Tuesday, April 24, 2018

NGÀY 20-3-1975 TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TÍN – QUẢNG NAM – QUẢNG NGÃI

Tình hình chiến sự tại khu vực phía bắc tỉnh Quãng Tín vào ngày 20 tháng Ba, tương đối khả quan hơn so với trước đây khi quân BV nã pháo nặng vào quận lỵ Thăng Bình, và tràn ngập các tiền đồn phiá tây nam quận lỵ này. Hai tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BB, điều từ Quãng Nam qua, được tăng cường thêm hai tiểu đoàn ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công gây thiệt hại nặng cho lực lượng địch trong những trận đánh giằng co ác liệt phía đông Thăng Bình. Nhưng tại Tam Kỳ, tình hình không đưọc mấy khả quan dù SĐ 2 BB đã tập trung hầu hết lực lượng tại đây để bảo vệ tỉnh lỵ này. Ngày 21 tháng Ba, địch pháo dữ dội vào thành phố Tam Kỳ. Cùng ngày, Trung Đoàn 4 BB di chuyễn Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn từ Quãng Ngãi tới Tam Kỳ, cùng với Tiểu Đoàn1, Trung Đoàn 6 BB, từ quận Bình Sơn qua, và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 916 ĐPQ rút từ Thăng Bình về.

Tại Quãng Ngãi, tình hình trở nên tối tệ, mặc dầu các đơn vị của Trung Đoàn 4BB thành công trong việc khai thông QL1 tại khu vực quận Bình Sơn. Nhưng tại phía tây Bình Sơn, quân chính qui BV tấn công dữ dội đoàn quân dân di tản từ Trà Bồng về. Tiểu Đoàn 69 BĐQ, đơn vị bảo vệ cuộc rút lui, đã lọt ổ phục kích và tan rã hoàn toàn. Bắc quân tấn công quận Đức Phổ cắt đứt trục giao thông trên QL1, cô lập cửa khẩu Sa Huỳnh và lực lượng bảo vệ gồm hai Tiểu Đoàn 70 BĐQ, và 137 ĐPQ đóng tại đây. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ, được phép tùy quyền hành động để duy trì lực lượng tác chiến cuả Sư Đoàn 2BB.


NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TRÊN LIÊN TỈNH LỘ 7B

Theo hồi ký của Trung úy D. (Biệt Động Quân): “Những trang sử bi thảm của một quân đội kiêu hùng”

Đoàn xe GMC của Trường Bộ binh Thủ Đức ngừng lại tại ngã tư Trương Minh Giảng-Tú Xương; trên đoàn xe là những sinh viên sĩ quan khóa 1/72 trừ bị. Họ đã nhập ngũ theo lịnh “Tổng động viên” sau Mùa Hè Đỏ Lửa. Tất cả vội vàng nhảy xuống xe rồi tản mát đi khắp hướng của Saigon. Hôm nay cũng là ngày Hiệp định Ba-Lê có hiệu lực trên toàn cõi VN; tôi là một trong những sinh viên sĩ quan ấy. Tôi lững thững tản bộ về nhà để tận hưởng cái cảm giác thoải mái sau những ngày ép mình với kỷ luật của Quân trường. Trời Saigon đã sẫm tối, từ dốc cầu Trương Minh Giảng về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, cả một rừng cờ treo trước cửa của nhà dọc hai bên đường, trên những cao ốc. Tiếng hát ca sĩ Khánh Ly vọng ra hè phố từ một quán càfé bên cạnh khu Đại học Vạn Hạnh “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay trăm ngọn cờ bay... Mặt đất rung rinh, tin hòa bình bay về khắp hướng”. Nghe những điệu nhạc này tôi lâng lâng thoáng chút hy vọng khi nghĩ đến hai chữ Hoà Bình.

Chút thoáng hy vọng về Hoà Bình ấy thực sự đã tiêu tan khi tôi đặt chân lên đất Pleiku. Pleiku, thành phố của lính. Pleiku với thơ mộng trong một bài hát “Em Pleiku má đỏ môi hồng”. Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt trên lãnh thổ Quân Khu. Đặc biệt tại vùng Pleiku-Kontum và Phân Khu Bắc Bình Định-Bồng Sơn-Tam Quan. Từ Bộ chỉ huy Biệt Động Quân, tôi nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu đoàn 42 Biệt Động do Thiếu Tá Phạm Văn Tiến làm Tiểu đoàn trưởng. Lúc này Tiểu đoàn đang trách nhiệm tại vùng sở trà Kafeka, quận Thạnh An. Trong một lần dẫn Trung đội đánh chiếm cao điểm 30, tôi bị thương khá nặng, xuất viện tôi được thuyên chuyển về Bộ chỉ huy Biệt Động Quân (BĐQ) Quân khu 2 và nhận nhiệm vụ Sĩ quan Hành quân tại Trung tâm hành quân cho đến ngày cuối cùng khi Quân doàn II di tản trên Liên tỉnh lộ 7B.

Tháng 12/1974, Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng BĐQ Quân khu 2 đuợc chỉ dịnh làm Tư lịnh mặt trận Kontum, do đó tất cả quân nhân thuộc Phòng 2, Phòng 3 và Trung tâm hành quân được điều động lên Kontum để thành lập Bộ tư lịnh Mặt Trận.

Những tháng cuối năm 1974, Mặt trận Kontum không có những trận đánh lớn, tình hình tương đối yên tĩnh một cách không bình thường. Nhân dịp gần đến cuối năm, phòng Chiến tranh chánh trị (CTCT) đã mời một số ca sĩ như Khánh Ly, Ngọc Minh lên Kontum hát tại những tuyến đầu của Mặt trận. Những ngày Tết đã êm đềm trôi qua, Cộng quân không pháo kích vào thị xã và Bộ tư lịnh.

Ngày 12/3/75, Thiếu tá Khôi, Trung tâm trưởng Trung tâm hành quân ra lịnh cho chúng tôi thu dọn gấp để kịp dời Kontum ngày hôm sau về lại Pleiku. Bộ Tư lịnh hành quân sẽ đóng tại Hàm Rồng nơi đặt Bộ Tư lịnh Mặt trận Nam Pleiku của Tư lịnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Tất kiêm nhiệm Tư lịnh Mặt trận Nam Pleiku.

Đoàn xe chỡ chúng tôi cùng với Liên đoàn 4 BĐQ di chuyển ngang qua thị xã, dân chúng ngơ ngác nhìn với ánh mắt lo âu. Dân chúng ở đây đã quen nhiều với chiến tranh, họ thường vui mừng khi thấy quân vào Kontum và thoáng lo âu khi thấy bất cứ một đơn vị quân chủ lực nào rút đi. Thực sự giờ phút đó tôi cũng không hiểu tại sao mà toàn bộ BĐQ chúng tôi lại hối hả rút đi như thế lại không có đơn vị nào hoán đổi vùng trách nhiệm như thường lệ từ trước đến nay. Kontum đã bỏ ngỏ từ ngày hôm ấy khi toàn bộ quân chủ lực được rút đi.

Đơn vị chúng tôi về tới Hàm Rồng chưa đầy 5 ngày thì ngày 17/3/75 Quân đoàn II bắt đầu di tản theo Liên tỉnh lộ 7B về Tuy Hòa. Bộ Tư lịnh Quân đoàn được không vận về Nha Trang. Nhưng Bộ Tư lịnh Mặt trận của Tướng Tất chúng tôi vẫn làm việc kỷ luật và bình thường. Những ngày này Tướng Tất luôn luôn hỏi đến hai Liên đoàn 4 và 25 rút các đứa con khỏi trận địa vùng Thạnh An và Pleiku. Tướng Tất chỉ huy Đoàn quân trên liên tỉnh lộ vào trưa về Bộ tư lịnh; vào chiều đó, ông lại bay trên đoàn quân di tản để chỉ huy.

Chín giờ sáng ngày 20/3/75, những quân nhân cuối cùng của Bộ Tư lịnh Mặt trận băt đầu rút khỏi căn cứ Hàm Rồng. Tôi được lịnh đi trên chiêc xe tăng M113 chỉ huy của Tướng Tất. Đoàn xe dời Hàm Rồng chạy qua phố chính của thị xã Pleiku phố xá vắng tanh. Những cửa tiệm bị cướp phá tan hoang. Một thành phố chết. Tôi ngồi trên xe đưa mắt nhìn về hướng Bộ Tư lịnh Quân đoàn và phi trường Cù Hanh thấy những cột khói đang bốc cao tại hai nơi này.

Tướng Tất hằn rõ nét ưu tư trên khuông mặt đen xạm của ông. Ông là vị tướng mới nhất của QLVNCH và cũng là vị tướng duy nhất của Quân đoàn II cùng Bộ Tham mưu triệt thoái bằng đường bộ. Các cuộc điện đàm liên tiếp giữa Tướng Tất và các Đơn vị trưởng đang di chuyển trên Liên tỉnh lộ 7B cho tôi hiểu lệnh của ông đã không được thi hành đúng. Thực sự đến ngày hôm nay 20/3/75, lệnh của ông chỉ còn hữu hiệu với các đơn vị BĐQ mà thôi. Tướng Tất đã dùng các Tiểu đoàn BĐQ thiện chiến nhất của Liên đoàn 4 (một Liên đoàn nổi danh đã làm VC phải khiếp sợ tại vùng châu thổ sông Cửu Long -Tiểu đoàn 42 “Cọp Ba Đầu Rằn”). Hành quân bọc hậu, đây là một trong những cố gắng sau cùng của Tướng Tất nhưng sự hỗn độn vô cùng của quân và dân xen kẽ nhau, tắc nghẽn xe cộ đã làm tiêu tan mọi hy vọng của vị Tướng chỉ huy đoàn quân triệt thoái này.

Khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi đến được tỉnh lỵ Phú Bổn. Tướng Tất ngồi trên mũi trước chiếc M113 cho xe chạy vòng quanh phố tỉnh nhỏ xíu này rồi đậu trong sân trường tiểu học. Từ chiếc máy truyền tin trong xe Đại tá Hồng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn II Kỵ binh, và Đại tá Tây, Liên đoàn trưởng Liên đoàn BĐQ đang liên tiếp báo cáo với Tướng Tất diễn tiến đánh diệt các chốt chận cấp Tiểu đoàn của địch gồm các Tiểu đoàn K13, K9, K2 và các Tiểu đoàn chủ lực miền của Cộng quân. Tiếp sau là một phi tuần A39 đánh bom lầm vào đơn vị bạn, vụ đánh lầm này đã gây bất hòa về chỉ huy giữa hai Đại tá.

Ánh nắng lại gần tắt, mặt trời đã xuống tới đỉnh núi ở xa xa thì tin từ Nha Trang cho biết sư đoàn 320 do tên Đại tá Bắc Việt Vũ Lăng làm Tư lệnh đang gấp rút bôn tập về Phú Bổn để chặn đánh quân ta. Trên khuôn mặt đã xạm đen vì nắng cháy, Tướng Tất nén tiếng thở dài. Ông đang nghĩ gì...??

Trong gần hai năm làm việc tại Trung tâm Hành quân, tôi thường được tiếp xúc với ông khi chiến trường sôi bỏng. Tại Bộ Tư lịnh tiền phương trên đồi 37 Pháo binh (Pleiku), ông đoán quyết với Thiếu tá Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động, bằng mọi giá phải giữ vững căn cứ Pleiku khi bị 3 Trung đoàn quân chính quy Cộng sản Bắc Việt vây hãm. Cùng thời gian khi căn cứ Pleiku đang bị địch xung phong biển người, chúng hy vọng dứt điểm căn cứ này thì 3 căn cứ hỏa lực khác là 522-433-711 bị cộng quân tràn ngập trong đêm. Tướng Tất đã điều Tiểu đoàn 90 với Thiếu tá Phan Bát Giác, người Tiểu đoàn trưởng tài bà này đã dùng quân theo lối đánh của “Tổ Tam Tam” lấy lại ba căn cứ hỏa lực trên ngay trong ngày hôm sau. Pleiku vẫn đứng vững ngạo nghễ sau đợt tấn công biển người. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được ở ông nỗi thất vọng chua chát như trong tiếng thở dài của buổi chiều hôm đó...

Ánh nắng chiều đã tắt hẳn, Tướng Tất ngã mình trên chiếc võng căng trong xe. Tôi trực máy truyền tin trong xe. Khoảng 5 giờ chiều, tiếng máy truyền tin gọi rè rè “Trường An - Hiệp Tình”. Trường An là ám danh đàm thoại của Tướng Tất, Hiệp Tình là Tướng Phú, Tư lịnh Quân đoàn. Tôi cầm máy trả lời “Trình Mặt Trời - Trường An nghe”, tôi chưa kịp lên tiếng gọi Tướng Tất vì lúc đó ông vừa như thiếp đi trên võng thì tiếp theo một vọng nói thật nhanh “Anh nói với Trường An - Đạp lên mà đi”. Là một sĩ quan hành quân, tôi hiểu đó là lệnh sau cùng khi không còn cách nào khác để cứu vãn tình thế hiện tại, giờ khai tử của đoàn quân bị tắc nghẽn tại Phú Bổn này đã điểm, tôi xúc động lặng đi trong giây phút thì Tướng Tất chợt tỉnh. Ông hỏi :”Có gì không?”. Tôi trả lời cho ông nguyên văn lệnh của Quân đoàn. Tướng Tất ngồi dậy bước ra khỏi chiếc M113. Ông cho gọi tất cả đến rồi dặn dò với chúng tôi một câu ngắn gọn “Các anh theo Trung tá Huấn, Tôi sẽ cho C&C bốc các anh”.

Trời lúc này đã xẫm tối khoảng 17 giờ 30, một trực thăng đáp xuống sân trường Tiểu học Phú Bổn bốc Tướng Tất, Đại tá Hoàng Thọ Nhu, Tỉnh trưởng Pleiku. Chiếc trực thăng cất cánh mang theo điểm tựa và niềm hy vọng sau cùng của chúng tôi.

Tướng Tất đi rồi, Trung tá Huấn, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 22 BĐQ nói với chúng tôi là phải gấp rút dời xa Phú Bổn càng nhanh càng tốt vì sau đó sẽ có những phi tuần phá hủy những quân và chiến cụ đang kẹt ứ tại đây. Chúng tôi tạt vào rừng nhắm hướng Tuy Hòa mà đi, trong số này tôi còn nhớ có Trung tá Lộc, Tham mưu trưởng, Thiếu tá Khôi, Trưởng phòng 3, Trung úy Thành của Phòng 2, Thiếu úy Chương phòng CTCT, tôi, Thiếu úy Chúc, Chuẩn úy Phước của Trung tâm Hành quân... Từ lúc này tôi không còn nhớ tới giờ giấc của thời gian nữa. Khi đi sâu vào rừng núi Phú Bổn được 2-3 giờ lúc vượt qua một đỉnh đồi cao nhìn lại Phú Bổn những cột lửa loé sáng rực, trên trời là 2 chiếc A37 đang nhào lộn bắn phá.

Đêm xuống thật nhanh với núi rừng, Trung tá Huấn và Lộc nói là không thể đi đông như thế này vì dễ bị lộ nên tách ra làm hai. Các quân nhân của Liên đoàn theo Trung Tá Huấn, Ban Tham mưu BĐQ theo Trung tá Lộc. Qua đêm trời hừng sáng, tôi thật vô cùng ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều đoàn quân cũng tạt vào rừng theo đoàn quân chúng tôi hôm qua. Thật tội nghiệp cho họ, vợ chồng, con cái cha mẹ anh em dắt dìu nhau. Họ không mang theo được bất cứ một thứ gì cả, là dân của phố thị, họ hoàn toàn không hiểu được sự khắc nghiệt ghê gớm của thời tiết tháng 4 trong cánh rừng già bạt ngàn như thế này. Những đám dân tội nghiệp ấy cứ lếch thếch đi theo hướng chúng tôi đi. Họ sẽ không theo kịp những quân nhân chuyên nghiệp như chúng tôi.

Sau ba bốn lần bị truy kích qua mấy ngày tôi không còn nhớ nữa, chỉ thấy sức đã kiệt vì đói và khát. Chúng tôi còn lại 5 người đến bên một con sông (có lẽ đó là sông Ba). Trong đêm tối trời, tôi đã hoàn toàn kiệt sức nhìn bên kia bờ sông hy vọng gặp quân bạn. Ba người trong chúng tôi đã bơi được qua bờ bên kia con sông dâng cuồn cuộn nước chảy. Tôi không nhớ rõ 3 người ấy là ai vì chúng tôi vừa bị truy kích chạy tán loạn trong lúc đó Cộng quân lại bắn xối xả vào đoàn người chúng tôi.

Bên này con sông chỉ còn lại tôi và Trung sĩ Thành Phòng 2. Thành còn rất trẻ khoảng 21-22. Thành bảo tôi “Cố gắng bơi qua đi Trung úy”. Nhìn sông tôi hiểu sức mình không thể qua nổi. Tôi bảo với Thành :”Tôi ở lại bên này”. Thành nói :”Vậy tui qua nhe”. Thành xuống nước; khi ra tới dòng nước cuồn cuộn tôi thấy Thành chới với rồi chìm hẳn. Chứng kiến Thành chết chìm trong đêm tịch mịch của núi rừng, tôi đứng lên vô tri vô giác lê từng bước bên con sông ấy. Trên người tôi không còn cái gì ngoài bộ đồ trận tả tơi đang mặc. Tôi cứ đi đi mãi khi nắng loé lên sau những ngọn cây cao. Một tiếng quát giọng Bắc đặt sệt :”Biệt Động Ngụy giơ tay nên”, tôi thẩn thờ quay ngang nhìn “Lính chính quy Bắc Việt”.

Tại Trại Đào Bá Phước, Bộ chỉ huy BĐQ ở Saigon đã trả lời mẹ tôi khi bà đến hỏi tin của tôi “Trung úy D. được ghi nhận mất tích trên Liên tỉnh lộ 7B”.
CŨNG TRONG NGÀY THỨ 11 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 20.3.1975: TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1

3/1975 - Suốt đêm 19 và rạng sáng ngày 20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng phòng thủ VNCH dọc theo bờ nam sông Bến Hải, kể cả liên đoàn Địa Phương Quân, 1 tiểu đoàn BĐQ và vài chi đoàn Thiết giáp đã rút về phòng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Sáng ngày 20 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng bay ra bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn TQLC cách Mỹ Chánh chừng 8 km. Tại đây, Tướng Trưởng đã gặp các cấp chỉ huy của những đơn vị trong khu vực để cùng họ duyệt lại tình hình cùng kế hoạch phòng thủ Huế vì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh phải giữ với bất kỳ giá nào, khác với chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế. Tình hình lúc đó không đến nỗi quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa vẫn còn nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và tinh thần chiến đấu cao. Việc triệt thoái khỏi Quảng Trị tuy có ảnh hưởng phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân sĩ nao núng. Dù sao thì dân chúng đã bỏ đi trước đó, nên không còn gây trở ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa với 1 lữ đoàn TQLC tại phía nam sông Mỹ Chánh và 2 lữ đoàn TQLC trừ bị tại Đà Nẵng thì Quân Khu 1 vẫn còn đủ lực lượng nòng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ vững Huế.

