến để phòng thủ, bảo vệ tỉnh Quãng Trị. Vào đầu năm 1975, các lữ đoàn TQLC dàn quân dọc theo tuyến phòng thủ phía cực bắc của QK1. Lữ Đoàn 258TQLC nằm bên bờ nam sông Thạch Hản, ngay phía nam và phía tây thị xã Quãng Trị. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng quân tại vùng cực nam Quãng Trị bảo vệ mặt phía tây dẫn vào QL1 và vùng duyên hải, vùng giữa phía nam sông Mỹ Chánh và phía tây Mỹ Chánh. Tháng Giêng, 1975, SĐ TQLC bắt đầu thành lập thêm một lữ đoàn, LĐ 468TQLC.Cho tới tháng Hai, 1975, thì nhiệm vụ của SĐ là bảo vệ, ngăn chặn bất cứ cuộc tấn công nào của địch quân vào hai tỉnh Quãng Trị và Thừa Thiên; trong trường hợp chẵng đặng đừng phải tháo lui, SĐ sẽ rút về phòng thủ cố đô Huế.

Ngày 12 tháng Ba, cùng với sự di chuyễn bất ngờ của SĐ Dù từ Đà Nẵng về Sàigòn để bảo vệ thủ đô và Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Trưởng, Tư Lệnh QĐ1 nhận được lịnh phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng bằng mọi giá. Ông lập tức cho Tướng Lân biết việc thay đôi chiến lược này, và ra linh Tướng Lân chuẫn bị sẵn sàng kế hoạch tái phối trí các đơn vị thuộc SĐ TQLC để trám vào các chỗ trống do lực lượng Dù rút đi, đồng thời nhận lãnh trọng trách bảo vệ Đà Nẵng.

Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ sau khi có quyết định rút SĐ Dù về Sàigòn, SĐ TQLC theo lịnh của Tướng Trưởng đã cho phối trí lại lực lượng, chuyễn hai lữ đoàn đang nằm tại Quãng Trị về phía nam. Lữ Đoàn 147 từ nam Mỹ Chánh rút về Phong Điền, đóng quân dọc hai bên QL1, theo hình cánh cung với Tiểu Đoàn 4 ở phía tây và nam, và Tiểu Đoàn 7 dàn quân về phía đông thị xã này. Tướng Lân cũng cho Lữ Đoàn 369 TQLC chiếm lĩnh vị trí ở khu vực bắc và tây Đà Nẵng; Lữ Đoàn 258 TQLC phụ trách bảo vệ khu vực sườn phía nam của thành phố. Riêng Lữ đoàn tân lập 468 TQLC đựơc Bô TTM chỉ định thay thế cho lực lượng Dù rút đi.

Ngay ngày hôm sau, 19 tháng Ba, 1975, Bắc quân vượt lằn ranh ngưng chiến, tràn vào Quảng Trị!
Trong lúc QĐ 1 đang tiến hành việc tái phối trí lực lượng, Cộng quân mỡ những đợt tấn công dữ dội vào Tiểu Đoàn 4 và 5 thuộc LĐ 147 TQLC vừa rút về quận Phong Điền. Không còn quân trừ bị trong tay, Tướng Lân đành ra lịnh cho LĐ 147 TQLC vừa đánh vừa lui về phòng thủ Huế.



NGÀY 17.3.1975: Mặt Trận Quảng Tín

Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tân Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín
-Trong ngày 16-17/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đã tung quân tấn công cường tập khu vực Bình Tú, thuộc quận Thăng Bình và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh (trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo tình hình, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đã điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đã tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân).

POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:20 PM


TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 3

NGÀY 17-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG TÂY NINH – GÒ DẦU HẠ - KHIÊM HẠNH

Hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 48 BB vẫn nằm án ngữ bảo vệ Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48BB đụng độ với một đơn vị cấp đại đội quân chính qui BV tại phía tây sông Vàm Cỏ Đông vào ngày 17 tháng Ba, giết chết 36 lính BV, tịch thu một số vũ khí và đan dược. Nhưng tiền đồn Cầu Khói, phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 351 ĐPQ, trên LTL 26, về phía bắc thị xã Tây Ninh đã bị Bắc quân tràn ngập. Tuyến phòng vệ ngoại vi của Tây Ninh và Hậu Nghĩa bắt đầu gãy vụn nhanh chóng sau khi Cầu Khói bị địch chiếm. Sau những trận mưa pháo dữ dội, Trung Đoàn Đặc Công 367, SĐ 5 chính qui BV tiến vào Đức Huệ ngày 21 tháng Ba, chiếm các vị trí tại phía tây nam của thị trấn trọng yếu Trảng Bàng trên QL1. Nếu Bắc quân chiếm được Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ và toàn vùng Tây Ninh sẽ bị cô lập. Bảo vệ cho mặt bắc của phi trường Tây ninh là một tiền đồn chính trên QL13. Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân tấn công tràn ngập tiền đồn này. Quân trú phòng tại đây rút lui về một vị trí phòng thủ khác tại phía nam. Nhưng ngày 23, Công quân tiếp tục tấn công chiếm giữ vị trí này, như vậy chu vi phòng thủ tại khu vực bắc Tây Ninh chỉ còn trong phạm vi hạn hẹp 10 km chiều sâu.
Tại khu vực phía đông Tây Ninh, Bắc quân vẫn tiếp tục duy trì áp lực vào cứ điểm trọng yếu Khiêm Hạnh. Nằm ngay phía bắc Gò Dầu Hạ, Khiêm Hạnh là một cứ điểm quan trọng, với nhiệm vụ ngăn chặn các đơn vị Cộng quân tiếp cận QL1 từ phía bắc, cũng như chiếm Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng. Từ Trảng Bàng, QL1 là trục lộ giao thông nhanh chóng nhất đi qua Bộ Tư Lệnh SĐ 25 tại Củ Chi, và thẳng về phi cảng Tân Sơn Nhất của thủ đô Sàigòn.


TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2


NGÀY 16.3 ĐẾN NGÀY 21-3.1975: TRÊN ĐƯỜNG LIÊN TỈNH LỘ 7B

Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công phục kích ‘

-Trong ngày các ngày 16-17-18/3/1975, tại liên tỉnh lộ 7b đoàn quân Triệt thoái ra khỏi QK2 gặp rất nhiều khó khan trên đường di chuyển vì đường hư hỏng rất nặng, đoạn đường di chuyển quá dài mà không có sự chuẩn bị chu đáo về phần an ninh, dân chúng chạy theo xen kẻ vào các cánh quân triệt thoái làm rất khó khăn trong vấn đề bảo đảm an ninh trên đoạn đường di chuyển , Việc tiếp tế lương thực thực phẩm đạn dược cho các lực lượng triệt thoái gặp rất nhiều khó khăn .
Các cầu cống trên LT lộ 7B nầy hư hỏng nặng. đặt biệt cây cầu bắc qua sông Ba bị đáng sập 100% từ lâu. Khi đoàn quân di chuyển đến địa điểm nầy đã không thể qua sông được phải chờ lực lượng Cộng binh bắc lại cầu .

Nhân cơ hội nầy Cộng quân tung lực lượng truy kích chúng ta . chúng chiếm giử mốt số vị trí hiểm yếu trên Liên tỉnh lộ 7B và phục kích đoàn quân triệt thoái, đồng thời sử dụng tối đa hỏa lực hùng hậu về pháo binh của chúng bắn vào đoàn quân của chúng ta gây thiệt hại nặng cho ta.

POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:20 PM


TỪ BAN MÊ THUỘT ĐẾN CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN

Mỗi năm khi đến ngày TƯỞNG NIỆM mất BAN MÊ THUỘT chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động và cảm thương cho biết bao chiến sĩ anh hùng của QLVNCH và người dân đã chết oan khiên trong những ngày lữa khói đó, đặc biệt là những mất mát không đáng có trên con lộ máu 7 B trên đường triệt thoái kinh hoàng đầy máu và nước mắt.

Tiêng tên tuổi Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lịnh Quân Ðoàn II và Quân Khu II luôn luôn được nhớ đến cùng với sự thất thủ Ban-mê-thuột và cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên, mở đầu sự tan rã của QLVNCH như là một lực lượng chiến đấu vô cùng hữu hiệu trong suốt hai thập niên và sự sụp đổ của VNCH vào tay CSBV.

Sự kiện bi thảm đó đã trở thành một cơn “hội chứng” đối với người dân miền Nam, và mỗi lần nhớ lại biến cố, tên tuổi ông Nguyễn Văn Thiệu lại được gợi đến với tất cả lỗi lầm và trách nhiệm duy nhứt của cá nhân ông. Dĩ nhiên, với tư cách Tổng thống và Tổng Tư lịnh QLVNCH, ông Thiệu phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu. Tuy nhiên, nhìn lại biến cố và bài học quá khứ, chúng ta cũng cần nên có cái nhìn thành thật và công bằng rằng trách nhiệm lịch sử đưa đến sự đánh mất miền Nam không hề nằm trên trách nhiệm đơn độc của một cá nhân nào, cũng như những trang chiến đấu của QLVNCH phải được viết bắt đầu từ hố cá nhân của người lính đi lên, chớ không phải từ trên trực thăng bay cao của ông tướng nhìn xuống.

Sự tin tưởng thông thường đến nay đều cho rằng việc thất thủ Ban-mê-thuột và cuộc rút bỏ Cao Nguyên xuất phát từ lịnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hồi còn trong tù cải tạo của CS, tôi có lần được nghe một anh bạn tù kể lại trận đánh Ban-mê-thuột. Ðơn vị của anh sắp sửa chiếm lại được thành phố thì đột nhiên được lịnh rút trở ra. Cho đến lúc vào tù CS, anh cũng không hiểu tại sao có cái lịnh quái ác đó. Rồi chúng tôi kết luận chỉ có ông tổng thống và tổng tư lịnh mới có quyền ra lịnh đó mà thôi. Người anh của tôi đi lính Biệt Ðộng Quân bị chết mất xác trong cuộc rút lui thảm khốc đó. Anh bạn tù của tôi bây giờ không biết ra sao. Cũng không biết được rằng giờ đây anh đã biết được những thực tế phũ phàng của quá khứ hay chưa ?

Tất cả những sự kiện và chi tiết của bài viết dưới đây đều được căn cứ chủ yếu trên các quyển sách “Cruel Avril” (Éditions Robert Laffont, Paris, 1987) của Olivier Todd và “Vietnam at War” (Sedgwick & Jackson Publishers, London, 1989) của Lt. General Phillip B. Davidson, US Army (ret.)

(NGỪNG TRÍCH )

Tướng Phú, với cương vị tư lịnh tại mặt trận, đã đóng góp vào sự thất thủ nhanh chóng của Ban-mê-thuột bằng Lỗi LẦM tai hại của ông. Mặc dầu trước đó đã được các tin tức từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài-Gòn, cũng như của chính Ðại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng Tình báo QÐ II, báo động những cuộc chuyển quân khác thường của nhiều đại đơn vị cộng sản trong vùng mà mục tiêu chính nhắm vào Ban-mê-thuột, tuy nhiên cho đến phút cuối cùng Tướng Phú vẫn tin rằng quân CS sẽ tấn công Kontum hoặc Pleiku, nơi đặt đại bản doanh của ông. Chỉ đến đầu tháng ba Tướng Phú mới miễn cưỡng chuyển Trung Ðoàn 53/23BB về tăng cường Ban-mê-thuột, đưa lực lượng phòng ngự thành phố lên khoảng 2.000 !

(NGƯNG TRÍCH)

Trong một khoảng thời gian giữa ngày 11 hoặc 12 đã xảy ra một sự “ô nhục” cho QLVNCH. Trước khi cuộc tấn công của quân CS, Liên đoàn 23BÐQ đóng ở Buôn Hồ, khoảng ba chục cây số bắc Ban-mê-thuột. Khi các lực lượng Cộng quân bắt đầu tràn được vào trung tâm Ban-mê-thuột, LÐ 23 được lịnh tiến về giải toả thành phố. Sau khi đánh tan các nút chận của quân CS, LÐ 23 tiến được vào các khu vực ngoại ô của Ban-mê-thuột và đang dồn các lực lượng địch quân trước mặt trở vào trung tâm thành phố, nơi Sư đoàn 320 CSBV vừa mới chiếm giữ một cách lỏng lẻo.

Ðúng ngay giữa thời cơ ấy, Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, chỉ huy cuộc phản công từ một trực thăng bay trên cao, ra lịnh cho LÐ 23BÐQ ngừng tấn công và rút lui trở ra để lập một khu an toàn cho trực thăng đáp xuống di tản vợ con ông đang trú ẩn trong một căn cứ huấn luyện ở phiá đông-nam ngoài thành phố. Khi cuộc di tản gia đình ông tướng xong xuôi, LÐ 23BÐQ quay trở lại tiếp tục cuộc tấn công, để chỉ gặp các ngõ vào đã bị những lực lượng địch quân to lớn khoá chặt. Cơ hội duy nhứt để chiếm lại trung tâm thành phố trước khi quân CSBV củng cố được vị trí đã bị Tướng Tường hy sinh.

(NGƯNG TRÍCH)

Ðể giúp Tướng Phú lấy lại Ban-mê-thuột, Bộ TTM cho bốc đơn vị trừ bị cuối cùng, Liên đoàn 7BÐQ, đến Kontum để thay thế cho Trung đoàn 44 và Trung đoàn 45 thuộc Sư đoàn 23BB. Hai đơn vị sau cùng nầy được trực thăng vận đến Phước An, từ đó sẽ tấn công theo hướng tây để chiếm lại Ban-mê-thuột và phi trường (vẫn còn trong tay Trung đoàn 53 cố thủ). Chuẩn tướng Tường, ông tướng đã sử dụng các BÐQ để di tản vợ con, lãnh trách nhiệm điều động cuộc phản công.

Lực lượng phản công của Tướng Tường được trực thăng vận xuống Phước An ngày 15 và lập tức rơi vào hỗn loạn. Ban-mê-thuột là hậu cứ của hai Trung đoàn 44 và 45. Tất cả gia đình vợ con các binh sĩ đều tập trung ở đó. Khi vừa đặt chân xuống Phước An, thay vì lập đội hình để chiến đấu, phần lớn các binh sĩ tự động phá hàng ngũ và chạy đi tìm vợ con mình, theo gương ông tướng của họ. Khi đã gặp được vợ con, các binh sĩ lột bỏ quân phục và vất hết võ khí và lên đường cùng với gia đình của họ tìm về Nha Trang. Và như thế, cuộc phản công tái chiếm Ban-mê-thuột sụp đổ một cách thảm hại ngay cả trước khi bắt đầu.

Tướng Tường, ông tướng đã làm ung thối cuộc phản công của LÐ 23BÐQ, lại một lần nữa ghi thêm thành tích làm ô nhục QLVNCH của ông ta. Một tràng đạn của Cộng quân quét trúng trực thăng của Tướng Tường. Một mảnh kim khí làm ông tướng bị trầy nhẹ nơi mặt. Thay vì chỉ cần dán lên đó một miếng băng cứu cấp cá nhân và tiếp tục nhiệm vụ chỉ huy, Tướng Tường tự mình báo cáo bị thương về cho Tướng Phú ở Pleiku và ra lịnh cho trực thăng bay thẳng về một bịnh viện an toàn ở Nha Trang.

Tôn Quang Tuấn
(19.6.1999)

LIÊN TỈNH LỘ 7 B CON ĐƯỜNG TRIỆN THOÁI ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT

Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lãnh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 Sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku – Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Đông, Tây, Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7 không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7, kế hoạch được chấp thuận.

Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 BĐQ và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7. Tỉnh Lộ 7 từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7 trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.

Ngày 16-3 đoàn xe quân sự bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, để lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc di tản. Cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1,200 xe cộ . Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn.

Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, tình hình đã không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái.

Ngày 18-3 Liên đoàn 7 BĐQ đang cùng Thiết giáp diệt các chốt CS. Thì xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn.

Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến tình hình càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, CS pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xã gây nhiều tử thương cho quân dân di tản. Các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy.

Từ ngày 16-3 –1975 Sư đoàn 320 CS Ở Buôn Hô (Ban Mê Thuột) gần đoàn quân triệt thoái được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá, đến 18-3 lực lượng lớn của BV tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn, các Liên đoàn BĐQ, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của ta để truy kích đánh phá, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới.

Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để rút về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng quân đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BĐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng. suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu.

Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ vì một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. CSBV tổ chức các chốt chặn đường, một Tiểu đoàn ĐPQ và một Tiểu đoàn BĐQ được giao nhổ chốt.

Ngày 22-3 hai Tiểu đoàn BĐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 CS (SĐ -320) gây nhiều thiệt hại buộc Trung đoàn nầy phải rút lui. BV đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh cho Tướng Cẩm và Bộ tham mưu lên trực thăng bay về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng Đông. Phía Tây xe tăng CS đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam địch đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà.

Ngày 26-3 Tiểu đoàn 34 BĐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng, những người, xe còn lại của cuộc lui binh đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ còn có 300 mở đường máu tới nơi.
Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Đài phát thanh VOA đã bình luận :
“Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”.

Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Đức Phương khi ra đi có khoảng 60 ngàn quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba tức 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BĐQ khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113.

Trong Những Ngày Cuối của VNCH Tướng Cao Viên cho biết có ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh và Truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày.

Chiến dịch Tái chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới.

Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn có Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương với tổng số gần 3000 binh lính.

Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Nhưng Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Văn Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp.

Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới nhiều nghìn hay hàng vạn người.

Tướng Cao Văn Viên nói:

“Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người”

Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ xô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự.

Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra, cũng có thể do CS nằm vùng tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đã ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc và phá hoại của đài BBC Luân Đôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lãnh thổ của miền Nam . Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ TT Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam.

Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7 đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp.

Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai, vùng trách niệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh vùng 1.

Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui binh tức thì ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 6 Trung đoàn cùng với dân chúng miền địa đầu giới tuyến ồ ạt lui về Nam qua Quốc lộ I. Cộng quân thừa cơ phục kích và dùng pháo binh tần xa cùng như tầm gần tha hồ pháo kích và bắn trực xạ vào đoàn người di tản làm chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ 1 đầy các loại xe bốc cháy, gần 20.000 người vừa dân và lính bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác …

Đại tá Phạm bá Hoa nói.

“Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công tái chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…”

(Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7)

Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy. Thất bại trên đường số 7 một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra sự bội tín của Tổng Thống Hoa kỳ bỏ Việt nam và tin cắt quân viện của Quốc Hội Mỹ cũng làm TT Thiệu điên đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, một phần vì TT Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy.

Nhiều người cho rằng Tướng Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn.

Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời, cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm.

“Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhã. Đúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị cho Đại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận tình giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn vì mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông”

(Cuộc Chiến Dang Dở trang 272)

Theo cựu Đại tá Phạm Bá Hoa trong bài Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 nói:

“Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa thì rõ ràng là quân Cộng Sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vậy Pleiku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi bốn ngày sau đó là thời gian sớm nhất chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lện Quân Đoàn , trong khi những Sư đoàn của chúng càng ở xa Pleiku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoát hơn, do đó mà thiệt hại của quân đoàn nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng…”

Một điều xui tai hại là con đường đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn hô , Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp và đánh phá đoàn quân triệt thoát gây thiệt hại nặng nề.

Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB, lực lượng Kỵ Binh, TĐ 82 BĐQ và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù lưc lượng tăng phái cho chiến trường Xuân Lộc cũng đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc nhưng lại lại được chỉ huy bởi Tư Lệnh chiên trường Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và có tính toán sắp xếp trật tự, Tất cả hợp đồng Binh chủng và kỷ luật thật cao nên đã đạt an toàn, ít thiệt hại, người ta đã cho di tản gia đình binh sĩ trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 và lực lượng tăng phái cho thấy sự thất bại của Quân khu 2 và 1 là.

– Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh cận thận.
– Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy.
– Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội.
– Không duy trì được kỷ luật
Ngoài ra vì thiếu tin tức tình báo đoàn quân triệt thoái lại đi ngang tổ kiến VC, Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô gần đoàn di tản đã đuổi kịp sau hai ngày.
Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy loạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn.
Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đã để lọt vào tay địch nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác.

Trọng Đạt

Tài Liệu tham khảo.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.
Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.
The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1958.
Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.
Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University
Press 2002.
Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký, internet.
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005.
Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 .
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.
Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004
Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas Tháng 4-2005.
Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn nhỏ Dallas 28-4-2006.

CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN 1975

Ngày 15 Tháng ba

Khi các lực lượng SĐ23 tại Phước An bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, tình hình các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 53 tại phi trường Phung Dực càng lúc càng xấu hẳn. Các chiến sĩ SĐ23 và BĐQ tại đây dù bị những trận mưa pháo không ngừng của Bắc quân, vẫn liên tục đẩy lui những đợt tấn công biển người của Trung Đoàn 25 chính qui BV. Mặt Trận B3 địch tung thêm SĐ 316 vào trận điạ, chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng, dứt điểm tuyến phòng thủ đã tơi tả của quân ta. Đồng thời, Tướng Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh chiến dịch 275 Bắc quân, ra lịnh cho SĐ 10 BV từ Đức Lập, bôn tập lên chặn đánh chiến đoàn đặc nhiệm của QĐ2 tại Phưóc An, không để lực lượng này bắt tay vớI quân trú phòng còn lại của Trung Đoàn 53. SĐ 10 địch với chiến xa và pháo nặng yểm trợ đã chận đứng lực lượng tiền tiêu cuả Trung Đoàn 45 tạI sông Ea Nhiêu, khi chỉ còn cách các đơn vị đang bị vây hãm của Trung Đoàn 53 không đầy 10 cây số. Hoàn toàn không có chiến xa, còn không quân thì không yểm trợ được vì hoả lực phòng không dày đặc của địch, chiến đoàn đăc nhiệm của Tưóng Phú chỉ với một hỏa lực hạn chế của pháo binh yểm trợ, đã đánh những trận đẩm máu với Bắc quân trong suốt bốn ngày liền. Tiểu đoàn 2, Trung Đoàn 45, tan hàng sau những trận đụng độ ác liệt ! Khi Tưóng Tường TLSĐ23, chỉ huy chiến đoàn bị thưong nhẹ, tự ý di tản khỏi chiến trường bằng trực thăng, tinh thần chiến đấu cuả binh sĩ suy sụp và lực lượng phản công của hai Trung Đoàn còn lại của SĐ23 BB hoàn toàn tan rả!! Lực lượng đặc nhiệm thứ hai gồm 5 tiểu đoàn ĐPQ của TK Khánh Hòa cũng bị chận đứng tại đèo Khánh Dương. Ngày 18 tháng ba, các binh sĩ sống sót của Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 53, tại phi trường Phụng Dực, sau tám ngày không được tiếp tế lương thực và đạn dược, phải mở đường máu rút lui!

Ngày 21 tháng ba,

Những đơn vị tơi tả, còn lại của SĐ23 được bốc về Cam Ranh để chỉnh trang và tái phối trí. Trong lúc đó cuộc triệt thoái từ Pleiku đã khởi sự tiến hành. Bắc quân vẫn chiếm giữ các cao điểm tại Khánh Dương và vùng chung quanh, dọc QL21, mặc dầu lực lượng của Tiểu Đoàn 2 và 3 thuộc Trung Đoàn 40, SĐ22 BB đưọc điều qua từ Bình Định, mở những cuộc phản công ác liệt để chiếm lại những cao điểm này, nhưng không kết quả! Lữ Đoàn 3 Dù, từ mặt trận Thường Đức, trên đường về bảo vệ Sàigòn, bằng hải vận hạm của Hải quân VN, đã được linh đổ quân xuống Nha Trang, tức tốc lên Khánh Dương, chặn bước tiến cuả SĐ10 địch đang từ Tây Nguyên tràn xuống. Mục tiêu đặt ra trước mắt của QĐ2 là tái phôí trí các lực lượng còn lại, hoàn tất việc di tản khỏi Pleiku, Kontum, và chận đứng bước tiến như thác lũ của các binh đoàn Bắc quân, đang ào ạt tràn xuống bình nguyên, theo đường 21.

“Đêm Tây Nguyên trời không muốn sáng
Em chạy phương xa có ngóng về
Có thấy trăng vàng lên xác mẹ
Lên xác người nằm khắp nẻo quê ?!”
( Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ )


Cuộc triệt thoái khỏI Tây Nguyên của QĐ2 được bảo mật tuyệt đối. Tướng Phú hy vọng yếu tố bất ngờ sẽ giúp lực lượng QĐ2 có thễ rút về được Tuy Hòa trước khi địch quân phát giác. Chỉ một số ít sĩ quan trong ban tham mưu QĐ và một vài chỉ huy trưỏng đơn vị được thông báo quyết định rút quân. Còn các tiểu khu trưởng Kontum, Pleiku, Phú Bổn, chỉ đoán được ý định của quân khu vào giờ phút chót khi thấy các đơn vị quân chính qui của QĐ bắt đầu di tản. Kế hoạch triệt thoái được phát thảo vộI vả, đại cương, những mệnh lệnh hành quân chi tiết, cụ thể đều không hề có. Ngay cả vấn đề dân chúng sẽ đổ xô di tản theo đoàn quân khi biết được QĐ rút đi, cũng không hề được dự liệu trước. Hậu quả là đội hình chiến đấu của cả một quân đoàn không thể triển khai nhanh chóng và hiệu quả khi đụng địch vì dân chúng ở lẫn lộn trong hàng ngủ các binh sĩ làm họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiến đấu.

Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2 có trình xin Tưóng Phú cho một tuần lể, hay ít nhất cũng đươc ba ngày để lập kế hoạch rút quân, nhưng Tướng Phú không tán thành điều này. Ông chỉ cho thời hạn một ngày là toàn bộ QĐ phảI triển khai phương án di tản, không được phép chậm trể! Và lịnh di chuyễn chỉ được phổ biến xuống các đơn vị đúng một tiếng đồng hồ trưóc khi khởi sự hành quân triệt thoái. Trong lịch sữ cổ kim, chưa hề có cuộc lui quân cấp QĐ nào mà thờI gian chuẩn bị chỉ có được một ngày, trừ trưòng hợp phải tan hàng, tháo chạy!! Sự thiếu chuẩn bị cũng là một nhân tố chính trong việc làm tan nát đoàn quân, cho dù đoàn quân đó có thiện chiến đến đâu đi nữa, chắc chắn cũng không tránh khỏi thảm bại khi bị địch quân truy đuổi !



Tướng Phú hiểu rõ LTL7B là con đường bị bỏ hoang và hư hỏng nhiều chỗ, nên ông ra lịnh cho Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu đi tiền tiêu để phụ trách việc sữa chữa,tu bổ những đoạn đường và cầu cống bị hư hại-. Ngày 16 tháng Ba năm 1975, QĐ2 bắt đầu cuộc triệt thoái bốn đợt. Mỗi đợt gồm khoãng 250 xe GMC, được một chi đoàn M48 thuộc Thiêt Đoàn 21 Chiến Xa yểm trợ. Các tiểu đoàn của năm LĐ BĐQ vẫn còn nằm án ngữ bảo vệ Kontum và Pleiku, cùng với một chi đoàn chiến xa M48 khác, làm lực lượng đoạn hậu cho QĐ, sẽ rút sau cùng vào ngày 19 tháng Ba. Các đơn vị tiếp vận, quân cụ, và pháo binh được lịnh di tản trong đợt đầu tiên và đợt ngày 17 tháng Ba. Các đơn vị Quân Cảnh, các phòng, sở thuộc QĐ, và thành phần còn lại của Trung Đoàn 44 BB rút trong đợt ngày 18 tháng Ba. Theo kế hoạch dự trù thì lực lượng diện địa của các Tiểu Khu Kontum, Pleiku, Phú Bổn sẽ phụ trách việc bảo vệ an ninh dọc đường rút lui, một nhiệm vụ gần như không tưởng, vì chính họ là những đơn vị sẽ bị QĐ bỏ lại!!

Lực lượng triệt thoái của QĐ2 bao gồm 1 tiểu đoàn của Trung Đoàn 44; 6 Liên Đoàn BĐQ: LĐ 4, 25, và LĐ 7( vừa được Bộ TTM tăng cường cho QK2 ) đang nằm tại Pleiku; LĐ 6,22,23 ở Kontum; Thiết Đoàn 21 Chiến Xa; 2 tiểu đoàn pháo 155-mmm Howitzer; 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 175 ly; Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận. Ngày 16 tháng ba, lệnh triệt thoái được ban hành. LĐ 6 BĐQ, bảo vệ phía đông bắc thị xã Kontum, rút về thị xã Pleiku ngày hôm trước.Hai LĐ 22, 23 BDQ, từ phía bắc và tây bắc Kontum, rút về Pleiku ngày kế tiếp. Vào lúc này, một đơn vị của Trung Đoàn 44 BB và các LĐ 7,25 BĐQ vẫn còn án ngữ bảo vệ phía tây thị xã Pleiku. Một tiểu đoàn của LĐ25 BĐQ đang đụng độ ác liệt với lực lượng chính qui BV tại Thanh An. Tướng Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái, cho dời Bộ Chỉ Huy nhẹ của ông về Cheo Reo, Phú Bổn. Ông thay đổi kế hoạch, đưa một LĐ BĐQ theo yểm trợ cho LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu trong trọng trách đi tiền tiêu. Chính nhờ quyết định này mà các đơn vị công binh của LĐ 20 có được sự yểm trợ cần thiết để thi hành nhiệm vụ vì các lực lượng điạ phương của Phú Bổn, cũng như của Kontum, Pleiku đều không hề bảo vệ an ninh lộ trình như kế hoạch dự trù, vì chính họ khi biết bị bỏ rơi đã di tản theo đoàn quân, hoặc tự ý rả ngũ! Ngày 16 tháng ba, lực lượng điạ phương địch dùng hoả tiển 122 ly pháo dữ dội vào thị xã Cheo Reo. Địch quân đã bắt đầu đánh hơi được động tĩnh của đoàn quân di tản!

Tại Chỉ Huy Sở Măt Trận B3 Bắc quân, Tướng Văn Tiến Dũng nhận được báo cáo của đơn vị kiểm thính, vừa chặn bắt đươc điện đàm vô tuyến của Không Quân miền Nam cho biết hầu hết các máy bay từ phi trường quân sự Pleiku đã cất cánh bay về Nha Trang, mặc dầu phi trường này vẫn chưa bị pháo kích nặng, và các điện đàm của QĐ2 cho biết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của QĐ đã dời về Nha Trang. Các đài phát thanh ngoại quốc cũng loan tin dân chúng Pleiku đang đổ xô di tản về Saigòn bằng máy bay của hãng Hàng Không Việt Nam. Chiều ngày hôm ấy, một tổ trinh sát báo cáo về Sở Chỉ Huy Bắc quân, một đoàn công voa dài đang di chuyễn xuôi nam về hướng Phú Bổn. Tưóng Dũng ra lệnh báo đông cho Trung Đoàn 95 B chính qui BV đóng dọc QL19, SĐ320 tại phía bắc Ban Mê Thuột trên QL14, và SĐ10 tại QL21, theo dõi tình hình, vì lực lượng QĐ2 đang có những cuộc tái phối trí quan trọng. Sau khi đưọc báo cáo LTL 7B vẫn còn có thể xử dụng được, và đoàn công voa rất dài của QĐ2 đang tiến vào Cheo Reo, Tướng Dũng nổi giận, ra lịnh cho SĐ 320 tức tốc bôn tập về hướng Phú Bỗn để chặn đánh đoàn quân di tản.