Trên đường trở về Đà Nẵng, Tướng Trưởng đã ghé vào Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân Đoàn 1 tại thành Mang Cá, Huế. Sau đó, ông cùng Tướng Thi đi một vòng thanh tra các hệ thống phòng thủ trong thành phố Huế. Tinh thần Tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn vì sự bố phòng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ rưỡi trưa, đài phát thanh Huế tiếp vận đài Sài Gòn phát đi lời của Tổng thống Thiệu, đặc biệt với dân chúng Huế, rằng quân đội sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Tướng Trưởng rời Huế, lòng vẫn tin tưởng với quyết tâm cao.
Khi vừa đặt chân xuống Đà Nẵng, Trung tướng Trưởng nhận được một công điện "mật khẩn" của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Ngược lại những gì nói trên đài phát thanh Huế, Tổng thống Thiệu khuyên Tướng Trưởng tùy nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà Nẵng mà thôi vì không thể nào phòng thủ nổi ba thành phố Huế, Đà Nẵng và Chu Lai cùng một lúc được. Đồng thời Lữ đoàn 1 ND được lệnh lên đường về Sài Gòn ngay khuya đêm đó.


NGÀY 20-3-1975 TẠI BỘ TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 1

Ngày 20 tháng Ba, Tướng Trưởng bay trở lại Bộ Tư Lệnh QĐ1. Ông ra lịnh ngưng việc chuyễn các pháo đội 175 ly cùng vũ khí, đạn dược từ Huế vào Đà Nẵng. Cố đô Huế phải đưọc bảo vệ với bất cứ giá nào, mặc dầu ngày 19 tháng Ba, pháo binh địch đã bắn vào thành nội, và hàng trăm ngàn dân tị nạn đã nghẹt cứng trên QL1, đoạn đường xuôi về phía nam.

Việc tổ chức phòng ngự co cụm cho cố đô Huế đặt dưới quyền trách nhiệm của Tướng Lâm Quang Thi, được phân bổ cho Đại Tá Trí, Tư Lệnh phó SĐ TQLC, người chịu trách nhiệm mặt trận phía bắc thành phố Huế, và Tướng Điềm, Tư Lệnh SĐ1 BB, chịu trách nhiệm khu vực phía nam của Huế. Các tiền đồn của Đại Tá Trí, nằm ngay trong vùng giáp ranh giữa Quãng Trị-Thừa Thiên, chừng 30 km phía tây bắc Huế. Tại đây, dưới quyền điều động của LĐ 14 BĐQ là Tiểu Đoàn 77 BĐQ, 7 tiểu đoàn ĐPQ, và một chi đoàn Thiết Vận Xa M113 thuộc Thiết Đoàn 17Kỵ Binh. Bốn tiểu đoàn bộ chiến của LĐ 147 TQLC bố trí ngay trong vùng thung lũng trọng yếu Sông Bồ, trong tầm pháo binh nhẹ yểm trợ từ Thành Nội. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 78 và 79 BĐQ rãi quân ở tuyến đầu, cách vị trí của các đơn vị TQLC chừng 10 km về phía tây.Về phía nam của LĐ 147 TQLC, tại căn cứ hỏa lực Lion, tức căn cứ Núi Gió là 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51, SĐ1BB.

Vùng trách nhiệm của Tướng Điềm bắt đầu từ phía tây nam của Trung Đoàn 51, SĐ1 BB, đơn vị tăng phái cho lực lượng của Đại Tá Trí. Trung Đoàn 3 BB với hai tiểu đoàn án ngữ trên những cao điạ quanh căn cứ hỏa lực Birmingham, nhìn xuống sông Hữu Trạch, phía nam Huế. Về phía đông của Trung Đoàn 3 BB, là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 54 BB bảo vệ khu vực Mõ Tàu, trong lúc Trung Đoàn 1BB với ba tiểu đoàn cơ hữu, được tăng cường một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 51 BB, một chi đoàn chiến xa M48, và một chi đoàn thiết quân vận M113, rải quân dài về hướng đông nam tới tận khu vực Núi Bóng. Về phía đông của quận lỵ Phú Lộc ba tiểu đoàn của LĐ15 BĐQ, cùng một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 3 BB, chiếm lĩnh các cao điểm dọc theo QL1. LĐ 258 TQLC, với hai tiểu đoàn đóng quân gần Phú Lộc, và LIên Đoàn 914 ĐPQ gồm ba tiểu đoàn được giao trách nhiệm bảo vệ đèo Hải Vân.


NGÀY 20-3-1975 TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TÍN – QUẢNG NAM – QUẢNG NGÃI

Tình hình chiến sự tại khu vực phía bắc tỉnh Quãng Tín vào ngày 20 tháng Ba, tương đối khả quan hơn so với trước đây khi quân BV nã pháo nặng vào quận lỵ Thăng Bình, và tràn ngập các tiền đồn phiá tây nam quận lỵ này. Hai tiểu đoàn thuộc SĐ 3 BB, điều từ Quãng Nam qua, được tăng cường thêm hai tiểu đoàn ĐPQ, đã mỡ những cuộc phản công gây thiệt hại nặng cho lực lượng địch trong những trận đánh giằng co ác liệt phía đông Thăng Bình. Nhưng tại Tam Kỳ, tình hình không đưọc mấy khả quan dù SĐ 2 BB đã tập trung hầu hết lực lượng tại đây để bảo vệ tỉnh lỵ này. Ngày 21 tháng Ba, địch pháo dữ dội vào thành phố Tam Kỳ. Cùng ngày, Trung Đoàn 4 BB di chuyễn Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn từ Quãng Ngãi tới Tam Kỳ, cùng với Tiểu Đoàn1, Trung Đoàn 6 BB, từ quận Bình Sơn qua, và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 916 ĐPQ rút từ Thăng Bình về.

Tại Quãng Ngãi, tình hình trở nên tối tệ, mặc dầu các đơn vị của Trung Đoàn 4BB thành công trong việc khai thông QL1 tại khu vực quận Bình Sơn. Nhưng tại phía tây Bình Sơn, quân chính qui BV tấn công dữ dội đoàn quân dân di tản từ Trà Bồng về. Tiểu Đoàn 69 BĐQ, đơn vị bảo vệ cuộc rút lui, đã lọt ổ phục kích và tan rã hoàn toàn. Bắc quân tấn công quận Đức Phổ cắt đứt trục giao thông trên QL1, cô lập cửa khẩu Sa Huỳnh và lực lượng bảo vệ gồm hai Tiểu Đoàn 70 BĐQ, và 137 ĐPQ đóng tại đây. Tướng Nhựt, Tư Lệnh SĐ, được phép tùy quyền hành động để duy trì lực lượng tác chiến cuả Sư Đoàn 2BB.



NGÀY 20-3-1975: Mặt Trận Quảng Đức

*Cộng quân tấn công Quảng Đức:

- Ngày 20/3/1975, Trong khi cuộc triệt thoái của lực lượng Quân đoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 7 B, thì tại Quảng Đức, thì vào trưa ngày này, Cộng quân đã tấn công cường tập vào tỉnh lỵ và chi khu Kiến Đức, chi khu trưởng Kiến Đức bị thương. Đây là đợt tấn côngthứ hai. (Trong đợt tấn công vào ngày 18/3/1975, Cộng quân đã bịlực lượng Địa phương quân và các đơn vị tăng phái đẩy lùi. Đến 3giờ 20 chiều 20/3/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Nghìn-tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Quảng Đức.


*Cộng quân áp lực Khánh Dương

-Cùng lúc tấn công vào Quảng Đức, trong ngày 20/3/1975, Cộng quân đã áp lực nặng ở Bắc Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa. Tin tức tình báo ghi nhận sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn 320 CSBV đã từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh Dương, cách địa điểm này 8 km về hướng Bắc. Lực lượngchính án ngữ chận CQ tại Khánh Dương là lữ đoàn 3 Nhảy Dù do đạitá Lê Văn Phát chỉ huy. Lữ đoàn này vừa được Bộ Tổng tham mưu điều động từ Vùng 1 (Quân khu 1) vào để tăng cường Quân đoàn 2 để bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương.

-17 giờ 10 ngày 20/3/1975, tại bản doanh tạm thời của bộ Tư lệnhQuân đoàn 2 ở Nha Trang, Thiếu tướng Phú đã triệu tập cuộc họpvới thành phần tham dự: chuẩn tướng Niệm-tư lệnh Sư đoàn 22BB; đại tá Đức-quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, thay thế Chuẩn tườngTrường bị thương tại Phước An ngày 16/3/1975; Đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng Khánh Hòa; một số trưởng phòng của bộ Tư lệnh QĐ 2. Tại cuộc họp, Tướng Phú đã chỉ thị các tư lệnh Sư đoàn và tieu khu trưởng Khánh Hòa thi hành một số quyết định như sau: Sư đoàn22 BB thành lập bộ tư lệnh nhẹ, cùng với Pháo binh và 1 tiểu đoàn Bộ binh từ Bình Định vào thay thế Sư đoàn 23 BB tại Khánh Dương,để phối hợp với Lữ đoàn 3 Nhảy Dù bảo vệ khu vực này. Sư đoàn 23Bộ binh, với quân số chỉ còn 20%, di chuyển về trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ, để bổ sung quân số, tái chỉnh trang. Lực lượng Địa phương quân của tiểu khu Darlac được chuyển giao cho tiểu khu Khánh Hòa, để thành lập gấp 3 tiểu đoàn bảo vệ Nha Trang
NGÀY THỨ 12 ( TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 21-3-1975: Thảm Kịch Liên Tỉnh Lộ 7

*Thảm kịch chiến trường trên liên tỉnh lộ 7 B

-Ngày 21 tháng 3/1975, là ngày N+5 của cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 2 khỏi Cao Nguyên theo lộ trình Liên tỉnh lộ B. Trong ngày này, các đơn vị cuối cùng của Quân đoàn 2 tiếp tục di chuyển trên đoạn 2 của lộ trình: Phú Bổn đến Cung Sơn.

- Vào 17 giờ 50, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được khẩn báo một tin không may về đoàn quân triệt thoái : 4 trái bom oanh tạc của Không quân dội xuống CQ đã rơi nhầm vào đội hình của 2 tiểu đoàn Biệt động quân có chiến xa yểm trợ, 4 M 48 bị cháy, BĐQ bị thương vong ở mức cao.


* Biệt động quân phòng thủ đèo Cả

-Vào 17 giờ 45, Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 Bộ Tổng Tham mưu, thừa lệnh Đại tướng Cao Văn Viên, gọi cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 tại Nha Trang, yêu cầu tăng cường thêm 1 Tiểu đoàn Biệt động quân phòng thủ Đèo Cả.

- Cũng vào chiều 21/3/1975, Không quân nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham mưu cho đánh sập cây cầu giữa Phú Túc và Hậu Bổn, tỉnh Phú Bổn, để ngăn ngưà chiến xe Cộng quân vượt cầu.


* Mặt trận Khánh Dương

-Trong khi cuộc triệt thoái của lực lượng Quân đoàn 2 diễn ra trên Liên tỉnh lộ 7 B, thì tại Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa, CQ gia tăng áp lực.

-Vào 12 giờ 15 ngày 21/3/1975, phi trường Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ di chuyển về 1 vị trí cách phi trường Khánh Dương khoảng 1 km về hướng Nam.




NGÀY 21.3.1975: TẠI CHIẾN TRƯỜNG THỪA THIÊN HUẾ


3/1975 - Ngày 21 tháng 3/1975, CSBV bắt đầu đánh mạnh vào Phú Lộc, nằm trên trục lộ Huế và Đà Nẵng. Dân chúng trong khu vực bị đạn pháo kích phải bỏ chạy lánh nạn. SĐ 1 BB điều động lực lượng giải tỏa áp lực địch, Pháo Binh và Không Quân yểm trợ tối đa đã đẩy lùi được địch trong một thời gian ngắn. Đến trưa ngày 22 tháng 3, địch tập trung lực lượng tấn công cường tập tuyến phòng thủ của các đơn vị TRĐ 1 BB và LĐ 15 BĐQ. Đến 2 giờ chiều cùng ngày, các đơn vị này bị địch tấn công mạnh phải rút về tuyến sau. Quốc lộ 1 bị cắt đứt và hầu như không giải tỏa được.

Trước tình thế chiến sự diễn biến khá đột ngột và Quốc lộ 1 bị gián đoạn, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho lệnh rút quân về cố thủ Huế. Cùng lúc đó, tàu Hải Quân VNCH được tăng cường để khẩn cấp đón dân tị nạn cùng thân nhân gia đình binh sĩ ở Huế vào Đà Nẵng.
NGÀY THỨ 13 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 22-3-1975 TÃI MẶT TRẬN THỪA THIÊN HUẾ

Tình hình tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh vẩn tương đối yên tĩnh. Những đợt tấn công của địch vào các đơn vị TQLC trấn đóng tại đây đã bị đẩy lui với những thiệt hại nặng nề cho Bắc quân.

Nhưng vị trí bố phòng của quân ta tại khu vực Phú Lộc, sau những đợt tấn công ác liệt của lực lượng bộ chiến thuộc hai Sư Đoàn 324B và 325 chính qui BV, đã bắt đầu sụp đổ.

Tại khu vực trách hiệm của SĐ1BB, Trung Đoàn 18, SĐ325 BV, được yểm trợ bởi Trung Đoàn 98 Pháo Binh BV, đã tràn lên đồi 350, và tiến đánh các vị trí của ta tại Núi Bóng. Giao tranh diễn ra rất khốc liệt, với Núi Bóng ba lần đổi chủ chỉ trong vòng một buổi chiều, nhưng cuối cùng lực lượng SĐ1BB đã chiếm lại vị trí này vào ngày 22 tháng Ba.

Trung Đoàn 101 chính qui BV đã đánh bật Tiểu Đoàn 60,thuộc LĐ 15 BĐQ, ra khỏi đồi 500, phía tây Phú Lộc. Pháo địch cũng bắt đầu bắn ngăn chặn trên QL1. Những làn sóng dân tị nạn nghẹt cứng tại phía tây Phú Lộc. Tới chiều tối, đường từ Phú Lộc vào Đà Nẵng đã được khai thông. Về phiá tây, tại vùng đồi núi quanh khu vực Mõ Tàu, các đơn vị thuộc Trung Đoàn 271 Độc Lập, và Trung Đoàn 29, SĐ304 BV, tăng cường cho SĐ324 BV, mỡ những cuộc tấn công ác liệt vào vị trí đóng quân của Trung Đoàn 54 BB, nhưng bị ta đẩy lui. Cung từ của tù binh bắt được thuộc Trung Đoàn 271 Bắc quân cho biết Trung Đoàn này bị thiệt hại rất nặng, với Tiểu đoàn 9-thuộc trung đoàn này hoàn toàn tan rả.

Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân liên tục tấn công dọc tuyến phòng thủ tại Thừa Thiên. Quân miền Nam cũng mỡ những cuộc phản công nhằm chiếm lại đồi 224, một vị trí trọng yếu tại khu vực Mõ Tàu, nhưng không thành công. Cư dân cố đô Huế giảm còn khoãng năm chục ngàn người, và đèo Hải Vân nghẹt cứng dân tị nạn đang hốt hoảng tìm đường thoát hiểm về nam.

Thành phố Đà Nẵng đông nghẹt những làn sóng người di tản. Cảnh Sát thị xã Đà Nẵng ước lượng đã có khoãng trên 100,000 dân tị nạn tại đây và dân chúng vẫn tiếp tục đổ dồn về càng lúc càng nhiều.
Một phái đoàn liên bộ của chính phủ từ Sàigòn ra nhưng không giúp ích được gì mấy vì gạo đã không còn có đủ cho thị trường Đà Nẵng.



CŨNG TRONG NHỮNG NGÀY OAN KHIÊN NẦY CHÚNG TA MẤT ĐI MỘT LỮ ĐOÀN TQLC ANH HÙNG CỦA QLVNCH MỘT CÁCH ĐAU ĐỚN ĐẦY TỨC TƯỞI TRONG NƯỚC MẮT.

ĐÂY LÀ THỜI ĐIỂM ĐỊNH MẠNG KHỞI ĐẦU CHO GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG CỦA LỮ ĐOÀN 147 TQLC.

XIN MỘT PHÚT YÊN LẶNG ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN CÁCH ANH NHỮNG NGƯỜI LÍNH KIÊU HÙNG MŨ XANH MỘT THỜI OANH LIỆT TẠI CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ 1972 ĐÃ BỊ BỨC TỬ








Hồi ký chiến trường

LỮ ĐOÀN 147:TỪ MỘT CUỘC DI TẢN CHIẾN THUẬT 1975

Mũ xanh Phạm Văn Tiền K20

LTG:

Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của SĐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi.

Đầu tháng 3 năm 1975, CS Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuột sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SĐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 SĐ Tổng Trừ Bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14/9/72.

Tháng 8/1974 SĐ Nhảy Dù được điều động về mặt trận Thường Đức 1062, Quảng Nam. SĐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dải Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên Đoàn 911 và các đại đội biệt lập ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của BTL/SĐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SĐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn công tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TĐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của Hiệp Định Paris và đặc biệt Lữ Đoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.

Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, Bộ TTM/QLVNCH đã quyết định điều động phần lớn các lực lượng TQLC về Nam gồm các LĐ-258, LĐ-369 và LĐ-486 vừa mới được thành lập. LĐ-147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu Đoàn 3, 4, 5, TĐ Pháo Binh, 2 Đại Đội Viễn Thám và Tiểu Đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến.

Thay vào lỗ hổng to lớn trên là 2 Liên Đoàn BĐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngỏ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Đơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng ĐĐP/ĐĐ1 Tiểu Đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù.

Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn, TĐT/TĐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, Tiểu Đoàn 121/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Điền.

Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Mang Cá, Huế, vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và hậu trạm cũng được BTL/SĐ mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này.

Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ĐĐ2/TĐ5/TQLC. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại Úy Trần Văn Loan ĐĐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ Đoàn. Đại Tá LĐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ĐĐ4 của Đại Úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75.



Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Tiểu Đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TĐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Vân Trình ra biển Đông, phòng tuyến xa nhất phiá Bắc của miền Nam.



Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận được lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LĐ, Đại Tá Lương, LĐT, cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biển Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch…. Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loạt pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay, Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nỗi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận?!




Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm được đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu Tá Ngô Thành Hữu - Tiểu Đoàn Phó - và Đại Úy Giang Văn Nhân - Ban 3 - đang chờ đợi tại BCH tiểu đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiển TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Đại Đội 1 của Đại Úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt xuôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau.

Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Đông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình.

May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trễ nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trưởng già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ ngày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh. Họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc giải phóng của chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ già chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ sức hay phải kiệt hơi ngã quỵ dọc đường?

Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóe lên bầu trời u tối do những trái sáng được ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiểu đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu, chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuộc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp, con số này chắc không ít lắm đâu! Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng Đại Lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, quả thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.

Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại tá LĐT), ông giao cho một xấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuận An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng Sĩ Thương, Thường Vụ Tiểu Đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống. Anh nói với tôi:
- Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
- Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt.
Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
- Coi chừng Việt Cộng đó Đại Bàng.
Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia, có điều tại sao trong hoàn cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy!

Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng nữa, bắt đầu rẽ phải vào con đường đất. Thôn Vỹ Dạ chìm đắm trong màn đêm u tịch, đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vườn trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
- Phá hủy xe đi ông thầy.
- Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.
Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:
- Ai ngu để cho lũ ác ôn sử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…

Đến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này Phá Tam Giang mêng mông, niềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hứa hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo sấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bãi bốc để lên tàu.

Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi cát trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát phía sau chúng tôi sáng hôm nay. Địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trộn trong đoàn quân.

Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QĐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn độn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh giành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của các lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè kên, tiếng rên la gào thét. Một cơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt Phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.



Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dễ nhận ra nhất là Đại Úy Ân, ĐĐT/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị.



Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên lữ đoàn có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km2, đang giơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi ?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng?



Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buông xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. TĐ 4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TĐ3 phía Nam, TĐ5 chúng tôi phía Bắc. Đại Úy Tô Thanh Chiêu, ĐĐT/ĐĐ2, và Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa. Định mệnh!

Tin từ BCH/LĐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LĐ, TĐ2PB, TĐ4, TĐ3, TĐ5, TĐ7…Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càng sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LĐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.





Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên cao, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.

Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LĐ và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên Trung Đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang ổ cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt.

Pháo địch càng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài…. Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu tròng trành nhổ neo tách bến. Để bớt căng thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây". Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu Tá Võ Đằng Phương, TĐT/TĐ2/PB/TQLC, Đại Úy Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút sử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.

- 207 đây 416 gọi. Anh ở lại ‘take care’ con cái.
- Vâng! Nhận rõ 416!
207 là biệt hiệu của Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung Tá Nguyễn Đằng Tống LĐP/LĐ147.

Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vặn máy qua tần số BTL/SĐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Đà Nẳng. Người tiếp tôi là Đ/U Đan, tùy viên tư lệnh:

- Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SĐ/TQLC).
- Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
- Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
- Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!

Mặt mày tối tăm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát… self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai nấy lo, có thể là tan hàng!

Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chúng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TĐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu Tá Đinh Long Thành, tân TĐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi! Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẵn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”.

- Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.
Nam do dự mếu máo:
- Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
- Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.

Đầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đại Úy Đan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Điều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ĐĐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TĐT/TĐ7 cùng Thiếu Tá Sử TĐT/TĐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đường máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.

Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1, 2, 3, 4… 1, 2, 3, 4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo…” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng theo kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của TĐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đụng tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.

Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ nghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Đây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy, mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ mười mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chỗ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!

Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đoạn đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?”

Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi.

Mũ Xanh Phạm Văn Tiền K20




NHỮNG HỒN HOANG NƠI PHÁP TRƯỜNG CÁT

CÁP TÔ VÂN

Sau khi TQLC Cao Xuân Huy “lên tàu”, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh yêu cầu Phan Văn Đuông và tôi lên Hồn Việt T.V để anh phỏng vấn về tác giả và tác phẩm “Tháng Ba Gẫy Súng”, trước ống kính, tôi nói với anh Trinh rằng Cao Xuân Huy viết đúng nhưng chưa đủ, phải thêm vài cuốn Gẫy Súng nữa mới thấy hết cái bi thương và lý do gây nên thảm cảnh đó.



Trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của nhà văn Huy Phương trên SBTN nói chuyện về việc đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế, đã cải táng nấm mồ tập thể 132 quân nhân tử trận trên bãi biển Thuận An vào những ngày cuối tháng 3.1975, nhân dịp này ông có phỏng vấn tôi một số chi tiết liên quan đến “biến cố” Thuận An
.



Buổi nói chuyện của ông đã được phổ biến trên TV khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và gây xúc động cho nhiều người, nhất là những gia đình có chồng, con, anh, em, còn mất tích trên bãi cát này, nên quý vị đó đã gọi điện thoại cho tôi yêu cầu nói rõ thêm về cuộc rút quân của Lữ Đoàn 147/TQLC.

Thời gian của mỗi buổi nói chuyện chỉ trong vòng 20 phút trong khi muốn hiểu rõ đầu đuôi thì phải cần cả ngày. Quý khán thính giả đã xem chương trình của anh Huy Phương như các anh Tô Đức Hạnh (Alhambra, anh của cố Đ/Uy Tô Thanh Chiêu), Phan Hữu Hạnh (Witchita), Nguyễn Công Thân (AZ), Lữ Minh Đức (San Francisco), Đỗ Văn Minh (Houston TX) và nhất là chị Hồng Bạch (San Jose) đã khóc ngất khi hỏi tin tức về em trai là Tr/ Sĩ TQLC Lâm Phi Hạnh mất tích tại Thuận An. Vì vậy tôi xin được nói rõ THÊM về những điều tôi đã nghe và thấy trong nhiệm vụ của một người trực trung tâm hành quân SĐ/TQLC tại Non Nước, ĐN và tôi tham khảo thêm bài viết của các Mũ Xanh khác. Ngoài nhà văn Cao Xuân Huy với “Tháng Ba Gẫy Súng” đã in sách và xuất bản, còn thì mỗi người lính TQLC bị đẩy ra bãi cát Thuận An đều có “cây súng bị gẫy”, nhưng mới chỉ phổ biến trong nội bộ TQLC mà thôi, đó là:

_ Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tư Lệnh/TQLC. (1).

_ Những Người Lính Bị Bỏ Rơi của bs TQLC Pạm Vũ Bằng (2)

_ Người Lính Sau Cùng Tuyến Sông Bồ củaTh/Úy Phan Văn Đuông (3)

_TĐ 7/TQLC Từ Cuộc Di Tản 23/3/75 của Th/tá Phạm Cang, TĐT/ TĐ7 (4).

_Ngày Tháng Không Quên của Tango Nguyễn Thành Trí, TLP/SĐTQLC. (5)

(1 và 2 đăng trong web TQLC. Còn 3,4,5 đăng trong Tuyển Tập II TQLC, khi trích dẫn tôi sẽ dùng những số này để rút gọn thay vì viết đầy đủ tên bài viết)

Chiến đấu là có thắng thua, mà phần quyết định thắng thua thường do khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy. Viết về một chiến thắng thì quá dễ dàng. vui trong bụng và làm hài lòng những người tham dự, nhất là những cấp chỉ huy và lãnh đạo trận đánh đó. Nhưng rất dễ “lãnh đạn” khi viết về một chiến bại, dù cho là “Can Trường Trong Chiến Bại”. Viết về biến cố Thuận An thì lại càng khó. Nó không chỉ là chiến bại, mà là một tan hoang! Tan hoang không hoàn toàn do địch quân*, mà có phần trách nhiệm chỉ huy cao cấp của cuộc rút quân đó! Lại càng khó khi những nhân vật chỉ huy cao cấp đó còn đây. Không khéo lại bị mang vạ là hỗn hào, sao dám phê bình thượng cấp?

Biết vậy nhưng tôi vẫn phải viết, viết để trả lời cho những người đã khóc, đang khóc và còn khóc mãi khi thân nhân của họ là những oan hồn* chưa tìm được nơi tạm trú, những hồn hoang vẫn còn lang thang trên pháp trường cát Thuận An vào những buổi hoàng hôn.

Biết vậy nhưng vẫn phải viết khi mà những người lãnh đạo cuộc chiến nay quay sang bưng bô cho kẻ thù như ông thủ C-K, như cụ thủ T-K chào dạy thuộc cấp xưa rằng dịch quân của họ cũng là người “iêu-lước”. Các cựu thủ KK thà cứ thủ như bình, không cần nói lời xin lỗi. Nhưng lại mở miệng ra làm ô nhiễm môi trường thì tôi đành phải cầm viết. Hơn nữa khi tôi ghi lại những dòng này là đã đọc các hồi ký của những người trách nhiệm ở bãi biển Thuận An, tôi đọc và tôi viết ở cái tuổi gấp đôi khi các ông KK mang sao trên cổ áo. Nếu tôi không ghi lại bây giờ mà để thêm vài năm nữa thì lại sinh lẩm cẩm, lẫn lộn giữa bạn và thù.

(* Khi nghe tin SĐ1/BB và TQLC đã rút thì Thiếu Tá Hoàng Trai, CHT trung tâm huấn luyện SĐ.1 tại Dạ Lê mới cho TTHL rút theo. Trước khi rút, ông còn dùng xe jeep chạy khắp thành phố Huế để nhìn lại “quê hương” một lần chót mà không hề hấn gì, chỉ gặp một vài trái pháo rơi vãi đó đây, áp lực địch không mạnh, tức là hậu quả thê thảm trong giai đoạn rút quân là do vị chỉ huy cao cấp và ban tham mưu không nắm vững tình hình hoặc bỏ “nhiệm sở”

Trong buổi nói chuyện trên SBTN, nhà văn Huy Phương hỏi tôi:

_Nhiệm vụ của Sư Đoàn TQLC tại vùng I.

_Lý do rút quân và diễn tiến cuộc rút quân. Những gì xẩy ra trên bãi biển Thuận An?

_Tổn thất như thế nào? Có bao nhiêu TQLC về được Đà Nẵng?

_Nếu có mặt của vị chỉ huy cao cấp (?) tại chỗ thì tình thế sẽ ra sao?

_Hoạt động của TQLC sau đó và những ngày cuối cùng của cuộc chiến.

Xin trả lời:

Cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào năm 1971, một cuộc chiến kỳ quái thí quân, rồi sau đó tới “Mùa Hè Đỏ Lửa”, tái chiếm Cổ Thành đã khiến hai binh chủng Nhẩy Dù và TQLC bị tiêu hao khá nặng. Tổng trừ bị là vậy, nhưng rồi sau đó thượng cấp biến TTB thành “binh chủng” ĐPQ và NQ của vùng I, đóng đồn giữ đất, cắm chốt, đào giao thông hào, trải quân từ bờ biển vào tận dãy Trường Sơn. Một trung đội trưởng còn biết sự cần thiết của lực lượng trừ bị, vậy mà giới lãnh đạo lại không biết điều đó sao!

Sau khi Ban Mê Thuột bị mất ngày 10/3075 thì ngày 13/3.75. “thượng cấp” mới giật mình tỉnh cơn mê, không có tổng trừ bị bèn vội vàng kéo Dù về Nam, và để trám vào chỗ trống đó là kéo LĐ 258 và LĐ 369/TQLC, đang giữ đất ở QT, Huế di chuyển vào Đà Nẵng, Thường Đức, thay thế Dù, và chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ tuyến sông Bồ và bảo vệ Huế. Lực lượng thay thế 2 Lữ Đoàn TQLC với 5 ngàn tay súng là Liên Đoàn 14/BĐQ với quân số 1400.

BMT bị mất, Dù về Nam, TQLC xuôi vào ĐN đã ảnh hưởng rất lớn đến các lực lượng chiến đấu ở QT, Huế, đấy là chưa nói đến áp lực địch gia tăng và dân chúng hoảng loạn bắt đầu di tản, thì việc phòng thủ Huế đã quá mong manh.

Lúc 14.30 giờ ngày 24/3/75, Tại căn cứ Hải Quân Thuận An, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Tiền Phương (QĐITP) Lâm Quang Thi họp với Tướng TL/SĐ1/BB. Đại Tá Hy TMT/QĐITP, Đại Tá Duệ tỉnh trưởng Thừa Thiên, Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/TQLC để bàn kế hoạch rút quân. Kế hoạch đã được trình lên Trung Tướng TL/QĐI và được chấp thuận. Khoảng 17 giờ 30 cùng ngày Đ/Tá Hy đi trực thăng đến trao công điện cầm tay cho Đ/tá Nguyễn Thành Trí lệnh rút quân và Đ/Tá Trí ra lệnh cho các đơn vị TQLC thi hành vào lúc 18 giờ ngày 24/3/75.

Trong phạm vi bài viết này, tôi không đề cập tới lệnh rút quân của QĐITP đã được soạn thảo vội vàng như thế nào và tôi cũng không đề cập tới việc rút quân của các đơn vị bạn như SĐIBB, BĐQ, TG v.v.. mà chỉ đề cập tới lệnh rút quân ban cho LĐ.147/TQLC.

Đ/Tá Nguyễn Thành Trí Tư TLP/TQLC kiêm Tư Lệnh lực lượng Tây-Bắc, mà nỗ lực chính là LĐ.147, đã viết trong “Những Ngày Tháng Không Quên” như sau:

_ “Tướng Thi quyết định đề nghị kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau: Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó đi chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây, Hải Quân và Công Binh QĐI sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. SĐ.1BB do Tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông, song song với cánh quân TQLC. (5 trang 538 ).

_ “Sáng sớm ngày 25 tháng 3, LĐ147/TQLC báo cáo đã hoàn tất việc tập trung bên này bờ biển, cách Thuận An 9 cây số về phía Đông Nam (5 trg 539). Khoảng 1030 giờ, qua tần số không lực, LĐ147/TQLC nhận được lệnh của QĐ1TP hãy chuẩn bị tại chỗ để tàu vào bốc, kế hoạch di chuyển về cửa Tư Hiền bị hủy bỏ vì không thể thực hiện được cầu phao do tình trạng an ninh và thủy triều bất lợi. (5 trg 540).

Tư lệnh lực lượng Tây Bắc ra lệnh rút lúc 18 giờ ngày 24/3 mà sáng sớm ngày 25/3, chỉ trong vòng hơn một đêm mà LĐ147/TQLC đã di chuyển từ tuyến sông Bồ (TĐ5) và sẵn sàng tại điểm tập trung, phía Nam cửa Thuận An 9 km, tiếp tục đi chuyển về cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng là một cuộc hành quân lui binh rất khó khăn nhưng LĐ147 đã hoàn tất đúng với lệnh của QĐITP. Tuy nhiên đến 10 giờ 30 thì kế hoạch thay đổi, vì không bắc được cầu phao qua cửa Tư Hiền* nên LĐ147TQLC dừng quân tại chỗ để tàu Hải Quân vào bốc.

(* cửa Thuận An và Tư Hiền rộng như một con sông lớn nối liền biển với các đầm nước trong đất liền, phòng thủ và vận chuyển tại cửa Thuận An là trách nhiệm của Duyên Đoàn 12 và tại cửa Tư Hiền là Duyên Đoàn 13, thuộc BTL Hải Quân vùng I Duyên Hải)



Rút quân bằng đường bờ biển vào Đả Nẵng qua cửa Tư Hiền thì yếu tố quyết định là phải có cầu phao tại đây, hay tối thiểu phải là các tàu há mồm để chuyện quân từ bờ này sang bờ kia. Tướng tiền phương đã ra lệnh cho HQ và CB thi hành, vậy mà chỉ trong một đêm đã báo cáo kết quả là không thực hiện được. Thượng cấp ra lệnh khi chưa cho thám sát địa thế, khi phương tiện chưa sẵn sàng, chưa nghiên cứu thủy triều, hay thuộc cấp (HQ&CB) không tuân lệnh hành quân? Điểm chết người là ở chỗ này đây.



Bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền là một hòn đảo cát, Đông Tây Nam Bắc là nước, đã ra đến đây rồi thì đường rút quân vào ĐN chỉ có duy nhất vượt qua cầu phao tại cửa Tư Hiền. Nhưng bắc cầu phao đâu phải vẽ trên giấy? Kết quả là thế đấy!

Nhưng thôi, không có cầu phao thì QĐITP ra lệnh dừng quân tại chỗ để tàu HQ vào đón. Thật là tuyệt diệu vừa nhanh chóng, an toàn, vì dưới tay Quân Đoàn là cả một lực lượng Hải Quân hùng hậu đầy đủ tầu thuyền của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải, ông biết mọi đặc tính của vùng biển này như trên bàn tay. Nhưng rồi chuyện gì xẩy ra? Xin nghe Đ/Tá TL lực lượng Tây-Bắc nói:

“Khoảng 1300 giờ,(ngày 25.3), một hải vận hạm (LSM) đến bãi bốc, nhưng lại đậu cách xa bờ 200m, làm sao binh sĩ lội ra được trong tình trạng sóng to gió lớn lại còn phải đem theo thương binh và tử sĩ?Nếu có vài chiếc LCM để chuyển quân từ bờ ra tàu lớn thì mọi việc đã có thể giải quyết tốt đẹp, vì loại tàu LCM có thể vào sát bờ hơn. Thấy không thể giúp gì được nên chiếc LSM di chuyển đi nơi khác sau khi hứa sẽ gọi tàu LCU đến để bốc quân (5 trg 540).



Từ khi ra lệnh dừng quân đến khi tàu đến phải mất gần 3 tiếng đồng hồ (1030-1300)? Đến rồi lại bỏ đi! Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC nói về trường hợp tàu HQ vào đón (kể trên) như sau:

“Tàu đậu cách bờ 200m lại thêm sóng to gió lớn là một trở ngại vô cùng khó khăn. Từng toán 20 TQLC nắm tay nhau lội ra tàu nhưng bị sóng đánh dạt vào bờ trông thật thê thảm! Các đơn vị cố gắng nhiều lần nhưng đến 5 giờ chiều thì không một quân nhân nào ra đến tàu được. Đ/Tá LĐT gọi các tiểu đoàn trưởng đến họp (3,4,5,7,TĐ2PB) và ra lệnh phòng thủ tại chỗ để chờ xuống tàu theo kế hoạch Alfa” (4 trg 489).

Ngồi chờ tàu vào đón từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tàu đến rồi tàu lại đi vì sai kế hoạch, trong khi địch quân thì có 7 tiếng đồng hồ, quá dư thời gian để bám sát đuổi theo, trận chiến xảy ra, địch đã núp sẵn trên các cao điểm, hướng đủ mọi loại súng vào quân ta. Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4 và Đại Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/ĐĐ.3 tử thương vào lúc này. Kế hoạch Alfa như thế nào và đã được thực hiện ra sao? Th/Tá Cang viết tiếp:

“Tối hôm đó (25/3) LĐ đóng quân đợi thi hành kế hoạch Alfa tức là xuống tàu Hải Quân vào lúc 12 giờ đêm, theo thứ tự BCH/LĐ, TĐ 2PB rồi tới các TĐ 4,3,5 và 7. Thế rồi 12 giờ đêm đã tới, 1 giờ đã qua rồi 3 giờ sáng, các con tàu vẫn không vào bờ! Xa xa ngoài khơi, ánh đèn các con tàu vẫn còn đó, nhưng mọi vật hình như bất động! Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau (26/3) mới có một chiếc LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ.” (4 trg 490).