Ngoại trừ những cuộc pháo kích bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 16, tháng ba, Bắc quân chưa có phản ứng gì đáng kể cho mãi tới tận ngày 18.Trong lúc tình hình thật khẩn cấp như dầu sôi lửa bõng, LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu vẫn chưa hoàn tất được cầu phao qua sông Ea Pa, nằm về phía đông tỉnh lỵ Hậu Bổn (Cheo Reo), vì không đủ phương tiện cần thiết!. Đoàn công voa hoàn toàn kẹt cứng tại Cheo Reo và dọc trục lộ ngược về tận hướng ngả ba giao lộ giữa LTL7B và QL14.Chiều 18 tháng ba, SĐ320 BV khởi sự tấn công đoàn xe di tản tại thung lũng Cheo Reo bằng tất cả sức mạnh cuả hoả lực pháo nặng, cối 82 ly, và bộ binh xung kích. Cơn thịnh nộ cuồng điên của cấp chỉ huy và binh lính phương Bắc đã đỗ ập lên đầu hàng trăm ngàn thường dân vô tội và binh sĩ trên đoàn xe triệt thoái. Địch bắn xối xã vào mục tiêu bằng tất cả những gì có được trong tay. Từ đại pháo 130 ly, hoả tiển 122 mm, cho tớI B40, 41, thượng liên và súng cá nhân. Xác người già cả, thanh niên, đàn bà, trẻ em, tung toé trong tiếng nổ rền của đạn pháo. Những chiếc xe dân sự lẫn quân sự trúng đạn nỗ tung, bốc cháy, lửa khói mịt mù. Từng đoàn ngườI hốt hoảng, nhảy xuống xe tìm chổ trú ẩn ven đường, biến thành những tấm bia thịt di động cho lính BV tác xạ tự do. Thây người rụng ngã hết lớp này đến lớp khác, chồng chất lên nhau trong những tiếng thét gào đớn đau, tuyêt vong của cha gọi con, vơ gọi chồng, con thơ khóc ngất trong vòng tay đã đẫm đầy máu ấm cuả ngườI mẹ, trong những giây phút cuối cuả cuộc đờI, cố dùng thân thể đã loang lổ vết đạn thù che chở cho con! Ôi ! Các tướng lãnh Bắc quân thật quả lòng gang dạ sắt! Ra lệnh tàn sát quân thù không nương tay bất kể kẻ thù đó là đàn bà, con dại, hay những người dân thường vô tội, không một tấc sắt trong tay!!

ĐạI Tá Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2, đến Bộ Chỉ Huy nhẹ của đoàn quân triệt thoái đóng tại Cheo Reo vừa kịp lúc để ra lịnh cho Liên Đoàn 23 BĐQ tiến chiếm đèo Ban Bleik, một điểm chiến lược trọng yếu, ngay phía tây thị xã Cheo Reo. BĐQ đã chặn đứng những đợt tấn công vũ bảo của quân BV vào cạnh sườn của đoàn công voa, bảo vệ cho LĐ 20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ea Pa. Đoàn công voa tiếp tục cuộc hành trình trên chăng đường điạ ngục còn lại trong cái đói khát, cái rét căm căm cuả rừng núi về đêm, và lửa đạn của quân thù bắn không thương tiếc lên đầu.Những thân xác già nua, những trẻ thơ, rơi rụng từ đoàn xe xuống, hay gục ngã bên đường vì kiệt lực, bị xe cộ tranh đường chạy, cán nát người, hay thoi thóp nằm chờ chết trong những kinh ngạc của phút giây cuốI cùng của cuộc đời, vì ai nên nổi ?! Vì sự bất xứng, vô trách nhiệm cuả cấp lãnh đạo miền Nam hay vì sự bạo tàn của người Cộng Sản phương Bắc?! Cùng ngày 18 tháng Ba, Bộ Tư Lệnh QĐ2 cuả Tướng Phú (đã di tản về Nha Trang hôm 16 tháng Ba), cho trực thăng bốc Đaị Tá Lý khỏi vùng Cheo Reo, Phú Bổn ! Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó QĐ2 cũng đã tự ý bay về Tuy Hòa, chỉ một ngày sau khi Tướng Phú cùng bộ tham mưu của ông bay về Nha Trang! Như vậy, chỉ còn mỗi một mình Tướng Tất là sĩ quan cao cấp nhất đi theo đoàn quân di tản! Chiều ngày 20 thàng Ba, khi Tướng Tất cùng lực lượng của ông vừa rút tới thị xã Cheo Reo bằng đường bộ, Tướng Phú cho trực thăng bốc ông cùng Tỉnh Trưởng Phú Bổn về Nha Trang, và đoàn quân triệt thoái kể từ giờ phút này đã thật sự như rắn mất đầu, vì không còn một ai trách nhiệm nữa!!

Sự triệt thoái bất ngờ của QĐ2 đã làm Tướng BV Văn Tiến Dũng, hoàn toàn kinh ngạc, nhưng đầy sãng khoái. Tướng Dũng tự hỏi, chính ai đã ra lịnh lui quân khỏi Tây Nguyên? Nếu quả thật Sàigòn đã ra lịnh đó, thì đây không những là một lầm lổi chiến lược không thể tha thứ, mà còn là một vấn đề vượt khỏi tầm mức chiến dịch mà Mặt Trận B3 đang đảm trách, thuộc về một tầm vóc chiến lược khác rộng lớn hơn. Tướng Dũng ngay lập tức hạ lịnh cho tất cả các đơn vị thuộc B3 phải chặn kín LTL7B, với mục tiêu rõ rệt không phải chỉ đánh bại mà là tiêu diệt toàn bộ lực lượng của QĐ2.
Ngày 21 tháng Ba, SĐ 320 BV với quân số và hỏa lực áp đảo, đã tràn ngập vị trí phòng thủ của LĐ23 BĐQ tại Cheo Reo, cắt đoàn di tản ra làm hai khúc. Hơn 160,000 dân và các LĐ BĐQ 4, 25 bị kẹt lại đàng sau và thành phần sống sót của LĐ23BĐQ. Tướng Phú ra lịnh cho các LĐ BĐQ đi đoạn hâu, bỏ đường lộ chính, cắt rừng, tìm đường thoát hiểm. Pháo và hoả lực súng nhỏ của địch vẫn tiếp tục bắn như mưa vào đoàn xe đang kẹt lại phía sau. Các đơn vị đoạn hậu của LĐ4, và 25 BĐQ, đánh vùi suốt đêm với lực lượng Bắc quân, bảo vệ cho khúc đuôi của đoàn xe chạy thoát vào rừng! Xác lính áo rằn hòa lẫn xác dân, nằm rải rác khắp nơi; máu loang thành vũng ven đường!

“ Có em lạc mẹ bên lề trận,
Có núi rừng xanh cũng ngậm ngùi! ”
(Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ)

Sáng ngày 19 tháng Ba,

Những xe đầu tiên của đoàn công voa đã tới được sông Cồn, cách Cũng Sơn 18 cây số về phía đông, và khoảng 2/3 chặng đường từ Cheo Reo tới điểm đến, Tuy Hòa. Nhưng khúc đuôi của đoàn xe di tản tơi tả vẫn còn lết thết mãi tận thị xã Cheo Reo, nơi những đoàn ngưòi tỵ nạn vẫn tiếp tục tràn vào những đường phố rải đầy xác chết. Tại khúc lòng cạn của sông Cà Lúi, 25 km phía tây bắc Cũng Sơn, một số chiến xa M48 bị mắc lầy khi vượt sông. LĐ 7BĐQ đụng nặng với quân truy kích của SĐ 320 BV. Các phi tuần A37 từ phi trường Nha trang đựơc gọi lên yểm trợ, đã oanh kích dữ dội vào vị trí của quân BV đang tấn công các đơn vị BĐQ bảo vệ đoàn xe. Nhưng một trong những máy bay yểm trợ quân bạn, đã nhầm lẫn đánh bom vào vị trí của BĐQ đang ác chiến với quân chính qui BV, gây thiệt hại nặng cho cả một tiểu đoàn của LĐ7! Tình hình đã rối rắm lại càng thêm rối rắm! Mệnh lệnh và kỹ luật hầu như không còn tồn tại nữa!! Thiết đoàn trưởng thiết đoàn M48, đơn vị chiên xa hộ tống đoàn công voa gần như không còn chỉ huy được đơn vị của mình, dầu rằng khoảng 10 chiên xa M48 vẫn còn có khả năng tác chiến. Khi thành phần đầu tiên của đoàn công voa tới được bờ sông Ba, cách Cũng Sơn khoãng 10 km về phía đông, họ mới vở lẻ đoạn đường dẫn vào Tuy Hòa của LTL7B đầy rẩy những mìn bẩy do quân đội Đại Hàn gài trước đây, không thể nào phá hủy gấp rút được! LĐ 20 Công Binh chiến đấu được lịnh bắt cầu phao qua sông Ba, và Hương Lộ 436, chạy dài theo bờ phía nam sông Ba được chọn đề đưa đoàn công voa về Tuy Hoà. Dự đoán được điều này, địch quân đã đóng chốt kín đoạn đường dài khoãng 2 cây số dọc Hương Lộ 436, phía đông nhánh tẻ của sông Ba, ngăn cản việc chuyên chở các đoạn cầu phao từ Tuy Hòa tới. Bộ Tư Lệnh QĐ2 lập tức cho điều TĐ 206 ĐPQ, một trong những tiểu đoàn diện địa thiện chiến nhất của Quân Khu 2, tấn công các chốt của Cộng quân tại dãi đưòng này từ phiá đông tới, trong lúc đó Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với 16 chiếc M113 yểm trợ, tấn công từ phía Tây qua sau khi vượt qua khúc lòng cạn của sông Ba.






Ngày 20 tháng Ba,



Những xe tải nặng và chiến xa đã xé toạt khúc lòng cạn của sông Ba khiến xe cộ đi sau không thể nào vượt qua được. Trực thăng Chinook CH-47 cuả QĐ2 được lịnh chuyên chở các tấmđan thép lổ thả xuống chỗ khúc đáy sông cạn cho đoàn xe vượt qua, đồng thời trục các đoạn cầu phao nổi đến cho Công Binh bắt cầu qua sông Ba tại điạ điểm cách đó khoãng 1500 mét về phía hạ lưu. Vào ngày 21 thàng Ba, đoàn xe tập trung xung quanh khúc lòng cạn và điạ điểm cầu phao, phía đông Cũng Sơn chờ vượt sông. Trong lúc đó thành phần BĐQ đi đoạn hậu bị địch cắt làm đôi, tơi tả tại Cheo Reo. Phần lớn các tiểu đoàn của LĐ 6,7,22 BĐQ đã vượt qua được sông Cà Lúi, các LĐ 4,23,và 25 BĐQ còn kẹt lại phía sau lưng của SĐ 320BV, lúc này đang ào ạt tiến về phía Cũng Sơn. Ngày 22 tháng Ba, Trung Đoàn 64 thuộc SĐ320 Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào vị trí của LĐ 6 BĐQ, đang yểm trợ cho LĐ20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ba, tại phía tây Cũng Sơn, nhưng bị đẩy lui. Một đoạn cầu phao đã sập khi đoàn xe ùn ùn kéo lên cầu; nhưng Công Binh đã nhanh chóng sữa chữa và một số lớn xe đã vượt qua được bờ nam của sông Ba, để đụng đầu ngay với các chốt kiềng của Bắc quân đóng dày đặc dọc hương lộ 436, khúc đuờng qua xã Mỹ Thạnh Tây.
Trong lúc Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đánh đoạn hậu bảo về đoàn công voa tại khúc đường hẹp, cách Cũng Sơn khoãng 7 km về hướng tây bắc, thì Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công về hướng đông Hương Lộ 436 để nhổ các chốt địch. Tới lúc này thì LĐ 6 BĐQ là đơn vị tác chiến duy nhất còn có sự chỉ huy chặt chẻ trong đoàn quân triệt thoái, 3 tiểu đoàn còn sót lại trong tỗng số 18 tiểu đoàn của các LĐBĐQ bảo vệ đoàn công voa di tản trong cuộc trường chinh vượt qua trận địa sát của Bắc quân tại Cheo Reo, Phú Bổn !



Lực lượng cuả Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đẩy lui cuộc tấn công dữ dội của Trung Đoàn 64 chính qui BV, đêm 23 tháng Ba, giết chết 50 lính BV và tịch thu đuợc 15 vũ khí đủ loại. Hai tiểu đonhưngàn này được một lực lượng yểm trợ gồm 15 chiến xa M41, 8 M48, 11 khẩu pháo 105 ly howitzers, và 2 khẩu 155 mm. Hai trực thăng Chinook được lịnh tiếp tế lương khô và đạn dược cho các tiểu đoàn BĐQ trong khi các đơn vị này vừa đánh vừa lui về Cũng Sơn. Đêm 24 tháng Ba, SĐ320 BV được tăng cường thêm hai chi đoàn chiến xa T54 đã ào ạt tiến vào Cũng Sơn sau khi LĐ 6 BĐQ rút lui về Tuy Hoà.
Trong khi đó, Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công phá chốt địch tại xã Mỹ Thạnh Tây. Mặc dầu thời tiết xấu đã ngăn cản sự yểm trợ của không quân, lính mũ nâu đã lần lượt triệt hạ từng cụm kiềng chốt của Công quân. Ngày 25 tháng Ba, BĐQ nhổ xong chốt cuối cùng của địch, đưa đoàn công voa tả tơi vào địa phận tỉnh Tuy Hòa. Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với quân số còn chưa đầy một đại đội, quay ngược trở lại, trấn giữ hướng lộ phía tây dẫn tới Tuy Hòa!

Trong tỗng số hơn 300 ngàn thưòng dân di tản theo đoàn quân triệt thoái, chỉ có khoãng 60,000 là về đến Tuy Hoà. Số còn lại vẫn không tung tích! Gần hai chục ngàn binh sĩ QĐ2 trên tỗng số hơn 60,000 quân chính qui và yểm trợ về được đến đích! Lực lượng này đã quá tả tơi, rách nát, còn mơ gì chuyện tấn công tái chiếm Ban Mê Thuột như kế họach đã dự trù! Trong lịch sữ Quân Lực VHCH, chưa hề có một cuộc rút lui nào thê thảm và tồi tệ như vậy! Đó là điềm xấu bất tường báo hiệu cho ngày tàn của một quân lưc, từng một thời làm khiếp sợ những binh đoàn lửa của Bắc quân ! Riêng 7000 quân thiện chiến của những LĐ BĐQ tinh nhuệ bậc nhất quân lực, mà trọng trách được giao phó, là đánh đoạn hậu, bảo vệ trắc diện, đi tiên tiêu, che chở cho đoàn quân dân di tản, khi về đến Tuy Hòa chỉ còn chưa được... 900 người! Ôi! Mũ Nâu, màu của vinh quang chiến thắng, hay muôn đời vẫn là màu...máu đọng ?!

__________________


CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975

(và những hệ lụy sau đó)

Phạm Bá Hoa


* * * * *



Dẫn chuyện.
Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự.
Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quan đến những phản ứng sau đó, là:
- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý.
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.

Vào chuyện.
Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn.

Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Có ai ngồi gần anh không? -
- Dạ không, thưa Đại Tướng -
Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành -
- Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng -
- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa? -
- Thưa Đại Tướng, tôi rõ -
- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh-
- Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng -
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !
Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch hành quân như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vã, nhưng vất vã mà được biết đến vẫn vui lòng hơn.
Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
- Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh-
- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -
- Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?-
- Dạ không. Vì sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn -
- Nghî như anh cũng phải -
(Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia )
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng".
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -
- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý.
- Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?
- Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn -
- Vậy thì như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -
- Xong. Mình thỏa thuận như vậy nhé -
Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Trình Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó -
- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem tình hình ra sao đã -
Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý:
- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải toả sân bay giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? -
- Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -
- Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...

Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -
- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh -
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!

Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho q6an cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người!

Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy.

Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
- Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưa? –
- Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! –
- Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -
- Được anh. Để tôi lo -
- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ tôi một chút -
- Tôi đây. Anh có chuyện gì vậy? -
- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -
- Có việc gì vậy? -
- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đã nói với nhau).
- Anh có chắc là đúng như vậy không? -
- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện thoại tôi:
- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả? -
- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe –

Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35.

Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa.

Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.
Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn.

Và đây là những tin tức đó:
"Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".

Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II.

Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta.

Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.

Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v..

Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, thì rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!

Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung thì người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?

Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng động cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi!

Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh.

Trước ngày cuối tháng 3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến!

Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.

‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận. Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi.

Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng:
‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.
‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:
- Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến-
‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-
‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:
‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu như đã tan rã sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn’’.

Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đã nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!

Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:
- Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?
- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu?
- Ngay hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn Anh -
- Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của mình chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày càng xấu thêm ./.

* * * * *

Houston, cuối Đông 2003-2004

Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi đang chuẩn bị đ#273;ể nhà xuất bản ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm


NGÀY THỨ 9 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)

NGÀY 19-3-1975 - NÚT CHẶN CUỐI CÙNG CỦA QUÂN ĐOÀN 2 TẠI KHÁNH DƯƠNG


Binh Chủng Nhảy Dù
20 Năm Chiến Sự
Mặt Trận Khánh Dương
Từ 19/3/1975 đến 2/4/1975


Khánh Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở độ cao khoảng 1,000 met, cạnh Quốc Lộ 21, nối liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải Tỉnh Khánh Hòa, cách QL 1 khoảng 60 km. Khánh Dương là vùng đất đồi núi trong khung cảnh thiên nhiên bao quanh bởi những khu rừng già thật hùng vĩ, như che chở sự sống bình yên cho những người dân di cư trú ngụ từ bốn phương trời. Hầu hết, họ là những gia đình quân nhân di hành theo bước quân ngũ đến đây lập nghiệp sinh sống. Quanh Khánh Dương là những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu số hiền hòa sinh sống.

Cách Khánh Dương về hướng Đông dọc theo quốc lộ I không bao xa, núi Đá Bia nằm trên Đèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối đá lớn trông như tạc hình ảnh mẹ bồng con đứng nhìn ra biển gọi là hòn Vọng Phu, hay còn gọi là núi Mẹ Bồng Con.( Sự tích Hòn Vọng Phu dựa theo câu truyện dân gian: Trong thời tao lọan, có hai anh em ruột vì chạy giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và cô gái gặp nhau vì không nhận ra nhau nên thương yêu nhau và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc. Thế rồi một ngày, người chồng gội đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ. Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá)

Vào những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng trên cao nguyên, phòng thủ Khánh Dương được tăng cường Trung Đoàn 40 thuộc SĐ22BB do Đại Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng và hai Tiểu Đoàn ĐPQ thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Khánh Hòa trấn giữ. Sau khi chiếm lỉnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các Tỉnh Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, Cộng quân muốn tiến về vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Hòa, Phú Yên và Qui Nhơn nên bằng mọi giá họ phải bứng Khánh Dương.



Lực Lượng Ðịch : :
- SÐ F10. chủ lực tấn công BMT.
- SÐ320 đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy Dù ở Thượng Ðức.
- SÐ316 CSBV từ Nam Lào tiến sang
- 5 Trung Ðoàn pháo binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và phòng không.
- 1 Trung Ðoàn Chiến Xa, một Trung Ðoàn Ðặc Công.
- 2 Trung Ðoàn Công Binh, Một Trung Ðoàn Thông Tin.

Lực Lượng Bạn :
- Trung Đoàn 40/SĐ22 Bộ Binh. do Đại Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng
- Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, LĐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm :
* Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, TĐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh
* Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, TĐT Trung Tá Bùi Quyền
* Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, TĐT Trung Tá Nguyễn Hữu Thành.
* Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu.
* Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ĐĐT là Đại Úy Nguyễn Viết Hoạch.
- 2 Tiểu Đoàn thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương Quân/Tiểu Khu Khánh Hòa
- 1 chi đoàn M113

Diển Tiến :

Ngày 14-3-1975

Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên,Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh Quân sự của Tổng Thống, đã họp mật với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2.

Vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 tháng 3,1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với thành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2 (gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng QĐ 2 & Quân khu 2.

Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,Tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng cho Ðại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dung cuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm và tân Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.

NGÀY 15-3-1975

Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn2 / Quân khu 2 tại đây.

Sau khi tấn chiếm hoàn toàn thị xả Ban Mê Thuột, Công Quân gấp rút điều động các Sư Đoàn 320, 316, 968, và F10 di chuyển tiến chiếm Pleiku và khi biết được Pleiku bỏ ngỏ họ điều quân tấn công thẳng xuống khu vực đồng bằng dọc theo duyên hải qua hai ngã QL 19 và QL 21.

Ngày 15/3/1975, LĐ3ND đang trấn đóng tại Đại Lộc Quảng Nam sau chiến trận Thượng Đức, được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho Lữ Đoàn 369 TQLC và xuống 2 tàu Dương Vận Hạm HQ504 và HQ404 của Hải Quân tại cảng Đà-Nẳng để xuôi Nam về phòng thủ SàiGòn theo lệnh triệt thoái của bộ TTM. Trong lúc đó,Thiếu Tướng Phú xin bộ Tổng Tham Mưu cho LĐ3ND tăng viện để lập phòng tuyến mới tại Khánh Dương.Cùng một lúc LĐ2ND được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm phiá Bắc đèo Hải Vân cho TQLC và được không vận thẳng về SàiGòn.

NGÀY 16-3-1975

Theo lịch trình di tản của Quân Khu 2, ngày 16/3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của đơn vị Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, Liên Đoàn 7 BĐQ đã khởi hành ra khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái khỏi Pleiku.

Khi Tiểu đoàn 58/LĐ7BĐQ tiến chiếm đỉnh đèo Cheo Reo và làm chủ tình hình trận địa thì CQ dùng chiến xa tấn công và bao vây lực lượng BĐQ ở phía dưới chân đèo hướng tỉnh lỵ Phú Bổn. CácTiểu đoàn 32 và 85BĐQ, Pháo binh và phân đội hỏa tiễn TOW đã dàn đội hình chống trả quyết liệt. Trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Liên đoàn 7 BĐQ xin phi pháo yểm trợ, 40 phút sau, oanh tạc cơ của Không quân VNCH đến oanh kích CQ quanh trận tuyến. Đến 18 giờ 05 phút, chiến trường mới tạm im tiếng súng, nhưng Cộng quân vẫn còn áp lực quanh đoàn quân di chuyển.

NGÀY 18-3-1975

Chiều 18/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 về đến Hậu Bổn, tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn, nơi Quân đoàn 2 đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ để điều động cuộc triệt thoái, điểm đến là vùng duyên hải còn cách hơn 160 km. trong khi Công binh chưa làm kịp cầu phao bắc qua sông Ê-Pa.

Tối 18/3/1975, Cộng quân lẻn vào khu vực Tây Nam của vòng đai tỉnh lỵ Hậu Bổn, sử dụng súng cối pháo kích vào một số vị trí dừng quân của các đơn vị triệt thoái. Phi trường Hậu Bổn cách Bộ Tư lệnh nhẹ Quân Đoàn 2 chưa đến 2 km bị Cộng quân chiếm. Liên đoàn 7 BĐQ được điều động phản công, đẩy lùi Cộng quân ra khỏi khu vực Tây Nam của tỉnh lỵ. Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài đến ngày hôm sau.

NGÀY 19-3-1975

Chiều ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Một số lớn chiến xa M 48 và M 41 của Lữ đoàn 2 Kỵ Binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu Bổn.

Trong ngày nầy, đang trên đường xuôi Nam sau 2 ngày và 3 đêm hải hành, LĐ3ND được lệnh đổ quân xuống Cầu Đá Nha Trang để tăng viện cho mặt trận Quân Khu 2. Sau khi cập Bến Nha Trang, Trung Tá Lê Văn Phát LĐT/LĐ3ND nhận lịnh từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú: Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù điều động 3 Tiểu Đoàn cơ hữu 2, 5 & 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu Đoàn Pháo Binh 105 ly và Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù đến lập tuyến phòng thủ dọc theo QL21 trên đèo M’Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương.

Trong khi cuộc triệt thoái của lực lượng Quân đoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 7 B, thì tại tỉnh Quảng Đức,vào trưa ngày này, Cộng quân đã tấn công cường tập vào tỉnh lỵ và chi khu Kiến Đức, chi khu trưởng Kiến Đức bị thương. Đến 3giờ 20 chiều 20/3/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Nghìn-Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Quảng Đức.

*Cộng quân áp lực Khánh Dương

NGÀY 20-3-1975

Cùng lúc tấn công vào Quảng Đức, trong ngày 20/3/1975, Cộng quân đã áp lực nặng ở Bắc Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa. Tin tức tình báo ghi nhận sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn 320 CSBV đã từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh Dương, cách địa điểm này 8 km về hướng Tây Bắc.

Ngày 20/3/1975 Trung Tá Lê Văn Phát ra lệnh cho BCH/LĐ3ND,TĐ2ND,TĐ3PBND, ĐĐ3TSND theo đường bộ kéo lên Dục-Mỷ, Ninh Hoà. TĐ5ND và TĐ6ND rải quân bố trí từ núi Chu Kroa (3100m) dọc theo QL21 dài khoảng 30 cây số về Khánh Dương. Phiá Nam cuả LĐ3ND có một TĐ Điạ Phương Quân trấn giử. Tại đèo Cả trên QL1 có TĐ34BĐQ trách nhiệm trấn giữ.


Mặt Trận Quân Khu 2 cuối tháng 3/1975

NGÀY 21-3-1975

Sáng ngày 21/3 tất cả đơn vị thuộc LĐ3ND đều sẳn sàng tại vị trí chiến đấu của mình. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Bùi Quyền làm TĐT trấn ngự tại phía Nam Thị trấn Khánh Dương cạnh QL21; Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Thành làm TĐT trấn ngự tại cao điểm 957m Buôn Ea Thi. Và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. BCH Lữ Đoàn , TĐ3 Pháo Binh và Đại Đội 3 Trinh Sát đóng tại Dục Mỹ.

Vào lúc 12 giờ 15 ngày 21/3/1975, phi trường Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ di chuyển về vị trí cách phi trường Khánh Dương khoảng 1 km về hướng Nam. Tin tức tình báo cho biết 2 Sư Đoàn cộng sản F10 và 320 từ Ban Mê Thuột sẽ tiến đánh Khánh Dương bứng nút chặn LĐ3ND để dọn đường tiến thẳng về Sài Gòn.

Sau khi quan sát trận địa, Trung Tá LĐT yêu cầu Quân Đoàn tăng viện ít nhất một Sư Đoàn Bộ Binh hậu thuẩn để cho Lữ-Đoàn 3 Nhảy Dù có thể xung kích ngăn chận đà tiến quân của địch quân. Quân đoàn đã trả lời không còn quân để tăng viện.

17 giờ 45, Một Trung Đoàn của SĐF10 CSBV tấn công vào TĐ2/40/22BB tại 10km phía Tây Khánh Dương (cây số 62).Gần 100 Công quân bỏ xác tại trận và 2 tù binh. Đây chỉ là trận đánh dò dẫm của Công quân.

NGÀY 22-3-1975

Sáng ngày 22/3/1975, mặt trận Khánh Dương bị áp lực nặng. Lực lượng CQ đã dốc toàn lực mở cuộc tấn công phòng tuyến Khánh Dương.

7.30 giờ Công quân mở trận địa pháo kinh hồn vào các đơn vị phòng thủ phía Tây Khánh Dương. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại tới tấp rơi vào các căn cứ phòng thủ của Trung Đoàn 40BB và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tỉnh Phan Rang. Sau đó SĐF10/CSBV dốc toàn lực biển người với xe tăng yểm trợ tấn công vào các đơn vị nầy. Sau một giờ giao tranh các đơn vị phòng thủ bị tràn ngập và cắt ra từng mãnh nhỏ, trên phân nửa quân số bị thương vong, một sô tàn quân của các đơn vị nầy rút về phía Nam cuả phòng tuyến Nhảy Dù rồi tiếp tục rút về Diên Khánh.

9 giờ 00 sáng Cộng quân tiến về Chi khu Khánh Dương với 12 chiếc xe tăng hổ trợ không cần ngụy trang. Sau đó CS pháo đại bác122 ly vào quận Khánh Dương, đến 9,30 giờ thì chi khu Khánh Dương mất liên lạc. Đến 10 giờ, Quận trưởng Khánh Dương báo cáo phải di tản chiến thuật vì Cộng quân tràn ngập.

NGÀY 23-3-1975

Ngày 23/3/1975 Tại mặt trận Khánh Dương , Cộng quân đã gia tăng áp lực tại tuyến phòng ngự của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND yêu cầu phi pháo oanh kích đoàn chiến xa CSBV khoảng 20 chiếc trên đường kéo lên đèo M’Drak và xin tăng cường lực lượng Thiết Kỵ cũng như trang bị hỏa tiển TOW chống chiến xa.

16 giờ 30, nhiều chiến xa của Cộng quân xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận lỵ Khánh Dương 2 km về phía Tây Bắc. Ở phía Đông Nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của Không quân VNCH ghi nhận có 2 chiến xa T-54. Ở phiá Bắc có nhiều xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3 km. Không quân đã thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc chính xác ngăn chận mức độ tiến quân của Cộng quân.

Sau đó các đơn vị tiền sát cuả LĐ3ND bắt đầu chạm địch, với thế tấn công ào ạt cuả CSBV trên QL21, nhưng gập sức kháng cự dũng mảnh cuả các chiến sỉ Nhảy Dù với những trận cận chiến ngoạn mục địch quân đã bị tổn thất nặng ngay trận đầu với 5 chiến xa T54 bị hạ tại trận và hằng trăm xác công quân bỏ lại chiến điạ.

Với kinh nghiệm già dặn chiến trường đoán chắc cộng quân sẽ tập kích sau đó, LĐT/LĐ3ND cho ĐĐ3TSND của Đ/U Nguyễn Viết Hoạch bung rộng ra dọc hai bên sườn quốc lộ 21 sẳn sàng nghinh chiến.

NGÀY 25-3-1975

Vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, đúng như dự đoán của Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND, trong ngày này, Sư đoàn F-10 CSBV mở cuộc tấn công toàn diện vào phòng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù với quân số gấp 6 lần. Các chiến sỉ Nhảy Dù không hề nao núng chống trả mảnh liệt đôi khi phải dùng thế cận chiến để đối đầu với cộng quân.tại Khánh Dương, sau cùng lực lượng Nhảy Dù đã đánh bật cộng quân ra khỏi phòng tuyến sau những trận kịch chiến.

NGÀY 28-3-1975

Ngày 28/3/1975 một đoàn xe tiếp tế thực phẩm và đạn dược cho LĐ3ND đã bị cộng quân phục kích đánh tan trên Quốc lộ 21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TĐ5ND được lịnh lui quân về vị trí TĐ6ND và TĐ2ND trở thành đơn vị cơ động ứng chiến và được lịnh giải tỏa QL21 từ đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để an ninh lộ trình tiếp tế.

NGÀY 29-3-1975

Ngày 29/3/1975 vào lúc 3.00 giờ sáng, Pháo binh cộng sản đủ loại dập lên tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng quân tập trung toàn lực lượng biển người với các Sư Đoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm LĐ3ND từ 3 phía. LĐT/LĐ3ND ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc lập “phòng tuyến thép” không lui.

LĐ3ND sau những thiệt hại tại Thường Đức Quân Khu 1 và hơn một tuần lể đương đầu với ba Sư Đoàn CSBV đông gấp 10 lần, không đươc bổ xung, không được tiếp tế, không chiến xa, không pháo binh hạng năng hổ trợ, chỉ còn lại khoảng hơn 1000 chiến binh.