Hành quân lui binh khó khăn gấp trăm lần hành quân tấn công, vậy mà LĐ147/TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 và TĐ2PB đã thi hành đúng theo lệnh, dừng quân trên đảo cát để tàu vào đón, nhưng chờ gần một ngày một đêm (10.30 sáng ngày 25/3 đến 8 giờ sáng ngày 26/3) vẫn không có con tàu nào, chúng vẫn bất động trước mặt. Nhưng địch quân nó có “bất động” như tàu không? Chúng không ngu mà đã thần tốc bám theo, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng thì gần 24 giờ đồng hồ “ta đứng, địch đuổi” chuyện gì sẽ xẩy ra? Địch đã dư thừa thời gian đuổi theo và tăng cường quân số quyết tấn công LĐ.147, nên khi chiếc LCM vào đón thương binh là chúng tấn công bằng hỏa tiễn và 12.7, Đ/Tá LĐT bị thương Th/Tá Phạm Cang chỉ huy LĐ thay thế Đ/Tá Nguyễn Thế Lương. Nếu đêm 25/3, kế hoạch Alfa được thi hành, địch chưa đuổi kịp thì không xảy ra đại họa. Đã quá trễ khi địch đã sẵn sàng hướng súng vào tàu, vào quân ta như những tấm bia trên thềm bắn. Th/Tá Phạm Cang XLTV/LĐ viết:

“Nếu đêm qua kế hoạch Alfa được thi hành thì ít nhất một nửa lữ đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì lý do gì không thực hiện được. Khoảng 10 giờ sáng HQ cho biết sẽ có LCM vào đón. Tôi ra lệnh cho TĐ 4 và 3 xuống tàu theo như đã định, nhưng khi LCM vừa cập bến thì quân nhân các đơn vị bạn cùng dân chúng cũng nhanh chân tranh nhau xuống tàu gây nên cảnh hỗn loạn. Vì số lượng người quá đông nên tàu mắc cạn. Vị chỉ huy tàu yêu cầu ai không phải TQLC thì xuống bớt tàu mới có thể ra khơi được. Nhưng ai là người chịu xuống khi biết rằng đây là cái phao cuối cùng. Tuyệt vọng! Tự sát và VC tác xạ vào gây thêm cảnh chết chóc cho những ngươi xung quanh” (4 trang 491).

Lời của Th/Tá Phạm Cang trên đây cũng như Tr/Úy Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” đã nói giống nhau về con tàu vào đón quân trễ 24 giờ so với lệnh hành quân của QĐITP (10 giờ 30 ngày 25/3 đến10 giờ ngày 26/3) khiến nó trở thành cái quan tài sắt chứa bao nhiêu xác người, có khác chăng là chi tiết giữa cái nhìn của ĐĐT và TĐT. Đó là hậu quả mà người dân thôn An Dương, Thuận An, Thừa Thiên Huế vừa cải táng nấm mồ tập thể của 132 tử sĩ VNCH, tuy không xác định được danh tánh nhưng phần lớn là TQLC. Còn bao nhiêu lần 132 xác nữa vẫn còn nằm rải rác khắp đó đây dưới cát hoặc thủy triều kéo ra biển khơi?






Từ 10 giờ sáng, con tàu đến trễ 24 tiếng đã mắc cạn biến thành “con tàu ma” thì chẳng còn “ma” nào vào đón LĐ.147 nữa. Họ phải làm gì đây? Trong cơn nắng hè giữa bãi cát, cả lữ đoàn đang chết khát giữa biển nước mênh mông. Đến 2 giờ chiều Tướng Lâm Quang Thi bay trực thăng ngoài biển khơi gọi máy hỏi quân số dưới đất còn bao nhiêu, Th/Tá Cang trả lời:

_“Ngoài 5 Tiểu Đoàn TQLC, còn có các đơn vị bạn đi theo, tổng số khoảng 3000”.

Vị tướng tiền phương hứa sẽ có tàu lớn (?) vào đón và rồi ông bay đi và im lặng vô tuyến. Đến 4 giờ chiều, tức 2 giờ sau lời ông tướng hứa thì Th/Tá Phạm Cang XLTX/LĐ nhận được lệnh từ TLP/TQLC rằng không còn tàu nào nữa! Đ/tá ghi lại (5 trg 541) như sau:

“Chiều đã xuống, BCH nhẹ SĐ đã gọi bất cứ hệ thống vô tuyến nào có thể xen vào để xin tiếp tục gửi tàu đến bãi bốc, nhưng mọi trả lời nhận được đều bi quan và tuyệt vọng.”



Kể từ 4 giờ chiều ngày 26/3, cả LĐ.147/TQLC coi như đã bị đưa ra pháp trường cát Thuận An. Trước mặt là biển Đông, sau lưng là đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An và phá Tam Giang, Nam là cửa Tư Hiền, giữa bãi cát mênh mông không nơi che dấu thì có thể làm gì được đây?



Đã 6 giờ chiều, những người lính TQLC phải quyết định thật nhanh, Th/Tá Phạm Cang cho họp các tiểu đoàn trưởng để đi đến một quyết định: “Tiếp tục đánh và đi về phía Nam”, đi về cửa Tư Hiền dù biết rằng không có cầu phao, nhưng hy vọng vào cái cầu bằng “bọt nước” tức là hy vọng vào Duyên Đoàn 13 thuộc BTL/HQ vùng I Duyên Hải còn trấn giữ ở đây. Nhưng tất cả đúng là “bọt nước”, không tầu, không cầu, không bạn, hết đạn, hết lương thực, hết nước, chỉ còn súng địch thì không tử trận cũng tự sát, và bị bắt! Còn ai thoátđược?

Trong một bài viết của vị Tướng Tư Lệnh Tiền Phương (TL/TP), ông đã nói rằng “đa số TQLC đã về tới Đà Nẵng”. Xin thưa, chỉ duy nhất một LCM vào đón thương binh lúc 8 giờ sáng ngày 26/3, nhưng bị VC bắn nên vội rút ra! Bác Sĩ Phạm Vũ Bằng là người được lệnh ra đón thương binh đã kể lại trong bài viết “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” nói rõ con số, bài này đã gửi tới cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi TL/TP, có đoạn như sau:

_ “Vào lúc 2 giờ chiều ngày 26/3, thì một chiếc LCM từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước.”

Trên đây là ghi lại thật tóm tắt diễn biến xảy ra trên pháp trường cát Thuận An. Còn câu hỏi của nhà văn Huy Phương rằng nếu có sự chỉ huy của giới chức “có thẩm quyền” thì tình thế có thay đổi không? Vì tế nhị ông đã không hỏi đích danh “thẩm quyền” là ai, nhưng tôi có thể khẳng định “thảm họa” Thuận An không do cấp chỉ huy TQLC. Lữ đoàn trưởng bị thương đã có người thay thế và các Tiểu Đoàn Trưởng 3, 4, 5, 7, TĐ2PB vẫn luôn sát cánh cùng thuộc cấp. Xin nghe tâm sự của Cao Xuân Huy về tiểu đoàn trưởng Đinh Long Thành của mình:

-“Làm tiểu đoàn trưởng được mấy ngày thì chạy, chết mất tiểu đoàn phó*, chết mất một đại đội trưởng*, banh luôn một đại đội, một đại đội cũng đang lênh đênh trên biển ngoài sự kiểm soát của ông.. Vậy mà ông vẫn chạy ngược chạy xuôi, cố gắng tập trung, gom góp những thằng mang bảng tên màu đỏ tiểu đoàn 4 để hướng dẫn, để biết tin tức, để khích lệ tinh thần. Ông đã không lợi dụng tình trạng tan rã của tiểu đoàn để bỏ trốn một mình. Phải chi quân đội chỉ có tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá Thành” (Tháng 3 Gẫy Súng, trg 93)

Không chỉ có tiểu đoàn trưởng, mà tiểu đoàn phó cũng thế. Phạm Cang nói về TĐP Lê Quang Liễn (có em ruột đi theo anh nhưng bị tử thương) như thế này:

_“Khi một tàu vào gần bờ để bốc thương binh tử sĩ, Th/Tá Liễn ôm xác người em trai bơi ra tàu vừa kịp lúc tàu kéo “bửng” lên nên cả hai anh em Liễn, người sống và người chết nằm gọn trong tàu. Vừa khi tàu lui ra thì Liễn nhẩy xuống biển, bơi lại vào bờ để tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội và rồi bị bắt cùng đồng đội”.

Gặp Liễn tôi hỏi động cơ nào đã khiến anh hành động như thế thì Liễn nói:

_ “Không có gỉ ghê gớm lắm đâu anh, đơn giản là các tiểu đoàn trưởng Cang, Tiền, Sử, Thành còn trên bờ, lính tôi còn trên bờ, tôi phải trở lại để sống chết với anh em. Nếu bây giờ gặp hoàn cảnh như thế, tôi vẫn làm như thế”.

Những cán bộ nồng cốt của LĐ.147/TQLC là như thế đó nhưng không thể làm gì hơn, họ chỉ là Bộ Binh (nói chung) không có quyền điều động tàu thủy và tàu bay. Ngay cả Đại Tá TLP cũng phải than trời:

“Kêu cứn tàu vào bốc nhưng mọi trả lời đều tuyệt vọng”. (5,trg 541)

Nên nhớ rằng LĐ.147/TQLC trực thuộc quyền điều động của QĐITP, nằm ngoài thẩm quyển điều động của TL/TQLC. Khi biết LĐ.147 đang bị sa lầy, TL/TQLC đành phải ra mật lệnh cứu nguy. Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của Thiếu TướngTL/SĐTQLC, gửi cho tôi một e-mail nguyên văn như sau:

“Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông nói:“đ..m..thế này thì chết lính tao rồi!”. Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Thi. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của Thiếu Tướng TL cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời dặn của TT/TL/SĐTQLC:“Tìm ra quốc lộ 1 mà đi”.

Nhưng tiếc thay, đã quá trễ để Đ/Tá Lương đổi hướng ra QL.1. Lệnh rút theo bờ biển và tàu vào đón là ưu điểm với điều kiện ắt có tàu và đủ điều kiện bắc cầu phao.Nếu không, lui binh theo đường bộ, dọc theo QL1 dù cho có gặp nhiều khó khăn, dẫu có gặp địch kháng cự, cũng không đến nỗi như đã bị dồn vào cửa tử Thuận An, vào thế bí như cái nhìn của Tướng TQLC và nhiều cấp chỉ huy khác nữa.

Tình thế chắc chắn khá hơn, tốt hơn nếu không muốn nói là không xẩy ra “pháp trường cát” nếu như TL/QĐITP ra lệnh được cho HQ cho tàu vào đón TQLC, lệnh cho KQ đưa máy bay lên yểm trợ hỏa lực ngăn chặn địch quân, cho trực thăng tải thương tiếp tế. Nhưng vì sao lại không có cái c.. gì cả thì TQLC chúng tôi không biết? Chuyện gì xẩy ra giữa Tướng TL/TP với Tướng TL/SĐIKQ, với Phó Đề Đốc TLHQ Vùng I Duyên Hải và cả với Tướng TL/QĐI, đây chính là những giới chức có thẩm quyền quyết định để KHÔNG xảy ra pháp trường cát.

Trong lệnh rút quân của QĐITP cho SĐ.1BB và LĐ.147/TQLC có nhấn mạnh:

“Kế hoạch hỏa lực ngăn chặn phải được áp dụng tối đa trong khi các đơn vị rút quân”.

Đây là một điểm son trong lệnh hành quân của Tướng TLTP, nhất là hành quân lui binh. Lui binh nên PB cũng lui, chỉ còn KQ và HQ là hữu hiệu nhất, mà cả 2 thành phần này chưa hề sứt mẻ. Nhưng “ou` est Robert đánh đu?” Họ đi đâu cả rồi?

Đà Nẵng có sân bay lớn, SĐIKQ có nhiều trực thăng, thẩm quyền nào điều động họ đi đâu cho đến nỗi cần trực thăng để tiếp tế đạn, nước uống, thực phẩm cho lính ở bãi cát Thuận An mà không có, Đại Úy Đan, chánh văn phòng và Tiểu Cầm, âm thoại viên của TL/TQLC đã phải dùng C&C của Tư Lệnh để tiếp tế vàì thùng lương khô xuống cho anh em. Tiểu Cần đã ghi lại trong bài “Tháng Ba Buồn Hiu”:

_ “Một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên trực thăng C&C,, tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì chở không được bao nhiêu, và phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3000 người đang “bụng không, bãi cát trống”?Bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ.147 thì phi công hỏi Đại Úy Đan kế hoạch tiếp tế những thùng gạo xấy này thì anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống, làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!

Cao Xuân Huy đã ghi lại trường hợp tiết tế này trong Tháng Ba Gẫy Súng:

_ “Một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát đựng gạo xấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn xảy ra …Có một bao rơi trúng đầu làm bất tỉnh một người lính .. (T3GS, trg 75)

Hải Quân thì có đủ mọi tàu lớn nhỏ và các cấp thừa hành cũng sẵn sàng hy sinh cộng khổ cùng TQLC, nhưng họ có nhận được lệnh hay không, lệnh ra có đúng lúc đúng chỗ hay không?. Đón quân trên bờ mà cho tàu lớn đậu xa bờ 200 thì đón ai? Đón các “thằng chỏng*” chăng? Trong khi nếu điều động đúng lúc, đúng chỗ, đúng loại là tàu “há mồm” thì hoàn tất kế hoạch chính xác nhanh chóng an toàn và thành công. (* thằng chỏng tức người chết trôi).

Hải Quân và Quân Vận vùng I Duyên Hải có tàu há mồm không? Th/tá Phạm Cang viết:

“Khoảng 10 sáng 25/3, trên tần số Không-Lục, tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiêu tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu quân vận (5 chiếc LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em mũ nâu không, nhìn quanh tôi chỉ thấy vài anh thôi, tôi cho Thao biết. Thao nói với Cang: “tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, chuẩn bị và đánh dấu bãi bốc” (4 trg 487).

Đúng lúc đó thì Cang nhận lệnh di chuyển về phía Nam đề gặp Long Mỹ, tức Đại Tá Nguyến Thế Lương LĐT/LĐ.147, để vào ĐN bằng tàu 801, nên Cang cám ơn Thao, còn Thao mang 5 tàu LCM đi đâu thì không ai biết, trong khi đó thì LĐ.147 ngồi chờ mãi đến 13 giờ mới có LSM đến, lại đậu xa bờ, không cứu được ai. TĐ.7 đã mất dịp được LCM của Th/tá Thao cứu. Điều này chứng tỏ lệnh cho tàu của HQ vào đón TQLC là một mớ “bòng bong”, bòng bong đến nỗi không ai hiểu nổi WWWWW?

Còn câu hỏi về hoạt động của TQLC vào những ngày cuối của cuộc chiến thì tôi xin trả lời thật vắn tắt như sau:

Lúc 7 giờ sáng ngày 29/3/75, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng với Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP/TQLC và quân nhân các cấp bơi ra tàu HQ tại bãi biển thuộc căn cứ (sân bay) Non Nước, Đà Nẵng. Về đến Vũng Tàu thì đóng quân trong căn cứ cũ của quân đội Úc sát ngay bãi biển sau Vũng Tàu, đồng thời TL/TQLC lại kiêm Quân Trấn Trưởng Vũng Tàu, kiểm soát mọi tàu thuyền. Phải nói thẳng rằng không có một đơn vị nào lại có điều kiện thuận lợi để “ra đi” như TQLC, nếu muốn.

Nhưng, trong khi giới chức cao cấp tại Saigon nhao nhao tìm trốn thì TQLC lại tiếp tục lên đường chiến đấu, đánh từ Long Khánh, Long Thành, Long Bình và cứ điểm tử thủ cuối cùng là Căn Cứ Sóng Thần Thủ Đức và rồi phải gẫy súng theo lệnh TT! Và rồi từ Tư Lệnh Phó, các Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trưởng Phòng, CHT/TTHL, các Đại Đội Trưởng đều vào tù. Các Tr/Tá Nguyễn Văn Nhiều, Nguyễn Đằng Tống, Huỳnh Văn Lượm, Th/tá Trần Văn Hợp v.v.. đã “tử nạn” trong tù.

Thưa quý đọc giả.

Cực chẳng đã tôi mới phải cố gắng ghi lại ngắn gọn diễn tiến biến cố “Thuận An” để trả lời cho những vị có chồng, con, anh, em, “mất tích” tại đây vào những ngày cuối tháng 3/75. Mỗi lần nghĩ đến là đầu tôi bốc khói, nếu không kiềm chế để viết thì tôi dễ xúc phạm đến các thượng cấp có trách nhiệm về mạng sống của những nấm mồ như nấm mồ 132 bộ xương mà đồng bào thôn An Dương, Thuận An đã cải táng và vào thời điểm này (tháng 1/2011) các ân nhân ấy đang chuẩn bị lập Trai Đàn Chẩn Tế.

Dẫu biết rằng “thời thế thế thời phải thế”, không xoay đổi được vận nước, nhưng nếu như quý thượng cấp có trách nhiệm điều quân khiển tướng làm việc như những người lính chúng tôi, cùng lính chúng tôi chiến đấu, dẫu có thua, thì đâu xẩy ra những nấm mồ tập thể 132 bộ xương và còn bao nhiêu nữa đang nằm trong cát, dưới đáy biển Thuận An và khắp mọi miền đất nước!

Thưa quý vị có thân nhân nằm lại Thuận An cũng như tôi có anh em nằm lại đó mà chưa tìm ra tung tích thì hãy hãnh diện thay vì thương tiếc. Anh em họ sống chiến đấu bên nhau thì khi chết cũng nằm bên nhau, chung một nấm mồ tập thể ngay tại nơi họ đã chiến đấu, chắc những anh linh đó cũng chẳng muốn xa lìa đồng đội để về nằm riêng lẻ một mình. Xin nhớ đến các anh linh đã hy sinh cho chúng ta được sống, một lời cầu nguyện chung.

Nếu ai còn nhớ đến các anh linh tử sĩ thì hãy nhớ đến họ bằng câu kinh tiếng kệ, cây nhang, bó hoa, tùy lòng đóng góp cho Trai Đàn Chẩn Tế*. Hãy tin tưởng rằng không ai trong chúng ta, con dân VNCH, dám tìm danh lợi trên xác chết. Các anh sống khôn khi cầm súng chiến đấu thì thác cũng thiêng. Xin các anh phù hộ cho những người có tấm lòng, dù ở hải ngoại hay tại thôn An Dương, Thuận An, Huế.

(*TQLCVN tạm thời đã đóng góp 2 ngàn mỹ kim đến ban tổ chức Trai Đàn Chẩn Tế Những Anh Hùng Tử Sĩ VNCH)

Tô Văn Cấp







NHỮNG NGƯỜI LÍNH BỊ BỎ RƠI ..

Bằng-Phong.


Gia Đẳng, Quảng Trị ngày 7/3/1975.

Hôm nay là ngày bàn giao chức vụ Trung Đội Trưởng Quân y TĐ.9/TQLC giữa tôi và người mới đến thay thế là BS Thi. Khi chúng tôi bước ra khỏi hầm trú ẩn thì đã thấy Trung Sĩ Khương, y tá trưởng tiểu đoàn cùng 21 quân y tá xếp một hàng ngang, súng M16 trên vai, nón sắt áo giáp, mặt nạ chống hơi độc, túi cứu thương, quân phục chỉnh tề sẵn sàng chờ lệnh.
Có lẽ do tình thầy trò sắp chia tay nhau nên khi thoáng trông thấy Khương là bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện ra làm tôi cảm động, nhớ về những gian nan từng trải qua cùng anh em. Có những lần tiểu đoàn đụng nặng, cả trung đội Quân Y phải thức suốt đêm để cứu chữa thương binh, thầy trò chúng tôi tận dụng tất cả những gì đã học hỏi được để cấp cứu, cố mang họ ra khỏi bàn tay của tử thần rồi sáng sớm hôm sau chúng tôi bồn chồn lo lắng chờ đợi trực thăng tải thương đến. Có lần Khương đã nhanh tay giúp tôi cứu một thương binh mà tôi không bao giờ quên:
“Anh TQLC phía trước, cách tôi chừng 15m, bị trúng đạn đang lăn lộn, tôi ngập ngừng bò về phía nạn nhân thì nhiều tiếng súng tiếp theo khiến tôi điếng hồn toát mồ hôi toan quay trở lại thì hai ba người lính khác từ phía sau bò qua tôi vượt lên, họ loay hoay chưa biết làm gì để cứu đồng đội bị thương. Tôi cảm thấy hổ thẹn vì sự nhút nhát của mình nên quyết định tiếp tục bò nhanh đến bên các anh. Anh thương binh đang thở đứt quãng, máu miệng và mũi đang phun ra kèm theo vài cái răng. Viên đạn trúng má phải xuyên qua má trái, máu chảy vào trong miệng khiến anh không thở được, tôi biết phải làm gì thật nhanh để cứu sống anh, tôi với tay lên túi cứu thương đang đeo trên vai để lấy dao mổ thì ..thất kinh, túi cứu thương đã bị bắn nát! Đang bối rối thì một bàn tay vỗ vai, tôi quay đầu lại thì y tá Khương đưa ra con dao mổ, tôi vội giật con dao trong tay Khương và nói nhanh: “ống thở”. Tay tôi sờ cổ nạn nhân để tìm vị trí mổ, khi dao mổ vừa rút ra khỏi cổ anh lính thì Khương nhét ngay cái ống thở vào vết mổ, cả tôi và Khương cùng mừng nhìn sắc mặt người thương binh đang đổi từ tím sang hồng”.

Tiếng hô “NGHIÊM” của Trung Sĩ Khương làm tôi trở về hiện tại, tôi cho anh em thao diễn nghỉ, tôi định nói thật nhiều về trách nhiệm và bổn phận của người y tá ngoài mặt trận, nhưng khi nhìn những khuôn mặt rắn rỏi thân yêu, những cánh tay lực lưỡng xâm hai chữ “Sát Cộng”, lòng tôi bỗng bùi ngùi xúc động. Đã hai năm rồi chúng tôi chia ngọt xẻ bùi cùng cay đắng với nhau, nay là lúc tôi ra đi để nhường chỗ cho người y sỹ khác, sự chia tay này không dễ dàng như tôi tưởng. Tôi nghẹn ngào căn dặn anh em như một người anh cả trong gia đình:
_ “Bây giờ tình thế rất nghiêm trọng, Cộng quân có thể mở những trận đánh quyết định bất cứ lúc nào, tôi mong anh em đoàn kết bảo vệ lẫn nhau và để giúp BS Thi hoàn thành nhiệm vụ”.
Sau khi bắt tay và an ủi từng người đệ tử cũ và chào ông bác sĩ mới, tôi lên ban 3 tiểu đoàn để chào từ giã các sĩ quan tham mưu và gọi máy C25 để từ biệt bốn ông đại đội trưởng. Lại một màn giã từ đầy cảm động, tôi đã sống với TĐ.9/TQLC ngót hai năm, tình chiến hữu đã đổi thành tình huynh đệ, tôi không muốn rời khỏi tiểu đoàn trong tình thế nóng bỏng này. Bỗng một quyết định đến với tôi mà cho đến giờ phút này tôi cũng không biết đúng hay sai, lý doTĐ.9/TQLC bấy giờ đang trực thuộc LĐ.258/TQLC đóng tại Mỹ Thủy Quảng Trị, nếu tôi về Đại Đội Quân Y/LĐ258 thì tôi vẫn có thể săn sóc thương binh của TĐ.9 khi trận chiến xảy ra, tôi liền mượn máy Tiểu Đoàn 9 gọi cho Tiểu Đoàn Quân Y của SĐ/TQLC tại Hương Điền để trình bày quyết định này. May thay TĐT Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế hiểu được nhu cầu cần thiết trên tuyến đầu nên chấp thuận tăng phái tôi cho ĐĐ QY/LĐ 258 trong vòng hai tuần lễ.

Con đường từ bãi biển Gia Đẳng đến bãi biển Mỹ Thủy là một chi nhánh của hương lộ 555, đây là một HL tuyệt đẹp, một bên là cát trắng biển xanh bao la, một bên là những đồi dương liễu nên thơ, và hương lộ này cũng đã đi vào văn học lịch sử thế giới bởi nhà văn thân Cộng người Pháp quốc tịch Mỹ tên Bernard Fall.

Năm 1953 Bernard Fall đã đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp hành quân trên HL.555 và đã chứng kiến đoàn quân này bị Trung Đoàn 95 Việt Minh đánh bại. Về nước, Bernard viết cuốn sách “Street Without Joy” trong đó anh ta đã thần thánh hóa TĐ.95/VM, đây là một cuốn sách rất nổi tiếng được dịch ra nhiếu thứ tiếng và đã biến Bernard thành một đại “văn hào”.
Năm 1966, Bernard Fall trở lại Việt Nam và đi theo cuộc hành quân của TĐ.1 và TĐ.2/TQLC, đổ bộ tại Gia Đẳng, tiến quân đọc theo HL.555 lên phía Bắc, dồn Trung Đoàn 95 VC (Tr.Đoàn 95 VM dưới thời VNCH được gọi là Tr.đoàn 95 VC) tới bờ sông Vĩnh Định, Bích La Thôn và tiêu diệt trung đoàn này dưới con mắt đau buồn của Bernard.

Sau khi chứng kiến TrĐ.95VC bị hai Tiểu Đoàn 1&2/TQLC dìm xuống lòng sông Vĩnh Định, Bernard Fall đã đi theo quân đội Mỹ hành quân trên HL555, nhưng quân đội Mỹ đã không bảo vệ anh như TQLC/VN mà anh ta đã không tiếc lời nguyền rủa và rồi Bernard đã đạp phải mìn bẫy của TRĐ.95/VC còn sót lại và chết trên “Street Without Joy” của anh ta!
Nói đến HL555 mà không nói về Bích La Thôn thì quả là một sự thiếu sót, đây là một thôn làng xinh đẹp nằm bên bờ sông Vĩnh Định, một con sông đẹp không kém gì sông Hương, nơi đây có một cây cầu thơ mộng mà dân địa phương gọi là cầu Ba-Bến. Tục truyền rằng cách nay hơn 200 năm, có một vị chúa Nguyễn đầy lòng nhân từ, trước khi qua đời ông đã ra lệnh tha tất cả các cung nữ của ông về Bích La Thôn để họ làm lại cuộc đời, không biết vì ảnh hưởng di truyền hay vì phong thủy hữu tình mà những người con gái của Bích La Thôn đều có một sắc đẹp lạ lùng, khác hẳn với các giai nhân những vùng khác của đất nước, ở đây họ sống mộc mạc nhưng vẫn giữ những tập tục của Hoàng Cung Huế. Bởi vậy tại miền Trung có câu tục ngữ: “Cau Vỹ Dạ, gái Bích La”. Đang mải nghĩ về anh văn sĩ người Pháp ngây thơ và lãng mạng, về những người đẹp Bích La Thôn thì xe đã đến Mỹ Thủy và rẽ vào BCH/LĐ.258/TQLC.
Mỹ Thủy, Quảng Trị .. Ngày 08/3/1975 đến 18/319/75.

Đèo Phước Tường, Huế .. Ngày 18/3/75 đến 25/3/1975.

Đại đội QY/LĐ.258/TQLC có 3 y sĩ, ông ĐĐT là một người sống khắc khổ và chịu đựng, hai người y sĩ phụ tá là BS Nhi, anh là y sĩ bệnh viện Lê Hữu Sanh, vì phạm kỷ luật nên bị đày ra LĐ 258, sau 30/4/75, anh được giữ chức vụ quan trọng trong ngành y tế tại Saigon, vì anh có thân nhân làm lớn trong MTGPMN. Người kia là BS Duy, anh là ngôi sao đang lên của Quân Y TQLC, khi còn lội theo tiểu đoàn, anh đã được gắn ADBT và được báo Sóng Thần của SĐ/TQLC khen, nhưng không ngờ anh lại là một tên tình báo của VC, và gần đây anh đã giải ngũ với cấp bậc trung tá tình báo VC. Vì đại đội quân y đã đủ y sĩ nên tôi chỉ làm những công việc lặt vặt coi như để chờ ..!

Ngày 11/3/1975, đài BBC loan tin Ban-Mê-Thuột bị thất thủ, tôi vội lên Ban Ba Lữ Đoàn để biết thêm tin tức thì gặp Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, một vị TĐT cũ của tôi và lúc này tôi mới biết ông đang là LĐP/LĐ.258, (LĐTr là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo), chúng tôi vui mừng chào hỏi nhau rồi anh Lượm mời tôi ăn cơm tối cùng với Đại Úy Quận Ban 2 LĐ. Trong bữa cơm anh buồn bực nói:
_ “Cái “chiến lược” đem lực lượng tổng trừ bị căng ra để giữ đất không khá được, trong khi VC chúng tụ quân đánh ta chỗ này chỗ khác. Đất mất mà quân còn thì ta chiếm lại mấy hồi, còn quân mất thì làm sao giữ đất?”.

Tôi hỏi ông liệu có một trận đánh quyết định tại QK1 thì ông trầm ngâm:

_ “Quân CSBV bây giờ không mạnh bằng năm 1972, vì những quân tinh nhuệ của chúng đã bị ta giết gần hết rồi, bây giờ chúng thay thế bằng đám thanh niên mới thiếu kinh nghiệm tác chiến, chúng biết QĐ.1/QK1 có 4 sư đoàn thiện chiến, vũ khí đạn được tích trữ đầy đủ, dù có đánh nhau một hai năm cũng chưa hết, vì thế chúng sẽ không mở một trận đánh quyết định tại QK1 mà chỉ bám sát, đợi lúc ta rút quân có sơ hở thì mới đánh”.

Sự tiên đoán của Trung Tá Lữ Đoàn Phó LĐ.258/TQLC khá chính xác, vì cho tới ngày 29/3/1973 khi QĐ.1 rút khỏi Đà Nẵng, thì đã không có một trận đánh lớn nào xẩy ra.

Ngày 16/3/1975 Lữ Đoàn 369/TQLC, trong đó có TĐ.9 rời Quảng Trị di chuyển về Đại Lộc, Thượng Đức để thay thế LĐ.3 Nhẩy Dù. Tôi chưa kịp xin đổi về TĐQY thì ngày 18/3/75, LĐ.258/TQLC cũng được lệnh di chuyển từ Mỹ Thủy đến đèo Phước Tường để thay thế cho LĐ.2 ND, thế là tôi có mặt trên đèo và đã nghe đã thấy tất cả những gì xẩy ra sau đó trên QL1, vì đèo Phước Tường nằm trên QL1, phía Nam Huế và phía Bắc đèo Hải Vân.

Theo lệnh hành quân thì LĐ.258/TQLC có nhiệm vụ:

-Bảo vệ trục giao thông trên QL1 để LĐ.147/TQLC, SĐ.1/BB, LĐ.14BĐQ, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, các TĐ Pháo Binh và các đơn vị khác của QĐ.1 Tiền Phương đang chiến đấu tại Quảng Trị, Huế rút về Đà Nẵng.
- Làm lực lượng ngăn cản các đơn vị truy kích của CSBV sau khi các đơn vị kể trên rút an toàn về Đà Nẵng.
- Cùng bảo vệ QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân còn có Liên Đoàn 15/BĐQ từ phái Bắc đèo Phước Tường đến phía Nam Huế và LĐ 468/TQLC từ phía Nam sông Truồi đến đèo Hải Vân.

Từ ngày 19/3/75 đến ngày 23/3/75, dân chúng Quảng Trị, Huế đổ về Đà Nẵng, họ dùng đủ mọi phương tiện, từ xe hơi, xe ba bánh, xe đạp và cả đi bộ nữa, dòng người kinh hoàng sợ VC đã chen chúc nhau trên QL1 ngày cũng như đêm, nhiều người quá mệt mỏi ngã gục trên đường liền bị xe cán qua! QĐ.1 đã không làm bất cứ một cái gì để giúp đỡ họ, chẳng thấy một ông lớn nào lên đài phát thanh hay bay trên trời để hướng dẫn hoặc trấn an dân chúng! Dân đi thì đặc công, du kích VC cũng giả dạng tỵ nạn đi theo, không thấy QĐ.1 có biện pháp nào để thanh lọc chúng. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu tiểu đoàn đặc công VC lọt vào Đà Nẵng một cách hợp pháp?

Ngày 23/3/75, dòng người tỵ nạn đột nhiên chấm dứt, một số người bị thương vì đạn AK của VC được mang đến cho chúng tôi điều trị. Theo lời kể lại của các nạn nhân thì một toán VC đã lập một cái chốt gần cầu Nong xả súng bắn vào đoàn người di tản để ngăn chặn lưu thông trên đoạn đường này.

Tối 23/3/75, đài phát thanh VC loan báo chúng đã “diệt gọn” LĐ.258 và LĐ15 BDQ và chúng đang kiểm soát QL1 từ đèo Phước Tường cho đến Huế (?)

Sáng ngày 24/3/75, tôi đi theo xe cứu thương để cấp cứu một anh Tr/Sĩ BĐQ, anh bị trúng đạn vào vai phải, gặp tôi anh nói:
_ “Thiệt tức muốn chết được ông thầy, tôi canh me tụi nó từ chiều hôm qua, ai ngờ nó làm tôi trước, vì nó có súng gắn ống nhắm, nếu tôi có cây 75 ly thì hốt trọn ổ tụi nó rồi”.
Tôi an ủi rồi băng bó cho anh thương binh xong rồi sai y tá đưa anh về đèo Phước Tường để khâu lại vết thương. Anh Tr/Uy BĐQ có vẻ lo lắng cho đệ tử nhưng tôi bảo anh an tâm, vì vết thương của tr/sĩ không nguy hiểm, nhân tiện tôi hỏi anh về tình hình tại cầu Nong thì anh cho biết:
_ “Vẫn yên tĩnh, ngoại trừ cái chốt bắn sẻ cản trở lưu thông, chặn đồng bào di tản, tôi đang chờ trung đội súng nặng đến tăng cường để dẹp cái chốt này.”

Đoạn QL1 từ cầu Nong đến chân đèo Hải Vân là con đường huyết mạch và duy nhất để tiếp tế tiếp viện và rút quân cho các đơn vị phía Bắc, mất đoạn đường này có nghĩa là các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị và Huế sẽ bị cô lập. Tối hôm trước, 23/3 VC đã loan tin láo khoét là chiếm được đoạn đường này với mục đích làm hoang mang tinh thần chiến đấu của các đơn vị này vậy mà QĐ.1 đã không cải chính để trấn an tinh thần binh sĩ!

Từ ngày 19/3/75, quân CSBV đã bám sát LĐ.258, tiền sát viên của chúng trà trộn vào dân tỵ nạn đến gần quân ta nên chúng điều chỉnh pháo binh rất chính xác, đã có vài trái 130 ly rơi vào sân trực thăng phía sau ĐĐ/QY. Lữ đoàn cho mở những cuộc hành quân đẩy lui địch về phía Tây cách QL1 ba, bốn km. ĐĐ/QY Lữ Đoàn dựng một cái lều lớn trên bãi trực thăng để làm trại cứu thương, tôi được chỉ định làm việc tại đây. Trưa ngày 24/3/75, địch bắt đầu pháo nhiều hơn, chúng pháo từ hai ba vị trí khác nhau ở phía Tây, đạn rơi chung quanh vị trí Lữ Đoàn rồi chúng kéo từ từ lại gần, cường độ khoảng ba bốn trái một phút. Chiều 24/3/75 tôi nghe nhiều tiếng súng lớn nhỏ từ phía cầu Nong dội về, tôi biết BĐQ đang tấn công nhổ cái chốt bắn sẻ. Một lúc sau y tá mang về cho tôi 2 thương binh BĐQ, cả 2 anh đều bị bắn bên vai phải (có lẽ tên bắn sẻ là tay mơ, quên điều chỉnh độ dạt của khẩu súng nên hắn nhắm đầu mà lại trúng vai phải) và các anh cho biết tên bắn sẻ đã bị hạ, bọn còn lại bỏ chạy vào rừng phía Tây, BĐQ đã nhổ xong cái chốt trên cầu Nong, địch không còn, như vậy QL1 đã an toàn trở lại từ chiều ngày 24/3/75.

Khoảng 6 giờ chiều ngày 24/3/75, thương binh từ mọi nơi được mang về trạm cứu thương Lữ Đoàn càng lúc càng nhiều. Có đủ loại bị thương, những vết thương nhẹ thì lấy miểng đạn ra rồi khâu vá tại chỗ, nặng thì phải làm những phẫu thuật cấp cứu đặc biệt. Có nhiều vết thương đứt động mạch, khi mở băng ra thì máu phun có vòi lên mặt chúng tôi, nhưng đó là chuyện nhỏ, chúng tôi phải cột động mạch và tĩnh mạch thật nhanh, nếu chậm trễ thì thương binh mất nhiều máu nguy hiểm.
Vì lều cứu thương ở trên một vị trí trống trải lại không có bao cát che chắn xung quanh nên tôi đành cho đặt cáng thương binh dưới đất và chúng tôi cấp cứu họ trong tư thế ngồi.

Khi màn đêm xuống, vì tránh để lộ vị trí nên chúng tôi phải làm việc bằng đèn bấm để chích thuốc, truyền nước biển, khâu vá vết thương, điền phiếu tản thương cho gần 50 thương binh gồm TQLC và BĐQ. Khoảng 8 giờ tối, địch bắt đầu tấn công bằng bộ binh vào vòng đai phòng thủ của LĐ, từng tràng M16 xen với tiếng AK47, tiếng lựu đạn, B40, M72, tiếng súng cối, pháo binh đi và đến tạo nên một điệp khúc của tử thần, vài trái 130 ly chạm nổ rơi ngay sân trực thăng, cách lều cứu thương hơn hai chục thước, miểng đạn xuyên qua vải lều, bay trên đầu chúng tôi, cũng may là chúng tôi ngồi làm việc nên không ai bị thương.

Lúc 2 giờ sáng, tôi nhận được một thương binh là thiếu úy TQLC khá lì, anh bị bắn vào vai trái, sau khi y tá lau sạch, tôi chích thuốc tê vào xung quanh vết thương rồi dùng kim chọc vào theo chiều sâu vết thương, tôi định được vị trí của miểng đạn, vì biết chung quanh miểng đạn không có mạch máu và dây thần kinh nào quan trọng nên tôi dùng kẹp mổ thọc vào vết thương để kẹp lấy mảnh đạn ra, với sự giúp đỡ của y tá, tôi dùng dao mổ cắt những sợi thịt vướng vào cạnh của miểng đạn rồi lựa thế kéo nó ra. Mảnh đạn lớn hơn đốt ngón tay, tôi gói cẩn thận tặng lại anh để sau này “thiếu úy tặng cho người yêu” (lưu ý: đây chỉ là một lối mổ dã chiến ngoài mặt trận, các bạn sinh viên y khoa nếu có đọc đoạn này xin đừng làm như tôi).
Khi tôi khâu lại vết mổ cho thiếu úy vừa xong anh ta không tỏ ra đau đớn hay mệt nhọc gì mà hỏi ngay:
_ “Bác sĩ cho tôi trở lại đơn vị được chưa?”
_ “Cần phải dưỡng thương cho vết mổ kín miệng, ông về đơn vị rồi nhiễm trùng, xưng mủ, đứt chỉ khâu lúc đó ông quay trở lại càng vất vả cho chúng tôi thêm. Nhưng sao thiếu úy lại mong trở lại chiến đấu ngay vậy?”
Anh vui miệng kể cho tôi nghe về chi tiết trận đánh rồi kết luận:
_ “Quân chính quy CSBV bây giờ không thiện chiến như năm 1972, bọn này ngờ nghệch chỉ biết dàn hàng ngang xông tới như lũ say thuốc nên lính mình quạt chúng thật đã tay, khi thấy vài đồng bọn ngã xuống là chúng đi thụt lùi. Những dịp này mà không có mặt ở đơn vị để đòi nợ chúng thì thật uổng”
.