Tuyến đầu tiên là TĐ5ND và TĐ6ND bị địch bao vây tứ bề. Địch quân đông như kiến cùng quân phòng thủ đánh cận chiến “xáp lá cà” suốt đêm đến 7.00 giờ sáng mà tuyến phòng thủ vẫn còn giữ vững. Sáng ngày hôm sau 30/3/1975, trên 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ làm giảm bớt áp lực của địch quân. Quân Dù gấp rút tổ chức lại hệ thống phòng thủ.

2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng quân lại mở cuộc tấn công cường tập mới vào phòng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ Đoàn Trưởng báo cáo khẩn về tình hình cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh Quân Đoàn 2 ra lịnh "Lữ đoàn Dù cố gắng giữ phòng tuyến", và hứa sẽ có lực lượng tăng viện. Một cây cầu trên QL21 dẩn đến Khánh Dương bị Không Quân VNCH phá sập..

NGÀY 31-3-1975

Ngày 31/3/1975 Sáng sớm tình hình tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập,LĐT/LĐ3ND báo cáo cho Tướng Phú : tuyến phòng thủ TĐ5ND bị cộng quân cắt đứt thành nhiều mảnh, nếu không có quân tăng viện LĐ3ND sẽ bị địch quân tràn ngập.

Tướng Phú gọi về Bộ Tổng Tham Mưu khẩn cầu gởi quân tăng viện gấp cho Khánh Dương. Xin tăng cường 2 TĐ/BĐQ trấn đóng tại đèo Cả và cho LĐ3TQLC vào vùng trách nhiệm tại Khánh Dương ngay ngày hôm nay.


LĐ3ND trấn ngự từ đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương

·Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn

Trong khi đó cộng quân đã tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh Bình Định.Tại Qui Nhơn, SĐ3CSBV đã chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Lực lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn 41 và Trung đoàn 42 đã nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các đơn vị còn lại của Sư đoàn 22 Bộ binh triệt thoái khỏi tỉnh Bình Định.

Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh tự sát tại Qui Nhơn; Trung Đoàn Trưởng 41 cùng 2/3 cấp SQ chỉ huy được ghi nhận là tử trận hoặc mất tích :Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đã tự sát bằng súng Colt 45. SĐ22BB tổn thất khoảng 70% quân số.

Một Tiểu Đoàn Trưởng Địa Phương Quân tỉnh Bình Định tự sát ngay trước quận đường Phù Cát. Cùng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn Tại Căn cứ Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đêm tổ chức cố thủ, Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đã bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về Qui Nhơn thì bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng, Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Cầu đã bị CQ bắt sống. Cộng quân đã chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân (các tài liệu không ghi rõ tên) vẫn còn nằm nguyên trước Văn phòng Quận Phù Cát. Thay vì đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát.

NGÀY 1-4-1975

Sáng ngày 1/4/1975, nhiều vị trí phòng thủ của các đơn vị Quân Lực VNCH tại Khánh Hòa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn CSBV (thuộc hai sư đoàn khác nhau). Lực lượng của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù gồm có một tiểu đoàn Pháo Binh và 3 Tiểu Đoàn bộ-chiến Dù đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư Ðoàn F-10 và SÐ 320 Bắc Việt. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù đã chống trả dữ dội bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

Trung Đoàn 25/SĐ10CSBV đồng loạt tấn công vào vị trí cuả TĐ6ND do Trung Tá Nguyển Hủu Thành làm TĐT, Thiếu Tá Trần Tấn Hoà làm TĐP. Tuyến phòng thủ cuả TĐ6ND bị tràn ngập sau đó. Trung Tá Thành, Đ/Úy Triết,cùng một số quân nhân ND bị bắt tại trận.

TĐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TĐT và Thiếu Tá Vỏ Trong Em làm TĐP bị Trung Đoàn 28 CSBV vây hảm và tràn ngập. Thiếu Tá Vỏ Trọng Em đã hướng dẩn được khoảng 200 chiến sỉ lui vào rừng, vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân nầy mới được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang., một số quân ND khác tháp tùng Thiết Vận xa M113 về được Dục Mỷ.

Trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1 tháng 4/1975, Trung Tá Phát trình với Thiếu Tướng Phú là nếu không có tăng viện, không được cấp phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một Trung Đoàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang.

Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã bị địch quân bao vây rất ngặt, đã hạ được 4 chiến xa địch nhưng phòng tuyến đã bị lùi xa lại phía sau. Tướng Lê Quang Lưởng gọi Tướng Phú yêu cầu gởi quân tăng viện cho LĐ3ND. Ông cũng cố gắng liên lạc với các nơi khác tìm cách trợ giúp thêm quân cho LĐ3ND.

Trong ngày nầy Trung Tá Phát gọi xin thêm viện quân khẩn cấp lần thứ năm và được Thiếu Tướng Phú trả lời không còn quân để tăng viện và ra lịnh cho LĐ3ND di chuyển về phía Nam.

Lúc 15.30 giờ, Tướng Phú ra lệnh cho 2 phi tuần khu trục đến yểm trợ mặt trận Khánh Dương để giải tỏa bớt áp lực của địch lên cánh quân Nhảy Dù. Đây là những trái bom cuối cùng được xử dụng trên chiến trường Quân Khu 2.

Đến 4 giờ 10 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng thủ đã bị cắt nhỏ. Sau đó cuộc điện đàm đã bị gián đoạn..

Trong khi đó Trung Đoàn 66 CSBV quyết tâm diệt gọn TĐ2ND do Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm TĐT và Thiếu Tá Nguyển Văn Phương làm TĐP. TĐ3PBND do Thiếu Tá Nguyển Văn Triệu làm TĐT và ĐĐ3TS do Đại Úy Nguyển Viết Hoạch làm ĐĐT. Các đơn vị nầy đang trấn giữ dọc theo chân đèo Phượng Hoàng thì bị địch quân tấn công tràn ngập. TĐ3PBND được linh phá huỷ một số đại bác 105 ly cơ hửu.

Sau những đợt tấn công biển người liên tục và ác liệt cuả địch, tuyến phòng thủ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ, lại không được tiếp tế lương thực và đạn dược. LĐT/LĐ3ND phải triệt thoái đơn vị về bải biển dưới chân hòn Son và men theo đường bộ về Phan Rang lập phòng tuyến mới.

Tính đến sáng ngày 1 tháng 4/1975, khu vực trách nhiệm của Quân Khu 2 chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, (quân khu 2 có 12 tỉnh). Về quân số, ngoài Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương, chỉ còn một trung đoàn Bộ Binh và 2 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân. Tuy nhiên, 2 liên đoàn Địa Phương Quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập vẫn còn khả năng tham chiến.

Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử Đoàn Trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, trên đường rút từ Khánh Dương ra QL1 không còn liên lạc được với BTL QĐ2 nên liên lạc thẳng về Sài Gòn bằng hệ thống GRC106 và được lịnh liên lạc với Tướng Sang để vào phòng thủ Phi Trường Phan Rang.

NGÀY 4-4-1975

Đến ngày 4/4/1975 LĐ2ND được không vận từ Sài Gòn đến Phan Rang thay thế LĐ3ND và ngày hôm sau LĐ3ND được phi cơ bốc về Saigon bổ sung quân số và sẳn sàng ứng chiến cho Biệt Khu Thủ Đô..