Khoảng 3 giờ sáng ngày 25/3/75, địch quân bị đẩy lui và bỏ chạy về phía Tây QL1, pháo binh địch ngưng bắn, nhưng pháo ta vẫn bắn truy đuổi. Khoảng 4 giờ sáng Tr/Tá Lượm đến thăm trạm cứu thương, ông hài lòng khi thấy tất cả thương binh đều đã được cứu chữa và đang trong tình trạng ổn định để sẵn sàng tản thương, sau đó ông kéo rôi ra khỏi lều cứu thương và nói nhỏ:
_ “Mình sẽ bỏ nơi đây để rút về Đà Nẵng trong vòng một giờ nữa”!
Tôi kinh ngạc hỏi:
_ “Lệnh của ai vậy thưa trung tá?”.
Ông nói:
_ “Đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng cho lệnh và ông cho lệnh cho Thiếu Tướng Bùi Thế Lân phải thi hành vì TQLC mình đang tăng phái cho QĐ.1”.
Tôi thắc mắc:
_ “Vậy thì số phận Lữ Đoàn 147/TQLC và các đơn vị ở phía Bắc sẽ ra sao một khi mình bỏ vị trí trọng yếu này?”.
Trung Tá Lượm thở dài như không muốn nghe tôi hỏi, rồi ông buồn rầu nói:
_ “Giờ này tôi không thể cho anh biết được, tôi đâu muốn bỏ chỗ này, mình dư sức giữ nó thêm vài tuần nữa mà, nhưng lệnh QĐ là mình phải thi hành”.
Chợt thấy bác sĩ Duy bước ra khỏi hầm trú ẩn, Tr/Tá Lượm nói:
_ “Đại Úy Quận Ban 2 LĐ vừa cho tôi biết vài điều về ông BS mới, những điều tôi vừa nói với BS, chỉ một mình BS biết thôi”.
Thấy ông gọi tôi bằng BS nên tôi biết đây là chuyện hệ trọng nên vội đáp:
_ “Tôi hiểu ý Trung Tá”.

Tôi đau đớn suy nghĩ, anh em chúng tôi đã đổ xương máu để giữ cứ điểm này, chúng tôi đang chiến thắng, xác địch quân vẫn chưa lạnh, tiếng súng truy đuổi địch quân vẫn đang nổ ròn rã, chúng tôi chưa kịp thưởng thức vị ngọt chiến thắng thì đã bị nếm vị cay chua của chiến bại! Bất giác tôi cảm thấy cay mắt, và vì không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt cấp chỉ huy, tôi vội đưa tay chào Trung Tá Lượm, ông bắt tay tôi thật lâu và thật chặt, đôi mắt ông thật buồn và long lanh ngấn lệ dưới ánh sáng hỏa châu, ông cúi đầu đi chậm chạp về phía BCH/Lữ Đoàn.

Thật không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp ông, sau 30/4/75 ông đi tù và đã bị CS sát hại bằng cách đẩy ông vào chảo nước sôi, vì ông đã ví chúng như những cái máy phát thanh, vắn nút “on” lên thì đứa nào cũng nói một giọng điệu. Xin vĩnh biệt Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm, vị TĐT giầu kinh nghiệm và tài giỏi của tôi.

Tôi trở lại trạm cứu thương, phân loại thương binh và phân chia nhiệm vụ cho các y tá, sau đó tôi trở về hầm trú ẩn và mới thấy mệt mỏi, căng thẳng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi thức trắng đêm để cứu chữa thương binh, lúc còn lội theo TĐ.9/TQLC, tôi đã làm việc này nhiều lần, nhưng là làm việc trong công sự chắc chắn, được đệ tử bảo vệ và tiếp sức bằng những ca café sữa nóng, điếu thuốc thơm và sau trận đánh, khi thương binh đã được tản thương, thầy trò tôi cùng các sĩ quan tham mưu tiểu đoàn quây quân bên ấm trà điếu thuốc, luận bàn về những kinh nghiệm. Nghĩ lại trận đánh vừa qua, có lẽ thương binh, các y tá và tôi là những người phơi mình dưới pháo địch, không hầm trú ẩn, không bao cát bảo vệ, cũng may là tất cả chúng tôi được bình yên. Tôi tự nhủ nếu sau này tôi làm cấp chỉ huy thì sẽ không bao giờ phạm vào những thiếu sót này.

Trong hơn một tuần lễ có mặt tại Phước Tường, tôi có cảm tưởng như QĐ.1 đã quên chúng tôi! Từ việc QĐ đã bỏ rơi đám người di tản, không lập các trạm y tế và an ninh trên QL1 để giúp đỡ những người kiệt sức và thanh lọc những toán đặc công VC, không cải chính tin vịt do VC tung ra để trấn an binh sĩ, không có một ông lớn nào tới thị sát chiến trường, không có một máy bay nào bay trên vùng trời này và nay ra lệnh bỏ đoạn đường này, khúc xương cổ của QĐ.1, đây có phải là một bản án tử hình cho QĐ1.Tiền Phương?
Sáng 25/3/75 lúc 5 giờ, bác sĩ đại đội trưởng ĐĐQY đi họp về và chính thức thông báo lệnh bỏ Phước Tường, tôi được chỉ định đi bộ với một thành phần của BCH/LĐ, BS ĐĐT và bác sĩ Duy thì đi bằng GMC cùng với thương binh, còn bác sĩ Nhi thì đã rời Lữ Đoàn từ hồi nào không ai biết!

Tôi chạy về hầm trú ẩn, ăn vội mấy muỗng cơm gạo sấy còn lại từ hôm trước, đổ đầy hai bi-đông nước, đeo dây ba chạc, kiểm soát lại khẩu súng ngắn, nạp một viên vào lòng rồi khóa an toàn, ba-lô, nón sắt, túi cứu thương, tôi xuống đồi và sát nhập vào toán TQLC đang di chuyển trên QL1. Con đường này tôi đã đi lại nhiều lần, hôm nay là lần cuồi cùng nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi bộ trên đó, thật là một kỷ niệm khó quên.

Qua khỏi đỉnh đèo thì một cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt tôi: nền trời xanh nhạt điểm thêm mấy sợi mây trắng hồng của buổi bình minh, hai ngọn đồi Bạch Mã màu xanh đậm sừng sững phía Tây QL1. Dưới chân đồi, uốn éo giữa những mảng ruộng màu xanh lá mạ trải dài tới tận chân trời là sông Truồi. Sông Truồi nhận phụ lưu của sông Đá Bạc, nước chẩy đôi dòng phản chiếu ánh bình minh như môt dải lụa trắng. Phía Đông QL1 biển xanh bát ngát, sóng gọi rì rào, lác đác dưới chân đèo một vài thôn xóm vẫn còn ngủ say bên lũy tre xanh. Trong cái yên lặng của buổi chớm bình minh, một vài tiếng gà gáy sáng vọng về. Với phong thủy như vậy chẳng trách miền Trung có nhiều nhân tài, thiên thần cũng lắm mà ác quỷ cũng nhiều và những giai nhân tuyệt sắc làm nghiêng thành đổ nước.

Đại đội bảo vệ BCH/LĐ dàn đội hình tác chiến, tiền vệ hậu vệ và nhất là hai cánh phải trái đi sâu vào hai bên đường, những sĩ quan tham mưu và binh lính LĐ đi ở giữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến cầu Truồi, cây cầu xinh đẹp này đã bị đơn vị canh giữ phá hủy sáng nay khiến gây trở ngại không ít cho những toán quân đi sau.

Tôi lội qua sông Truồi, nước chỉ đến đầu gối và trong như lọc, qua khỏi cầu Truồi chừng 2km, tôi gặp Thiếu Tá Trần Quang Duật, TĐP/TĐ.16/TQLC, anh đang ngồi trên mũi xe jeep, để đầu trần, nón sắt bên hông, tay cầm bản đồ, tay kia cầm ống liên hợp máy C25, đang liên lạc với ai đó ở xa . Khi cuộc điện đàm đã xong, vì là bạn cùng lớp thời trung học Chu Văn An nên tôi đến bên Duật hỏi:
_ “Duật, mày làm cái gì ở đây mà để đầu trần không sợ bể “gáo dừa” sao?”
_ “Tao đang chờ tụi mày”.
Rồi anh chỉ tay về phía rừng dưới chân đồi Bạch Mã nói tiết:
_ “Cho ăn kẹo tụi nó cũng không dám bắn, lính cánh B* của tao đang phục ở trong đó, cũng mong tụi nó xuất hiện để hốt gọn, nhưng hình như tụi “con nít” này cố tránh TQLC mà chỉ bám theo đuôi, nhiều lúc tức thấy mẹ”. (* mỗi TĐ TQLC có quân số từ 700-1000 và thường chia lảm 2 cánh khi đi hành quân, cánh A theo TĐT, cánh B đi theo TĐP)
Duật móc bao thuốc Capstan đầu lọc đưa tôi một diếu, hai đứa hút thuốc, nhả khói gói bay về hướng Bắc, chúng tôi nhìn theo, bất giác tôi hỏi Duật:
_ “Mày nghĩ Lữ Đoàn 147/TQLC rồi sẽ ra sao, lui về bằng đường nào?”
Duật cười nhạt:
_ “Tao làm sao biết được mưu cao của mấy ông tướng trong QĐ, nhưng tao nghĩ LĐ.147 sẽ gặp ngàn vạn khó khăn, nếu không có KQ, HQ và PB yểm trợ thì sẽ có thể từ chết tới bị thương”!
Tôi chán nản vứt thuốc đang hút dở xuống, lấy gót bốt-đờ-sô di di, nói:
_ “Thôi tao đi, mày ở lại, cẩn thận”.
Nhưng rồi Duật gọi giật tôi lại như muốn nói thêm điều gì, tay đưa khăn:
_ “Trông mày như thương binh, lau những vết máu trên mặt và cổ đi”
_ “Máu thương binh tao không muốn lau, đang đánh mà bắt phải lui thì tao sợ còn phải lau nước mắt nữa kìa”.
Khoảng 6 giờ chiều 25/3/1975, chúng tôi đến chân đèo Hải Vân, đây là điểm hẹn của LĐ.258 và lúc này tôi cũng được biết LĐ.15BĐQ ở phía Bắc đèo Phước Tường cũng đã rút quân an toàn phía sau chúng tôi. Vì còn phải chờ những toán quân sau nên tôi vào quán nước bên đường gọi một xị rượu đế để giải sầu, trong lúc đang uống, tôi chợt thấy một thương binh TQLC chống nạng đứng cô đơn bên kia đường, tôi nghĩ đến Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, một thi sĩ nổi danh đời nhà Nguyễn và là chú của vua Tự Đức, khoảng 150 năm về trước, ông đã có mặt tại nơi đây và nhìn thấy một người lính của cụ Nguyễn Tri Phương bị thương khi đánh nhau với quân Pháp tại Đà Nẵng, đang chống gậy khấp khểnh vượt đèo Hải Vân để về Huế, ông đã xuất khẩu làm một bài thơ tuyệt tác để lại cho hậu thế:

Tàn Tốt:
Loan thi tùng ý bạt thân hoan.
Nhất lĩnh đơn y chiếu huyết ban.
Ỷ trượng độc cô sơn tửu điếm
Tự ngôn sinh nhập Hải Vân Quan
Tạm dịch: Tàn Binh
Lê chiếc thân tàn vượt đèo cao.
Một mảnh chiến y thắm máu đào.
Chống gậy cô đơn bên quán núi.
Thầm hẹn ngày về Hải Vân Quan.

Tôi mời anh thương binh đang đứng bên kia đường vào quán, khi anh ngồi vào bàn cùng uống rượu với tôi thì tôi mới biết anh thuộc TĐ.1/TQLC và là một trong những thương binh mà tôi cấp cứu tối hôm qua.
Khoảng 7 giờ tối 25/3, quân số Lữ Đoàn đã tập trung đầy đủ, tôi được chỉ định mang các thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng. Thương binh được chở trên 2 chiếc GMC, có một trung đội TQLC đi theo bảo vệ, một điều ngạc nhiên là anh trung đội trưởng lại chính là thiếu úy bị thương mà tôi mới mổ lấy đạn ra lúc 2 giờ sáng hôm nay (25/3). Tôi thắc mắc về sự lì này thì anh đáp:
_ “Nhằm gì vết mổ đó, tôi bị thương tay trái còn tay phải vẫn bắn được mà”.
Tôi biết anh bị thương khá nặng cần phải tĩnh dưỡng hơn tuần lễ nên ngay sau khi mổ xong anh đòi trở lại đơn vị nhưng tôi đã không cho, nào ngờ anh cãi lệnh bác sĩ điều trị mà chuồn về đơn vị để tiếp tục chiến đấu. Xin khâm phục tinh thần chiến đấu của anh em TQLC.

Tôi thầm nghĩ Trung Tá Huỳnh Văn Lượm đã quá cẩn thận khi cho cả một trung đội bảo vệ thương binh và tôi, nhưng tôi đã lầm, khi gần đến thành phố, tôi đã thấy khói lửa bốc lên. Khi vào trong thành phố thì cảnh tượng tết Mậu Thân tái xuất hiện trước mắt tôi, nhà cháy, xe dân sự cháy, xe nhà binh cháy, thỉnh thoảng những tiếng nổ lớn phát ra từ những đám cháy làm ngọn lửa phụt lên cao.
Dưới lòng đường, trên hè phố, từng toán năm bẩy tên, đủ mọi sắc phục, cầm súng hướng lên trời bắn những loạt đạn vu vơ. Trong ánh lửa tôi nhìn thấy những cái nhìn căm thù trong mắt chúng, những cái nhìn của bọn đặc công hay du kích khi trước bị chúng tôi tóm cổ trói lại, nay chúng chưa bắn chúng tôi vì chúng biết chắc chắn sẽ gục ngay bởi trung đội TQLC hộ tống. Cám ơn đại bàng Huỳnh Văn Lượm đã biết lo xa cho sinh mạng của thuộc cấp.

Thành phố này đang chết! Không bóng người dân, không cảnh sát, không quân cảnh, giờ này họ ở đâu? Đi thêm vài cây số nữa, một cảnh thương tâm hiện ra, những người dân tỵ nạn Trị-Thiên nheo nhóc nằm ngồi đầy hai bên đường, không chăn, không chiếu, chỉ còn những cặp mắt đã cạn khô nước dương lên nhìn chúng tôi!
Năm 1972, mùa Hè Đỏ Lửa tôi đã có mặt tại QK1, trong Liên Đoàn 71 QY, tình trạng ban đầu cũng như vậy, nhưng từ khi Tướng Ngô Quang Trưởng ra nhậm chức TLQK, ông đã ra lệnh cho lực lượng an ninh, cảnh sát bắt nhốt tất cả những tên giả dạng thường dân, sinh viên học sinh để sách động quần chúng, ông ra lệnh sử bắn những tên du kích, đặc công cải trang làm lính giã ngũ để phá rối cướp bóc. Ông cho lập các trại tạm trú để dân tỵ nạm có nơi che mưa nắng, có cơm ăn áo mặc, có bác sĩ săn sóc sức khỏe, vì vậy tình hình mau chóng yên tĩnh trở lại và các binh sĩ yên tâm, tiếp tục chiến đấu mang lại chiến thắng vẻ vang cho QK1. Nhưng giờ này, 25/3/1975, ông và các phụ tá của ông ở đâu? Tại sao không làm những việc cần thiết đó như các ông đã làm năm 1972. Trong lúc binh sĩ vẫn vững tay súng ngoài mặt trận mà quý vị để hậu phương tang thương như thế thì còn đâu tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi!
Chúng tôi đến TYV Duy Tân lúc 9 giờ đêm, cổng chính của TYV không có đèn và cũng không có lính gác, tuy nhiên phòng nhận bệnh còn có ánh đèn, nhìn kỹ tôi thấy mấy quân y tá đang cặm cụi làm việc. Tại đây, trong ánh đèn vàng tại cửa phòng nhận bệnh, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng của chúng tôi, anh hiện là trưởng khu giải phẫu của TYV, nhưng vì đa số các y sĩ đã bỏ đi nên anh phải đảm trách thêm công tác nhận bệnh, anh hứa sẽ săn sóc cho thương binh của tôi. Khi tôi tỏ ý bất bình về các y sĩ bỏ đi, anh Lương nói:
_ “không thể trách họ được, họ là những y sĩ bệnh viện, không một tấc sắt trong tay, không có binh sĩ bảo vệ như y sĩ tiền tuyến, thành phố bây giờ đầy đặc công VC và giặc cướp, QĐ thì chẳng có quân lệnh gì để đối phó nên các y sĩ họ .!”
Anh bỏ ngang câu nói “họ..” rồi chợt vui trở lại với tôi:
_ “TQLC các cậu đã về, tôi tin tưởng tình hình sẽ khá hơn”.
Nghe anh nói tôi bỗng thấy một nỗi buồn và cô đơn dâng lên, trong thế trận có tính cách “chiến lược” này, sự thắng bại không nằm trong tay của những người lính ngoài mặt trận quanh năm chỉ có gạo sấy với cá khô mục như chúng tôi mà ở trong ý chí quyết chiến quyết thắng của những ông tướng ngồi trong phòng có gắn máy lạnh tại QK1, Bộ TTM và dinh Độc Lập. Những sự việc tôi đã quan sát từ một tuần lễ nay cho phép tôi tiên đoán sự sụp đổ của QK1, bất giác hai hàng nước mắt rơi trên má, vị mặn và tanh của máu và nước mắt kéo tôi về thực tế, tôi đứng nghiêm, đưa tay chào vị Y Sĩ quân đội đúng nghĩa và từ giã ANH để trở về với đồng đội mà không ngờ đây là lần đầu và cũng là lần cuối cùng tôi gặp ANH, niên trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương ! Vì sau khi CSBV vào Đà Nẵng, chúng đuổi các thương binh ra khỏi TYV, bắt các y sĩ vào trại tù cải tạo và anh Lương đã tự sát để phản đối chính sách tù đày dã man vô nhân đạo của chúng!

Khi công tác tải thương hoàn tất vào lúc 9 giờ 30 đêm thì qua máy C25, tôi nhận được lệnh của Tiểu Đoàn QY/TQLC phải trình diện TĐ ngay lập tức. Tôi đến BCH/SĐ/TQLC đang đóng tại căn cứ Non Nước vào lúc 10 giờ đêm. Căn cứ được phòng thủ cẩn thận, đèn đuốc sáng rực, BCH/TĐ/QY nằm trong một cái hangar lớn sau cổng chính phía tay phải, tại đây tôi gặp hầu hết các Y Sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, họ cho biết vì SĐ không có phương tiện chở thương binh về Thủ Đức nên họ phải ra đây để điều trị tại chỗ, tôi nhìn vào trong hangar, có đến năm sáu trăm giư#432;ờng bệnh đầy thương binh! Tôi đến trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, TĐT/TĐQY.

Ngay sau khi tôi đứng nghiêm chào TĐT thì anh Thế chưa chào lại mà chăm chú nhìn tôi từ đầu tới chân, vẻ mặt đầy lo lắng rồi anh hỏi:
_ “Toa bị thương hả, sao máu đầy người thế này?”
_ “Không, đấy là máu thương binh nhưng tôi chưa kịp thay quân phục”.
Y Sĩ Trung Tá không chào lại theo lối nhà binh mà anh nắm tay tôi thật chặt, tay kia để lên vai tôi vỗ nhè nhẹ, tôi cảm nhận được tấm lòng đầy tình đồng đội, tình anh em của người chỉ huy, nó có sức mạnh hơn ngàn lời nói hay huy chương lúc này, anh chỉ cái ghế đối diện, khi cả hai cùng ngồi, anh mệt mỏi nói:
_ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang kẹt tại bãi biển Thuận An, vì HQ không vào đón, ngày mai SĐ sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo Hải Vân để tiếp cứu anh em mình, nhiệm vụ của toa là chỉ huy một toán quân y tá TQLC và 5 xe cứu thương do Liên Đoàn 71QY tăng phái, mọi tiếp liệu và lương thực thì Đại Úy Sanh, sĩ quan tiếp liệu đã lo xong”.

Tôi nhận lệnh của anh Thế với tâm trạng hoang mang, nửa mừng nửa lo. Hoang mang vì mới sáng nhận lệnh rút lui của ông tướng TL QK, bây giờ lại nhận lệnh của ông khác tiến trở lại, không biết chuyện gì đã xẩy ra trong nội bộ của các ông! Nhưng rồi tôi vui vì được tham dự một cuộc hành quân giải cứu chính anh em mình, nhưng cũng hơi lo, vì tôi biết địa thế phiá Bắc đèo Hải Vân rất hiểm trở, đơn vị tấn công sẽ gặp nhiều thiệt hại, không biết một mình tôi có cáng đáng nổi nhiệm vụ được giao phó hay không?

Đà Nẵng ngày 26 và 27 tháng 3 năm 1975.

Lúc 6 giờ sáng ngày 26/3/75, toán y tá TQLC đã sẵn sàng trình diện, tôi kiểm soát y cụ cứu thương, thuốc men, lương thực, nón sắt, áo giáp, mặt nạ chống hơi độc v.v.. tất cả trong tình trạng hoàn hảo, riêng vũ khí cá nhân M16 thì thiếu bảo trì, tôi cho anh em 15 phút để lau chùi súng ống. Trong cuộc chiến tàn bạo này, quân y tá và y sĩ là một trong những mục tiêu ưu tiên của những tên VC bắn sẻ, y sĩ thuộc binh chủng TQLC có số lượng tử vong cao nhất trong các quân binh chủng QLVNCH, vì vậy tôi muốn súng cá nhân của họ phải trong tình trạng sẵn sàng, không hẳn là để tác chiến mà mục đích chính là tự vệ và yểm trợ cho nhau trong khi thi hành nhiệm vụ cứu thương. Sau đó tôi chia anh em ra làm 3 toán có nhiệm vụ rõ ràng: Toán thâu lượm thương, toán cấp cứu, toán tải thương. Tôi cũng yêu cầu đại Úy Sanh trang bị nón sắt áo giáp cho các tài xế của 5 xe tải thương. Tải thương trên đường đèo mà tài xế bị thương thì sẽ gây ra những hậu quả không lường.

Đến 6 giờ 30 sáng tôi báo cáo lên TĐQY là chúng tôi đã sẵn sàng, tôi được lệnh chờ tại chỗ, tới 11 giờ thì lệnh hành quân được hủy bỏ mà tôi không biết lý do, nhưng toán quân y của tôi thì được lệnh ra bến thương cảng Đà Nẵng để đón Lữ đoàn 147/TQLC.
Khoảng 12 giờ, tôi thấy hai chiếc tàu “há mồm” cập bến, hai chiếc tàu này chở một trung đoàn thuộc SĐ.2/BB từ Chu Lai về Đà Nẵng, quân số của họ còn chừng ba đến bốn trăm người, quân phục nhàu nát, khi đi qua cầu tầu, một số anh vứt súng M16 của họ xuống biển! Đi sau cùng là hai thiếu tá bị thương nơi đầu, họ dìu nhau xuống cầu tầu, tôi và đệ tử giúp hai ông một tay và đề nghị cấp cứu cho họ nhưng hai ông cám ơn vì phải di chuyển ngay với binh sĩ của họ. Khâm phục trước thái độ huynh đệ chi binh này, tôi chào hai ông và chúc bình an. Nghe tôi chúc, một trong hai ông đưa tay bắt và như muốn thanh minh:
_ “Đã đánh đấm gì đâu, đang đi hành quân thì có lệnh rút, mà lệnh rút không rõ ràng nên anh em chúng tôi rất bực mình”.
Vào lúc 2 giờ chiều thì một chiếc LCU từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước. Theo Bác Sĩ Rậu ĐĐT/QY/LĐ.147 thì ông dược sĩ Lữ Đoàn và 4 ông y sĩ TĐ được ghi nhận là mất tích tại Thuận An. Buổi chiều, sau khi tải thương xong, tôi hỏi thăm tình hình, BS Khoa nói vắn tắt:
_ “Khi TQLC ra đến bãi biển Thuận An vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/75 thì được lệnh dừng quân để tàu Hải Quân vào đón, nhưng chờ đến 6 giờ chiều mà không có một chiếc tầu nào vào, LĐ 147 phải dàn đội hình phòng thủ để tiếp tục chờ tầu HQ thì VC tấn công, loạt đạn đầu tiên có 4 TQLC tử thương, anh em mang xác họ đến ĐĐQY, nhưng sau đó thì súng nổ khắp nơi, bị thương và tử thương rất nhiều nên chết ở đâu thì chôn ở đó. Sáng ngày 26/3 khoảng hơn 8 giờ khi LCU vào đón thương binh và BCH/LĐ thi 4 tử sĩ được mang lên tàu, nhưng xác của Đ/Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/TĐ.4 bị rơi xuống biển nên chỉ cỏn 3.”
Tôi được giao nhiệm vụ săn sóc 20 thương binh thuộc LĐ.147, trong đó có một chuẩn úy mới ra trường, trước kia anh là giáo sư trung học, anh bị bắn vào đùi, vết thương không nặng lắm, sau khi lau chùi băng bó xong tôi ngồi lại nghe anh kể chi tiết cuộc rút quân của LĐ.147/TQLC, sau đó anh phẫn uất vừa khóc vừa nói:
_ “Bác sĩ biết không, cả một lữ đoàn bị lùa vào cái rọ, một bãi cát trống, tứ bề là nước mênh mông, không có lối thoát, không có địa thế ẩn núp, làm bia cho CSBV bắn, như bị trói tay dẫn ra pháp trường cát, mà người đưa LĐ.147 này ra pháp trường cát lại những vị chỉ huy cao cấp của Quân Đội! Họ thuộc phe nào?”
Nhận thấy thương binh này quá xúc động và phẫn uất, dù chỉ là cấp chỉ huy trung đội, nhưng đã có một cái nhìn và nhận xét khá chính xác và chân thật, tôi vỗ vai anh an ủi và nói y tá chích cho anh một mũi thuốc an thần.
Sáng 27/3/1975, tin tòan bộ lực lượng QĐ.1Tiền Phương dưới quyền chỉ huy của Tướng Lâm Quang Thi* bị tan rã, trong đó có LĐ.147/TQLC, như một tiếng sét ngang tai, thoạt đầu không ai tin, vẫn cho rằng CSBV tung ra như đã từng rêu rao trên đài phát thanh tối 23/3 là chúng đã “diệt gọn LĐ.258 ngụy” để làm lung lay tinh thần chúng tôi.
Không thể được, bởi vì lực lượng QĐ.1/TP gồm những đơn vị thiện chiến của QLVNCH đó là: SĐ.1/BB gồm có 4 trung đoàn và Đại Đội Hắc Báo, một sư đoàn nổi danh đã bảo vệ vùng hỏa tuyến và luôn luôn chiến thắng. Đó là Lữ Đoàn 147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến tinh nhuệ cùng với Pháo Binh và ĐĐ Viễn Thám, một đạo quân chưa bao giờ biết lui. Đó là LĐ.1 Thiết Kỵ với chiến xa M48 tối tân đã từng gây kinh hoàng cho 8 SĐ/CSBV năm 1972. Đó là LĐ/BĐQ chỉ biết “sát Cộng” và còn bao tiểu đoàn pháo binh nặng nhẹ cùng các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân v.v.. Cỏn về vũ khí đạn dược ư? Chỉ riêng kho đạn pháo binh tiền phương của TQLC cũng đã có 100.000 trái đại bác 105 ly.

Với một lực lượng như trên, giữ vững tay súng và y chí từ trên xuống dưới, cộng thêm hỏa lực yểm trợ của SĐ.1KQ và Hải Pháo vùng I Duyên Hải thì CSBV sẽ không thể làm gì được chúng ta. Khi chúng tôi nhận được lệnh bỏ QL1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng thì chúng tôi đã tiên đoán được các lực lượng tiền phương QĐ.1 sẽ gặp muôn bàn khó khăn và nguy hiểm, gần như họ bị dồn vào tuyệt lộ! Nhưng không lý do gì khiến chỉ trong 2 ngày mà lực lượng Tiền Phương tan rã! Nhưng tin tức dồn dập đưa về, bắt chúng tôi phải tin và đó đúng là sự thật!
Chúng tôi đau đớn cho đồng đội, tức giận và nghi ngờ khả năng của các cấp chỉ huy của QĐ.1, của bộ TTM, của dinh Độc Lập, không biết vì nguyên nhân nào, vì bị áp lực nào hay vì quyền lợi và mạng sống bản nhân, phe nhóm mà họ nỡ tàn sát một đạo quân tinh nhuệ đã, đang hy sinh để bảo vệ đất nước? Bây giờ thì đến thân phận chúng tôi, không biết rồi sẽ ra sao? Chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào nhau, những đồng đội của binh chủng TQLC.

Chiều ngày 27/3/1975, tôi lên TTHQ/SĐ để tìm hiểu thêm tin tức thì gặp Thiếu Tá Trần Vệ, một bạn cũ, hiện anh là trung tâm trưởng TTHQ, anh buồn rầu cho biết QĐ.1 TP của Tướng Lâm Quang Thi* đã thực sự tan vỡ, mấy hôm nay rồi không nhận được lệnh gì từ trên QĐ, và khi có việc gấp anh phải đích thân lên QĐ thì chẳng còn thấy ai ở trên đó nữa! Ngoài ra tin cho biết Quảng Nam, Quảng Ngãi đã “thất thủ” (?) vì SĐ.2/BB đã được lệnh rút khỏi nơi này mặc dù chưa bị CSBV tấn công, cuộc rút quân đã xảy ra trong hỗn loạn! Như vậy cho đến 27/3/75, lãnh thổ QK1 chỉ còn thành phố Đà Nẵng! Tôi chán nản lo lắng, quay trở lại TĐQY.

Quảng Trị, Huế ngày 24,25,26,27/3/75.

Trong khoảng thời gian trên, tôi đã có mặt tại đèo Phước Tường, trên QL1, đèo Hải Vân và Đà Nẵng, nhờ vậy mà tôi biết những điều như sau:

1.Lệnh bỏ đèo Phước Tường và QL1 Bắc đèo Hải Vân do đích thân Tướng TL/QĐ Ngô Quang Trưởng ra lệnh lúc 4 giờ sáng ngày 25/3/75

2.QL1 từ cầu Nong, phía Nam Huế đến đèo Hải Vân trong những ngày 24 và 25 tháng 3/75 vẫn an toàn để rút quân, ngày 25/3, LĐ.258/TQLC và LĐ.15/BĐQ rút quân trên đoạn đường này đã hoàn toàn yên tĩnh, không một viên đạn lớn nhỏ nào bắn về phía chúng tôi. Tháng 4/2009, tôi đến thăm Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, LĐT/LĐ.258, là người có trọng trách bảo vệ đoạn đường này, ông khẳng định:
_ “Đoạn QL1 này cho đến ngày 25/3/75 vẫn sử dụng được”.
Gần đây, tôi được đọc một điện thư của Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của TT/TL/SĐTQLC, gửi cho một niên trưởng, nguyên văn như sau:
“Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông: “đ..m..thế này thì chết lính tao rồi!”. Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đã ghi lại lệnh rút lui của Tường Thi. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của TT Lân cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời dặn của TT/TL/SĐTQLC: “Tìm ra quốc lộ 1 mà đi”.
Nhưng tiếc thay, Đại Tá Lương lại đi theo HQ cho dễ dàng ..và oan khiên, nhiều người lại đổ lên đầu ông TT/TLTQLC!!! Niên trưởng cũng biết lúc đó mình đã biệt phái LĐ.147 cho Tiền Phương QĐ.1, Tướng Lân không được phép điều động LĐ.147 mà phải đưa tôi lên đèo Hải Vân để liên lạc với các NT 20 thôi. Chuyện còn dài, tôi sẽ kể sau với NT. Kính chào NT. Đan”.
Ngoài ra, cũng theo nguồn tin này, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã gửi Đại Tá Quế TMT/SĐTQLC qua BTL/HQ vùng I DH để đôn đốc HQ đón LĐ.147 trong trường hợp Đại Tá Lương LĐT/LĐ.147 vì lý do nào đó phải rút quân bằng HQ.

3. Nếu Tướng Ngô Quang Trưởng không cho lệnh rút lực lượng bảo vệ đoạn đường QL1 này và Tướng Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định dùng QL1 để hành quân lui binh thì các ông đã đem về Đà Nẵng toàn bộ lực lượng Tiền Phương, bảo toàn LLTP thì cuộc chiến QK1 đã không bi đát như đã xảy ra.

Với con mắt của một người lính chiến, dù là lính chuyên môn, chúng tôi tin tưởng lui binh theo QL1 sẽ bảo toàn được lực lượng tiền phương. Tại sao? Tuy cuộc hành quân lui binh bao giờ cũng khó khăn hơn hành quân tấn công, nhưng trong trường hợp này, QL1 vẫn nẳm trong tay ta và được bảo vệ bởi những đơn vị tinh nhuệ, địa thế dọc theo QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân quá quen thuộc với mọi cấp quân cán chính vùng I. Khởi đi Từ Dạ Lê, nơi có BTL/SĐ.1/BB và TTHL/SĐ, qua Phú Bài , Nong , Truồi , Lăng Cô , Hải Vân , Đà Nẵng.

Ngoài ra, các đơn vị yểm trợ hỏa lực như Pháo Binh, Không Quân, Hải Quân vẫn còn đầy đủ, nhất là Hải Pháo, di động dọc theo bờ biển thì có một xạ trường lý tưởng hơn bất cứ chiến trường nào khác. Một yếu tố quan trọng nữa là áp lực địch chưa có gì. Và giả dụ chúng có 2 hay 3 sư đoàn bám theo truy kích thì vẫn không làm gì được với đoàn quân tinh nhuệ của QĐ.1TP, và chính giai đoạn này chúng mới là mồi ngon, là bia hứng đạn của những anh hùng Không Quân SĐ.1/KQ, những anh hùng Hải Pháo của HQ vùng I. Với tất cả những yếu tố đó, dù là kinh nghiệm của một người lính, chúng tôi cũng thấy dùng QL1 làm trục lui binh là hợp lý là khả thi. QL1 không phải và không bao giờ có thể giống như Liên Tỉnh Lộ 7 của QK2 được.

Vậy tại sao Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.1 Lâm Quang Thi lại quyết định chọn lui binh bằng HQ tại bãi biển Thuận An để toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐ1 của ông tan rã! Một vị tướng tiền phương tài ba có tất cả những lý do để ông chọn đường lối hành động lui binh qua ngả Thuận An, xuôi Nam để về Đà Nẵng, mà yếu tố quyết định sống chết vẫn là cái CẦU PHAO tại cửa Tư Hiền. Dĩ nhiên ông và các phụ tá của ông biết những yếu tố cần có để thiết lập cầu phao, đặc biệt là Công Binh và HQ. Vậy mà nó không có! Đó là điều chúng tôi không thể hiểu nổi nên mới tâm sự với những đồng đội của tôi đã nằm lại trên bãi cát bờ biển Thuận An nhân dịp ông Tướng xuất bản cuốn “Hell In An Lộc”.

Trong hồi ký “Ngày Tháng Không Quên: 8/3/75-30/475”, Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP/SĐTQLC kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Tây-Bắc Huế, sau khi họp với Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm TL/SĐ.1BB, Đại Tá Lê Ngọc Hy TMT/TP, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ TKT/Thừa Thiên cùng có nhận định khó bảo vệ được Huế nên Tướng Thi đề nghị rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau:

“Lực lượng Tây-Bắc do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó di chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây Hải Quân và Công Binh QĐ.1 sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. Lữ Đoàn 468/TQLC từ đèo Hải Vân sẽ cử một đơn vị đến chiếm núi Vĩnh Phong để bảo vệ điểm vượt sông đồng thời làm thành phần tiếp đón SĐ.1/BB do Tường Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông song song với cánh quân TQLC. Tất cả các vật liệu nặng, pháo binh, chiến xa không thể di chuyển hay vượt sông được, đều phải được phá hủy tại chỗ.”.(TT2/TQLC, trang 538)

Sau đó thì Tướng Thi chỉ định Tướng Điềm và Đại Tá Hy bay trực thăng vào Đà Nẵng đệ trình kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng, còn Đại Tá Nguyễn Thành Trí thì thông báo ngay cho các đơn vị trực thuộc biết để chuẩn bị tinh thần, tổ chức gọn gàng và sẵn sàng thi hành khi có lệnh. Ông viết tiếp:
_ “Khoảng 1730 giờ, Đại Tá Hy đáp trực thăng đến và trao cho tôi công điện mang tay. Ông nói thêm là công điện này xác nhận việc thi hành kế hoạch rút quân như đã bàn thảo khi trưa tại BCH Hải Quân. Tôi ra lệnh cho các đơn vị sẽ bắt đầu thi hành kế hoạch như đã thông báo vào lúc 1800 giờ.

Suốt đêm theo dõi tùng cánh quân rút về mà lòng se lại! Những người lính Mũ Xanh ấy đến giờ phút chót vẫn giữ vững tay súng, đẩy lui từng đợt xung phong của quân thù mưu toan lấn chiếm chia cắt. Chưa có vị trí nào bị mất trên hành lang sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi. Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị Huế. Nhưng giờ đây mọi người phải rút đi như những kẻ thua cuộc!”( TT2/TQLC trang 538).