****************************************************


NGÀY THỨ 6 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC) NGÀY 15-3-1975: ĐỒNG LOẠT CHIẾN TRƯỜNG SÔI ĐỘNG KHẮP 4 VÙNG CHIẾN THUẬT NHƯNG NẶNG NHẤT LÀ QUÂN KHU 2 RỒI ĐẾN QK 1 VÀ QK 3 CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2 - BÌNH ĐỊNH CŨNG TRONG NHỮNG NGÀY TỪ 10 -3 ĐẾN 15-3-1975 Trong lúc những trận giao tranh ác liệt bùng nổ ở Darlac, ba sư đoàn quân chính qui Bắc Việt với quân số và hỏa lực áp đảo đã tấn công dữ dội SĐ 22BB của Tướng Phan Đình Niệm tại vùng Bình Định. Tuy không đánh bật được lực lượng của SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm khống chế trục lộ giao thông trên QL19 đoạn qua đèo An Khê, nhưng các chiến sĩ SĐ 22 BB với sự yểm trợ của không quân đã gây thiệt hại nặng cho địch quân. Tướng Niệm hy vọng rằng SĐ3 BV với những thiệt hại nặng nề sẽ buột phải rút lui. Có một điều mà ông không thể nào tiên liệu được là những đột biến bất ngờ của tình hình tại các tỉnh còn lại thuộc QK2 đã làm những chiến thắng lừng lẩy của SĐ22 BB trở nên vô nghĩa!! SĐ 3 BV bắt đầu cuộc phản công với những trận tấn công dữ dôị tràn ngập vị trí phòng thủ của lực lượng diện địa đang trấn giữ những cao điểm nhìn xuống đèo An Khê và các đơn vị điạ phương bảo vệ các cầu trên QL19 gần đó. Tướng Niệm lập tức cho tăng viện các tiểu đoàn bộ chiến thuộc SĐ22 BB chuẩn bị cho cuộc phản công tái chiếm các vị trí đã mất; nhưng Bắc quân lợi dụng những ưu thế bước đầu đã dàn toàn bộ lực lượng của các Trung Đoàn 2, 12, 14 thuộc SĐ 3 BV, cùng các đơn vị đặc công, pháo và các lực lượng yểm trợ địa phương tại vùng thung lũng Vĩnh Thạnh, nằm giữa đèo An Khê và Bình Khê. Ngày 10 tháng Ba, 1975 khi SĐ 320 BV ào ạt tiến vào Ban Mê Thuột, ba trong tỗng số 4 trung đoàn của SĐ22 BB đã có mặt tại khu vực giữa quận An Nhơn, ngay giao lộ giữa QL19 với QL1, và vùng cực đông đèo An Khê. Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 47 BB, án ngữ đọan đường phía đông dẫn vào đèo An Khê, liên tiếp đẩy lui những cuộc tấn công ác liệt của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, 141 BV, và đánh bật lực lượng này ra khỏi chiến trường. Vào ngày 11 tháng ba, Tiểu Đoàn 3 còn lại của Trung Đoàn 47 BB được không vận tới quận Bình Khê, hoàn tất việc chuyễn quân cho toàn bộ Trung Đoàn. Lúc này, Tiểu Đoàn 927-ĐPQ vẫn giữ một số vị trí bên trong đèo, nhưng không còn kiểm soát được trục lộ giao thông qua đèo nữa. Ngày 11 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 209 ĐPQ; Tiểu Đoàn 218 ĐPQ còn lại với các Đại Đội rải quân quá mỏng để giữ đèo đã bị cô lập hoàn toàn và lâm vào tình huống có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào! Trung Đoàn 42, SĐ 22BB với Bộ Chỉ Huy đặt tại Bình Khê, mở những cuộc tấn công về phía tây, dọc theo QL19, trong nổ lực nhằm bắt tay với các đơn vị đang bị vây hảm của hai Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 47 BB. Vào ngày 8 và 9 tháng Ba, Trung Đoàn 41BB từ Bồng Sơn di chuyễn tới vùng An Sơn trên QL19, để bảo vệ tuyến tiếp vận, liên lạc phía tây Bình Khê, và đồng thời bảo vệ an ninh cho căn cứ không quân Phù Cát. Trung đoàn 40 BB, trung đoàn thứ tư của SĐ 22 BB, vẫn nằm lại vùng phiá bắc tỉnh Bình Định, án ngữ cửa ngỏ vào thung lũng An Lão, và bảo vệ đèo Phù Ku trên Tỉnh Lộ 506, phía bắc Phù Mỹ. Tới ngày 11 tháng ba, hai Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 2 BV đã bị hoả lực phi pháo của quân ta gây thiệt hại nặng nề. Tiểu Đoàn 7, Trung Đoàn 141 Bắc quân bị đánh bật khỏi ngả ba giao thủy cuả hai sông Cồn và sông Đồng Phổ, với hai đại đội gần như bị diệt gọn. Các Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn 12 BV cũng bị thiệt hại nặng. Nhưng Bắc quân đã nhanh chóng bổ xung quân số và vũ khí, đạn dược bằng những đoàn xe tải rầm rộ đổ vào vùng thung lũng Vĩnh Thạnh. Ngày 13 tháng Ba, năm tiểu đoàn Bắc quân mở những đợt tấn công vũ bão vào vị trí của của Tiểu Đoàn 1 và 2, Trung Đoàn 47 BB, nhưng bị đẩy lui. Tính từ ngày 4 tháng Ba, 1975, liên tiếp bốn Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn 2 , Trung Đoàn 47 BB, khi lên thay thế nhau đã tử trận hết ! Tướng Niệm cho rút TĐ 2, với quân số chỉ còn phân nữa ra khỏi chiến trường, về dưỡng quân và tái phối trí tại hậu cứ SĐ. Trung Đoàn 47BB với hai tiểu đoàn còn lại bắt đầu mở những đợt tấn công vào vị trí quân BV tại khu vực phía tây dẫn vào đèo An Khê, nhằm bắt tay với lực lượng Điạ Phương Quân còn cố thủ trên đèo. Liên Đoàn 927 ĐPQ, dưới quyền điều động của Trung Đoàn 47 BB, đặt bộ chỉ huy tại phía tây đèo An Khê, với các đại đội đã hao hụt nặng của các Tiểu Đoàn 209, 217,và 218 ĐPQ nằm giữ những cao điểm dẫn qua đèo. Ngày 12 tháng Ba, Bắc quân tràn ngập Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 218 ĐPQ cùng một đại đội của TĐ này, mặc dù Trung Đoàn 47BB đã hết sức nổ lực phá vòng vây của Bắc quân để bắt tay với lực lượng diện điạ tử thủ tại đây. Tiểu Đoàn 218 ĐPQ gom góp những thành phần sống sót của các đại đội, cố thủ tại khu vực phía tây dẫn vào đèo. Nhưng đơn vị này vào ngày 17-tháng Ba đã bị lực lượng của Trung Đoàn12 BV tấn công, tràn ngập. NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH - QUÂN KHU 2 Giao tranh diễn ra rất khốc liệt giữa lực lương SĐ 22 BB và các đơn vị chính qui BV tại khu vưc nằm giữa đoạn cuối đèo về phía đông và quận Bình Khê kéo dài từ ngày 15 tới ngày 17 tháng Ba. Trung Đoàn 42 BB dồn mọi nổ lực tấn công nhằm đánh bật 3 tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BV ra khỏi những cao điểm đang chiếm ngự gần cuối mạn đèo phía đông. Mặc dầu gây thiệt hại nặng cho Bắc quân, giết chết gần 500 lính BV chỉ trong vòng hai ngày, Trung Đoàn 42 BB vẫn không thanh toán được mục tiêu. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 tuy bị thương hai lần khi chỉ huy cuộc tấn công, vẫn tiếp tục nằm lại với đơn vị. Trong lúc đó, Tướng Niệm cho điều động Trung Đoàn 41BB lên vùng phía nam quận Bình Khê, và cho rút hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 47BB đưa lên vùng bắc Bình Định thay thế Tiểu Đoàn 2 và 3, Trung Đoàn 40 BB, đựợc Tướng Phú điều động qua tăng cường bảo vệ Khánh Dương, tỉnh Khánh Hoà. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 47 BB, sau khi đưọc chỉnh trang và bổ sung quân số theo kế hoạch dự trù sẽ tiến lên phía bắc để thay thế Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 40 BB, rút về làm lưc lượng trừ bị cho SĐ. NGÀY 9-3-1975 ĐẾN NGÀY 15-3-1975 : TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 – QUẢNG TRỊ - THỪA THIÊN HUẾ CHIẾN TRƯỜNG PHÍA BẮC ĐÈO HẢI VÂN. NGÀY 9-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 Sau khi bị đánh bật khỏi những cao điểm dọc QLI, phía nam thành phố Huế, trong những tuần lể đằu năm 1975, địch quân lập tức cho tăng cường thêm lực lượng trong khu vực này. Ngày 8 tháng Ba, những cuộc đụng độ lớn bùng nổ, khi Bắc quân tấn công chiếm 15 ấp xã ở phía nam tỉnh Quảng Trị và phía bắc Thừa Thiên. Đồng thời tại phía nam QK1, SĐ2 BV và Trung Đoàn 52 Bắc quân tấn công tràn ngập hai quận Hậu Đức và Tiên Phước, đe dọa tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quãng Tín. Tới trưa ngày 9 tháng Ba, với chiến xa và M113 yểm trợ, một lực lượng đặc nhiệm của QĐ1 bao gồm Tiểu Đoàn 8 Dù, các Tiểu Đoàn 112, 120 ĐPQ và ĐĐ 921 ĐPQ đã đánh bật quân BV ra khỏi những vị trí địch quân chiếm được tại Thừa Thiên, gây tổn thất nặng cho địch. Bắc quân lại mở những cuộc tấn công vào các xã ở vùng duyên hải tỉnh Thừa Thiên, đồng thời tấn công dữ dội các đơn vị ĐPQ đang bảo vệ những tuyến đường dẫn vào thành phố Huế. Tại vùng đông nam Huế, 3 trung đoàn thuộc SĐ 324B BV bắt đầu chiến dịch Thừa Thiên với những đợt tấn công dọc theo khu vực dài 8 km từ sáng sớm mùng 8 tháng Ba. Với hoả lực pháo năng bắn tập trung yểm trợ, Bắc quân ào ạt tràn lên những ngọn đồi xung quanh. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 1 BB, vẫn giữ vững vị trí tại đồi 121; nhưng Tiểu Đoàn 1 thuộc trung đoàn này đã bi địch quân tràn ngập, đánh bật khỏi tuyến phòng thủ ở đối 224. Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 54 BB bị đẩy khỏi đồi 144, nhưng sau đó đã chiếm lại được vị trí này trong ngày 9 tháng Ba. Đai Đội Trinh Sát Hắc báo SĐ1 BB cũng buộc phải bỏ vị trí tại đồi 50, phía tây bắc núi Bóng. Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB, lập tức tung 2 Tiểu Đoàn 61 và 94 thuộc LĐ 15 BĐQ vào trận địa, nhằm chiếm lại những vị trí đã mất. TĐ 61 BĐQ càn qua trận phục kích của Bắc quân, tiếp tục phối hợp cùng TĐ 94 BĐQ mở những đợt phản công vào vị trí quân BV vào ngày 10 tháng Ba. Những cung từ từ các cuộc thẩm vấn tù binh BV bắt được trong ngày 11-tháng Ba cho biết toàn bộ SĐ 325 BV đã di chuyễn về phía nam, sẵn sàng cùng lực lượng điạ phương địch tấn công quận Phú Lộc. Với khoảng 20 chiến xa T54 yểm trợ, quân BV tấn công hành lang Sông Bồ nơi Lữ Đoàn 147 TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 TQLC và Tiểu Đoàn 130 ĐPQ trấn giữ. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt trong hai ngày, LĐ147 TQLC đã chiếm lại một vị trí bị địch quân tràn ngập trong ngày 11 tháng Ba; gây thiệt hại nặng cho Bắc quân với 200 lính BV bị giết chết và phá hủy hai chiến xa địch, gây hư hại cho 7 chiếc khác, cùng tịch thu nhiều vũ khí, dạn dược. NGÀY 12-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG THỪA THIÊN HUẾ Ngày 12-3 Một tiễu đoàn thuộc Trung Đoàn 6 chính qui BV xâm nhập vùng Phú Lộc, xử dụng 12 thuyền đánh cá cướp được cuả dân điạ phương, chuyễn quân qua Đầm Cậu Bảy, tấn công xã Vĩnh Hiền, quận Vĩnh Lộc ở đầu phía nam đảo, tiến ngược lên phía bắc, tấn công Vĩnh Giang. Một phần tiểu đoàn này tiến vào khu vực quận Phú Thứ, ngay phía đông thành phố Huế. Tiểu Đoàn 8 Dù được tăng cường bởi 2-đại đội của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 54 BB, với sự yểm trợ của một chi đoàn M113 chận đánh tiểu đoàn Bắc quân và tiêu diệt gọn đơn vị này. NGÀY 16-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG THỪA THIÊN HUẾ Ngày 16 tháng Ba, một đơn vị của Trung Đoàn 54 BB phục kích thành phần còn lại của tiểu đoàn chính qui BV, giết chết Tiểu Đoàn Trưởng cùng 20 lính BV. Theo lời khai của 5 tù binh CS thì đơn vị này đã bị thiệt hại rất nặng, chỉ còn khoãng 33 người sống sót mà hầu hềt đều bị trọng thương. Những cuộc đột nhập khác của quân CSBV thuộc Trung Đoàn 4 độc lập vào hai quận Phong Điền và Quảng Điền, tây bắc thành phố Huế cũng bị quân ta nhanh chóng chận đứng và tiêu diệt. Mặt trận phía nam đèo hải Vân. NGÀY 11-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 Phía nam đèo Hải Vân, ngày mùng 8 tháng Ba, đặc công CS đột nhập Đà Nẵng, bắn B40 vào các công sở thuộc quận Hoà Vang. Ngày 11 tháng Ba, địch pháo kích dữ dội bằng hoả tiển 122-ly vào căn cứ không quân Đà Nẵng phá hủy một chiến đấu cơ F5E loại mới của Không Quân. Quân BV với trọng pháo yểm trợ cũng mỡ những cuộc tấn công vào các đơn vị thuộc SĐ3BB, SĐ Dù, và lực lượng diện điạ rải dài từ Đại Lộc tới Quế Sơn. Hầu hết các cuộc tấn công đều bị đẩy lui, nhưng đặc công CS đã phá sập được cây cầu chính trên TL540, phía bắc Đại Lộc. Riêng tình hình tại tỉnh Quãng Tín khá nghiêm trọng. Cuộc tấn công được chờ đợi từ lâu của Bắc quân vào các quận đồi núi Tiên Phước và Hậu Đức cuối cùng đã diễn ra vào ngày 10 tháng Ba. Hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 31, SĐ 2 chính qui BV tấn công vào quận Tiên Phước từ hai hướng, tây và bắc; trong khi đó các đơn vị của Trung Đoàn 1 BV, mở cuộc tấn công từ hướng nam và đông nam lên. Ở Hậu Đức, một tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 31 chính qui BV, được sự yểm trợ của các lực lượng điạ phương, đã tràn ngập Tiểu Đoàn 102 ĐPQ. Thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quãng Tín, cũng bị tấn công bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 11 tháng Ba; đồng thời địch pháo kích dữ dội căn cứ không quân tại Chu Lai. Những thành phần sống sót của hai Tiểu Đoàn 116, 134 ĐPQ bị tràn ngập tại Tiên Phước, mở đường máu rút về phía đông, hướng Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 135 ĐPQ cũng rút khỏi vị trí tại núi Bàn Quan, phía đông quận Tiên Phước, lui về Tam Kỳ, bỏ lại 4 khẩu 105 ly Howitzer. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5, SĐ2BB, được tăng cường bởi Tiểu Đoàn 115 ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công chiếm lại vị trí trên núi Mỹ, cao điểm trọng yếu cuối cùng trên đường 533 giữa Tam Kỳ và Tiên Phước; nhưng sau đó buộc phải rút lui vì hỏa lực dữ dội của pháo binh đich. Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB cho thành lập một lực lượng giải tỏa từ Tam Kỳ tiến ngược lên để bảo vệ cho các đơn vị diện địa và dân chúng di tản về từ Tiên Phước. Tuy nhiên Băc quân đã chiếm các cao điểm, gồm cả Núi Ngọc, một ngọn đồi cao, nằm dọc theo trục lô tiến quân của đoàn quân tiếp ứng. Vào ngày 11 tháng Ba, lực lượng tiếp ứng của Tướng Nhựt gồm hai Tiểu Đoàn 37, 39 BĐQ, và Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 5, SĐ 2 BB đã bị chận đứng ngay gần núi Ngọc. NGÀY 12-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NAM & QUẢNG NGÃI Ngày 12 tháng Ba, Tướng Nhựt cho điều Trung Đoàn 5 thuộc SĐ 2 BB từ Quãng Ngãi vào án ngữ phía tây Tam Kỳ. Ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 5 BB rải quân dọc lộ 533 với các vị trí tiền tiêu sâu vào tận phía đông núi Mỹ. Hai Tiểu Đoàn 115, 135 ĐPQ bố trí phía bắc Trung Đoàn 5 BB, giữa lộ 533 và các đơn vị của lực lượng đặc nhiệm BĐQ đóng dưới núi Ngọc. Tiểu Đoàn 21 BĐQ lập tuyến phòng thủ ngay sau vị trí đóng quân của TĐ 135 ĐPQ. Vào lúc này, Tưóng Nhựt đã dàn 9 tiểu đoàn tai phía tây Tam Kỳ, trong khi đó một lực lượng hùng hậu của Bắc quân đang ào ạt tiến về hướng Tam Kỳ và thị xã này đã nằm trong tầm pháo của địch. NGÀY 12-3-1975 TẠI QUÂN KHU 1 Tại Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐ1, cũng đang lâm vào một tình huống hết sức khó khăn. Ngày 12 tháng Ba. Bộ Tỗng tham Mưu tại Sài gòn ra lịnh cho ông trả SĐ Dù đang bố phòng bảo vệ Đà Nẵng về Sàigòn, đồng thời chuyễn lịnh của TT Thiệu cho QĐ1 phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng. Tướng Trưởng mạnh mẽ chống lại quyết định này của Sài gòn. Ngày 13 tháng Ba, ông đích thân bay về Sài gòn gặp TT Thiệu và Đaị tướng Viên để yêu cầu Sài gòn thu hồi quyết định, nhưng Sài gòn chỉ trì hoãn việc rút SĐ Dù khỏi Vùng I thêm được 4 ngày, và sẽ bắt đầu vào ngày 17 tháng Ba. Hai ngày sau, Tướng Trưởng trong một nổ lực cuối cùng đã thuyết phục được TT Thiệu cho phép Lữ Đoàn 1 Dù, LĐ cuối cùng dự trù tái phối trí để bảo vệ thủ đô Sàigòn và tham gia hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột, nằm lại Đà Nẵng, với điều kiện không được xử dụng đơn vị này trong hành quân tác chiến. Để thay thế cho việc rút quân Dù khỏi Vùng I Chiến Thuật, TT Thiệu ra lệnh cho Bộ TTM không vận Lữ Đoàn 468 TQLC, mới thành lập, với hai Tiểu Đoàn 14, 16 TQLC, và một Liên Đoàn BĐQ ra QK1 để tăng cường cho lực lượng chiến đấu của Quân Đoàn 1. Để trám vào khoãng trống do việc rút SĐ Dù về Sài gòn, Tướng Trưởng quyết định tái phối trí lại lực lượng bố phòng của QĐ1. Ông cho điều SĐ TQLC từ Quảng Trị và vùng bắc Thừa Thiên về bảo vệ quận Phú Lộc và Đà Nẵng. Ngày 13 tháng Ba, LĐ14 BĐQ tiến lên phía bắc để thay thế cho lực lượng TQLC rút đi. Tướng Trưởng chỉ đề lại lữ đoàn 369 TQLC đang nằm tại Phú Lộc, là lữ đoàn TQLC duy nhất còn hoạt đông ngoài vùng phía bắc đèo Hải Vân. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ 2BB, cũng được lịnh rút một trung đoàn đang tham dự cuộc hành quân Quyết Thắng tại quận Nghĩa Hành, Quãng Ngãi về tăng cường bảo vệ tỉnh lỵ Tam Kỳ, Quảng Tín. QĐ 1 được lịnh phải bảo vệ Huế, Đà Nẵng bằng mọi giá, cho dù phải bỏ Quảng Trị, Quảng Tín, và Quảng Ngãi ! NGÀY 13-3-1975 CUỘC HỌP MẬT TẠI SÀI GÒN QUYẾT ĐỊNH SỰ SỐNG CÒN CỦA QUÂN ĐOÀN 1 & QUÂN KHU 1 Trong buổi họp mật ngày 13 tháng Ba tại Sài gòn với TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, và Đại Tướng Viên, Tướng Trưởng được thông báo quyết định về việc di tản chiến thuật của QK2, và được lịnh chuẩn bị cho việc triệt thoái khỏi QK1 của Quân Lực VNCH trong kế hoạch tái phối trí lực lượng cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng Dù sẽ rút hết khỏi QK1 vào ngày 31 tháng Ba để về phòng thủ Sàigòn, và LĐ 468 TQLC sẽ được TTM tăng cường cho việc bảo vệ Đà Nẵng vì vị trí chiến lược tối quan trọng của thành phố này cho dù phải hy sinh những tỉnh còn lại của QK1 kể cả cố đô Huế. Tình hình chiến sự không được mấy khả quan cho Tướng Trưởng từ sau buổi họp mật tại dinh Độc Lập. Quân Bắc Việt đã mở những cuộc tấn công dữ dội,tràn ngập vị trí của hai tiểu đoàn ĐPQ ở mạn sưòn phiá tây tuyến phòng thủ tại sông Mỹ Chánh, Quãng Trị. Lui sâu về phiá nam, tại hành lang Sông Bồ, Tiểu Đoàn 4 và 5 TQLC đẩy lui những đợt xung phong ác liệt của Bắc quân vào khu vực trắch nhiệm của LĐ 147 TQLC. Tại vùng trách nhiệm của SĐ1BB, hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, bị đánh bật khỏi căn cứ hỏa lực Bastogne, nhưng đã chiếm lại được ngay ngày hôm sau. Giao tranh dữ dội đã diễn ra tại tây nam Tam Kỳ. Quân BV tràn ngập vị trí phòng thủ của các đơn vị ĐPQ tại đây, và chiến xa BV đã xuất hiện ở phía nam quận Tiên Phước. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5 BB, Tiểu Đoàn 37 BĐQ đã đánh những trận sáp lá cà đẫm máu với quân BV, và có nguy cơ bi tràn ngập. NGÀY 14-3-1975 TẠI BỘ TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 1 Ngày 14 tháng Ba, Tướng Trưởng họp với Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QK1, chỉ huy các đơn vị trực thuộc QĐ tại Quảng Trị và Thừa Thiên, cùng Tướng Lân, Tư Lệnh SĐ TQLC để phát họa kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng. Theo đó, ông sẽ đưa toàn bộ lực lượng chiến đấu của QĐ1 về Quãng Nam để bảo vệ Đà Nẵng với các SĐ1, 3BB, SĐ TQLC nằm án ngữ tuyến đầu, và SĐ 2BB làm lực lượng trừ bị. Nhưng kế hoạch này phải được tiến hành từng giai đoạn với các sư đoàn từ Quảng Trị và Thừa Thiên lui binh về Đà Nẵng, và vùng lãnh thổ phía nam quân khu sẽ được rút bỏ. Tướng Trưởng ra lịnh di tản lập tức tất cả các đơn vị chiến đấu tại hai quận miền núi Sơn Hà, Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi, kể cả hai Tiểu đoàn 68, 69 BĐQ đang đóng tại đây, cùng toàn bộ cư dân nào muốn di tản theo. NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 Ngày 15 tháng Ba, LĐ14 BĐQ chuẩn bị nhận vùng trách nhiệm bàn giao từ LĐ 369 TQLC tại Quãng Trị. Trong lúc một lữ đoàn TQLC vẫn còn nằm lại vùng thung lũng Sông Bồ để bảo vệ Huế, Lữ Đoàn 369 TQLC sẽ được điều động về quận Đại Lộc, Quảng Nam, thay thế Lữ Đoàn 3 Dù di chuyễn về Sàigòn. Tướng Trưởng và Tướng Thi dự trù một cuộc di tản khỗng lồ của dân chúng Quảng Trị khi lực lượng TQLC rút đi, nên hai ông đã chỉ thị Bộ Tham Mưu Quân Đoàn chuẫn bị mọi phương án cần thiết để giúp đỡ quân chúng. Đồng thời, Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ2 BB giữ Trung Đoàn 6BB lại, án ngữ phía nam quận Nghĩa Hành để bảo vệ thị xã Quảng Ngãi. Vào ngày 14 và 15 tháng Ba, lực lượng Bắc quân mỡ những đợt tấn công dữ dội đều khắp tỉnh Quảng Ngãi, tràn ngập các tiền đồn quanh vòng đai thị xã. Lực lượng diện địa Tiểu Khu Quảng Ngãi đã suy yếu hẳn, sau khi các đơn vị chính qui của Trung Đoàn 5 BB được điều động qua bảo vệ thị xã Tam Kỳ, Quảng Tín, và phần lớn Trung Đoàn 4 BB đưọc đưa về làm lực lượng trừ bị cho Sư Đoàn 2BB tại Chu Lai. Tiểu Đoàn 70 BĐQ và Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 4BB, là hai tiểu đoàn chính qui duy nhứt còn nằm án ngữ phía tây quận Mộ Đức, cùng ba tiểu đoàn ĐPQ đóng quân giữa khu vực quận Mộ Đức và quận Đúc Phỗ, giáp ranh tỉnh Bình Định. Tại khu vực phía bắc, đêm 15 rạng 16 tháng Ba, quân BV tràn ngập vị trí của lực lượng diện điạ bảo vệ trục giao thông trên QL1, và cắt đứt đoạn đường từ Bình Sơn về Quảng Tín. NGÀY 15-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG TÍN – QUẢNG TRỊ - QUÂN KHU 1 Tại Quảng Tín, quân BV tấn công khu vực phía bắc Tam Kỳ, sát gần QL1, đánh tan một đơn vị ĐPQ ở phía bắc thị xã vào đêm 15 tháng Ba. Đồng thời, Bắc quân mỡ những đợt tấn công ác liệt vào vị trí bố phòng của Trung Đoàn 5 BB và LĐ 12 BĐQ tại khu vực phía tây Tam Kỳ, đánh bật lực lượng phòng thủ của ta ỡ đây, và tràn ngập Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Trong lúc sự sụp đỗ gần như không thể tránh khỏi ở hai tỉnh phía nam Quân Khu, việc hoán chuyễn các đơn vị tại Quảng Trị vẫn tiến hành như kế hoạch dự trù. Liên Đoàn 14 BĐQ đặt bộ chỉ huy ngay quận Hải Lăng, đã cho ba Tiểu Đoàn 77, 78 và 79 BĐQ nhận lãnh vùng trách nhiệm bàn giao từ các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC, đang chuẩn bị di chuyễn xuôi nam để thay thế cho SĐ Dù rút khỏi Quảng Nam. Khi các lữ đoàn TQLC rút đi, tinh thần binh sĩ thuộc lực lượng điạ phương cũng như của dân chúng Quảng Trị sụp đỗ hoàn toàn, mặc dầu những đơn vị Bắc quân xâm nhập vào vùng bình nguyên Quảng Trị, cho tới ngày 16 thang Ba, đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Cung từ của một hồi chánh viên thuộc Trung Đoàn 101, SĐ 325 chính qui BV, tại Phú Lộc cho biết toàn bộ SĐ 325 Bắc quân đã có mặt tại vùng phía nam Thừa Thiên, được yểm trợ bởi các đơn vị sơn pháo 85mm, và các đại pháo tầm xa 130 ly thuộc Trung Đoàn 84 Pháo Binh BV. Tới ngày 15 tháng Ba, hai Trung Đoàn 18 và 101 bộ chiến BV đã nằm trong tầm tấn kich Phú Lộc. CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 3 TỪ NGÀY 11-3-1975 ĐẾN NGÀY 15-3-1975 NGÀY 11-3 ĐẾN NGÀY 15-3-1975: TỬ CHIẾN TẠI DẦU TIẾNG tháng-Ba, năm-một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm!!!! Cuộc tiến công năm 1975 của Cộng Sản BV tại miền Nam Việt Nam được phối hợp đồng bộ trên toàn quốc. Song song với những đợt tấn công tại QK 1 và QK 2, Bắc quân mỡ đầu chiến dịch tỗng công kích tại QK3 bằng cuộc tấn công vào Trị Tâm, Quận lỵ Quận Dầu Tiếng, nằm về phía tây nam đồn điền cao su Michelin. Phía tây Trị Tâm, bên kia sông Sàigòn, Tỉnh Lộ 239 đi xuyên qua đồn điền Bến Củi, trước khi nhập vào LTL 26, chạy dài về phía tây bắc vào thị xã Tây Ninh và xuôi huớng đông nam tới tận một cứ điểm tiền đồn của quân lực miền Nam tại Khiêm Hạnh. Tất cả mọi giao thông đi lại đều phải ngang qua Liên Tỉnh Lộ 26 và Lộ 239, do các tiền đồn của lực lượng diện địa kiểm soát. Quận lỵ Trị Tâm được phòng thủ bởi 3 tiểu đoàn Điạ Phương Quân và 9 trung đội Nghĩa Quân. Bộ Tư Lệnh QĐ3/QK3 dự đoán Bắc quân sẽ tấn công vào Trị Tâm do tin tức tình báo thu lượm được về việc các đơn vị thuộc SĐ 9 chính qui BV đang tập trung tại phía bắc thị trấn này, nên ngày 10 tháng Ba, đã tăng cường cho lực lượng phòng thũ tại đây thêm hai đại đội ĐPQ. NGÀY 11-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG TÂY NINH – QK 3 Cuộc tấn công vào Trị Tâm khởi sự lúc 6 giờ sáng ngày 11 tháng Ba với những đợt dập pháo dữ dội và các đợt xung phong ác liệt của quân bộ chiến tùng thiết địch vào vị trí quân ta. Trước đó, Bắc quân đã tấn công cắt đứt mọi đường liên lạc, tiếp vận của quân đồn trú; vào lúc 3:30 sáng bộ binh và chiến xa T54 địch tràn ngập môt tiền đồn của đơn vị ĐPQ trên TL239, khoãng 10 km phía tây Trị Tâm. Bộ Chỉ Huy TK Tây Ninh lập tức điều động 2 tiểu đoàn ĐPQ tiến về phía đông, dọc theo lộ 239 về hướng Bến Củi, nhưng lực lượng này đã bị chận đứng bởi hỏa lực dữ dội của địch khi gần đến tiền đồn ĐPQ bị địch chiếm giữ. Chiến xa địch đã xuất hiện ở khu vực đồn điền Bến Củi, yểm trợ cho lực lượng bộ binh địch, nhưng các đơn vị diện địa bảo vệ quận lỵ Trị Tâm, vẫn giữ vững vị trí, đẩy lui những cuộc xung phong ác liệt của Cộng quân, bắn cháy hai chiến xa T54 ngay trong khu vực thị xã. Mũi tấn công chính của Bắc quân vào Trị Tâm phát xuất từ hướng đông nên lực lượng phòng thủ tại đây đã cho nổ sập cây cầu trên lộ 239, phía đông thị trấn để ngăn chặn chiến xa địch. Giao tranh tiếp diễn dữ dội suốt đêm; cho đến hừng sáng 12 tháng Ba, quân trú phòng vẫn còn giữ vững Trị Tâm. Nhưng trong ngày 12 tháng Ba, lực lượng Bắc quân thuộc hai Trung Đoàn 95 C và 272 BV, được yểm trợ bởi một chi đoàn T54 cùng một trung đoàn pháo, mỡ những đợt tấn công liên tục, cuối cùng đã tràn ngập tuyến phòng thủ của quân diện địa trú phòng tại đây. Bộ Tư Lệnh QĐ3 lập tức tăng viện cho chiến trường Trị Tâm một lực lượng đặc nhiệm. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 318 gồm các đơn vị chiến xa và thiết quân vận thuộc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Tướng Trần Quang Khôi, với Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân tùng thiết, đã bị chặn đứng bởi hỏa lực B40, 41 và pháo tầm xa 130 ly của địch khi tiến quân gần đến khu vực Trị Tâm. Với Trị Tâm trong tay, Bắc quân đã kiễm soát được hành lang sông Sàigòn chạy dài từ thượng nguồn sông, gần căn cứ Tống Lệ Chân, cho tới tận tiền đồn của quân lực miền Nam tại Rạch Bắp trong vùng Tam giác Sắt. Khiêm Hạnh, một tiền cứ của QLVNCH, nằm gần một giang cảng trọng yếu, và khu giao lộ tại Gò Dầu Hạ, với nhiệm vụ chính là ngặn chặn các đơn vị quân BV tiếp cận QL22 và QL1, đã nằm trong tầm pháo địch. Trị Tâm nay trở thành mục tiêu chính trong chiến dịch nhằm cô lập Tây Ninh với thủ đô Sàigòn. Trước đêm tấn công vào Trị Tâm, ba tiểu đoàn chính qui BV D14, 15, 18, với sự yểm trợ của Trung Đoàn 101, cùng Sư Đoàn 75 Pháo Binh BV, đã cắt đứt QL 22 giữa Gò Dầu Hạ và thị xã Tây Ninh. SĐ 75 Pháo Binh BV gồm 5 Trung Đoàn pháo hoạt động tại Tây Ninh trong chiến dịch này. Riêng SĐ 377 Phòng Không địch có khoãng 15 tiểu đoàn pháo cao xạ, mà một số các đơn vị của SĐ này đã yểm trợ trực tiếp cho bộ binh xung kích địch. Trong khi các tiểu đoàn quân chính qui BV tại Tây Ninh cắt đứt QL22, phía bắc Gò Dầu Hạ, lực lượng thuộc Trung Đoàn 6 và 174, SĐ 5 Bắc quân, từ Kampuchia tràn qua biên giới, tấn công căn cứ Bến Cầu, phía tây bắc Gò Dầu Hạ, nằm giữa đường biên giới Viêt-Miên và sông Vàm Cỏ Đông. Những đợt tấn công đầu tiên của địch bị đẩy lui, với 2 chiến xa PT-76 bị bắn cháy. NGÀY 12-3-1975 CHIẾN TRƯỜNG GÒ DẦU – TÂY NINH – QK 3 Ngày 12 tháng Ba, một lực lượng lớn chiến xa địch bị phát gìác tại phía tây Gò Dầu Hạ; các chiến đấu cơ của ta được gọi tới oanh kích phá hủy 8 tank địch và làm hư hại 9 chiếc khác. Tuy nhiên, ngày 14 tháng Ba, các đơn vị diện địa phòng thủ Bến Cầu đã rút lui trước áp lực nặng của địch quân. Bến Cầu chỉ là một trong 8 tiền đồn nằm về phía tây sông Vàm Cỏ Đông bi địch tấn kích nặng nề vào ngày 12 tháng Ba. Hầu hết các cuộc tấn công vào các tiền đồn đều bị đẩy lui, nhưng đến ngày 14 tháng Ba, Bắc quân đã chiếm trọn các cứ điểm này. NGÀY 13-3-1975 CHIẾN TRƯỜNG KHIÊM HẠNH – QK 3 Tướng Toàn, Tư Lệnh QĐ3 cho tăng cường lực lượng phòng thủ Khiêm Hạnh và dọc theo QL1 và QL22. Ông cho điều Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ với ba thiết đoàn cơ hữu, cùng hai Tiểu Đoàn 64, 92 Biệt Động Quân, và Trung Đoàn 48, SĐ18BB, đuợc tăng cường bởi các Thiết Vận Xa thuộc lực lượng trừ bị Quân Đoàn đóng tại Long Bình, Biên Hòa tới Khiêm Hạnh.và Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 7, SĐ 5 BB tại Lai Khê cũng được tăng phái cho chiến trường Khiêm Hạnh. Trong lúc một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 48 BB tấn công về phía tây Gò Dầu Hạ để khai thông đoạn QL 1 dẫn từ Gò Dầu tới vùng biên giới Việt-Miên, Trung Đoàn 46 BB tấn công về phía bắc dọc theo đường 22 để trợ lực các đơn vị diện địa khai thông đoạn đường dẫn về Tây Ninh đã gặp sự kháng cự và hoả lực pháo dữ dội của địch. Pháo phòng không địch dày đặc đến nổi trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn không thể nào đáp xuống Gò Dầu Hạ trong ngày 13 tháng Ba được. QL 22, đoạn giữa Gò Dầu Hạ và Tây Ninh vẫn bị địch quân phong toả. Quốc Lộ 4 nối liền thủ đô Sàigòn và Vùng 4 Chiến Thuật, con đuờng huyết mạch trọng yếu dẫn về vùng châu thổ sông Cửu Long cũng bị đe doạ bởi các cuộc đụng độ đang lan rộng khắp QK3. QL 4 đi qua một vùng dân cư đông đúc với các ruộng lúa màu mỡ, bạt ngàn và các vườn thơm khóm của tỉnh Long An, nằm giữa ranh giới hai Vùng 3 và 4 Chiến Thuật. Lực lượng diện địa của TK Long An là một trong những lực lượng địa phương thiên chiến nhất trên toàn quốc, đã chứng tỏ thực lực của mình qua việc đè bẹp các tiểu đoàn chủ lực địa phương của địch tại đây trong những trận giao tranh khốc liệt diễn ra vào đầu tháng Ba với những tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Nhận thấy tầm mức quan trọng của việc bảo vệ giao thông trên QL4, Bộ TTM đã tăng phái hai Tiểu Đoàn 14 và 16 thuộc LĐ 468 TQLC mới thành lập để tăng cường phòng thủ khu vực Long An. Các đơn vị TQLC và ĐPQ Long An đã mỡ những cuộc hành quân phối hợp chặt chẽ, duy trì an ninh cho tỉnh Long An trong suốt tháng Ba, 1975. Trong khi Tướng Toàn tung hơn phân nữa lực lượng của QĐ3 để bảo vệ cạnh sườn phía tây, Bắc quân mỡ những đợt tấn công vào khu vực phía Đông và vùng trung tâm QK3. Các lực lượng còn lại của quân lực miền Nam hầu như không đủ để đối phó với những cuộc công kích càng lúc càng lan rộng của Cộng quân. Quân miền Nam được lịnh bỏ các cứ điểm tại An Lộc và Chơn Thành vì không còn giá trị về mặt chính trị và quân sự chiến lựơc, để tăng cường phòng vệ các khu vực đang bị áp lực nặng nề của địch. Lúc này lực lượng địch đã tăng cường thêm một SĐ, SĐ341 tỗng trừ bị, mới xâm nhập từ miền Bắc vào. Để bảo toàn lực lượng cho các đơn vị BĐQ và diện địa tại An Lộc và Chơn Thành Tướng Toàn đã cho lịnh di tản lực lượng này khỏi các cứ điểm tại hai khu vực trên cùng 12 khẩu pháo 105 ly Howiter. Riêng 5 trọng pháo 155 mm được phá hủy tại chỗ vì Không Quân không có trực thăng loại nặng để bốc những loại pháo này. Nhìn chung, tình hình tại vùng trung tâm QK3 vẫn tương đối yên tĩnh, mặc dầu có sự xuất hiện của SĐ 341 và Trung Đoàn 273 BV mới xâm nhập vào miền Nam. Áp lực nặng nề nhât của địch tại Vùng 3 Chiến Thuật tập trung ở cạnh sườn phía đông. http://motgocpho.com/forums/showthread.php/23496-TH%C3%81NG-T%C6%AF-%C4%90EN NGÀY THỨ 7 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC NGÀY 16.3.1975: QUÂN ĐOÀN 2 TRIỆT THOÁI Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần. Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái. (Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) . Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái. Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng. Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam của Quốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xã Pleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Hòa. * Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2. Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này. Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là "quá sức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận. Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc qua sông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì vào những năm trước 1973, lực lượng Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc. Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó". Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy". Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972. Theo lời Đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì. Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: "Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất. POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:22 PM NGÀY TA BỎ NÚI HỒI KÝ CỦA THIẾU TÁ VƯƠNG MỘNG LONG – TĐT – TĐ 82 BĐQ Trích trong Tập san ĐA HIỆU. Thiếu Tá TĐ Trưởng TĐ 82 Biệt Động Quân VƯƠNG MỘNG LONG Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới. Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn. Chương 1. Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Đức, Quảng-Đức lên thăm Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Đêm đó hai thày trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya. Tôi được Đại Tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Đại Úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng Sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại qui mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hãm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SĐ 320 chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Đơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Đêm đó tôi có nói với Đại Tá Tất rằng, -”Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về phòng thủ Ban-Mê-Thuột, tôi sẽ có dịp ‘cưa’ với nó một lần nữa. Đại Tá yên chí! Nếu tôi chưa chết thì Ban-Mê-Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Đại Tá như vậy!” Tôi thực lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống trong thành phố này. Ông Tất cười cười trả lời, -”Cậu đừng lo! Ông Phú (Tư Lệnh QĐ2) đã giao cho ông Tường (Tư Lệnh SĐ23/BB) lo vụ này rồi!” Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư đoàn 23/ BB sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban-Mê-Thuột và Pleiku. Tiếp đó Đại Tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa TĐ82/BĐQ của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh-Sát, Viễn-Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phát khỏi Liên đoàn 24 BĐQ để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum. Hôm sau, trước khi từ giã Đại Tá Tất, tôi có đi quanh một vòng thăm Trung Tá Lê Tất Biên, liên đoàn trưởng LĐ 23 BĐQ và vài người bạn đang tham gia phòng thủ vùng Bắc-Kontum. Thiếu Tá Thi, liên đoàn phó LĐ 23 BĐQ hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của liên đoàn. Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam Biên Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ. Trên đường về Quảng-Đức, tôi ghé Ban-Mê-Thuột thăm hậu cứ tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm. Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già Dương Đức Mai (cựu Trung Tá liên đoàn trưởng LĐ22 BĐQ, mới giải ngũ) xuất hiện giữa phố, dơ tay vẫy, -”Chào người hùng Plei-Me. Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!” Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình. Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở BCH BĐQ QK2. Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác ở kế hàng rào sân vận động Ban-Mê-Thuột. Vào tới sân, Trung Tá Dương Đức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi, -”Theo ý cậu, tụi VC có dám đánh Ban-Mê-Thuột hay không?” Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ, -”Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban-Mê-Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!” -”Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?” Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm. -”Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.” Tôi cầm tay bác, trấn an bác, Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm. Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường và Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi (Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh/SĐ 23 BB & Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac). Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng. Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung Tá của Sư đoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được một năm. Ông cụ và bác Dương Đức Mai là bạn khá thân. Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay từ giã người cựu liên đoàn trưởng Biệt Động Quân Dương Đức Mai, rồi lên đường. Vài ngày sau, ở Kiến Đức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng Sĩ của Trung đoàn 48/SĐ 320/ Điện-Biên đã khai, thì giữa tháng Ba tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Tôi lại nghe tin A2 phổ biến từ Phòng Nhì, Quân đoàn 2 thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên phòng Bản-Don. Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi và gia đình binh sĩ Tiểu đoàn 82 BĐQ đều ở Ban- Mê-Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Động Quân Quân- khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu đoàn 82 BĐQ được rời Kiến-Đức, Quảng-Đức để về phòng thủ Ban-Mê-Thuột. Tôi biết rất rõ về Trung đoàn 48 SĐ 320 CSBV, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê Thuột. Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đã hai lần chạm trán với trung đoàn CSBV này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư, 1974) và ở căn cứ biên phòng Plei-Me (tháng 7 & 8, năm 1974). Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua bộ chỉ huy Liên đoàn 24 BĐQ và qua bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn trưởng LĐ 24 BĐQ rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi. Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin. Sáng ngày 9/3/75 đài tiếp vận “Tam Quái 82″ của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Đức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào chi khu Đức-Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh. Xế chiều, tôi nghe anh Binh nhì trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối, -”Thiếu Tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu Tá ơi!” Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa. Tôi thường gọi mấy anh Biệt Động Quân của Tiểu đoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam Quái”. Chỉ vì toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin. Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Động Quân lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Động Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào. Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua BCH BĐQ QLVNCH, TTHLBĐQ Dục Mỹ, TTHL Lam Sơn, Đơn Vị 2 Quản Trị Địa Phương, Quân Lao, kể cả Lao Công Phục Hồi. Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, sì-ke tôi nhận tuốt. Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung Tá Bùi văn Sâm, -”Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch.Chỉ cần người lính chịu bóp cò là được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!” Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác. Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt. Lính thong manh, không canh gác được thì cho trực truyền tin, nấu cơm. Lính điếc thì cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Điếc đâu cần bịt lỗ tai! Sì-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Hoàng, Đại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần. Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh! Theo lời dạy của cổ nhân,”Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau. Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu đoàn 82 BĐQ) là thế đấy! Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu. Sáng 10/3/75, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch pháo kích vào tiền cứ Liên đoàn 24 BĐQ ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Don. Thiếu Tá Hồng, chỉ huy tiền cứ đã bị thương. Sau đó là tin chiến xa VC bắt đầu tấn công vào trung tâm thị xã. Tin tức đứt đoạn vì không có đài tiếp vận và tiền cứ liên đoàn đã mất liên lạc. Đêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì hậu cứ cũng như gia đình binh sĩ của tiểu đoàn tôi đều ở Ban Mê Thuột. Ngày 11/3/75 tôi nghe được tiếng Đại Tá Phạm duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn Tướng Lê trung Tường. Đại Tá Tất buồn rầu trả lời, -”Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không.” Trung Tá Lê quý Dậu là liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động Quân. Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung Tá Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ. Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng, -”Trường-An cho phương tiện bốc tôi về Ban-Mê-Thuột đi! Trường-An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!” Trường-An là danh hiệu truyền tin của Đại Tá Phạm duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân khu 2. Lúc đó tôi nghẹn lời, bên tôi người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Đăng mắt cũng đỏ hoe. Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, “Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phú) để bốc Thái-Sơn về.” Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân, thời 1967-69. Được lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Đại đội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng bắc về. Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu đoàn 63 Biệt động Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến-Đức thay cho Đại đội 1/82 BĐQ của Thiếu úy Nguyễn văn Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi. Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng. Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào. Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng. Suốt ngày 12/3/75, tôi không nghe tiếng Đại Tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột. Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh. Tôi mô tả con đường Hàm-Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu hậu cứ Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân. Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt. Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài tình ca buồn. Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột tan trường. Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta. Mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa. Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay. Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày. Bên tôi là những cây hoa móng tay. Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu. Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó. Sau Noẽl 1974, tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay. Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Đầu óc tôi phừng phừng. Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can. Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng. Tôi oán trách ông Trời. Tôi oán trách Đại Tá Tất. Tôi oán trách Tướng Tường. Tôi oán trách Trung Tá Dậu. Tôi tự oán trách tôi. Chuẩn úy Lê văn Phước (ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt, -”Bình tĩnh lại Thiếu Tá! Đài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Đánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hi vọng chị và các cháu không hề hấn gì.” Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời. Xa lắm, nơi chân mây hướng đông bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi. Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức gì của Ban-Mê-Thuột. Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến-Đức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ. Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường. Sáng sớm 16/3/75, trung đội tuần đường của Đại đội 1/TĐ 82 BĐQ vừa tới đầu khúc cua chữ “S” cách Kiến-Đức hơn 3 cây số thì đại liên 12,7 ly choang choác nổ dòn. Ông Thượng Sĩ Y Ngon Near bị phòng không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược về hướng Kiến- Đức. Từ giờ này đoạn tỉnh lộ Kiến-Đức, Nhơn-Cơ bị cắt. Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị bỏ rơi nằm chình ình giữa lộ. Ngay lúc đó pháo địch từ hướng tây bắc nã khoảng gần 100 viên đại bác 105 ly trên đồi Kiến-Đức. Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân tỵ nạn để hỏi han họ lý do tại sao họ không về Nhơn-Cơ chiều hôm trước. Bây giờ thì rõ ràng rồi: địch chặn đường! Lúc này Thiếu Tá Hoàng đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 BĐQ báo cáo rằng chiến xa địch đang từ hướng Phước Long tiến về Bù Binh, nơi ông đang đóng quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi. Tối đó Tiểu đoàn 81/BĐQ được tôi chia cho phần nhiệm vụ phòng thủ mặt đông Ngã Ba Kiến-Đức, án ngữ hướng về Nhơn-Cơ. Đêm 16/3/75 Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu Tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của Cộng Quân để về phòng thủ quận Nhơn-Cơ. Suốt ngày 17/3/75, đạn 12,7 ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng Sĩ Ngon. Tiểu đoàn 81 BĐQ không tiến được bước nào. Đêm xuống, con cáo già khóa 2 Đồng-Đế, Hoàng đình Mẫn cho đơn vị chui lòn trong rừng, đánh một vòng rộng về hướng nam, xa hẳn vùng Việt-Cộng đóng chốt để tìm đường vào phi trường Nhơn-Cơ. Ông Mẫn đã khôn khéo tránh né đụng độ, và đã hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu Tá Khánh, quận trưởng Kiến-Đức ở căn cứ Nhơn-Cơ buổi sáng ngày hôm sau. Mờ sáng 18/3/75, súng cối 82 ly của địch từ hướng tây lại tái pháo kích vào BCH TĐ 82 BĐQ. Từ tuần lễ nay, đồi Bù Row bỏ ngỏ. Địch đã quay lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó, đạn đại bác 105 ly từ đằng xa phía bắc, nã không ngừng trên nửa ngọn đồi hướng bắc, nơi những ụ súng pháo binh đã bỏ hoang từ khi pháo đội 105 ly của SĐ 23 BB rút đi. Tôi phải bỏ cái hầm chỉ huy đã sập, rồi tụt xuống ngã ba Quốc lộ 14. Tôi dùng một cái hầm nhỏ của Đại đội 1/82 bên đường làm hầm chỉ huy. Tôi không cho lệnh phản pháo tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng tây do Đại đội 2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82 ly và nơi phụt khói 75 ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo binh Biên-Phòng đang ở với tôi và Pháo binh Diện Địa Nhơn Cơ mười phút để lột vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên bốn vị trí tôi đã chấm. Đại đội 2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh hai khẩu cối 82 ly đặt gần, ngay sau lưng một ngọn đồi trọc hướng tây. Đại đội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng. Sau Tết Âm Lịch vài ngày, Trung úy Danh (k24 VB) bị sốt rét đi nằm nhà thương nên Đại đội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu. Trung úy Đăng xin tôi cho anh chỉ huy Đại đội 2/82 trong lần ra quân này.Tôi ái ngại, -”Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?” -”Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi. Em còn gì đâu? Thiếu Tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện gia đình.” Đăng nghẹn ngào, -”Ừ! Cậu đã muốn thế thì tôi cũng okay! Thôi đi đi!” Tôi tần ngần, Tôi đứng trên đồi nhìn theo bóng dáng cao gầy của Đăng đang lẫn vào rặng cây xanh. Hồi 1969-70, khi tôi còn làm Ban 2 và Trinh Sát Liên đoàn 2 BĐQ thì Chuẩn úy Đăng là trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 22 BĐQ dưới quyền một anh bạn cùng khóa của tôi. Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ82 BĐQ thì Đăng đang là Trung úy đại đội trưởng của Tiểu đoàn 22 BĐQ. Khi đó anh có gặp và xin tôi nhận anh về làm việc với tôi. Tôi từ chối vì đơn vị tôi đã đủ sĩ quan đại đội trưởng. Sau đó Đăng bị thương; anh bị đứt một khúc ruột, chờ ra hội đồng y khoa để chuyển sang bộ binh, thương binh loại 2 yểm trợ. Đăng lại gặp tôi và tình nguyện làm sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh còn được tiếp tục ở lại phục vụ binh chủng Biệt Động Quân. Lần này tôi chấp thuận. Đăng xin xuất viện về làm việc dưới quyền tôi đã được gần một năm. Khi cánh quân của Đại đội 2/82 báo cáo còn cách mục tiêu gần hai trăm mét thì tôi cho lệnh pháo binh khai hỏa. Đạn đi ! Mỗi mục tiêu một trăm quả hỗn tạp. Và chỉ năm phút sau khi đạn rơi, tiếng M16 nổ rộ như pháo ran chêm vào là những tiếng M 79. Khói súng và bụi che mờ một nửa ngọn đồi. Thoáng chốc, hai khẩu cối 82 ly đã đổi chủ, từ trung đoàn E 271/T10 của QK6/CSBV sang Đại đội 2/TĐ 82 BĐQ. Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền trong thung lũng. Tôi hỏi Đăng, -”Ê! Delta! ngoài tiếng AK còn tiếng đại liên. Đại liên của cậu hay của địch vậy?” -”Của tụi nó đó Thái Sơn ! Em đâu có đem theo M 60 !” -”Delta đây Thái Sơn ! Cuốn gói ! Đừng về đường cũ ! Hãy theo hướng ba ngàn hai trăm ! Tôi với thằng An Bình đón cậu trên đường. Tôi lập lại ! Ba ngàn hai trăm ! Nghe rõ chưa ?” Tôi cho lệnh Đại đội 2/82 rút lui, -”Ba ngàn hai! Nhận 5 !” Nếu trở về đường cũ thì Đại đội 2/82 sẽ phải qua một cái thung lũng. Và hai khẩu đại liên địch không để cho họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau. Đại liên địch cứ nổ dòn, đạn lửa đan chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng bắn tiều chứ chúng chẳng rõ BĐQ đang ở chỗ nào. Tôi chấm vị trí hai khẩu đại liên địch và giao cho Đại Úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng Sĩ Năng, trưởng khẩu 81 ly sẽ rót cối vào đầu chúng! Từ hướng bắc, đạn đại bác 105 ly địch lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Với đại bác 105 ly thì vô phương! 105 ly của khối Cộng đã bắn dài hơn 105 ly của ta, mà súng của ta lại đặt sau hậu quân. Hai khẩu 155 ly của Sư đoàn 23 Bộ Binh tăng cường cho tôi đã bị tiểu khu đòi lại từ hai tuần lễ trước. Hiện thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng. Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái, chưa hề hấn gì ! Nửa giờ sau tôi và An Bình (Trung úy Trần văn Phước, ĐĐT/ĐĐ3/82) cùng một trung đội thuộc Đại đội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Đăng. Đại đội 2 đã hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta là một trong những người đi đoạn hậu của Đại đội 2/82 . Tôi thấy Trung úy Đăng vừa thở, vừa cười hì hì khi leo lên mặt Quốc lộ 14. Vừa gặp mặt tôi Đăng đã oang oang, -”Có ngay hai khẩu 82 cho Thái Sơn đây !” Sau lưng Trung úy Đăng là hai anh lính Thượng đang hì hục vác 2 cái nòng 82 ly. Hai người lính Jarai hớn hở khoe, -”Cái ông Thiếu Tá ơi ! Tụi Việt Cộng này đánh dở lắm ! Chưa chi đã bỏ súng mà chạy ! Dở hơn mấy thằng đánh với mình ở Trà-Ku nhiều !” -”Mấy hôm nữa tụi mình lại về Trà-Ku. Mấy chú có nhớ Trà-Ku không ?” Tôi cười, Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà-Ku. Tôi ở Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết nhiều tiếng thường dùng của họ. Khi nhắc tới Trà-Ku, không ai cố ý khơi chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thày trò chúng tôi cùng ngước nhìn nhau, rồi cùng nhìn về phương bắc, rưng rưng… Hướng Nhơn-Cơ có chạm súng, vì ở cuối gió nên tôi nghe rõ tiếng đạn đại liên và đạn cối nổ đì đùng. Trên máy truyền tin có giọng Thiếu Tá Khánh, chi khu trưởng Nhơn-Cơ và Thiếu Tá Mẫn BĐQ gọi nhau. Thiếu Tá Mẫn báo cáo với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu xưởng cưa cách quận Nhơn-Cơ hai trăm mét về hướng đông. Hai khẩu 105 ly Biên phòng của tôi phải trở ngược nòng về hướng đông, yểm trợ cho Thiếu Tá Mẫn suốt đêm. Sáng hôm sau có nhiều phi tuần A 37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn-Cơ. Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng cho tới trưa 19 tháng Ba. Trong khi đó thì tình hình vùng tôi chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng nam Kiến-Đức, có cả tiếng động cơ. Những toán chống tank đã được gởi đi nằm phục trong rừng. Ở đây, tôi không ngán tank VC một chút nào, vì tôi đã trấn giữ cái đồn này gần nửa năm. Tôi đã nghiên cứu, thám sát và nắm chắc địa hình vùng này. Chỉ có hai hướng xe tank có thể áp sát đồn Kiến- Đức. Cả hai ngả đều có bãi mìn chống tank của tôi. Mỗi bãi chôn bốn mươi quả mìn đĩa. Mỗi quả mìn đĩa được kèm theo một đầu đạn 105 ly. Quan trọng nhất là việc bảo vệ bãi mìn. Bãi mìn không người bảo vệ coi như vứt đi, vô dụng. Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm 1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng đông căn cứ Plei Djereng tôi đã thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên bãi mìn của Quân đoàn 2 đặt gần Plei De Chi hướng tây Pleiku mà chẳng nghe mìn nổ. Công Binh Quân đoàn 2 đã bỏ công sức hàng tháng trời để thiết lập bãi mìn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ thí, không người canh gác. Công binh VC chỉ cần hai hàng bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua. Ở Kiến-Đức, mỗi bãi mìn chống tank của tôi, khi hữu sự được bảo vệ bằng một đại đội BĐQ. Đại đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh đi dò, dọn đường cho tank. Sáng 20/3/75, Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt cái chốt của VC trên tỉnh lộ 344 để link-up với một đại đội thuộc TĐ63/BĐQ của Thiếu Tá Trần đình Đàng. Đại đội này đang trấn giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ. Tôi thu Đại đội 4/82 của Thiếu úy Trần văn Thủy từ hướng bắc về hợp lực với đại đội của TĐ63/BĐQ tăng phái để giữ đồn Kiến-Đức. Tôi dặn dò Đại Úy Tiểu đoàn phó về sự quan trọng của hai bãi mìn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải giữ. Vì nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập kích từ đàng sau thì không tài nào trở tay. Đại Úy Hoàn chần chừ một lúc rồi gãi đầu xin tôi cho đi nhổ chốt, -”Thái Sơn cho tôi đi khai thông con đường có được không ?” Quả thực, từ xưa tới nay (từ đại đội tới tiểu đoàn) tôi chưa bao giờ xử dụng người phụ tá của mình làm nỗ lực chính bao giờ. Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống. Đại Úy Ngũ văn Hoàn đã phục vụ dưới quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào. Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ, -”Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn cho tôi đi bứt chốt đi !” Nghe ông nói có lý, tôi gọi hai đại đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ĐĐ3/82) và Trung úy Đăng (ĐĐ2/82) lên dặn dò, chỉ bảo họ đường đi, nước bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong tình huống này. Bộ chỉ huy nhẹ TĐ 82/ BĐQ của Hoàng Long (Đ/úy Hoàn) cùng hai đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ sáng 20 tháng Ba. Trong khi tôi đang theo dõi diễn tiến hành binh của Đại Úy Hoàn thì tổ báo động hướng Bù-Binh báo cáo có tiếng xe tank địch. Để tiện quan sát, tôi lại cùng toán hộ tống leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Trần văn Thủy (ĐĐT/ĐĐ4/82) trấn giữ thay cho Đại đội 2/82 đang đi nhổ chốt. Từ đỉnh đồi tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập cách Kiến-Đức gần hai cây số. Khẩu SKZ 57 ly của tiểu đoàn lúc nào cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đã điều chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt thì tổ chống tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay. Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi thì tiếng 12,7 ly nổ rền hướng Nhơn-Cơ. Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quýt. Tôi nghe Delta và An Bình báo cáo đang chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối bên trái đường lộ. Delta yêu cầu An Bình giữ an ninh bên phải dùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ “S”. Chuẩn úy Đức và trung đội đi đầu của Đại đội 2 đã bị thất lạc. Tôi không nghe tiếng Hoàng Long trên máy. Tôi vào máy hỏi Delta và An Bình sao không nghe Hoàng Long, thì hai anh đều không rõ ông Đại Úy TĐP ở chỗ nào. Tình hình có vẻ nghiêm trọng. Tôi giao cho Thiếu úy Thủy lo vụ chống tank rồi tụt xuống đồi. Chương .2 Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh tới cái nút chặn hướng đông của Đại đội 1/82. Từ đây tôi và toán cận vệ chạy bộ lên chỗ Đại đội 3 và Đại đội 2 đang chạm địch. Quân của Trung úy Phước (ĐĐ3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng đông tây. Còn Trung úy Đăng ở bên trái con đường. Đại liên VC từ hai hướng nam bắc con lộ đang bắn tới tấp vào bên trái dốc chữ “S” nơi đơn vị của Trung úy Đăng bị sa lầy. Đại đội của Đăng đang kẹt trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường. Tôi gọi pháo binh và cối 81 bắn cản trước mặt đại đội của Đăng để đơn vị của anh bò từ từ lên cao, bắt tay với Đại đội 3/82. Khi Đại đội 2 bắt tay được Đại đội 3, tôi ra lệnh cho hai đại đội quây tròn trên đỉnh đồi bên phải tỉnh lộ. Tôi xử dụng pháo từ Kiến-Đức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích. Nhưng tiếng súng của địch đã êm. Như thế là chúng không chủ tâm giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với TĐ 82/ BĐQ. Chỉ nhìn thoáng qua trận địa, tôi đã hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ “S” rồi chúng dùng hai khẩu 12,7 ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh địch bao vây chia cắt hậu quân của ta. Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh một đoàn quân đang khai lộ. Trung úy Đăng báo cáo với tôi rằng khi đơn vị anh còn cách cái xác của Thượng Sĩ Ngon chừng một trăm thước thì đại liên địch khai hoả. Đại Úy TĐP hăng hái xông lên với trung đội đi đầu của Đại đội 2/82. Ông Hoàn nói với Đăng, -”Kỳ này mình lấy cây 12,7 ly về cho Thái Sơn giải buồn !” Nhưng chỉ năm phút sau, từ con suối bên trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt đơn vị anh thành ba phần. Trung đội đi đầu của Chuẩn úy Đức bị mất liên lạc. Tình trạng của Đại Úy TĐP không biết ra sao. Xế trưa, tôi áp dụng cách rút sâu đo, cho quân lui từ từ về hướng Kiến-Đức. Chiều đó chúng tôi mới về tới tiếp điểm của Đại đội 1/82. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát, -”Tôi đi với đứa con đầu của thằng Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đàng sau. Hiện tôi ở trên triền một ngọn đồi hướng bắc con đường, nhưng không xác định được tọa độ. Chúng nó (VC) đang đuổi theo tôi.” - ” Rồi! Bình tĩnh! Anh còn bao nhiêu người cho tôi biết đi?” - “Tôi còn sáu chục người!” - “Sáu chục thì đủ mạnh để đánh mở đường về với tôi rồi. Cứ hướng bốn nghìn tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!” Có tiếng bấm ống nghe “xẹt!xẹt!” rồi tiếng Hoàng Long thì thào, -”Thái Sơn ơi! Tôi còn có sáu người thôi! Tôi ngụy thoại thành sáu chục đó (!) Tôi với năm thằng lính của Delta là sáu. Tụi tôi bị chúng nó (VC) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy này là của trung đội đầu của thằng 2″ Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi cũng an tâm là ông Hoàn vẫn còn sống. Tôi ôn tồn, “Thôi được rồi ! Bây giờ làm theo tôi chỉ. Đi thẳng hướng sáu nghìn tư cho tới con suối hướng bắc ngọn đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược dòng con suối đi riết về hướng tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi !” - “Tôi nghe 5 ! Thái Sơn nhớ báo cho tụi thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe !” - “Ừ! Thôi! Lẹ lên !” Từ đồn Kiến-Đức, Thiếu úy Thủy báo cáo rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù-Binh bò lên đã hiện nguyên hình là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. Ba tên cán binh VC trên xe, đã vứt xe, nhảy xuống đường định chạy thoát thân khi trái hỏa tiễn XM 202 xé nát đầu chiếc máy cày. Hai băng M16 đốn ngã 3 tên giặc. Ba khẩu AK 47 và một khẩu phòng không 12,7 ly cháy theo chiếc xe tank dỏm. Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đã trở thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù-Binh, Kiến-Đức. Gần tối hôm đó Đại Úy tiểu đoàn phó và năm người lính theo ông về tới tiền đồn bắc của Đại đội 1/82. Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn úy Đức chui ra khỏi rừng hướng nam con lộ và liên lạc được toán tiếp đón của Đại đội 1. Người mang máy PRC 25 cho Đại Úy Hoàn có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Đức. Cái máy truyền tin của ông tiểu đoàn phó đã bị bắn bể từ phút đầu tiên. Tính tới 5 giờ chiều, Đại đội 2/82 còn thiếu 14 người. Đêm xuống, sương mù dày đặc, trăng thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài mìn bẫy vì sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy. Gần sáng, Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi bỏ Kiến-Đức, tìm mọi cách rút về Nhơn-Cơ. Sáng 21/3/75, tôi chuẩn bị đánh một trận nhổ chốt thần tốc. Tôi xin pháo binh của tiểu khu một hỏa tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều một cây số từ đầu tới cuối khúc đường chữ “S”. Pháo 105 ly Nhơn-Cơ bắn không ngừng từ khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu. Về phần pháo binh Biên Phòng Kiến-Đức thì 500 quả đạn nổ 105 ly được chất lên xe. Hai khẩu đại bác được hai toán BĐQ đẩy bằng tay di chuyển trên hai bên bìa đường. Đại bác trực xạ ngay sát mép rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước hai chục thước. “Đùng ! Đoàng !” “Đùng ! Đoàng !” ra khỏi nòng một, hai giây là đạn nổ. Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên phải. Khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái. Sở dĩ phải bắn như thế vì bắn mục tiêu ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng. Cứ thế, “Đùng ! Đoàng !” hai họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục . Đàng sau lưng tôi là khẩu 81 ly của tiểu đoàn và bốn khầu 60 ly của các đại đội. Tôi cho cối 81 ly bắn đạn thời nổ chậm (delay) trong khi cối 60 ly bắn đạn chạm nổ. Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa tăng lên một vòng tay quay. Tiếng cối depart “kinh ! kinh !” liên hồi kỳ trận, âm vang dội trong khe núi. Đạn cối nổ “ùm ! ùm !” Cây cành gãy răng rắc. Mưa đạn cối đang rơi hai bên đoạn đường ngắn ngủi hơn một cây số rừng rậm. Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo hò, la hét. Khói và bụi cuồn cuộn trước mặt. Biệt Động Quân hàng ngang trong rừng, song song với hai khẩu đại bác ngoài đường. Những người lính miệng hô “Biệt Động ! Sát !” vừa bước tới, vừa bóp cò. Quân đàng trước vừa hết đạn thì dừng lại, thay băng đạn mới; quân đàng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn vừa tiến. Người thì thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời. Theo thế sâu đo, Biệt Động Quân tiến ào ào, khí thế như nước vỡ bờ. Đây là một trận đánh chớp nhoáng nhưng lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang. Mỗi cánh quân hai bên đường có sáu toán an ninh cạnh sườn. Sáu toán trang bị mìn Claymore và M79 bắn đạn chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường mòn, triền dốc, những toán này dừng lại gài mìn bố trí chờ. Ra quân lần này tôi đã tận dụng tất cả hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên thở. Khẩu 12,7 ly VC bên hướng nam con lộ chỉ bắn được vài viên là câm họng. Đúng như tôi đã dự đoán. Khi quân của tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ “S” nơi cái xác của Thượng Sĩ Ngon đang bốc mùi, thì hai khẩu phòng không VC đặt trong khu mả của dân Thượng bên trái đường khai hỏa. Lập tức, khẩu 105 ly di động bên phải đường tương hai quả khói trắng về hướng nghĩa địa Thượng để che bớt tầm quan sát của xạ thủ địch . Hoả tập pháo binh trên mặt đường chữ “S” được chuyển xạ sang khu mả Thượng. Đạn 105 ly nổ “Oành ! Oành !” trên khu ngã ba đường xe be. Dưới khe bên trái lộ, mìn Claymore bắt đầu nổ. Ba toán BĐQ ngăn chặn lực lượng bao vây chia cắt đã phát giác địch và cho mìn nổ. Những chuyên viên của chiến thuật bao vây chia cắt CSBV đang gặp khắc tinh ! Hôm nay các mũi xung kích chia cắt của VC chưa kịp phóng viên B40 nào, các xạ thủ B40 đã vỡ sọ. Tiếng rên la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om xòm dưới khe suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh. Lúc này đạn M 79 của ta bắt đầu tới tấp câu xuống khe. Tôi đang chỉnh 105 ly trên trục nghi ngờ có khẩu phòng không di động của địch thì trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên trời, -”Thái Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay ! Bắc Bình mới xin tôi lên làm việc với Thiếu Tá đây !” Bắc Bình là ông Thiếu Tá Trần văn Bường (k18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng-Đức. Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng nói quen thuộc của một hoa tiêu L19 mà trong nửa năm hành quân ở đây, tôi đã nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng khu vực Nhơn-Cơ , Kiến-Đức. Tôi và anh phi công này đã nhiều lần đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc. Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát cái nghĩa địa Thượng nơi ngã ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ giùm hai khẩu phòng không di động đang trụ ở điểm này. Tôi sơ lược tình hình bạn địch cho anh ta rõ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam-Bắc, vì quân tôi tiến theo trục Tây-Đông. Chiếc L 19 đảo sát ngọn cây một vòng. Khẩu phòng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi chiếc L 19. -”Okay ! Tôi thấy rồi ! Một cái xe bò cài lá ngụy trang có khẩu phòng không. Tôi chơi ngay !” Một trái khói phụt xuống sát bên khu mả Thượng. -”Được chưa ? Thái Sơn !” -”Được rồi ! Cứ từ đó dài về hướng 360 độ là địch, đánh tự do !” Sau câu trả lời “Okay ! Do !” chiếc quan sát cơ bay tránh sang hướng đông. Tôi che mắt tìm những chiếc máy bay oanh tạc. Trời trong xanh. Có hai chiếc A 37 đang lượn rất cao. Hai chiếc tàu lấp lánh trong nắng. Hai chiếc tàu nhỏ tí ti. Tiếng rè rè từ A 37 “Bom đi ! Pass số 1! Chỉnh !” Tôi trả lời, “Nhận !” Tôi trả lời “nhận”, nhưng tôi phải che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào. Đời tôi đã có hàng trăm lần được không quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Đây là lần đầu tiên tôi thấy máy bay yểm trợ cho tôi đã thả bom ở tầm cao quá sức là cao. Có lẽ bom được thả từ trên cao độ mười ngàn bộ (feet) có dư ! Mắt tôi thấy một chấm đen từ trên thăm thẳm hướng đông đang bay về phía mình. Chấm đen tới gần, nó vẫn giữ hình thù một cái chấm. Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái chấm ! Thôi bỏ mẹ ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó tức là nó đang nhắm vào đầu mình rồi ! Tôi la thất thanh, “Nằm xuống ! Nằm xuống !” Vừa xô thằng Bích xuống cái rãnh khô bên đường, tôi vừa nói với người phi công trên A 37, -”Sáng nay anh đã giết một tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân rồi đó ! Anh ơi !” Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa thì quả bom đã chạm đất. “Ầm !” Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay tung, phủ trùm một vùng. Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh bắc của con đường, sát bờ suối, đàng sau một mô đất. Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc trên đó đã bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng “Ầm !” vừa rồi. Chưa rõ tổn thất quân bạn ra sao, chưa rõ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin, “Check Air ! Check Air !” Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự anh phi công A 37, “Đ.M ! Toa làm ăn như con c…c !” Rồi anh hỏi tôi: -”Sorry ! Sorry ! Thái Sơn có sao không ?” -”Cám ơn anh ! Thôi ! Cho họ về đi ! Tôi không cần họ nữa !” Tôi ném cái ống nghe của máy không lục xuống đường. Đoàn người mình mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt cò. “Đùng ! Đoàng !” Chỉ một khẩu đại bác bên trái đường còn nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh. Một người chết vì quả bom. Binh nhì Đức Điếc bị vỡ sọ. Xác của Đức Điếc được kéo sang lề đường để tạm trên cỏ. “Đùng ! Đoàng !” Tiếp tục ! Còn một khẩu, ta chơi theo một khẩu ! “Tiến lên đi ! Anh em ơi ! Biệt Động ! Sát ! Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Son và toán viễn thám của Binh nhất Lê văn Tuấn được gom lại thành một đội xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ trình rút lui của ông tiểu đoàn phó ngày hôm qua. Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Son xin tôi ngừng tác xạ pháo binh trên khu mả Thượng. Rồi M72 nổ. Tiếp đến là M16. Sau cùng là lựu đạn. Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Son reo trong máy, -”Báo cáo Thái Sơn xong rồi ! Hai cây phòng không. Một trên xe bò, một trên gò mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngã ba.” Đoạn giữa cái eo chữ “S” là nơi địch đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam đã rách tả tơi nhưng còn bay phần phật bên lộ. Đại đội 1/82 ào lên. Đạn của ta réo như mưa bão. Từ bìa rừng bên phải đường, một tên VC có lẽ là cấp chỉ huy, nhảy ra giữa đường, tay nó giơ cao khẩu K 54 bắn chỉ thiên. -”Các đồng chí! Giữ vững…” Hắn chưa hô dứt câu thì thân hình hắn đã gập xuống; khẩu K54 rơi trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn. Từ ven rừng phía nam con lộ, nhiều cán binh VC phóng nhanh qua đường tìm cách nhào xuống suối. Súng cứ nổ ròn rã, hiệu lệnh của cuộc hành quân hôm nay là “Giết !” Bất cứ cái gì nhúc nhích trước mặt đều là mục tiêu. “Giết !” Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả lòng căm thù. Chúng tôi đã tiến tới cuối đoạn cua chữ “S” hướng đông. Đại đội của Tiểu đoàn 63 BĐQ trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Nhơn-Cơ thấy hỏa lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận bắn càn nên họ bỏ vị trí rút về bên kia suối. Tiếng súng tạm yên thì hai cánh quân hai bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh hai hông phải và trái chiến địa. Tổng kết, quân bạn có bốn chết, ba bị thương nhẹ. Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ. Con số địch bị giết vào khoảng trên dưới một trăm. Vũ khí chúng tôi tịch thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết. Sự hứa hẹn khen thưởng vì chiến công không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này. Tôi vào quận đường Nhơn-Cơ và chỉ gặp Thiếu Tá Khánh, quận trưởng. Vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con đường, liên đoàn đã cho Tiểu đoàn 81 BĐQ của Thiếu Tá Mẫn rút về Gia-Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi vào đồn đóng quân chung với Địa Phương Quân của Thiếu Tá Khánh và đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi. Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ. Tôi tin chắc rằng, sau khi hai bãi mìn ở Kiến-Đức rơi vào tay Cộng Quân thì chỉ cần hai chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn-Cơ tí teo. Đồn Nhơn-Cơ chỉ có một cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến-Đức về. Sau lưng đồn, sát hàng rào là một cái đập nước rộng và sâu. Chui vào đồn là chui vào rọ. Đại Úy Hoàn, tiểu đoàn phó được lệnh gom quân đang giữ Kiến-Đức, cuốn chiếu qua mặt tôi rồi lui về đàng sau quận Nhơn-Cơ. Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái đồi Kiến-Đức trước lúc rút đi. Chuẩn úy Bảo, một sĩ quan trung đội trưởng của Đại đội 4/82 là người sau cùng rời Kiến-Đức. Những quả mìn cơ động do Bảo gài lại nơi điếm canh hướng đông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng chào đón những cán binh trung đoàn 271/ T10 CSBV khi họ vào tiếp thu đồi Kiến-Đức. Đại đội tăng phái của Tiểu Đoàn 63/BĐQ đã theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi trả lại Gia-Nghĩa cho Thiếu Tá Trần đình Đàng. Khẩu 105 ly bị bể bánh đã được phục hồi. Cả bốn khẩu pháo binh biên phòng đều được kéo về nơi dự trù đóng quân của ông tiểu đoàn phó cùng Đại đội 2/82 và Đại đội 4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn-Cơ cách tôi chừng hai cây số về hướng Gia-Nghĩa. Trưa 21 tháng Ba tôi bố trí bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội 1/82 và 3/82 ngay ngã ba đường xe be, nơi đầu khúc cua hướng đông của đoạn đường chữ “S”. Chiều hôm ấy, cách Kiến-Đức hơn bốn cây số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ ùm ùm, lép bép vọng về. Ngọn khói đen bốc lên cao dần. Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những ngôi mộ mới. Chúng tôi đã chôn Thượng Sĩ Y Ngon Near, Binh nhì Đức Điếc, ba anh BĐQ mới chết sáng nay và gần chục anh BĐQ chết hôm qua bên lề tỉnh lộ này. Lù lù giữa tỉnh lộ là một đống vũ khí chiến lợi phẩm tịch thu được của địch. Bên đường là một rờ-mọoc (remorque) súng dư dùng của ta. Một núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ cần hai quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết! Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, lòng tôi tê dại, dửng dưng… Sáng sớm 23/3/75, tiền đồn hướng tây báo cáo có tiếng hô “xung phong” trên đồi Kiến Đức. Pháo binh đã chuẩn bị yếu tố. Hai chục tràng đạn đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi này. Tiếp đó là một tiếng “Ùm!” từ hướng tây vọng lại. Như vậy là bãi mìn chống tank đã nổ! Không rõ tank địch đã vô ý cán lên bãi mìn, hay bangalore của công binh CSBV đã phá hủy nó? Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy nghĩ phải làm gì để đương đầu với xe tank địch trong những ngày sắp tới ? Ngày 25/3/75, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông Thiếu Tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Từ mấy ngày trước, Thiếu Tá Khánh đã ra Gia Nghĩa và ở lại ngoài đó không về. Tôi đi ngang hầm truyền tin thì nghe tiếng loa khuyếch âm oang oang. Thiếu Tá Khánh ra lệnh cho lực lượng đồn trú: -”Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu Tá Biệt Động Quân nghe được thì rầy rà !” Người Chuẩn úy trực chi khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống cuống phân bua, -”Trình Thiếu Tá, không phải lỗi em !” Tôi xua tay, -”Đừng ngại ! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi sẽ gặp xếp của anh !” Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nhìn khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106 ly), đạn còn nhiều quá ! Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở khẩu súng này lên cho ông Đại Úy Hoàn. Thượng Sĩ Năng là chuyên viên bắn 106 ly của tôi, khi chúng tôi còn ở Plei-Me. Thượng Sĩ Năng chắc phải vui lắm khi nhận được khẩu cối này. Trước khi Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân Nhơn-Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu Tá Trần văn Bường ra lệnh cho sĩ quan pháo binh Diện-Địa đồn Nhơn-Cơ phá hủy những khẩu đại bác 105 ly. Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn-Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến-Đức, trong đó có những viên đạn phostpho. Sau cùng, họ đã thả từng quả lựu đạn màu đỏ, hủy từng khẩu pháo. Tôi nhìn cách phá súng của họ và học lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, nòng súng thụt xuống không xử dụng được. Tới trưa hôm đó thì quận đường Nhơn – Cơ trống trơn. Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt mìn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn-Cơ. Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc giữa đường Nhơn-Cơ, Gia-Nghĩa. Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng sau cái miếu Thổ Địa nơi đầu dốc. Bốn khẩu 105 ly Biên Phòng hướng về phía tây sẵn sàng đạn chống tank. Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa thăm vị trí của ông Hoàn. Có tiếng động cơ xe từ hướng Kiến-Đức vọng về. Tôi quyết định cho cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó rút qua mặt tiểu đoàn và ngủ đêm bên bờ con sông hướng bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số. Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn. Khi đi ngang xóm nhà của khu dinh điền Nhơn-Cơ, nơi TĐ 81 BĐQ và địch đã giao chiến suốt đêm 18 và sáng 19 tháng Ba, chúng tôi nghe mấy người lính đi bên trái báo có thương binh bạn nằm bên lề đường. Một Biệt Động Quân mang phù hiệu TĐ 81 BĐQ nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ trên mặt cát. Đầu mặt, tay chân anh máu đã khô. Kiến lửa và ruồi nhặng lúc nhúc bu trên người anh. Người chiến sĩ BĐQ chỉ còn thoi thóp nhẹ. Tôi lần tay vào cò khẩu súng Colt. Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn mình.Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm làm việc này ! Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đã hôn mê; chắc anh ta không còn biết đau đớn là gì nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát của tôi. Tôi và Đại Úy Hoàn lấy một cái poncho phủ lên người anh. Hai chúng tôi đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng. Cách chỗ anh BĐQ nằm chừng năm chục mét trên dốc là hai cái xác Việt-Cộng đã sình. Hai cái xác trương to như hai con bò, áo quần căng cứng. Nắng hầm hập. Một vùng ngập chìm trong tử khí. Trưa 25/3/75, khói đen bốc lên hướng thị xã Gia- Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng báo cho tôi biết tin Tiểu khu Quảng Đức đang bắt đầu rút về BLao. Bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu đoàn 63 & 81 BĐQ đang án binh chờ tôi về rồi mới tính sau. Tôi lên xe chạy về Gia-Nghĩa. Gặp lại Trung Tá Thanh, tôi cùng ông duyệt lại tình hình Quảng-Đức. Chúng tôi thấy những ngày trước đó, quân ta chưa có gì sứt mẻ. Tinh thần còn vững vàng. Tiếp liệu còn đầy kho. Chỉ có Kiến-Đức là nóng bỏng. Chúng tôi còn đứng vững, chưa cần tới tiếp viện. Tôi không hiểu vì sao ông tỉnh trưởng bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ. Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi địch chưa tỏ ý định đánh chiếm nó. Kho tàng đã bị đốt hết. Chúng tôi có tử thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút cũng không được. Tôi vội kêu Trung úy Đăng giao Đại đội 2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi lên gặp tôi. Tôi dặn dò anh dùng xe GMC đi theo bộ chỉ huy tiểu khu. Tới BLao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn cho đơn vị. Ra khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia-Nghĩa. Chợ quán thưa vắng. Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua hai ký tép khô. Giá ba trăm đồng một ký. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy một nghìn, không nhận tiền thối lại. -”Sao bà con còn nấn ná ở đây? Người ta đi hết rồi!” -”Biết đi đâu bây giờ Thiếu Tá ơi! Con thì nhỏ, đường thì xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có chết cũng đành!” Chị bán tép sụt sịt, Tôi buồn bã nói với bà con đôi lời từ giã. Lúc đó có tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng bên trái có bóng đi ra đi vô của một bộ quần áo rằn ri. Tôi hỏi chị bán tép chuyện gì huyên náo, chị nói, “Cướp, có hai anh lính Biệt Động Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái.” Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn Chi và Hạ sĩ Mom Son sẵn sàng. Hai người này và anh tài xế đã rõ câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh. Tôi đứng trước đầu xe hét to, “Ê ! Hai anh kia đi ra không tôi bắn !” Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M 26. Tôi ra lệnh, “Bắn !” Hai viên M16 trúng sọ thằng ăn cướp. Nó nằm giãy tê tê trước bục cửa ra vào. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm. Thằng thứ nhì cũng mặc quân phục Biệt Động Quân từ trong nhà chạy ra, trên tay cũng có hai trái M 26. Tôi hét lớn, -”Ném hai quả lựu đạn ra sau nhà !” Tên cướp ném hai trái M26 ra sân cỏ sau nhà. Chỉ một trái đã bị rút chốt an toàn. Một tiếng “ùm !” làm bay tấm tôle trên mái sau. Tôi ra lệnh tiếp, -”Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra !” Hắn riu ríu làm theo lệnh. -”Còn ai trong nhà nữa không? Ra hết đi !” Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo nhau chạy ra ngoài lộ. Ba thày trò tôi tiến lên chổ tên cướp đang run như cầy sấy. -”Mày ở đơn vị nào ?” -”Dạ em là lao công của Sư đoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây !” -”Quần áo Biệt Động Quân tụi mày lấy ở đâu ra ?” Tôi hỏi vặn, -”Dạ nhiều lắm ! Trong tiệm giặt ủi đàng kia !” Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và túi thằng đã chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho họ. Gia chủ căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám ơn. Tôi đá liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng. Tôi quát, “Cút đi !” Nó lồm cồm bò dậy, chạy một mạch xuống triền đồi khuất dạng. Tôi phân trần với dân phố đang bu quanh, -”Tụi này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Động Quân. Biệt Động Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi này !” Nói xong câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không còn hiện diện ở nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như thế? Tôi buồn bã lên xe hướng về bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức. Tòa hành chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi. Khu Trung-Tâm Yểm-Trợ Tiếp-Vận chỉ có kho xăng đã cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt lam nham. Những chỗ khác vẫn còn nguyên vẹn. Trên mặt đất, quân trang, quân dụng, lương thực vương vãi khắp nơi. Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với Trung Tá liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ sông Kinh-Đà chờ bộ chỉ huy và hai tiểu đoàn. Điểm vượt sông tôi sẽ định sau. Sáng 26/3/75, tôi ra lệnh phá hủy bốn khẩu 105 ly ngay trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần một ngàn viên đạn về hướng Kiến-Đức. Khẩu 106 ly được ném xuống dòng sông bên đường sau khi đạn đã được gởi hết qua bờ nam đập nước. Mười giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ sông, tôi gặp một trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm-Đức. Tôi thấy một Nghĩa Quân ngồi trên chòi gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc. Tôi hỏi anh lính, -”Sao em còn ngồi đây ? Người ta đi hết rồi !” -”Ủa ! chứ người ta đi đâu Thiếu Tá ?” Anh lính ngơ ngác, -”Người ta rút về BLao hết rồi ! Em đi đi !” Anh Nghĩa Quân nhìn tôi bán tin bán nghi. Đến lúc thấy quân lính theo tôi đông ngời ngời, anh phát hoảng, co giò chạy về hướng thị xã. Tôi cho tiểu đoàn đi song song với bờ tây của sông Đa-Dung, xuôi về hướng nam chừng nửa cây số thì dừng lại. Càng xa những đường lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo chuyện rủi ro trên bờ đối diện. Tôi quyết định vượt sông nơi vắng vẻ đìu hiu nhất. Tôi chọn hai anh lính gốc dân chài cùng tôi bơi qua sông làm đầu cầu. Ba khẩu M16, ba băng đạn, ba cuộn dây nylon, ba thày trò tôi bu theo ba cái phao poncho độn bằng cành lá. Chỉ có tôi và một anh lính tới bờ bình yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi chìm nghỉm giữa dòng, sau một tiếng “Ối !” thất thanh. Đa-Dung nổi tiếng là sông nhiều cá sấu ! Chương 3. Qua tới bờ đông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh BĐQ bạn yên tâm cột giây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng. Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm. Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát. Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi bộ chỉ huy liên đoàn bắt đầu xuống mảng thì Tiểu đoàn 82 BĐQ cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao. Cách bãi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước, lội ngược dòng về thượng nguồn. Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau. Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo Trung Tá Thanh liên đoàn trưởng, Trung úy Minh sĩ quan truyền tin liên đoàn và ba người khác bị thương. Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi giây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung Tá liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán. Sau khi băng bó,Trung Tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân. Sáng 27/3/75, trực thăng từ Đà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này còn có Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng TĐ81 BĐQ. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính. Như vậy là chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Đức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi vùng. Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc hướng về phía đông. Chiều đó đang đi trên một lối mòn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu VC gần đâu đây ? Tôi báo cáo tình hình cho Trung Tá Đào Đức Châu (k12 VB) liên đoàn phó, lúc này đang Xử Lý Thường Vụ chức liên đoàn trưởng Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đề nghị ông cho những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt. Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Động Quân. Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút khói, dưới chân một cái nhà sàn. Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch. Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Đại đội 3/82. Tôi và Binh nhì Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào. Trung úy Trần văn Phước (ĐĐT3/82) và cả chục BĐQ dưới quyền anh đang quây quần bên một vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya. Với tôi, thì uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu trong khi hành quân thì tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước. Tôi rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức. -”Cuốn lều ! Đại đội 3 cuốn lều ! Hướng một ngàn sáu trăm zu lu ! Làm ngay !” Trung úy Phước và “tòng phạm” riu ríu thi hành lệnh. Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Đại đội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Đại đội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ. Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 tôi bàn giao căn cứ Đức-Cơ và Tiểu đoàn 81 BĐQ cho Thiếu Tá Hoàng đình Mẫn để về giữ chức trưởng phòng 2/BCH BĐQ QK2 thì Chuẩn úy Trần văn Phước mới mãn khoá Tình-Báo Cây-Mai. Đã có lần tôi gởi Chuẩn úy Phước vào Plei M’rong làm ban 2 cho Thiếu Tá Phạm duy Ánh, tiểu đoàn trưởng TĐ63 BĐQ (1973). Thiếu Tá Ánh chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của Chuẩn úy Phước. Cuối cùng Phước lại khăn gói quả mướp về trình diện tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước ở với tôi từ đó cho tới cuối 1973 thì thày trò tôi vào Plei-Me. Chú Phước và chú Minh (sĩ quan truyền tin LĐ24 BĐQ sau này) là hai sĩ quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi Tiểu đoàn 82/ BĐQ bị tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974 trên căn cứ 711. Rồi cũng chính Thiếu úy Trần văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trở lại trên căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị sáu tiểu đoàn của SĐ 320 Điện Biên xa luân chiến. Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi. Sau trận Plei-Me, Thiếu úy Trần văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề quân báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng. Đây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước. Đầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt, -”Em xin lỗi Thái Sơn ! Em xin lỗi anh Hai !” -”Thôi ! Ngủ đi ! Chờ mai anh lên với chú !” Tôi cũng thấy mủi lòng, xốn xang, Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế ! Trăng sáng như ban ngày. Gần chín giờ đêm, trung tá liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng. Ông Châu nhờ tôi xin trực thăng tản thương cho ông ta ra khỏi vùng. Đại Úy Trần dân Chủ, ban 3 liên đoàn cũng xin phép tôi để đi theo trung tá liên đoàn phó. Tháp tùng Trung Tá Châu, ngoài Đại Úy Chủ còn hai hạ sĩ quan truyền tin liên đoàn. Sáng 28/3/75, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan của bộ chỉ huy liên đoàn vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào. Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng. -”Em không về đâu ! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng !” Người đàn bà này đã theo đoàn quân của TĐ 81/BĐQ từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giãy giụa, miệng chị la bài hải, - “Em không sợ chết đâu ! Cho em ở lại đi ! Các anh ơi !” Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà. Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Động Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm. Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh. Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 Hành Quân chỉ định Thiếu Tá Hiện Dịch Vương mộng Long khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi mời Thiếu Tá Đàng và Thiếu Tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu đoàn 82 BĐQ sẽ mở đường, Tiểu đoàn 81 BĐQ đi giữa, Tiểu đoàn 63 BĐQ có nhiệm vụ đoạn hậu. Đối với Thiếu Tá Nguyễn hữu Tài, tôi không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là tiểu đoàn phó của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 81 BĐQ. Anh Trần đình Đàng xuất thân khóa 15 Võ-Bị và phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân từ những năm binh chủng mới được khai sinh. So với Thiếu Tá Đàng, tôi là đàn em rất xa, về cả hai xuất xứ, Biệt Động Quân cũng như Võ-Bị (tôi xuất thân từ k20). Tôi xin ý kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại gì khi anh phải nằm dưới sự chỉ huy của tôi không? Anh Đàng trả lời một cách khẳng khái, -”Chú chỉ huy là phải rồi ! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên chí đi !” -”Cám ơn Niên Trưởng !” Tôi xiết tay anh Đàng thật chặt. Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn. Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành trình theo dự trù. Cứ theo hướng 1600 ly giác, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về thị trấn BLao. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy; trên đường chỉ có dấu chân voi. Địa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968 tôi đã lặn lội, lùng sục không sót một ngọn đồi nào trong vùng này. Đã bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ đông sông Đa-Dung qua Quốc lộ 20 tới cao nguyên Gia-Bắc giáp giới quận Thiện-Giáo, Bình-Thuận. Ngày đó, Trung Tá Bùi văn Sâm LĐT LĐ2 BĐQ đã biệt phái TĐ11 BĐQ của Đại Úy Hồ khắc Đàm (k16VB) cho Task Force South của Tướng Trương quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23/Bộ Binh. Tôi lúc đó là đại đội trưởng ĐĐ1 TĐ11 BĐQ dưới quyền anh Đàm. Chúng tôi được trực thăng Hoa-Kỳ tải vào rừng. Tìm mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Mười ngày sau chui ra bãi trống nhận tiếp tế gạo mắm. Rồi lại leo lên trực thăng, đổ xuống bãi khác. Lại tìm mục tiêu. Lại leo hết đồi này tới đồi khác. Lại tiếp tế… Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng tôi lần mò trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có dịp nhìn thấy phố… Bảy năm sau, tôi lại lội trên những con đường mòn ngày xưa tôi đã dẫn quân đi qua. Bảy năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên Đại-Nga, hướng nào về Tân-Bùi, ngả nào qua Tân-Rai. Lương thực của chúng tôi đã gần cạn. Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua. 30/3/75, mặt trời vừa lên, trong máy nội bộ của TĐ82/BĐQ đã có tiếng người trên trực thăng hối thúc, -”Yêu cầu Thái Sơn kiếm bãi đáp nhận chỉ thị gấp !” Lúc đó chúng tôi đang ở gần một bãi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống. Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy bay để nghe anh ta nói, -”Tôi được lệnh Quân đoàn lên đón Thiếu Tá về Đà-Lạt. Thiếu Tá lên tàu mau đi !” -”Thế còn liên đoàn thì sao ?” -”Chúng tôi chỉ ‘rescue’ một mình Thiếu Tá thôi ! Những người khác, bỏ !” -”Thôi ! Nếu thế thì tôi không đi đâu ! Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một mình. Anh về báo với Quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm tôi.” Tôi xua tay, Nói xong câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi thì người phi công cởi giây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn, -”Tôi không ngờ giờ này quân đội ta còn một vị chỉ huy đáng nể như Thiếu Tá ! Thiếu Tá cho phép tôi chào kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông.” Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn giơ tay vẫy vẫy giã từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây. Binh nhất Y Don Near mang máy truyền tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đã nghe tất cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đã kể lại chuyện này cho bạn bè. Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân, vài anh lính Rhadé, Jarai đã đến xúm quanh người chỉ huy của họ, -”Ông Thiếu Tá ơi ! Đừng bỏ tụi em, tội nghiệp !” - “Ừ ! Thiếu Tá không bỏ các em đâu ! Thiếu Tá lúc nào cũng ở bên các em. Chúng mình sống chết có nhau !” Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn trên những gò má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình ấm lại. Chúng tôi đã cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói. Răng người nào cũng đen thui vì nhựa chuối rừng. Điều khổ nhất phải chịu đựng là, sau khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối thì chất sơ của chuối làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn đau rát lắm. Đi tiêu xong người nào cũng bước cà-náng, hai hàng. Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ bát canh rau tàu bay của chú Bích thì Thiếu úy Học rón rén tới gần. Học thì thầm, -”Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn cho phép bắn làm thịt nghe ?” -”Ừ! Bắn đi !” Tôi sáng mắt lên, Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau chú quay lại, mặt tiu nguỷu, -”Thằng lính gác muốn bắn nhưng lại sợ Thái Sơn la. Đợi khi em xin phép xong thì con gấu đã chạy mất tiêu rồi !” Tôi thì buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất ăn một bữa thịt gấu. Vui vì tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay. Chúng tôi đang ở bên bờ một con suối lớn. Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ý lạ: Đốt cá ! Tôi gọi Thiếu Tá Tài và Thiếu Tá Đàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho ba tiểu đoàn tản xa theo dòng nước. Mỗi tiểu đoàn trấn giữ một khúc suối. Nơi đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt ba quả lựu đạn M26 là liên đoàn có một bữa cá no nê. Tôi học được cách đốt cá từ khi còn ở Đại đội Trinh-Sát Liên đoàn 2. Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt đi. Bẻ đầu một viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn. Đốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên. Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong lòng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng, lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con gì trong nước cũng nổ con ngươi nổi lên mặt nước. Buổi chiều chúng tôi mỗi người được chia một lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên đường. 31/3/75, chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi cách Bảo Lộc trên dưới hai chục cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nhìn thấy thung lũng dưới chân đồi là một mật khu trù phú. Kế hoạch đặt ra như sau: Đại đội 3/82 sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu đoàn sẽ cắt hai chục người tải lương thực về. Kế hoạch đã được thi hành như dự liệu và không có gì trục trặc xảy ra. Đại đội 3/82 thanh toán mục tiêu rất nhanh. Một cán bộ VC quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn chờ ly cà phê phin nhỏ giọt thì bị một viên M16 ghim vào ngực. Hai cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị mỗi tên một viên M16 vào ngực. Mấy anh cán binh đang tưới cây trong vườn cũng bị mỗi anh một viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là một trung tâm huấn luyện của Tỉnh-Đội Lâm-Đồng Việt-Cộng. Trung tâm có khoảng trên ba trăm khẩu súng gỗ và cả chục khẩu súng thật. Có một khẩu cối 82 ly với một kho đạn. Tên VC đang chờ uống cà phê có vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đã xuất trại vắng. Quân ta làm chủ tình hình một cách lẹ làng. Có một tai nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà-lọt của tôi đã lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của hạ sĩ. Đói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên đồi. Ăn xong bữa thịt gà hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre còn lòi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ Ba cả tấc. Quân y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba vì không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng kìm cắt cọng tre ngắn đi cho đỡ vướng. Vốn là một tay viễn thám gan lỳ, người tà-lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt đi theo đoàn tùy tùng của Đại Úy Hoàn. Tôi cũng quên dặn dò các cánh quân coi chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả, đạn của Đại đội 3/82 đã sượt qua cổ một anh BĐQ TĐ63 BĐQ thay vì trúng đầu một con gà. Người trúng đạn bị thương nhẹ. Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đã rút lui an toàn. Mới vài ngày trước, tôi đã chứng kiến cảnh BĐQ hoan hô người đàn bà can đảm của TĐ81 BĐQ trên bãi trực thăng, vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ dưới chân đồi hì hục leo lên. Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại vì ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ý của các đơn vị Việt-Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của chúng lúc này. Khi rút lui, Trung úy Phước đã sơ ý không phá cơ bẩm khẩu súng cối. Vài giờ sau khi chúng tôi rút đi thì đạn cối 82 ly bắt đầu câu theo đít quân ta. Chúng tôi nhanh chân vượt qua hai ngọn đồi rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy. Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt- Cộng “ùm! ùm!” rơi bâng quơ trong núi. 1/4/75 Lên đường! Sáng nay mọi người đều no bụng. Đoàn quân tìm lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào! Đội hình một hàng dọc! Thứ tự như cũ! Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Binh nhì viễn thám viên Triệu Tân mở đường. N gười thứ nhì là Thiếu úy Học. Người thứ ba là tôi. Sau tôi là thằng Don. Sau thằng Don… là đoàn rồng rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc. Đường độc đạo, hai bên là lau sậy và gai mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung bình mỗi người cách nhau 3 mét, thì toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu Tá Đàng phải trên 2 cây số. Tới chiều thì chúng tôi bắt đầu đi lên một cái dốc khá cao. Tình hình vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh bình thì cảnh này thật lý tưởng cho các thi nhân lang thang đi tìm ý thơ… “Choác !” Thằng Tân té ngửa ! Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. Một giây sau tôi và chú Học mới bóp được cò hai khẩu M16 theo phản xạ, nhắm về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc. Đạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Đạn văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu “Tăng ! Tăng !… Tằng ! Tằng !…” rồi… “Xèo !” chui xuống cỏ. Toán viễn thám của Binh nhất Tuấn phóng nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn. Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc, nhưng tên bắn tỉa đã cao bay. Viên đạn súng trường Nga trúng ngay giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ còn nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá. Chỉ với một viên đạn, Thượng Cộng đã loại ra ngoài vòng chiến một viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi. Khi đại đội của Thiếu úy Học đã bố trí an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng BĐQ Triệu Tân. Thêm một cái thẻ bài mất chủ bị cất trong ba lô của Thiếu úy Hoàng, ĐĐT Đại đội Công Vụ của TĐ 82 BĐQ. Tôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi để nghỉ qua đêm. Đêm đó toán viễn thám của Binh nhất Tuấn âm thầm lên đường. Điểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ chúng tôi dừng quân gần hai cây số. Mờ sáng hôm sau một quả Claymore nổ. Tên Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lãnh nguyên trái mìn cơ động, khẩu súng trường bá đỏ văng trên bãi cỏ bên đường: Có vay có trả ! Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho hai tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Đoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được sự theo dõi của Thượng Cộng. Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của mình. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, nhưng đồn Tân-Rai đã bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường cho được ! Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đã ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con Hinh Đa. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!” Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đã rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, tìm đường lên Đức-Trọng, Liên-Khương. Không biết tình hình Đà-Lạt ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hi vọng, có còn hơn không! Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng năm cây số. Bên kia lộ là vườn trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì một chiếc xe tải đi tới. Toán cận vệ BĐQ bắn đại vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít ! Tôi không biết vì sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà ? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Đà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi, tìm đường ra biển. Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng tìm được đường tới Liên-Đầm. Rồi từ Liên-Đầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga bắn “tắc! bụp!” Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng còn có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà ! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. “Đoàng!” thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người. Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Đơn vị CSBV này cũng cỡ một E pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ ba mươi sáu trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã. Anh Thiếu Tá Đàng đi đoạn hậu, còn ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Đêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Đèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì, eo ơi ! vắt nhiều không đâu bằng ! Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung Tá Hoàng kim Thanh LĐT/LĐ24/BĐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3. Trên tàu là Trung Tá BĐQ Nguyễn khoa Lộc (k18 VB); anh đang đi tìm tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung Tá Thanh đã về tới Sài-Gòn. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung Tá Thanh đã tới trình diện Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông Tướng rằng Thiếu Tá Vương mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BĐQ trên đường tìm về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung Tá Lộc đi tìm bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Đàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào bìa rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc. Đêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Đàng đóng quân chung. Đó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn Niên Trưởng Trần đình Đàng đã phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu Tá Đàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Động Quân còn duy trì toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần đình Đàng khóa 15 Võ-Bị. Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BĐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Đổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho Tướng Lê minh Đảo (k10 VB), Tư Lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Hôm sau, hai tiểu đoàn 81 BĐQ và 63 BĐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu Bình Thuận. Khoảng năm giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME! Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới. Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn. Seattle, ngày 21 tháng Tư năm 2006 Vương Mộng Long TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 NGÀY 16-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI Cuộc triệt thoái khỏi Sơn Hà và Trà Bồng được tiến hành vào ngày 16 tháng Ba, khi hai trực thăng CH47 bắt đầu di tản thường dân ở đây. Các đơn vị của Tiểu Đoàn 68 BĐQ và lực lượng địa phương được bốc về Sơn Tịnh, phía bắc thị xã Quảng Ngãi. Có khoãng 12000 dân Trà Bồng di tản theo dọc quốc lộ để về Bình Sơn, dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 69 BĐQ và các đơn vị diện địa. Khi cuộc di tản vừa bắt đầu, quân BV mỡ những cuộc tấn công tràn ngập các tiền đồn phía bắc Bình Sơn, cắt đứt QL 1, đoạn đường giữa Bình Sơn và Chu Lai. Tướng Nhựt, Tư lệnh SĐ 2 BB, lập tức ra lịnh cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 6 BB, trung đoàn còn nằm lại bảo vệ thị xã Quãng Ngãi, di chuyễn từ Nghĩa Hành về tăng cường vòng đai phía tây thị xã Quảng Ngãi. Phía băc đèo Hải Vân, tại quận Phú Lộc, Thừa Thiên, Liên Đoàn 15 BĐQ đã tái chiếm những vị trí trên khu vực Núi Bóng vào ngày 17 và 18 tháng Ba. Tướng Thi, Tư Lệnh Phó QĐ1, đặc trách lực lượng bảo vệ cố đô Huế, cho điều 2 chi đoàn M48 còn lại của Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, từ phía băc về để tăng cường phòng thủ khu vực phía nam thành phố Huế. NGÀY 17-3-1975– TẠI CHIẾN TRƯỜNG - THỪA THIÊN HUẾ Tới ngày 17 tháng Ba, LĐ 258 TQLC đã hoàn tất việc chuyễn quân thay thế LĐ 2 Dù tại Đà Nẵng. Ngày 18 tháng Ba, Tướng Lân cho dời Bộ Tư lệnh SĐ từ Hương Điền, Thừa Thiên về phi trường Non Nước, phía đông nam Đà Nẵng, chỉ cách Bộ Tư Lệnh QĐ 1, đặt tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng chưa đầy vài cây số. Trong khi đó Lữ đoàn 2 Dù di chuyễn ra Cảng Đà Nẵng để chuẫn bị rút về Sàigòn. Để tăng cường phòng thủ Đà Nẵng, Tướng Trưởng cho điều các pháo đội 175 ly đang ở phía bắc đèo Hải Vân về Đà Nẵng cùng với một chi đoàn chiến xa M48. Như vậy Thiết Đoàn 20 Chiến Xa chỉ còn hai chi đoàn M48 tại Thừa Thiên. TÁI PHỐI TRÍ LẠI LƯC LƯỢNG TẠI QK 1 Từ 1973, năm ký Hiệp Định ngừng bắn Paris, SĐ TQLC của QLVNCH vẫn nằm án ngữ tại vùng gìới tuyến để phòng thủ, bảo vệ tỉnh Quãng Trị. Vào đầu năm 1975, các lữ đoàn TQLC dàn quân dọc theo tuyến phòng thủ phía cực bắc của QK1. Lữ Đoàn 258TQLC nằm bên bờ nam sông Thạch Hản, ngay phía nam và phía tây thị xã Quãng Trị. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng quân tại vùng cực nam Quãng Trị bảo vệ mặt phía tây dẫn vào QL1 và vùng duyên hải, vùng giữa phía nam sông Mỹ Chánh và phía tây Mỹ Chánh. Tháng Giêng, 1975, SĐ TQLC bắt đầu thành lập thêm một lữ đoàn, LĐ 468TQLC.Cho tới tháng Hai, 1975, thì nhiệm vụ của SĐ là bảo vệ, ngăn chặn bất cứ cuộc tấn công nào của địch quân vào hai tỉnh Quãng Trị và Thừa Thiên; trong trường hợp chẵng đặng đừng phải tháo lui, SĐ sẽ rút về phòng thủ cố đô Huế. Ngày 12 tháng Ba, cùng với sự di chuyễn bất ngờ của SĐ Dù từ Đà Nẵng về Sàigòn để bảo vệ thủ đô và Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Trưởng, Tư Lệnh QĐ1 nhận được lịnh phải ưu tiên bảo vệ Đà Nẵng bằng mọi giá. Ông lập tức cho Tướng Lân biết việc thay đôi chiến lược này, và ra linh Tướng Lân chuẫn bị sẵn sàng kế hoạch tái phối trí các đơn vị thuộc SĐ TQLC để trám vào các chỗ trống do lực lượng Dù rút đi, đồng thời nhận lãnh trọng trách bảo vệ Đà Nẵng. Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ sau khi có quyết định rút SĐ Dù về Sàigòn, SĐ TQLC theo lịnh của Tướng Trưởng đã cho phối trí lại lực lượng, chuyễn hai lữ đoàn đang nằm tại Quãng Trị về phía nam. Lữ Đoàn 147 từ nam Mỹ Chánh rút về Phong Điền, đóng quân dọc hai bên QL1, theo hình cánh cung với Tiểu Đoàn 4 ở phía tây và nam, và Tiểu Đoàn 7 dàn quân về phía đông thị xã này. Tướng Lân cũng cho Lữ Đoàn 369 TQLC chiếm lĩnh vị trí ở khu vực bắc và tây Đà Nẵng; Lữ Đoàn 258 TQLC phụ trách bảo vệ khu vực sườn phía nam của thành phố. Riêng Lữ đoàn tân lập 468 TQLC đựơc Bô TTM chỉ định thay thế cho lực lượng Dù rút đi. Ngay ngày hôm sau, 19 tháng Ba, 1975, Bắc quân vượt lằn ranh ngưng chiến, tràn vào Quảng Trị! Trong lúc QĐ 1 đang tiến hành việc tái phối trí lực lượng, Cộng quân mỡ những đợt tấn công dữ dội vào Tiểu Đoàn 4 và 5 thuộc LĐ 147 TQLC vừa rút về quận Phong Điền. Không còn quân trừ bị trong tay, Tướng Lân đành ra lịnh cho LĐ 147 TQLC vừa đánh vừa lui về phòng thủ Huế. NGÀY 17.3.1975: Mặt Trận Quảng Tín Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tân Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín -Trong ngày 16-17/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đã tung quân tấn công cường tập khu vực Bình Tú, thuộc quận Thăng Bình và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh (trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo tình hình, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đã điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đã tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân). POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:20 PM TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 3 NGÀY 17-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG TÂY NINH – GÒ DẦU HẠ - KHIÊM HẠNH Hai tiểu đoàn còn lại của Trung Đoàn 48 BB vẫn nằm án ngữ bảo vệ Gò Dầu Hạ. Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48BB đụng độ với một đơn vị cấp đại đội quân chính qui BV tại phía tây sông Vàm Cỏ Đông vào ngày 17 tháng Ba, giết chết 36 lính BV, tịch thu một số vũ khí và đan dược. Nhưng tiền đồn Cầu Khói, phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 351 ĐPQ, trên LTL 26, về phía bắc thị xã Tây Ninh đã bị Bắc quân tràn ngập. Tuyến phòng vệ ngoại vi của Tây Ninh và Hậu Nghĩa bắt đầu gãy vụn nhanh chóng sau khi Cầu Khói bị địch chiếm. Sau những trận mưa pháo dữ dội, Trung Đoàn Đặc Công 367, SĐ 5 chính qui BV tiến vào Đức Huệ ngày 21 tháng Ba, chiếm các vị trí tại phía tây nam của thị trấn trọng yếu Trảng Bàng trên QL1. Nếu Bắc quân chiếm được Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ và toàn vùng Tây Ninh sẽ bị cô lập. Bảo vệ cho mặt bắc của phi trường Tây ninh là một tiền đồn chính trên QL13. Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân tấn công tràn ngập tiền đồn này. Quân trú phòng tại đây rút lui về một vị trí phòng thủ khác tại phía nam. Nhưng ngày 23, Công quân tiếp tục tấn công chiếm giữ vị trí này, như vậy chu vi phòng thủ tại khu vực bắc Tây Ninh chỉ còn trong phạm vi hạn hẹp 10 km chiều sâu. Tại khu vực phía đông Tây Ninh, Bắc quân vẫn tiếp tục duy trì áp lực vào cứ điểm trọng yếu Khiêm Hạnh. Nằm ngay phía bắc Gò Dầu Hạ, Khiêm Hạnh là một cứ điểm quan trọng, với nhiệm vụ ngăn chặn các đơn vị Cộng quân tiếp cận QL1 từ phía bắc, cũng như chiếm Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng. Từ Trảng Bàng, QL1 là trục lộ giao thông nhanh chóng nhất đi qua Bộ Tư Lệnh SĐ 25 tại Củ Chi, và thẳng về phi cảng Tân Sơn Nhất của thủ đô Sàigòn. TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2 NGÀY 16.3 ĐẾN NGÀY 21-3.1975: TRÊN ĐƯỜNG LIÊN TỈNH LỘ 7B Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công phục kích ‘ -Trong ngày các ngày 16-17-18/3/1975, tại liên tỉnh lộ 7b đoàn quân Triệt thoái ra khỏi QK2 gặp rất nhiều khó khan trên đường di chuyển vì đường hư hỏng rất nặng, đoạn đường di chuyển quá dài mà không có sự chuẩn bị chu đáo về phần an ninh, dân chúng chạy theo xen kẻ vào các cánh quân triệt thoái làm rất khó khăn trong vấn đề bảo đảm an ninh trên đoạn đường di chuyển , Việc tiếp tế lương thực thực phẩm đạn dược cho các lực lượng triệt thoái gặp rất nhiều khó khăn . Các cầu cống trên LT lộ 7B nầy hư hỏng nặng. đặt biệt cây cầu bắc qua sông Ba bị đáng sập 100% từ lâu. Khi đoàn quân di chuyển đến địa điểm nầy đã không thể qua sông được phải chờ lực lượng Cộng binh bắc lại cầu . Nhân cơ hội nầy Cộng quân tung lực lượng truy kích chúng ta . chúng chiếm giử mốt số vị trí hiểm yếu trên Liên tỉnh lộ 7B và phục kích đoàn quân triệt thoái, đồng thời sử dụng tối đa hỏa lực hùng hậu về pháo binh của chúng bắn vào đoàn quân của chúng ta gây thiệt hại nặng cho ta. POSTED BY SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH AT 7:20 PM TỪ BAN MÊ THUỘT ĐẾN CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN Mỗi năm khi đến ngày TƯỞNG NIỆM mất BAN MÊ THUỘT chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động và cảm thương cho biết bao chiến sĩ anh hùng của QLVNCH và người dân đã chết oan khiên trong những ngày lữa khói đó, đặc biệt là những mất mát không đáng có trên con lộ máu 7 B trên đường triệt thoái kinh hoàng đầy máu và nước mắt. Tiêng tên tuổi Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lịnh Quân Ðoàn II và Quân Khu II luôn luôn được nhớ đến cùng với sự thất thủ Ban-mê-thuột và cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên, mở đầu sự tan rã của QLVNCH như là một lực lượng chiến đấu vô cùng hữu hiệu trong suốt hai thập niên và sự sụp đổ của VNCH vào tay CSBV. Sự kiện bi thảm đó đã trở thành một cơn “hội chứng” đối với người dân miền Nam, và mỗi lần nhớ lại biến cố, tên tuổi ông Nguyễn Văn Thiệu lại được gợi đến với tất cả lỗi lầm và trách nhiệm duy nhứt của cá nhân ông. Dĩ nhiên, với tư cách Tổng thống và Tổng Tư lịnh QLVNCH, ông Thiệu phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu. Tuy nhiên, nhìn lại biến cố và bài học quá khứ, chúng ta cũng cần nên có cái nhìn thành thật và công bằng rằng trách nhiệm lịch sử đưa đến sự đánh mất miền Nam không hề nằm trên trách nhiệm đơn độc của một cá nhân nào, cũng như những trang chiến đấu của QLVNCH phải được viết bắt đầu từ hố cá nhân của người lính đi lên, chớ không phải từ trên trực thăng bay cao của ông tướng nhìn xuống. Sự tin tưởng thông thường đến nay đều cho rằng việc thất thủ Ban-mê-thuột và cuộc rút bỏ Cao Nguyên xuất phát từ lịnh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hồi còn trong tù cải tạo của CS, tôi có lần được nghe một anh bạn tù kể lại trận đánh Ban-mê-thuột. Ðơn vị của anh sắp sửa chiếm lại được thành phố thì đột nhiên được lịnh rút trở ra. Cho đến lúc vào tù CS, anh cũng không hiểu tại sao có cái lịnh quái ác đó. Rồi chúng tôi kết luận chỉ có ông tổng thống và tổng tư lịnh mới có quyền ra lịnh đó mà thôi. Người anh của tôi đi lính Biệt Ðộng Quân bị chết mất xác trong cuộc rút lui thảm khốc đó. Anh bạn tù của tôi bây giờ không biết ra sao. Cũng không biết được rằng giờ đây anh đã biết được những thực tế phũ phàng của quá khứ hay chưa ? Tất cả những sự kiện và chi tiết của bài viết dưới đây đều được căn cứ chủ yếu trên các quyển sách “Cruel Avril” (Éditions Robert Laffont, Paris, 1987) của Olivier Todd và “Vietnam at War” (Sedgwick & Jackson Publishers, London, 1989) của Lt. General Phillip B. Davidson, US Army (ret.) (NGỪNG TRÍCH ) Tướng Phú, với cương vị tư lịnh tại mặt trận, đã đóng góp vào sự thất thủ nhanh chóng của Ban-mê-thuột bằng Lỗi LẦM tai hại của ông. Mặc dầu trước đó đã được các tin tức từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài-Gòn, cũng như của chính Ðại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng Tình báo QÐ II, báo động những cuộc chuyển quân khác thường của nhiều đại đơn vị cộng sản trong vùng mà mục tiêu chính nhắm vào Ban-mê-thuột, tuy nhiên cho đến phút cuối cùng Tướng Phú vẫn tin rằng quân CS sẽ tấn công Kontum hoặc Pleiku, nơi đặt đại bản doanh của ông. Chỉ đến đầu tháng ba Tướng Phú mới miễn cưỡng chuyển Trung Ðoàn 53/23BB về tăng cường Ban-mê-thuột, đưa lực lượng phòng ngự thành phố lên khoảng 2.000 ! (NGƯNG TRÍCH) Trong một khoảng thời gian giữa ngày 11 hoặc 12 đã xảy ra một sự “ô nhục” cho QLVNCH. Trước khi cuộc tấn công của quân CS, Liên đoàn 23BÐQ đóng ở Buôn Hồ, khoảng ba chục cây số bắc Ban-mê-thuột. Khi các lực lượng Cộng quân bắt đầu tràn được vào trung tâm Ban-mê-thuột, LÐ 23 được lịnh tiến về giải toả thành phố. Sau khi đánh tan các nút chận của quân CS, LÐ 23 tiến được vào các khu vực ngoại ô của Ban-mê-thuột và đang dồn các lực lượng địch quân trước mặt trở vào trung tâm thành phố, nơi Sư đoàn 320 CSBV vừa mới chiếm giữ một cách lỏng lẻo. Ðúng ngay giữa thời cơ ấy, Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, chỉ huy cuộc phản công từ một trực thăng bay trên cao, ra lịnh cho LÐ 23BÐQ ngừng tấn công và rút lui trở ra để lập một khu an toàn cho trực thăng đáp xuống di tản vợ con ông đang trú ẩn trong một căn cứ huấn luyện ở phiá đông-nam ngoài thành phố. Khi cuộc di tản gia đình ông tướng xong xuôi, LÐ 23BÐQ quay trở lại tiếp tục cuộc tấn công, để chỉ gặp các ngõ vào đã bị những lực lượng địch quân to lớn khoá chặt. Cơ hội duy nhứt để chiếm lại trung tâm thành phố trước khi quân CSBV củng cố được vị trí đã bị Tướng Tường hy sinh. (NGƯNG TRÍCH) Ðể giúp Tướng Phú lấy lại Ban-mê-thuột, Bộ TTM cho bốc đơn vị trừ bị cuối cùng, Liên đoàn 7BÐQ, đến Kontum để thay thế cho Trung đoàn 44 và Trung đoàn 45 thuộc Sư đoàn 23BB. Hai đơn vị sau cùng nầy được trực thăng vận đến Phước An, từ đó sẽ tấn công theo hướng tây để chiếm lại Ban-mê-thuột và phi trường (vẫn còn trong tay Trung đoàn 53 cố thủ). Chuẩn tướng Tường, ông tướng đã sử dụng các BÐQ để di tản vợ con, lãnh trách nhiệm điều động cuộc phản công. Lực lượng phản công của Tướng Tường được trực thăng vận xuống Phước An ngày 15 và lập tức rơi vào hỗn loạn. Ban-mê-thuột là hậu cứ của hai Trung đoàn 44 và 45. Tất cả gia đình vợ con các binh sĩ đều tập trung ở đó. Khi vừa đặt chân xuống Phước An, thay vì lập đội hình để chiến đấu, phần lớn các binh sĩ tự động phá hàng ngũ và chạy đi tìm vợ con mình, theo gương ông tướng của họ. Khi đã gặp được vợ con, các binh sĩ lột bỏ quân phục và vất hết võ khí và lên đường cùng với gia đình của họ tìm về Nha Trang. Và như thế, cuộc phản công tái chiếm Ban-mê-thuột sụp đổ một cách thảm hại ngay cả trước khi bắt đầu. Tướng Tường, ông tướng đã làm ung thối cuộc phản công của LÐ 23BÐQ, lại một lần nữa ghi thêm thành tích làm ô nhục QLVNCH của ông ta. Một tràng đạn của Cộng quân quét trúng trực thăng của Tướng Tường. Một mảnh kim khí làm ông tướng bị trầy nhẹ nơi mặt. Thay vì chỉ cần dán lên đó một miếng băng cứu cấp cá nhân và tiếp tục nhiệm vụ chỉ huy, Tướng Tường tự mình báo cáo bị thương về cho Tướng Phú ở Pleiku và ra lịnh cho trực thăng bay thẳng về một bịnh viện an toàn ở Nha Trang. Tôn Quang Tuấn (19.6.1999) LIÊN TỈNH LỘ 7 B CON ĐƯỜNG TRIỆN THOÁI ĐẦY MÁU VÀ NƯỚC MẮT Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lãnh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 Sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku – Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Đông, Tây, Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7 không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7, kế hoạch được chấp thuận. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 BĐQ và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7. Tỉnh Lộ 7 từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7 trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông. Ngày 16-3 đoàn xe quân sự bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, để lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc di tản. Cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1,200 xe cộ . Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn. Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, tình hình đã không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái. Ngày 18-3 Liên đoàn 7 BĐQ đang cùng Thiết giáp diệt các chốt CS. Thì xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến tình hình càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, CS pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xã gây nhiều tử thương cho quân dân di tản. Các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. Từ ngày 16-3 –1975 Sư đoàn 320 CS Ở Buôn Hô (Ban Mê Thuột) gần đoàn quân triệt thoái được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá, đến 18-3 lực lượng lớn của BV tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn, các Liên đoàn BĐQ, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của ta để truy kích đánh phá, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới. Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để rút về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng quân đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BĐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng. suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu. Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ vì một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. CSBV tổ chức các chốt chặn đường, một Tiểu đoàn ĐPQ và một Tiểu đoàn BĐQ được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai Tiểu đoàn BĐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 CS (SĐ -320) gây nhiều thiệt hại buộc Trung đoàn nầy phải rút lui. BV đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh cho Tướng Cẩm và Bộ tham mưu lên trực thăng bay về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng Đông. Phía Tây xe tăng CS đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam địch đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 Tiểu đoàn 34 BĐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng, những người, xe còn lại của cuộc lui binh đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ còn có 300 mở đường máu tới nơi. Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Đài phát thanh VOA đã bình luận : “Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”. Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Đức Phương khi ra đi có khoảng 60 ngàn quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba tức 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BĐQ khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113. Trong Những Ngày Cuối của VNCH Tướng Cao Viên cho biết có ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh và Truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày. Chiến dịch Tái chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn có Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương với tổng số gần 3000 binh lính. Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Nhưng Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Văn Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp. Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới nhiều nghìn hay hàng vạn người. Tướng Cao Văn Viên nói: “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người” Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ xô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra, cũng có thể do CS nằm vùng tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đã ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc và phá hoại của đài BBC Luân Đôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lãnh thổ của miền Nam . Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ TT Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7 đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp. Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai, vùng trách niệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh vùng 1. Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui binh tức thì ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 6 Trung đoàn cùng với dân chúng miền địa đầu giới tuyến ồ ạt lui về Nam qua Quốc lộ I. Cộng quân thừa cơ phục kích và dùng pháo binh tần xa cùng như tầm gần tha hồ pháo kích và bắn trực xạ vào đoàn người di tản làm chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ 1 đầy các loại xe bốc cháy, gần 20.000 người vừa dân và lính bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác … Đại tá Phạm bá Hoa nói. “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa. Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công tái chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…” (Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7) Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy. Thất bại trên đường số 7 một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra sự bội tín của Tổng Thống Hoa kỳ bỏ Việt nam và tin cắt quân viện của Quốc Hội Mỹ cũng làm TT Thiệu điên đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, một phần vì TT Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy. Nhiều người cho rằng Tướng Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn. Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời, cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm. “Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhã. Đúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị cho Đại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận tình giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn vì mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông” (Cuộc Chiến Dang Dở trang 272) Theo cựu Đại tá Phạm Bá Hoa trong bài Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 nói: “Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa thì rõ ràng là quân Cộng Sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vậy Pleiku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi bốn ngày sau đó là thời gian sớm nhất chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lện Quân Đoàn , trong khi những Sư đoàn của chúng càng ở xa Pleiku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoát hơn, do đó mà thiệt hại của quân đoàn nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng…” Một điều xui tai hại là con đường đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn hô , Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp và đánh phá đoàn quân triệt thoát gây thiệt hại nặng nề. Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB, lực lượng Kỵ Binh, TĐ 82 BĐQ và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù lưc lượng tăng phái cho chiến trường Xuân Lộc cũng đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc nhưng lại lại được chỉ huy bởi Tư Lệnh chiên trường Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và có tính toán sắp xếp trật tự, Tất cả hợp đồng Binh chủng và kỷ luật thật cao nên đã đạt an toàn, ít thiệt hại, người ta đã cho di tản gia đình binh sĩ trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 và lực lượng tăng phái cho thấy sự thất bại của Quân khu 2 và 1 là. – Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh cận thận. – Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy. – Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội. – Không duy trì được kỷ luật Ngoài ra vì thiếu tin tức tình báo đoàn quân triệt thoái lại đi ngang tổ kiến VC, Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô gần đoàn di tản đã đuổi kịp sau hai ngày. Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy loạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn. Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đã để lọt vào tay địch nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác. Trọng Đạt Tài Liệu tham khảo. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam. Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003. Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988. Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987. Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005. Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006. Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990. Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing. The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1958. Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991. Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002. Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký, internet. Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004 Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005. Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005. Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 . Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006. Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004 Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas Tháng 4-2005. Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn nhỏ Dallas 28-4-2006. CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN 1975 Ngày 15 Tháng ba Khi các lực lượng SĐ23 tại Phước An bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, tình hình các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 53 tại phi trường Phung Dực càng lúc càng xấu hẳn. Các chiến sĩ SĐ23 và BĐQ tại đây dù bị những trận mưa pháo không ngừng của Bắc quân, vẫn liên tục đẩy lui những đợt tấn công biển người của Trung Đoàn 25 chính qui BV. Mặt Trận B3 địch tung thêm SĐ 316 vào trận điạ, chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng, dứt điểm tuyến phòng thủ đã tơi tả của quân ta. Đồng thời, Tướng Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh chiến dịch 275 Bắc quân, ra lịnh cho SĐ 10 BV từ Đức Lập, bôn tập lên chặn đánh chiến đoàn đặc nhiệm của QĐ2 tại Phưóc An, không để lực lượng này bắt tay vớI quân trú phòng còn lại của Trung Đoàn 53. SĐ 10 địch với chiến xa và pháo nặng yểm trợ đã chận đứng lực lượng tiền tiêu cuả Trung Đoàn 45 tạI sông Ea Nhiêu, khi chỉ còn cách các đơn vị đang bị vây hãm của Trung Đoàn 53 không đầy 10 cây số. Hoàn toàn không có chiến xa, còn không quân thì không yểm trợ được vì hoả lực phòng không dày đặc của địch, chiến đoàn đăc nhiệm của Tưóng Phú chỉ với một hỏa lực hạn chế của pháo binh yểm trợ, đã đánh những trận đẩm máu với Bắc quân trong suốt bốn ngày liền. Tiểu đoàn 2, Trung Đoàn 45, tan hàng sau những trận đụng độ ác liệt ! Khi Tưóng Tường TLSĐ23, chỉ huy chiến đoàn bị thưong nhẹ, tự ý di tản khỏi chiến trường bằng trực thăng, tinh thần chiến đấu cuả binh sĩ suy sụp và lực lượng phản công của hai Trung Đoàn còn lại của SĐ23 BB hoàn toàn tan rả!! Lực lượng đặc nhiệm thứ hai gồm 5 tiểu đoàn ĐPQ của TK Khánh Hòa cũng bị chận đứng tại đèo Khánh Dương. Ngày 18 tháng ba, các binh sĩ sống sót của Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 53, tại phi trường Phụng Dực, sau tám ngày không được tiếp tế lương thực và đạn dược, phải mở đường máu rút lui! Ngày 21 tháng ba, Những đơn vị tơi tả, còn lại của SĐ23 được bốc về Cam Ranh để chỉnh trang và tái phối trí. Trong lúc đó cuộc triệt thoái từ Pleiku đã khởi sự tiến hành. Bắc quân vẫn chiếm giữ các cao điểm tại Khánh Dương và vùng chung quanh, dọc QL21, mặc dầu lực lượng của Tiểu Đoàn 2 và 3 thuộc Trung Đoàn 40, SĐ22 BB đưọc điều qua từ Bình Định, mở những cuộc phản công ác liệt để chiếm lại những cao điểm này, nhưng không kết quả! Lữ Đoàn 3 Dù, từ mặt trận Thường Đức, trên đường về bảo vệ Sàigòn, bằng hải vận hạm của Hải quân VN, đã được linh đổ quân xuống Nha Trang, tức tốc lên Khánh Dương, chặn bước tiến cuả SĐ10 địch đang từ Tây Nguyên tràn xuống. Mục tiêu đặt ra trước mắt của QĐ2 là tái phôí trí các lực lượng còn lại, hoàn tất việc di tản khỏi Pleiku, Kontum, và chận đứng bước tiến như thác lũ của các binh đoàn Bắc quân, đang ào ạt tràn xuống bình nguyên, theo đường 21. “Đêm Tây Nguyên trời không muốn sáng Em chạy phương xa có ngóng về Có thấy trăng vàng lên xác mẹ Lên xác người nằm khắp nẻo quê ?!” ( Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ ) Cuộc triệt thoái khỏI Tây Nguyên của QĐ2 được bảo mật tuyệt đối. Tướng Phú hy vọng yếu tố bất ngờ sẽ giúp lực lượng QĐ2 có thễ rút về được Tuy Hòa trước khi địch quân phát giác. Chỉ một số ít sĩ quan trong ban tham mưu QĐ và một vài chỉ huy trưỏng đơn vị được thông báo quyết định rút quân. Còn các tiểu khu trưởng Kontum, Pleiku, Phú Bổn, chỉ đoán được ý định của quân khu vào giờ phút chót khi thấy các đơn vị quân chính qui của QĐ bắt đầu di tản. Kế hoạch triệt thoái được phát thảo vộI vả, đại cương, những mệnh lệnh hành quân chi tiết, cụ thể đều không hề có. Ngay cả vấn đề dân chúng sẽ đổ xô di tản theo đoàn quân khi biết được QĐ rút đi, cũng không hề được dự liệu trước. Hậu quả là đội hình chiến đấu của cả một quân đoàn không thể triển khai nhanh chóng và hiệu quả khi đụng địch vì dân chúng ở lẫn lộn trong hàng ngủ các binh sĩ làm họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiến đấu. Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2 có trình xin Tưóng Phú cho một tuần lể, hay ít nhất cũng đươc ba ngày để lập kế hoạch rút quân, nhưng Tướng Phú không tán thành điều này. Ông chỉ cho thời hạn một ngày là toàn bộ QĐ phảI triển khai phương án di tản, không được phép chậm trể! Và lịnh di chuyễn chỉ được phổ biến xuống các đơn vị đúng một tiếng đồng hồ trưóc khi khởi sự hành quân triệt thoái. Trong lịch sữ cổ kim, chưa hề có cuộc lui quân cấp QĐ nào mà thờI gian chuẩn bị chỉ có được một ngày, trừ trưòng hợp phải tan hàng, tháo chạy!! Sự thiếu chuẩn bị cũng là một nhân tố chính trong việc làm tan nát đoàn quân, cho dù đoàn quân đó có thiện chiến đến đâu đi nữa, chắc chắn cũng không tránh khỏi thảm bại khi bị địch quân truy đuổi ! Tướng Phú hiểu rõ LTL7B là con đường bị bỏ hoang và hư hỏng nhiều chỗ, nên ông ra lịnh cho Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu đi tiền tiêu để phụ trách việc sữa chữa,tu bổ những đoạn đường và cầu cống bị hư hại-. Ngày 16 tháng Ba năm 1975, QĐ2 bắt đầu cuộc triệt thoái bốn đợt. Mỗi đợt gồm khoãng 250 xe GMC, được một chi đoàn M48 thuộc Thiêt Đoàn 21 Chiến Xa yểm trợ. Các tiểu đoàn của năm LĐ BĐQ vẫn còn nằm án ngữ bảo vệ Kontum và Pleiku, cùng với một chi đoàn chiến xa M48 khác, làm lực lượng đoạn hậu cho QĐ, sẽ rút sau cùng vào ngày 19 tháng Ba. Các đơn vị tiếp vận, quân cụ, và pháo binh được lịnh di tản trong đợt đầu tiên và đợt ngày 17 tháng Ba. Các đơn vị Quân Cảnh, các phòng, sở thuộc QĐ, và thành phần còn lại của Trung Đoàn 44 BB rút trong đợt ngày 18 tháng Ba. Theo kế hoạch dự trù thì lực lượng diện địa của các Tiểu Khu Kontum, Pleiku, Phú Bổn sẽ phụ trách việc bảo vệ an ninh dọc đường rút lui, một nhiệm vụ gần như không tưởng, vì chính họ là những đơn vị sẽ bị QĐ bỏ lại!! Lực lượng triệt thoái của QĐ2 bao gồm 1 tiểu đoàn của Trung Đoàn 44; 6 Liên Đoàn BĐQ: LĐ 4, 25, và LĐ 7( vừa được Bộ TTM tăng cường cho QK2 ) đang nằm tại Pleiku; LĐ 6,22,23 ở Kontum; Thiết Đoàn 21 Chiến Xa; 2 tiểu đoàn pháo 155-mmm Howitzer; 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 175 ly; Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận. Ngày 16 tháng ba, lệnh triệt thoái được ban hành. LĐ 6 BĐQ, bảo vệ phía đông bắc thị xã Kontum, rút về thị xã Pleiku ngày hôm trước.Hai LĐ 22, 23 BDQ, từ phía bắc và tây bắc Kontum, rút về Pleiku ngày kế tiếp. Vào lúc này, một đơn vị của Trung Đoàn 44 BB và các LĐ 7,25 BĐQ vẫn còn án ngữ bảo vệ phía tây thị xã Pleiku. Một tiểu đoàn của LĐ25 BĐQ đang đụng độ ác liệt với lực lượng chính qui BV tại Thanh An. Tướng Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái, cho dời Bộ Chỉ Huy nhẹ của ông về Cheo Reo, Phú Bổn. Ông thay đổi kế hoạch, đưa một LĐ BĐQ theo yểm trợ cho LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu trong trọng trách đi tiền tiêu. Chính nhờ quyết định này mà các đơn vị công binh của LĐ 20 có được sự yểm trợ cần thiết để thi hành nhiệm vụ vì các lực lượng điạ phương của Phú Bổn, cũng như của Kontum, Pleiku đều không hề bảo vệ an ninh lộ trình như kế hoạch dự trù, vì chính họ khi biết bị bỏ rơi đã di tản theo đoàn quân, hoặc tự ý rả ngũ! Ngày 16 tháng ba, lực lượng điạ phương địch dùng hoả tiển 122 ly pháo dữ dội vào thị xã Cheo Reo. Địch quân đã bắt đầu đánh hơi được động tĩnh của đoàn quân di tản! Tại Chỉ Huy Sở Măt Trận B3 Bắc quân, Tướng Văn Tiến Dũng nhận được báo cáo của đơn vị kiểm thính, vừa chặn bắt đươc điện đàm vô tuyến của Không Quân miền Nam cho biết hầu hết các máy bay từ phi trường quân sự Pleiku đã cất cánh bay về Nha Trang, mặc dầu phi trường này vẫn chưa bị pháo kích nặng, và các điện đàm của QĐ2 cho biết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của QĐ đã dời về Nha Trang. Các đài phát thanh ngoại quốc cũng loan tin dân chúng Pleiku đang đổ xô di tản về Saigòn bằng máy bay của hãng Hàng Không Việt Nam. Chiều ngày hôm ấy, một tổ trinh sát báo cáo về Sở Chỉ Huy Bắc quân, một đoàn công voa dài đang di chuyễn xuôi nam về hướng Phú Bổn. Tưóng Dũng ra lệnh báo đông cho Trung Đoàn 95 B chính qui BV đóng dọc QL19, SĐ320 tại phía bắc Ban Mê Thuột trên QL14, và SĐ10 tại QL21, theo dõi tình hình, vì lực lượng QĐ2 đang có những cuộc tái phối trí quan trọng. Sau khi đưọc báo cáo LTL 7B vẫn còn có thể xử dụng được, và đoàn công voa rất dài của QĐ2 đang tiến vào Cheo Reo, Tướng Dũng nổi giận, ra lịnh cho SĐ 320 tức tốc bôn tập về hướng Phú Bỗn để chặn đánh đoàn quân di tản. Ngoại trừ những cuộc pháo kích bằng hỏa tiển 122-ly vào ngày 16, tháng ba, Bắc quân chưa có phản ứng gì đáng kể cho mãi tới tận ngày 18.Trong lúc tình hình thật khẩn cấp như dầu sôi lửa bõng, LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu vẫn chưa hoàn tất được cầu phao qua sông Ea Pa, nằm về phía đông tỉnh lỵ Hậu Bổn (Cheo Reo), vì không đủ phương tiện cần thiết!. Đoàn công voa hoàn toàn kẹt cứng tại Cheo Reo và dọc trục lộ ngược về tận hướng ngả ba giao lộ giữa LTL7B và QL14.Chiều 18 tháng ba, SĐ320 BV khởi sự tấn công đoàn xe di tản tại thung lũng Cheo Reo bằng tất cả sức mạnh cuả hoả lực pháo nặng, cối 82 ly, và bộ binh xung kích. Cơn thịnh nộ cuồng điên của cấp chỉ huy và binh lính phương Bắc đã đỗ ập lên đầu hàng trăm ngàn thường dân vô tội và binh sĩ trên đoàn xe triệt thoái. Địch bắn xối xã vào mục tiêu bằng tất cả những gì có được trong tay. Từ đại pháo 130 ly, hoả tiển 122 mm, cho tớI B40, 41, thượng liên và súng cá nhân. Xác người già cả, thanh niên, đàn bà, trẻ em, tung toé trong tiếng nổ rền của đạn pháo. Những chiếc xe dân sự lẫn quân sự trúng đạn nỗ tung, bốc cháy, lửa khói mịt mù. Từng đoàn ngườI hốt hoảng, nhảy xuống xe tìm chổ trú ẩn ven đường, biến thành những tấm bia thịt di động cho lính BV tác xạ tự do. Thây người rụng ngã hết lớp này đến lớp khác, chồng chất lên nhau trong những tiếng thét gào đớn đau, tuyêt vong của cha gọi con, vơ gọi chồng, con thơ khóc ngất trong vòng tay đã đẫm đầy máu ấm cuả ngườI mẹ, trong những giây phút cuối cuả cuộc đờI, cố dùng thân thể đã loang lổ vết đạn thù che chở cho con! Ôi ! Các tướng lãnh Bắc quân thật quả lòng gang dạ sắt! Ra lệnh tàn sát quân thù không nương tay bất kể kẻ thù đó là đàn bà, con dại, hay những người dân thường vô tội, không một tấc sắt trong tay!! ĐạI Tá Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2, đến Bộ Chỉ Huy nhẹ của đoàn quân triệt thoái đóng tại Cheo Reo vừa kịp lúc để ra lịnh cho Liên Đoàn 23 BĐQ tiến chiếm đèo Ban Bleik, một điểm chiến lược trọng yếu, ngay phía tây thị xã Cheo Reo. BĐQ đã chặn đứng những đợt tấn công vũ bảo của quân BV vào cạnh sườn của đoàn công voa, bảo vệ cho LĐ 20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ea Pa. Đoàn công voa tiếp tục cuộc hành trình trên chăng đường điạ ngục còn lại trong cái đói khát, cái rét căm căm cuả rừng núi về đêm, và lửa đạn của quân thù bắn không thương tiếc lên đầu.Những thân xác già nua, những trẻ thơ, rơi rụng từ đoàn xe xuống, hay gục ngã bên đường vì kiệt lực, bị xe cộ tranh đường chạy, cán nát người, hay thoi thóp nằm chờ chết trong những kinh ngạc của phút giây cuốI cùng của cuộc đời, vì ai nên nổi ?! Vì sự bất xứng, vô trách nhiệm cuả cấp lãnh đạo miền Nam hay vì sự bạo tàn của người Cộng Sản phương Bắc?! Cùng ngày 18 tháng Ba, Bộ Tư Lệnh QĐ2 cuả Tướng Phú (đã di tản về Nha Trang hôm 16 tháng Ba), cho trực thăng bốc Đaị Tá Lý khỏi vùng Cheo Reo, Phú Bổn ! Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó QĐ2 cũng đã tự ý bay về Tuy Hòa, chỉ một ngày sau khi Tướng Phú cùng bộ tham mưu của ông bay về Nha Trang! Như vậy, chỉ còn mỗi một mình Tướng Tất là sĩ quan cao cấp nhất đi theo đoàn quân di tản! Chiều ngày 20 thàng Ba, khi Tướng Tất cùng lực lượng của ông vừa rút tới thị xã Cheo Reo bằng đường bộ, Tướng Phú cho trực thăng bốc ông cùng Tỉnh Trưởng Phú Bổn về Nha Trang, và đoàn quân triệt thoái kể từ giờ phút này đã thật sự như rắn mất đầu, vì không còn một ai trách nhiệm nữa!! Sự triệt thoái bất ngờ của QĐ2 đã làm Tướng BV Văn Tiến Dũng, hoàn toàn kinh ngạc, nhưng đầy sãng khoái. Tướng Dũng tự hỏi, chính ai đã ra lịnh lui quân khỏi Tây Nguyên? Nếu quả thật Sàigòn đã ra lịnh đó, thì đây không những là một lầm lổi chiến lược không thể tha thứ, mà còn là một vấn đề vượt khỏi tầm mức chiến dịch mà Mặt Trận B3 đang đảm trách, thuộc về một tầm vóc chiến lược khác rộng lớn hơn. Tướng Dũng ngay lập tức hạ lịnh cho tất cả các đơn vị thuộc B3 phải chặn kín LTL7B, với mục tiêu rõ rệt không phải chỉ đánh bại mà là tiêu diệt toàn bộ lực lượng của QĐ2. Ngày 21 tháng Ba, SĐ 320 BV với quân số và hỏa lực áp đảo, đã tràn ngập vị trí phòng thủ của LĐ23 BĐQ tại Cheo Reo, cắt đoàn di tản ra làm hai khúc. Hơn 160,000 dân và các LĐ BĐQ 4, 25 bị kẹt lại đàng sau và thành phần sống sót của LĐ23BĐQ. Tướng Phú ra lịnh cho các LĐ BĐQ đi đoạn hâu, bỏ đường lộ chính, cắt rừng, tìm đường thoát hiểm. Pháo và hoả lực súng nhỏ của địch vẫn tiếp tục bắn như mưa vào đoàn xe đang kẹt lại phía sau. Các đơn vị đoạn hậu của LĐ4, và 25 BĐQ, đánh vùi suốt đêm với lực lượng Bắc quân, bảo vệ cho khúc đuôi của đoàn xe chạy thoát vào rừng! Xác lính áo rằn hòa lẫn xác dân, nằm rải rác khắp nơi; máu loang thành vũng ven đường! “ Có em lạc mẹ bên lề trận, Có núi rừng xanh cũng ngậm ngùi! ” (Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ) Sáng ngày 19 tháng Ba, Những xe đầu tiên của đoàn công voa đã tới được sông Cồn, cách Cũng Sơn 18 cây số về phía đông, và khoảng 2/3 chặng đường từ Cheo Reo tới điểm đến, Tuy Hòa. Nhưng khúc đuôi của đoàn xe di tản tơi tả vẫn còn lết thết mãi tận thị xã Cheo Reo, nơi những đoàn ngưòi tỵ nạn vẫn tiếp tục tràn vào những đường phố rải đầy xác chết. Tại khúc lòng cạn của sông Cà Lúi, 25 km phía tây bắc Cũng Sơn, một số chiến xa M48 bị mắc lầy khi vượt sông. LĐ 7BĐQ đụng nặng với quân truy kích của SĐ 320 BV. Các phi tuần A37 từ phi trường Nha trang đựơc gọi lên yểm trợ, đã oanh kích dữ dội vào vị trí của quân BV đang tấn công các đơn vị BĐQ bảo vệ đoàn xe. Nhưng một trong những máy bay yểm trợ quân bạn, đã nhầm lẫn đánh bom vào vị trí của BĐQ đang ác chiến với quân chính qui BV, gây thiệt hại nặng cho cả một tiểu đoàn của LĐ7! Tình hình đã rối rắm lại càng thêm rối rắm! Mệnh lệnh và kỹ luật hầu như không còn tồn tại nữa!! Thiết đoàn trưởng thiết đoàn M48, đơn vị chiên xa hộ tống đoàn công voa gần như không còn chỉ huy được đơn vị của mình, dầu rằng khoảng 10 chiên xa M48 vẫn còn có khả năng tác chiến. Khi thành phần đầu tiên của đoàn công voa tới được bờ sông Ba, cách Cũng Sơn khoãng 10 km về phía đông, họ mới vở lẻ đoạn đường dẫn vào Tuy Hòa của LTL7B đầy rẩy những mìn bẩy do quân đội Đại Hàn gài trước đây, không thể nào phá hủy gấp rút được! LĐ 20 Công Binh chiến đấu được lịnh bắt cầu phao qua sông Ba, và Hương Lộ 436, chạy dài theo bờ phía nam sông Ba được chọn đề đưa đoàn công voa về Tuy Hoà. Dự đoán được điều này, địch quân đã đóng chốt kín đoạn đường dài khoãng 2 cây số dọc Hương Lộ 436, phía đông nhánh tẻ của sông Ba, ngăn cản việc chuyên chở các đoạn cầu phao từ Tuy Hòa tới. Bộ Tư Lệnh QĐ2 lập tức cho điều TĐ 206 ĐPQ, một trong những tiểu đoàn diện địa thiện chiến nhất của Quân Khu 2, tấn công các chốt của Cộng quân tại dãi đưòng này từ phiá đông tới, trong lúc đó Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với 16 chiếc M113 yểm trợ, tấn công từ phía Tây qua sau khi vượt qua khúc lòng cạn của sông Ba. Ngày 20 tháng Ba, Những xe tải nặng và chiến xa đã xé toạt khúc lòng cạn của sông Ba khiến xe cộ đi sau không thể nào vượt qua được. Trực thăng Chinook CH-47 cuả QĐ2 được lịnh chuyên chở các tấmđan thép lổ thả xuống chỗ khúc đáy sông cạn cho đoàn xe vượt qua, đồng thời trục các đoạn cầu phao nổi đến cho Công Binh bắt cầu qua sông Ba tại điạ điểm cách đó khoãng 1500 mét về phía hạ lưu. Vào ngày 21 thàng Ba, đoàn xe tập trung xung quanh khúc lòng cạn và điạ điểm cầu phao, phía đông Cũng Sơn chờ vượt sông. Trong lúc đó thành phần BĐQ đi đoạn hậu bị địch cắt làm đôi, tơi tả tại Cheo Reo. Phần lớn các tiểu đoàn của LĐ 6,7,22 BĐQ đã vượt qua được sông Cà Lúi, các LĐ 4,23,và 25 BĐQ còn kẹt lại phía sau lưng của SĐ 320BV, lúc này đang ào ạt tiến về phía Cũng Sơn. Ngày 22 tháng Ba, Trung Đoàn 64 thuộc SĐ320 Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào vị trí của LĐ 6 BĐQ, đang yểm trợ cho LĐ20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ba, tại phía tây Cũng Sơn, nhưng bị đẩy lui. Một đoạn cầu phao đã sập khi đoàn xe ùn ùn kéo lên cầu; nhưng Công Binh đã nhanh chóng sữa chữa và một số lớn xe đã vượt qua được bờ nam của sông Ba, để đụng đầu ngay với các chốt kiềng của Bắc quân đóng dày đặc dọc hương lộ 436, khúc đuờng qua xã Mỹ Thạnh Tây. Trong lúc Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đánh đoạn hậu bảo về đoàn công voa tại khúc đường hẹp, cách Cũng Sơn khoãng 7 km về hướng tây bắc, thì Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công về hướng đông Hương Lộ 436 để nhổ các chốt địch. Tới lúc này thì LĐ 6 BĐQ là đơn vị tác chiến duy nhất còn có sự chỉ huy chặt chẻ trong đoàn quân triệt thoái, 3 tiểu đoàn còn sót lại trong tỗng số 18 tiểu đoàn của các LĐBĐQ bảo vệ đoàn công voa di tản trong cuộc trường chinh vượt qua trận địa sát của Bắc quân tại Cheo Reo, Phú Bổn ! Lực lượng cuả Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đẩy lui cuộc tấn công dữ dội của Trung Đoàn 64 chính qui BV, đêm 23 tháng Ba, giết chết 50 lính BV và tịch thu đuợc 15 vũ khí đủ loại. Hai tiểu đonhưngàn này được một lực lượng yểm trợ gồm 15 chiến xa M41, 8 M48, 11 khẩu pháo 105 ly howitzers, và 2 khẩu 155 mm. Hai trực thăng Chinook được lịnh tiếp tế lương khô và đạn dược cho các tiểu đoàn BĐQ trong khi các đơn vị này vừa đánh vừa lui về Cũng Sơn. Đêm 24 tháng Ba, SĐ320 BV được tăng cường thêm hai chi đoàn chiến xa T54 đã ào ạt tiến vào Cũng Sơn sau khi LĐ 6 BĐQ rút lui về Tuy Hoà. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công phá chốt địch tại xã Mỹ Thạnh Tây. Mặc dầu thời tiết xấu đã ngăn cản sự yểm trợ của không quân, lính mũ nâu đã lần lượt triệt hạ từng cụm kiềng chốt của Công quân. Ngày 25 tháng Ba, BĐQ nhổ xong chốt cuối cùng của địch, đưa đoàn công voa tả tơi vào địa phận tỉnh Tuy Hòa. Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với quân số còn chưa đầy một đại đội, quay ngược trở lại, trấn giữ hướng lộ phía tây dẫn tới Tuy Hòa! Trong tỗng số hơn 300 ngàn thưòng dân di tản theo đoàn quân triệt thoái, chỉ có khoãng 60,000 là về đến Tuy Hoà. Số còn lại vẫn không tung tích! Gần hai chục ngàn binh sĩ QĐ2 trên tỗng số hơn 60,000 quân chính qui và yểm trợ về được đến đích! Lực lượng này đã quá tả tơi, rách nát, còn mơ gì chuyện tấn công tái chiếm Ban Mê Thuột như kế họach đã dự trù! Trong lịch sữ Quân Lực VHCH, chưa hề có một cuộc rút lui nào thê thảm và tồi tệ như vậy! Đó là điềm xấu bất tường báo hiệu cho ngày tàn của một quân lưc, từng một thời làm khiếp sợ những binh đoàn lửa của Bắc quân ! Riêng 7000 quân thiện chiến của những LĐ BĐQ tinh nhuệ bậc nhất quân lực, mà trọng trách được giao phó, là đánh đoạn hậu, bảo vệ trắc diện, đi tiên tiêu, che chở cho đoàn quân dân di tản, khi về đến Tuy Hòa chỉ còn chưa được... 900 người! Ôi! Mũ Nâu, màu của vinh quang chiến thắng, hay muôn đời vẫn là màu...máu đọng ?! __________________ CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7 Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975 (và những hệ lụy sau đó) Phạm Bá Hoa * * * * * Dẫn chuyện. Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, tình hình chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đã ký tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém tình hình quân sự. Lúc bấy giờ các vị lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội liên quan đến những phản ứng sau đó, là: - Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng). - Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng). - Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên. - Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng. - Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. - Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương. - Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lý. Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Vào chuyện. Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rõ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết gì hơn. Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo: - Đại Tá Hoa tôi nghe - - Có ai ngồi gần anh không? - - Dạ không, thưa Đại Tướng - Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp: - Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành - - Vâng, tôi rõ thưa Đại Tướng - - Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? - - Thông thường thì sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ trình lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng - - Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa vì đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc thì cho họ bấy nhiêu, còn sử dụng vào công tác gì thì tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rõ chưa? - - Thưa Đại Tướng, tôi rõ - - Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu thì tùy anh- - Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng - Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là chuyện gì sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản thì tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi! Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những gì trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ! Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển hình là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lãnh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận: - Theo kế hoạch hành quân như đã trình bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại". Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vã, nhưng vất vã mà được biết đến vẫn vui lòng hơn. Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi: - Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh- - Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết - Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Mãi Dịch (đồn trú ở Sài Gòn), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ ký. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi: - Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu - - Anh có nói gì với Thiếu Tướng Phú không?- - Dạ không. Vì sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách gì giải được, thà không nói vẫn hơn - - Nghî như anh cũng phải - (Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia ) Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II vì rắn thích hợp với núi rừng". Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II: - Tôi Hoa đây anh Lý. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác gì. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? Vì chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm - - Anh cứ đưa lên đây cho tôi, còn sử dụng vào công tác gì thì không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lý. - Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu? - Anh có bao nhiêu chiếc thì đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không trình có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàigòn - - Vậy thì như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, vì một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? - - Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe - - Xong. Mình thỏa thuận như vậy nhé - Tôi trình Đại Tá Loan là vẫn không biết được gì thêm ở Quân Đoàn II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều gì. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy thì các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần vì phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ý về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lý, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku thì 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi: - Trình Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, vì người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện gì xảy ra vì không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó - - Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hãy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem tình hình ra sao đã - Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lý: - Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống thì anh phải giải toả sân bay giùm đi vì nếu chậm quá thì họ sẽ về lại Sài Gòn đó. Mà chuyện gì xảy ra vậy Anh? - - Tại vì người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi - - Thì phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe - Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn vì đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một hình ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được. Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi trình ngay cho Đại Tá Loan vì ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi vì cộng sản đã chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ... Vì sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku thì điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn: - Đại Tá Hoa tôi nghe - - Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xã Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ - - Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy thì tôi đồng ý phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh - Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về tình hình đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác vì Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy thì phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim! Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức gì khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn còn kẹt trên Plei Ku vì quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một tình hình không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho q6an cộng sản tiến vào, và bất thình lình quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. Còn về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên thì nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng gì chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lãnh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người! Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo tình hình tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, vì chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về tình hình đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Phòng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy. Chiều 18/3/1975, điện thoại reo: - Đại Tá Hoa tôi nghe - - Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn. - Anh có tin gì về anh em mình trên Plei Ku chưa? – - Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Hòa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần thì đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật xuống hố, phần thì các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đã gây tổn thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! – - Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Hòa thì cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và ký nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y thì cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? - - Được anh. Để tôi lo - - Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức gì về đoàn quân này thì anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương- Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là vì sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân phòng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku. Tôi sang văn phòng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng: - Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn phòng), anh cho tôi trình vấn đề gấp với Đại Tướng - - Anh chờ tôi một chút - - Tôi đây. Anh có chuyện gì vậy? - - Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây - - Có việc gì vậy? - - Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đã nói với nhau). - Anh có chắc là đúng như vậy không? - - Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào thì tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng - - Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe - - Vâng - Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao tình hình đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ điện thoại tôi: - Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả? - - Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đã liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay thì cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đã trình Đại Tướng - - Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe – Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. Vì cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35. Vì các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngã ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo còn sử dụng được, là vì trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ vì nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. Còn đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ gì cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, thì xác những chiếc thiết giáp của Pháp còn ngổn ngang tại đó, còn chiếc cầu bắc ngang Sông Ba thì tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà bình", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút thì xe jeep vẫn bò qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "bò" chớ không thể gọi là chạy được vì mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không còn gì để gọi là con đường nữa. Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng. Chiều tối hôm sau thì Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về tình hình từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ trình diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rõ ràng hơn. Và đây là những tin tức đó: "Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, vì vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đã quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ vì bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết gì cả). Thiếu Tướng Phú trình kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ". Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II. Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ còn nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn phòng (ông ngồi ở văn phòng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên tòa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đã được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một hình dài mà là một hình gần như tròn, vì khi phần đi đầu bị kẹt thì những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng tìm được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng thì càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đã tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tròn bằng ngòi bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đã bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, thì chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta. Những bài học chiến thuật trong trường Võ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa. Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hòa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật, ..v..v.. Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", vì rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng vì máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, thì rõ ràng là quân cộng sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đã từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi còn là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có tiếng là cấp chỉ huy can đãm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngã như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lãnh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều gì đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn) vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cõi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc! Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung thì người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng? Ngược dòng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đã thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng động cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đã đưa nước Pháp đến tình trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù gì đi nữa thì sự thể đã là như vậy rồi! Tình trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Cam Ranh. Trước ngày cuối tháng 3/1975, thì từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" vì không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, phòng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, còn lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến! Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính vì hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đã bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đã chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đã kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hãy vì danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đã thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính. ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đã thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất lì với chiến trận. Nhưng sự thể đã diễn ra như vậy, ắt phải có điều gì đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi. Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng: ‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định vì tình hình rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói gì cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rõ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lãnh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng. ‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống bãi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đã rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông: - Bây giờ thì các anh hãy tự thoát, còn tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến- ‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong thì gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào trình tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến trình Trung Tướng Trưởng: - Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng- ‘’Sau một lúc chần chừ như có ý không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng vì chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đã có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó. ‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đã quay trở lại, không rõ là do thời tiết xấu hay vì lý do gì đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ gì có chút tình cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rõ ràng là anh đang xúc động!) Sau phút im lặng vì xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp: ‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp lòng nhau. Mãi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh thì nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó thì Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài Gòn ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài Gòn ngay thì tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài Gòn. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu như đã tan rã sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài Gòn theo lệnh Tổng Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đã theo chiến hạm về Sài Gòn’’. Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đã nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã nhận của ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lãnh Sự nữa chăng! Vì rõ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đã dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rõ, nhưng có điều quí vị đều rõ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy! Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ý định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng vì cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi mãi nóí chuyện với ông, để rồi cuối cùng không còn thì giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Bây giờ xin mời quí vị quay nhìn vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xã Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xã Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xã Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này: - Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, vì chúng tôi thân nhau từ lâu. - Việc gì mà coi bộ quan trọng vậy anh? - Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xã Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo thì Bộ Xã Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không? - Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào thì tụi tôi nấu? - Ngay hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp. - Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay. - Xin cám ơn Anh - - Cái gì mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của mình chớ anh - Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi tình hình ngày càng xấu thêm ./. * * * * * Houston, cuối Đông 2003-2004 Bài viết này trích từ quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi đang chuẩn bị đ#273;ể nhà xuất bản ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm NGÀY THỨ 9 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC) NGÀY 19-3-1975 - NÚT CHẶN CUỐI CÙNG CỦA QUÂN ĐOÀN 2 TẠI KHÁNH DƯƠNG Binh Chủng Nhảy Dù 20 Năm Chiến Sự Mặt Trận Khánh Dương Từ 19/3/1975 đến 2/4/1975 Khánh Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở độ cao khoảng 1,000 met, cạnh Quốc Lộ 21, nối liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải Tỉnh Khánh Hòa, cách QL 1 khoảng 60 km. Khánh Dương là vùng đất đồi núi trong khung cảnh thiên nhiên bao quanh bởi những khu rừng già thật hùng vĩ, như che chở sự sống bình yên cho những người dân di cư trú ngụ từ bốn phương trời. Hầu hết, họ là những gia đình quân nhân di hành theo bước quân ngũ đến đây lập nghiệp sinh sống. Quanh Khánh Dương là những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu số hiền hòa sinh sống. Cách Khánh Dương về hướng Đông dọc theo quốc lộ I không bao xa, núi Đá Bia nằm trên Đèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối đá lớn trông như tạc hình ảnh mẹ bồng con đứng nhìn ra biển gọi là hòn Vọng Phu, hay còn gọi là núi Mẹ Bồng Con.( Sự tích Hòn Vọng Phu dựa theo câu truyện dân gian: Trong thời tao lọan, có hai anh em ruột vì chạy giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và cô gái gặp nhau vì không nhận ra nhau nên thương yêu nhau và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc. Thế rồi một ngày, người chồng gội đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ. Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá) Vào những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng trên cao nguyên, phòng thủ Khánh Dương được tăng cường Trung Đoàn 40 thuộc SĐ22BB do Đại Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng và hai Tiểu Đoàn ĐPQ thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Khánh Hòa trấn giữ. Sau khi chiếm lỉnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các Tỉnh Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, Cộng quân muốn tiến về vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Hòa, Phú Yên và Qui Nhơn nên bằng mọi giá họ phải bứng Khánh Dương. Lực Lượng Ðịch : : - SÐ F10. chủ lực tấn công BMT. - SÐ320 đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy Dù ở Thượng Ðức. - SÐ316 CSBV từ Nam Lào tiến sang - 5 Trung Ðoàn pháo binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và phòng không. - 1 Trung Ðoàn Chiến Xa, một Trung Ðoàn Ðặc Công. - 2 Trung Ðoàn Công Binh, Một Trung Ðoàn Thông Tin. Lực Lượng Bạn : - Trung Đoàn 40/SĐ22 Bộ Binh. do Đại Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng - Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, LĐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm : * Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, TĐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh * Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, TĐT Trung Tá Bùi Quyền * Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, TĐT Trung Tá Nguyễn Hữu Thành. * Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TĐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu. * Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ĐĐT là Đại Úy Nguyễn Viết Hoạch. - 2 Tiểu Đoàn thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương Quân/Tiểu Khu Khánh Hòa - 1 chi đoàn M113 Diển Tiến : Ngày 14-3-1975 Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên,Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh Quân sự của Tổng Thống, đã họp mật với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2. Vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 tháng 3,1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với thành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2 (gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng QĐ 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,Tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng cho Ðại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dung cuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm và tân Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên. NGÀY 15-3-1975 Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn2 / Quân khu 2 tại đây. Sau khi tấn chiếm hoàn toàn thị xả Ban Mê Thuột, Công Quân gấp rút điều động các Sư Đoàn 320, 316, 968, và F10 di chuyển tiến chiếm Pleiku và khi biết được Pleiku bỏ ngỏ họ điều quân tấn công thẳng xuống khu vực đồng bằng dọc theo duyên hải qua hai ngã QL 19 và QL 21. Ngày 15/3/1975, LĐ3ND đang trấn đóng tại Đại Lộc Quảng Nam sau chiến trận Thượng Đức, được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho Lữ Đoàn 369 TQLC và xuống 2 tàu Dương Vận Hạm HQ504 và HQ404 của Hải Quân tại cảng Đà-Nẳng để xuôi Nam về phòng thủ SàiGòn theo lệnh triệt thoái của bộ TTM. Trong lúc đó,Thiếu Tướng Phú xin bộ Tổng Tham Mưu cho LĐ3ND tăng viện để lập phòng tuyến mới tại Khánh Dương.Cùng một lúc LĐ2ND được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm phiá Bắc đèo Hải Vân cho TQLC và được không vận thẳng về SàiGòn. NGÀY 16-3-1975 Theo lịch trình di tản của Quân Khu 2, ngày 16/3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của đơn vị Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, Liên Đoàn 7 BĐQ đã khởi hành ra khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái khỏi Pleiku. Khi Tiểu đoàn 58/LĐ7BĐQ tiến chiếm đỉnh đèo Cheo Reo và làm chủ tình hình trận địa thì CQ dùng chiến xa tấn công và bao vây lực lượng BĐQ ở phía dưới chân đèo hướng tỉnh lỵ Phú Bổn. CácTiểu đoàn 32 và 85BĐQ, Pháo binh và phân đội hỏa tiễn TOW đã dàn đội hình chống trả quyết liệt. Trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Liên đoàn 7 BĐQ xin phi pháo yểm trợ, 40 phút sau, oanh tạc cơ của Không quân VNCH đến oanh kích CQ quanh trận tuyến. Đến 18 giờ 05 phút, chiến trường mới tạm im tiếng súng, nhưng Cộng quân vẫn còn áp lực quanh đoàn quân di chuyển. NGÀY 18-3-1975 Chiều 18/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 về đến Hậu Bổn, tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn, nơi Quân đoàn 2 đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ để điều động cuộc triệt thoái, điểm đến là vùng duyên hải còn cách hơn 160 km. trong khi Công binh chưa làm kịp cầu phao bắc qua sông Ê-Pa. Tối 18/3/1975, Cộng quân lẻn vào khu vực Tây Nam của vòng đai tỉnh lỵ Hậu Bổn, sử dụng súng cối pháo kích vào một số vị trí dừng quân của các đơn vị triệt thoái. Phi trường Hậu Bổn cách Bộ Tư lệnh nhẹ Quân Đoàn 2 chưa đến 2 km bị Cộng quân chiếm. Liên đoàn 7 BĐQ được điều động phản công, đẩy lùi Cộng quân ra khỏi khu vực Tây Nam của tỉnh lỵ. Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài đến ngày hôm sau. NGÀY 19-3-1975 Chiều ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Một số lớn chiến xa M 48 và M 41 của Lữ đoàn 2 Kỵ Binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu Bổn. Trong ngày nầy, đang trên đường xuôi Nam sau 2 ngày và 3 đêm hải hành, LĐ3ND được lệnh đổ quân xuống Cầu Đá Nha Trang để tăng viện cho mặt trận Quân Khu 2. Sau khi cập Bến Nha Trang, Trung Tá Lê Văn Phát LĐT/LĐ3ND nhận lịnh từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú: Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù điều động 3 Tiểu Đoàn cơ hữu 2, 5 & 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu Đoàn Pháo Binh 105 ly và Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù đến lập tuyến phòng thủ dọc theo QL21 trên đèo M’Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương. Trong khi cuộc triệt thoái của lực lượng Quân đoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 7 B, thì tại tỉnh Quảng Đức,vào trưa ngày này, Cộng quân đã tấn công cường tập vào tỉnh lỵ và chi khu Kiến Đức, chi khu trưởng Kiến Đức bị thương. Đến 3giờ 20 chiều 20/3/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Nghìn-Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Quảng Đức. *Cộng quân áp lực Khánh Dương NGÀY 20-3-1975 Cùng lúc tấn công vào Quảng Đức, trong ngày 20/3/1975, Cộng quân đã áp lực nặng ở Bắc Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa. Tin tức tình báo ghi nhận sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn 320 CSBV đã từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh Dương, cách địa điểm này 8 km về hướng Tây Bắc. Ngày 20/3/1975 Trung Tá Lê Văn Phát ra lệnh cho BCH/LĐ3ND,TĐ2ND,TĐ3PBND, ĐĐ3TSND theo đường bộ kéo lên Dục-Mỷ, Ninh Hoà. TĐ5ND và TĐ6ND rải quân bố trí từ núi Chu Kroa (3100m) dọc theo QL21 dài khoảng 30 cây số về Khánh Dương. Phiá Nam cuả LĐ3ND có một TĐ Điạ Phương Quân trấn giử. Tại đèo Cả trên QL1 có TĐ34BĐQ trách nhiệm trấn giữ. Mặt Trận Quân Khu 2 cuối tháng 3/1975 NGÀY 21-3-1975 Sáng ngày 21/3 tất cả đơn vị thuộc LĐ3ND đều sẳn sàng tại vị trí chiến đấu của mình. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Bùi Quyền làm TĐT trấn ngự tại phía Nam Thị trấn Khánh Dương cạnh QL21; Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Thành làm TĐT trấn ngự tại cao điểm 957m Buôn Ea Thi. Và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. BCH Lữ Đoàn , TĐ3 Pháo Binh và Đại Đội 3 Trinh Sát đóng tại Dục Mỹ. Vào lúc 12 giờ 15 ngày 21/3/1975, phi trường Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ di chuyển về vị trí cách phi trường Khánh Dương khoảng 1 km về hướng Nam. Tin tức tình báo cho biết 2 Sư Đoàn cộng sản F10 và 320 từ Ban Mê Thuột sẽ tiến đánh Khánh Dương bứng nút chặn LĐ3ND để dọn đường tiến thẳng về Sài Gòn. Sau khi quan sát trận địa, Trung Tá LĐT yêu cầu Quân Đoàn tăng viện ít nhất một Sư Đoàn Bộ Binh hậu thuẩn để cho Lữ-Đoàn 3 Nhảy Dù có thể xung kích ngăn chận đà tiến quân của địch quân. Quân đoàn đã trả lời không còn quân để tăng viện. 17 giờ 45, Một Trung Đoàn của SĐF10 CSBV tấn công vào TĐ2/40/22BB tại 10km phía Tây Khánh Dương (cây số 62).Gần 100 Công quân bỏ xác tại trận và 2 tù binh. Đây chỉ là trận đánh dò dẫm của Công quân. NGÀY 22-3-1975 Sáng ngày 22/3/1975, mặt trận Khánh Dương bị áp lực nặng. Lực lượng CQ đã dốc toàn lực mở cuộc tấn công phòng tuyến Khánh Dương. 7.30 giờ Công quân mở trận địa pháo kinh hồn vào các đơn vị phòng thủ phía Tây Khánh Dương. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại tới tấp rơi vào các căn cứ phòng thủ của Trung Đoàn 40BB và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tỉnh Phan Rang. Sau đó SĐF10/CSBV dốc toàn lực biển người với xe tăng yểm trợ tấn công vào các đơn vị nầy. Sau một giờ giao tranh các đơn vị phòng thủ bị tràn ngập và cắt ra từng mãnh nhỏ, trên phân nửa quân số bị thương vong, một sô tàn quân của các đơn vị nầy rút về phía Nam cuả phòng tuyến Nhảy Dù rồi tiếp tục rút về Diên Khánh. 9 giờ 00 sáng Cộng quân tiến về Chi khu Khánh Dương với 12 chiếc xe tăng hổ trợ không cần ngụy trang. Sau đó CS pháo đại bác122 ly vào quận Khánh Dương, đến 9,30 giờ thì chi khu Khánh Dương mất liên lạc. Đến 10 giờ, Quận trưởng Khánh Dương báo cáo phải di tản chiến thuật vì Cộng quân tràn ngập. NGÀY 23-3-1975 Ngày 23/3/1975 Tại mặt trận Khánh Dương , Cộng quân đã gia tăng áp lực tại tuyến phòng ngự của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND yêu cầu phi pháo oanh kích đoàn chiến xa CSBV khoảng 20 chiếc trên đường kéo lên đèo M’Drak và xin tăng cường lực lượng Thiết Kỵ cũng như trang bị hỏa tiển TOW chống chiến xa. 16 giờ 30, nhiều chiến xa của Cộng quân xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận lỵ Khánh Dương 2 km về phía Tây Bắc. Ở phía Đông Nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của Không quân VNCH ghi nhận có 2 chiến xa T-54. Ở phiá Bắc có nhiều xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3 km. Không quân đã thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc chính xác ngăn chận mức độ tiến quân của Cộng quân. Sau đó các đơn vị tiền sát cuả LĐ3ND bắt đầu chạm địch, với thế tấn công ào ạt cuả CSBV trên QL21, nhưng gập sức kháng cự dũng mảnh cuả các chiến sỉ Nhảy Dù với những trận cận chiến ngoạn mục địch quân đã bị tổn thất nặng ngay trận đầu với 5 chiến xa T54 bị hạ tại trận và hằng trăm xác công quân bỏ lại chiến điạ. Với kinh nghiệm già dặn chiến trường đoán chắc cộng quân sẽ tập kích sau đó, LĐT/LĐ3ND cho ĐĐ3TSND của Đ/U Nguyễn Viết Hoạch bung rộng ra dọc hai bên sườn quốc lộ 21 sẳn sàng nghinh chiến. NGÀY 25-3-1975 Vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, đúng như dự đoán của Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND, trong ngày này, Sư đoàn F-10 CSBV mở cuộc tấn công toàn diện vào phòng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù với quân số gấp 6 lần. Các chiến sỉ Nhảy Dù không hề nao núng chống trả mảnh liệt đôi khi phải dùng thế cận chiến để đối đầu với cộng quân.tại Khánh Dương, sau cùng lực lượng Nhảy Dù đã đánh bật cộng quân ra khỏi phòng tuyến sau những trận kịch chiến. NGÀY 28-3-1975 Ngày 28/3/1975 một đoàn xe tiếp tế thực phẩm và đạn dược cho LĐ3ND đã bị cộng quân phục kích đánh tan trên Quốc lộ 21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TĐ5ND được lịnh lui quân về vị trí TĐ6ND và TĐ2ND trở thành đơn vị cơ động ứng chiến và được lịnh giải tỏa QL21 từ đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để an ninh lộ trình tiếp tế. NGÀY 29-3-1975 Ngày 29/3/1975 vào lúc 3.00 giờ sáng, Pháo binh cộng sản đủ loại dập lên tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng quân tập trung toàn lực lượng biển người với các Sư Đoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm LĐ3ND từ 3 phía. LĐT/LĐ3ND ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc lập “phòng tuyến thép” không lui. LĐ3ND sau những thiệt hại tại Thường Đức Quân Khu 1 và hơn một tuần lể đương đầu với ba Sư Đoàn CSBV đông gấp 10 lần, không đươc bổ xung, không được tiếp tế, không chiến xa, không pháo binh hạng năng hổ trợ, chỉ còn lại khoảng hơn 1000 chiến binh. Tuyến đầu tiên là TĐ5ND và TĐ6ND bị địch bao vây tứ bề. Địch quân đông như kiến cùng quân phòng thủ đánh cận chiến “xáp lá cà” suốt đêm đến 7.00 giờ sáng mà tuyến phòng thủ vẫn còn giữ vững. Sáng ngày hôm sau 30/3/1975, trên 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ làm giảm bớt áp lực của địch quân. Quân Dù gấp rút tổ chức lại hệ thống phòng thủ. 2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng quân lại mở cuộc tấn công cường tập mới vào phòng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ Đoàn Trưởng báo cáo khẩn về tình hình cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh Quân Đoàn 2 ra lịnh "Lữ đoàn Dù cố gắng giữ phòng tuyến", và hứa sẽ có lực lượng tăng viện. Một cây cầu trên QL21 dẩn đến Khánh Dương bị Không Quân VNCH phá sập.. NGÀY 31-3-1975 Ngày 31/3/1975 Sáng sớm tình hình tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập,LĐT/LĐ3ND báo cáo cho Tướng Phú : tuyến phòng thủ TĐ5ND bị cộng quân cắt đứt thành nhiều mảnh, nếu không có quân tăng viện LĐ3ND sẽ bị địch quân tràn ngập. Tướng Phú gọi về Bộ Tổng Tham Mưu khẩn cầu gởi quân tăng viện gấp cho Khánh Dương. Xin tăng cường 2 TĐ/BĐQ trấn đóng tại đèo Cả và cho LĐ3TQLC vào vùng trách nhiệm tại Khánh Dương ngay ngày hôm nay. LĐ3ND trấn ngự từ đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương ·Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn Trong khi đó cộng quân đã tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh Bình Định.Tại Qui Nhơn, SĐ3CSBV đã chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Lực lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn 41 và Trung đoàn 42 đã nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các đơn vị còn lại của Sư đoàn 22 Bộ binh triệt thoái khỏi tỉnh Bình Định. Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh tự sát tại Qui Nhơn; Trung Đoàn Trưởng 41 cùng 2/3 cấp SQ chỉ huy được ghi nhận là tử trận hoặc mất tích :Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đã tự sát bằng súng Colt 45. SĐ22BB tổn thất khoảng 70% quân số. Một Tiểu Đoàn Trưởng Địa Phương Quân tỉnh Bình Định tự sát ngay trước quận đường Phù Cát. Cùng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn Tại Căn cứ Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đêm tổ chức cố thủ, Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đã bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về Qui Nhơn thì bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng, Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Cầu đã bị CQ bắt sống. Cộng quân đã chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân (các tài liệu không ghi rõ tên) vẫn còn nằm nguyên trước Văn phòng Quận Phù Cát. Thay vì đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát. NGÀY 1-4-1975 Sáng ngày 1/4/1975, nhiều vị trí phòng thủ của các đơn vị Quân Lực VNCH tại Khánh Hòa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn CSBV (thuộc hai sư đoàn khác nhau). Lực lượng của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù gồm có một tiểu đoàn Pháo Binh và 3 Tiểu Đoàn bộ-chiến Dù đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư Ðoàn F-10 và SÐ 320 Bắc Việt. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù đã chống trả dữ dội bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu. Trung Đoàn 25/SĐ10CSBV đồng loạt tấn công vào vị trí cuả TĐ6ND do Trung Tá Nguyển Hủu Thành làm TĐT, Thiếu Tá Trần Tấn Hoà làm TĐP. Tuyến phòng thủ cuả TĐ6ND bị tràn ngập sau đó. Trung Tá Thành, Đ/Úy Triết,cùng một số quân nhân ND bị bắt tại trận. TĐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TĐT và Thiếu Tá Vỏ Trong Em làm TĐP bị Trung Đoàn 28 CSBV vây hảm và tràn ngập. Thiếu Tá Vỏ Trọng Em đã hướng dẩn được khoảng 200 chiến sỉ lui vào rừng, vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân nầy mới được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang., một số quân ND khác tháp tùng Thiết Vận xa M113 về được Dục Mỷ. Trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1 tháng 4/1975, Trung Tá Phát trình với Thiếu Tướng Phú là nếu không có tăng viện, không được cấp phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một Trung Đoàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã bị địch quân bao vây rất ngặt, đã hạ được 4 chiến xa địch nhưng phòng tuyến đã bị lùi xa lại phía sau. Tướng Lê Quang Lưởng gọi Tướng Phú yêu cầu gởi quân tăng viện cho LĐ3ND. Ông cũng cố gắng liên lạc với các nơi khác tìm cách trợ giúp thêm quân cho LĐ3ND. Trong ngày nầy Trung Tá Phát gọi xin thêm viện quân khẩn cấp lần thứ năm và được Thiếu Tướng Phú trả lời không còn quân để tăng viện và ra lịnh cho LĐ3ND di chuyển về phía Nam. Lúc 15.30 giờ, Tướng Phú ra lệnh cho 2 phi tuần khu trục đến yểm trợ mặt trận Khánh Dương để giải tỏa bớt áp lực của địch lên cánh quân Nhảy Dù. Đây là những trái bom cuối cùng được xử dụng trên chiến trường Quân Khu 2. Đến 4 giờ 10 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng thủ đã bị cắt nhỏ. Sau đó cuộc điện đàm đã bị gián đoạn.. Trong khi đó Trung Đoàn 66 CSBV quyết tâm diệt gọn TĐ2ND do Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm TĐT và Thiếu Tá Nguyển Văn Phương làm TĐP. TĐ3PBND do Thiếu Tá Nguyển Văn Triệu làm TĐT và ĐĐ3TS do Đại Úy Nguyển Viết Hoạch làm ĐĐT. Các đơn vị nầy đang trấn giữ dọc theo chân đèo Phượng Hoàng thì bị địch quân tấn công tràn ngập. TĐ3PBND được linh phá huỷ một số đại bác 105 ly cơ hửu. Sau những đợt tấn công biển người liên tục và ác liệt cuả địch, tuyến phòng thủ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ, lại không được tiếp tế lương thực và đạn dược. LĐT/LĐ3ND phải triệt thoái đơn vị về bải biển dưới chân hòn Son và men theo đường bộ về Phan Rang lập phòng tuyến mới. Tính đến sáng ngày 1 tháng 4/1975, khu vực trách nhiệm của Quân Khu 2 chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, (quân khu 2 có 12 tỉnh). Về quân số, ngoài Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương, chỉ còn một trung đoàn Bộ Binh và 2 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân. Tuy nhiên, 2 liên đoàn Địa Phương Quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập vẫn còn khả năng tham chiến. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử Đoàn Trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, trên đường rút từ Khánh Dương ra QL1 không còn liên lạc được với BTL QĐ2 nên liên lạc thẳng về Sài Gòn bằng hệ thống GRC106 và được lịnh liên lạc với Tướng Sang để vào phòng thủ Phi Trường Phan Rang. NGÀY 4-4-1975 Đến ngày 4/4/1975 LĐ2ND được không vận từ Sài Gòn đến Phan Rang thay thế LĐ3ND và ngày hôm sau LĐ3ND được phi cơ bốc về Saigon bổ sung quân số và sẳn sàng ứng chiến cho Biệt Khu Thủ Đô..

No comments:

Post a Comment