Cùng với Đại Tá Tư Lệnh Phó SĐTQLC, các tiểu đoàn trưởng thuộc quyền như Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ.7, Thiếu Tá Phạm Văn Tiền TĐT/TĐ.5, các Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng như Cao Xuân Huy, Phan Văn Đuông, Toàn, Minh v.v.. đã ghi lại những đoạn đường chiến binh máu và nước mắt của các anh trong giai đoạn bị bắt buộc phải rút quân này.

Các Tiểu Đoàn 3,4,5/TQLC, TĐ.2PB, Đại Đội Viễn Thám đang ở thế thượng phong đối đầu với các trung đoàn CSBV tại Quảng Trị thì nhận được lệnh rút quân hỏa tốc về cửa Thuận An lúc 6 giờ chiều ngày 24/3/1975! Họ đoạn chiến với địch, rút ra QL1. Trở ngại thứ nhất là rút quân hỏa tốc trên đoạn đường dài hơn 30 km, không có phương tiện chuyên chở nên vũ khí nặng và lương thực phải phá hủy tại chỗ, chỉ còn đem theo vũ khí cá nhân! Trở ngại thứ hai là khi tới bến phà Tân Mỹ, những phà chở quân đã bị kéo sang bên kia bờ phá Tam Giang và bị phá hủy! Các chiến đỉnh của HQ và LCM của Quân Vận cũng đã bỏ đi! Tại đây một số anh em TQLC phải bỏ tiền túi thuê ghe gọ của dân để qua phá. Riêng TĐ.7/TQLC đóng tại Hương Điền, gần với Thuận An nên quân số và vũ khí được bảo toàn. Lúc 8 giờ sáng ngày 25/3/75, tất cả lực lượng TQLC thuộc LĐ.147 đã tập trung đầy đủ tại bãi biển Thuận An để chuẩn bị suôi Nam, đi về cửa Tư Hiền như lệnh của Tướng Tư Lệnh Tiền Phương.

Nhưng cuộc lui binh của LĐ.147/TQLC đã không thực hiện được vì 3 yếu tố “KHÔNG” sau đây:
_Không có cầu phao tại cửa Tư Hiền!
_Không có các giang đoàn và duyên đoàn bảo vệ bãi biển Thuận An.
_Không có KQ, HQ yểm trợ, tiếp viện và tiếp tế cho LĐ.147/TQLC.


1/-Không có cầu phao!

Cầu phao bắc qua của Tư Hiền đã không được thực hiện như trong lệnh hành quân! Cầu phao này thuộc trách nhiệm của Công Binh QĐ1 và HQ. Không cầu phao làm sao đưa quân sang sông vượt cửa Tư Hiền! Thế là Lực Lượng Tiền Phương của Tướng Thi “chết đứng” trên bãi biển. Không rõ số phận các đơn vị khác ra sao nhưng vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 25/3 thì LĐ.147/TQLC của Đ/Tá TQLC Nguyễn Thế Lương nhận được lệnh từ QĐ.1TP:
“Dừng quân trên bãi biển phía Nam cửa Thuận An để tàu HQ vào đón”.
Thời điểm 10.30 sáng 25/3 tình hình còn yên tĩnh, LĐ.147/TQLC dàn quân phòng thủ trật tự để chờ tàu. Ngoài khơi một tàu lớn bỏ neo, người từ trong bờ còn trông rõ chữ HQ 801, như vậy khoảng cách không xa, ngoài ra còn 5 chiếc LCM chạy vòng vòng còn TQLC trong bờ thì vẫn chờ và chờ tới 5 giờ chiều mà vẫn không có tàu nào vào đón và địch quân đã đến bao vây quân ta trên bãi cát! Hơn 6 tiếng đồng hồ chờ đợi, nằm ôm súng ngắm tàu diễn hành và cũng là khoảng thời gian cần và đủ để địch đuổi kịp quân ta và dĩ nhiên bãi đáp đã mất an ninh.

Theo hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại”, Phó ĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại, TLHQ vùng 1 Duyên Hải thì trong các ngày 24,25,26/3, ông đã thành lập Liên Đoàn Đặc Nhiệm do Trung Tá Lê Thành Uyển chỉ huy. Liên Đoàn này gồm có 8 chiến hạm và 4 chiến đỉnh để bảo vệ vùng biển Thuận An. Ngoài ra tại đây ông còn có 4 LCU và 18 LCM8, cả hai là loại tàu đáy bẳng, có thể vào sát bờ (LCU chở được 400 người, LCM8 chở được 200). Và xin nghe tướng Hồ Văn Kỳ Thoại giải thích lý do HQ không vào đón TQLC được trong ngày 25/3 như sau:
_ “Vì sóng biển cấp 2, sóng cao từ 1/2 đến 1m và bờ biển có sóng ngầm”! Rồi ông tiếp:
_ “Khoảng chừng 100 quân nhân phải dùng phao và ghe nhỏ hoặc bơi ra và được các chiến đỉnh vớt”
Ông Tướng nói thì chúng tôi biết thế thôi, tuy nhiên cũng cám ơn Hải Quân là vào sáng ngày 26/3 đã có một chiếc LCU vào đón được BCH/LĐ.147, tử sĩ và thương binh cùng một số TQLC. Rủi thay LCU này bị trúng hỏa tiễn AT3 của VC khiến một số tử thương và bị thương, trong đó có Đại Tá Lương bị thương vào chân, còn chiếc LCU thứ 2 thì bị mắc cạn và KHÔNG CÒN chiếc nào vào nữa. Cũng đúng thôi, theo lệnh hành quân, tầu vào bờ đã trễ hơn một ngày, dư thời gian cho CSBV nhắm AT3 và đủ mọi loại vũ khí vào TQLC và tàu HQ!
“Chiến trường mỗi phút giá đáng ngàn sinh mạng đấy các ông ơi!”
Trong hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại”, PĐĐ Thoại không nói gì đến nỗ lực của HQ trong việc thiết lập cầu phao tại cửa Tư Hiền như Tướng Tư Lệnh TP đã nói trong lệnh hành quân mà ông chỉ nói đến nỗ lực này trong ngày 26/3! Quá trễ rồi! Ngoài ra PĐĐ có đề cập đến một chi tiết khá lạ, trang 200 và 204 ông Tướng cho biết: Tướng Thi và bộ Tham Mưu của ông khoảng 100 người lên soái hạm HQ5 vào buổi trưa ngày 24/3, tại đây Tướng Thi ra lệnh cho Tr/Tá Uyển, chỉ huy liên đoàn đặc nhiệm, bằng tiếng Mỹ: “Go South”. Nhưng không được Tướng Thoại chấp Thuận. Lúc 4 giờ 20 chiều ngày 25/3 Tướng Thi lên HQ715 để về Đà Nẵng!
Chúng tôi mong rằng chi tiết này không có thật, vì tôi tin rằng không có một ông tướng nào có thể bỏ một đạo quân dưới quyền đang lâm nguy.

2/Không có lực lượng bảo vệ bãi biển Thuận An!
Bãi biện Thuận An có thể ví như một cù lao nổi lên trên mặt nước. Phía trước là biển Đông, phía sau là đầm Thủy Tú, đầm Hà Trung và Phá Tam Giang, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền, (hai cửa này là nơi thông thương giữa biển và các đầm kể trên, bề ngang của hai cửa này rộng trung bình từ 200m đến 500m.). Khu vực này theo Tướng Thoại thì được bảo vệ bởi 2 Giang Đoàn và 2 Duyên Đoàn vậy mà trong chiều ngày 25/3 quân CSBV ung dung, không tốn một viên đạn đã vượt qua đầm qua sông để bao vây bãi biển Thuận An, nơi LĐ.147/TQLC tập trung để HQ vào đón như lệnh của QĐ1TP lúc 10 giờ 30 sáng 25/3! Lực lượng bảo vệ đã đi đâu theo lệnh của ai?

3/Không có KQ, HQ yểm trợ và tiếp tế khi bị bao vây!
Theo lệnh QĐ.1/TP lúc sáng ngày 25.3, LĐ.147/TQLC chờ tầu trên bãi cát, vì không có hai yếu tố 1 và 2 kể trên nên đã bị CSBV đuổi kịp, bao vây và tấn công! VC chiếm các đồi cao với đầy đủ vũ khí nặng nhẹ, TQLC với súng cá nhân, họ nằm phơi mình trên bãi cát trống trải! Chuyện gì sẽ xẩy ra?

a/ Họ đã bị bỏ rơi trước mắt một lực lượng Hải Quân vùng 1/Duyên Hải của Tướng Thoại vô cùng hùng hậu với hỏa lực Hải Pháo kinh hồn, những khẩu đại pháo chưa kịp khai hỏa!
b/ Họ đã bị bỏ rơi khi trên trời có cả một SĐ1/KQ của Tướng Khánh với bao nhiêu phản lực xé gió, bao nhiêu trực thăng võ trang! Trực thăng nhiều đến độ không còn chỗ chứa phải di tản bớt về các phi trường phía Nam! Lính TQLC mơ thấy từng phi đoàn phản lực, hàng đàn trực thăng võ trang đến yểm trợ, tiêu diệt VC đang phơi mình trên đồi cát. Nhưng không, đó chỉ là giấc mơ còn thực tế là những đàn chim biển, những con hải âu bay lượn thảnh thơi, vô tình vô tư kiểu “Sống chết mặc bay”!
LĐ.147/TQLC hoàn toàn bị bỏ rơi trên bãi biển, nước mênh mông mà không có một giọt nước để uống tương tự như có hỏa lực hùng hậu KQ, HQ mà phải đi lượm từng viên đạn M16 rơi trên bãi cát để tự vệ và tự tử! Sự thật là vậy đó thưa quý vị Tư Lệnh Tiền Phương, TLKQ, TLHQ vùng I. Cho đến chiều ngày 26/3, không còn đạn để tự vệ, họ đã “tiết kiệm” bằng cách chỉ dùng một trái lựu đạn M26 để mà tự sát tập thể! Ngoài khơi, trên cao làm sao quý vị nghe được những tiếng nổ này của M26!
Sức cùng lực kiệt, tất cả những gì còn lại của LĐ.147/TQLC đã được bàn giao cho CSBV sớm hơn giống như Tổng Thống “một ngày” khi ông ra lệnh bàn giao QLVNCH cho CSBV! Những người lính TQLC đổ bao nhiêu xương máu và nước mắt nơi địa đầu giới tuyến, lính Tổng Trừ Bị bị sử dụng làm quân địa phương giữ đất cho QK1 thì vào lúc 3 giờ sáng ngày 27/3/1975 đã bị tan hàng một một cách đau đớn không vì địch quân mà vì chính những người ..vắt chanh! Sự tan rã Lực Lượng Tiền Phương QĐ.1 nói chung và LĐ.147/TQLC nói riêng là hậu quả tất yếu đưa đến QĐ.1 phải bỏ Đà Nẵng vào sáng 29/3/75.

Thưa Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.1

Được biết trường đại học University of North Texas vừa xuất bản cuốn sách “Hell in An-Lộc” do chính ông viết bằng Anh Ngữ, cuốn sách nói về trận chiến An Lôc năm 1972. Tuy ông không chỉ huy hay có mặt tại chỗ, nhưng ông đã sưu tầm tất cả dữ kiện để viết “Hell in An Lộc”, để nói cho người Mỹ hiểu rõ về tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân Đội VNCH không như một số truyền thông phản chiến đã có định kiến sai lạc bất lợi cho chúng ta về cuộc chiến này.

Cuốn sách “Hell In An Lộc” được nói đến nhiều nhưng cá nhân chúng tôi không dám có ý kiến khi tôi chẳng biết gì về trận chiến ở đó cả, nhưng chúng tôi đã có mặt, đổ máu và nước mắt từ Quảng Trị, Huế và chỉ rời Đà Nẵng vào 8 giờ sáng ngày 29/3/1975 tại bãi biển NON NƯỚC nên chúng tôi mong ước Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 viết một cuốn sách về trận chiến do đích thân Trung Tướng chỉ huy, cuốn sách được viết bằng chữ quốc ngữ (Việt Nam) để những người lính chúng tôi, dù đã khuất hay sắp khuất đọc và biết được những khó khăn trong cuộc chiến tại đây đưa đến hậu quả cả một đoàn quân tinh nhuệ chịu đứng khoanh tay, chịu trói!


Thưa Trung Tướng Tiền Phương.

Với cái nhìn hạn hẹp của một người lính về tình hình và địa thế thì tôi cứ thắc mắc cho tới ngày nay rằng tại sao:

a/ Tư Lệnh không cho Lực Lượng Tiền Phương QĐ.1 lui binh theo đường bộ, lấy QL.1 làm trục chính? Như tôi đã trình bày từ đầu bài viết này, những điểm quan trọng trên QL1 đều có quân ta trấn giữ và vẫn còn an ninh. Thiết tưởng không cần nêu lên những yếu tố khả thi khi rút theo QL1 và những vô kế khả thi khi đi ra biển mà những con tàu HQ không chịu vào bờ.

b/ Khi Tư Lệnh rút lui theo bờ biển hẳn là có lý do gây bất ngờ cho địch và tiết kiệm thời gian di chuyển cho quân ta vì có tàu Hải Quân yểm trợ. Nhưng cái bất ngờ nhất mà Tư Lệnh gặp phải, nguyên nhân chính gây đau thương cho thuộc cấp là cầu phao tại cửa Tư Hiền đã không có, không được Công Binh và HQ phối hợp thực hiện như trong lệnh hành quân! Lý do tại sao? Ai chịu trách nhiệm?

c/ Khi cầu phao ở cửa Tư Hiền không được thực hiện thì kế hoạch lui binh của Tư Lệnh thay đổi là Hải Quân vào đón Bộ Binh. Thật là nhanh chóng gọn gàng và chắc chắn thành công nếu như HQ thi hành kế hoạch. Nhưng HQ đã không tuân lệnh! Ở đây chúng tôi không dám thắc mắc với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh HQ Vùng I, vì thực tế hay lý thuyết thì Tướng Thoại vẫn là thuộc cấp của Tư Lệnh QĐ. Vậy thì cái gì khiến Tư Lệnh không điều động được Hải Quân như kế hoạch đã định khiến gần 4000 quân thiện chiến đứng làm bia cho CSBV tập bắn hoặc làm mồi cho cá biển Đông?.

d/ Không Quân Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối trong trận chiến này, SĐ.1 Không Quân của Tướng Khánh vẫn còn nguyên vẹn, hùng mạnh. Vậy mà không có bất cứ một phi vụ oanh tạc nào lên đầu địch quân. Một người lính như tôi còn biết hỏa lực KQ là yếu tố quyết định thành công cho lui binh, vậy thì thưa Tư Lệnh, những phản lực đã bay đi thả bom ở đâu? Những trực thăng bay đi đâu cho đến nỗi không có một chiếc để tải thương và tiếp tế cho đoàn quân đang phơi mình trên bãi biển.?

Mũ Xanh Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của Tư Lệnh SĐ/TQLC viết:

_ “ Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng TL/SĐTQLC và tôi được lệnh dùng trực thăng của Tư Lệnh chở gạo sấy đề tiếp tế cho LĐ.147 tại bãi biển Thuận An. Chúng tôi cố nhét cho thật nhiều, nhưng chỉ một chiếc trực thăng như thế này thì phải bay bao nhiêu phi vụ để tiếp tế gạo cho gần 4000 người trong khi thời gian thì quá ít. Đến địa điểm, Đại Úy Đan và tôi đẩy những thùng gạo sấy xuống cho các anh em ỏ dưới rồi quay về gấp làm chuyến khác. Khi chuyến thứ 3 vừa xong, từ Thuận An bay về Non Nước thì phi công báo là trực thăng của Tướng Điềm TL/SĐ.1/BB bị nạn cần cấp cứu, họ xin ý kiến Đại Úy Đan và anh Đan đã OK, mặc dầu không phải nhiệm vụ. Trực thăng đổi hướng phải, rồi hướng Bắc, phát hiện trực thăng Tướng Điềm nằm gần QL1, phía Bắc Lăng Cô chừng 10 km. Khi chúng tôi vừa chạm đất thì phi hành đoàn, Tướng Điềm và một Thiếu tá chạy về phía chúng tôi và cũng là lúc VC từ bìa làng khai hỏa. Chuẩn Tướng Điềm chạy khập khiễng trên cát, chúng tôi đã chạy lại dìu ông lên trực thăng của Lạng Sơn và đưa họ về Đà Nẵng, rồi trực thăng đi đổ xăng và chấm dứt tiếp tế gạo sấy cho anh em”!

Sự thật nó là như thế đấy, bao nhiêu trực thăng đi đâu cả rồi thưa Tư Lệnh? Khốn nạn cho đến nỗi không còn một chiếc nào để tải thương và tiếp tế đạn được cho LĐ.147, tiếp tế cho anh em vài thùng gạo sấy để nhai thì phải dùng đến trực thăng chỉ huy của Tư Lệnh TQLC! Và rồi cũng chỉ còn một chiếc trực thăng duy nhất của TL/SĐTQLC đi cấp cứu TL/SĐ.1/BB! Chuyện tưởng đùa mà có thật!

Thưa Tư Lệnh Tiền Phương.

Những thắc mắc nêu trên không phải của riêng cá nhân tôi mà của tất cả những quân sĩ dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đã nằm lại vĩnh viễn ở “Bờ Biển Thuận An, Pháp Trường Cát”! Của những quân nhân dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn để rồi những tên du kích VC mang dây kẽm gai đến cột chung họ lại với nhau! Tất cả chúng tôi mong ước được nghe Tư Lệnh giải thích hầu chia sẻ với Tư Lệnh những khó khăn mà Tư Lệnh gặp phải, có thể những khó khăn đó đến từ bất cứ đâu.
Quan trọng hơn nữa là lời giải thích của Tư Lệnh sẽ trả lại uy tín và danh dự cho tất cả các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đánh tan tin đồn của những kẻ vô trách nhiệm ở hậu phương rằng cấp chỉ huy ngoài mặt trận đã bỏ lính!
Dầu sao đối với người Mỹ thì dù Tư Lệnh có giải thích hay không thì chuyện cũng đã thuộc về quá khứ, còn đối với các anh em cựu quân nhân chúng tôi thì vẫn cần và rất cần uy tín của Tư Lệnh nói riêng và các Tư Lệnh khác nói chung vì cuộc chiến cho Việt Nam Tự Do vẫn còn tiếp diễn, cuộc chiến còn thì chúng tôi vẫn cần những cấp chỉ huy có uy tín.

Thay cho lời bạt:

Lúc 8 giờ tối ngày 28/3/73, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I, họp các đơn vị trưởng của QĐ.1 tại BTL/Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải, ông đã ra lệnh rút bỏ Quân Khu 1 bằng Hải Quân vào lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/75. Vì chỉ có 10 tiếng đồng hồ để chuẩn bị nên cuộc rút quân này đã diễn ra trong hỗn loạn và ..đẫm máu!
Như vậy tính từ 6 giờ chiều ngày 24/3/75, khi các đơn vị TQLC bắt đầu rút khỏi Quảng Trị cho đến 6 giờ sáng ngày 29/3/75 khi Tướng Ngô Quang Trưởng bơi ra tàu Hải Quân từ Trung Tâm Hành Quân TQLC trong căn cứ Non Nước Đà Nẵng, Quân Đoàn 1 đã bị tan rã trong vòng 4 ngày rưỡi!
Về việc rút quân này, lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/75, trước khi bơi ra tàu Hải Quân, Tướng Ngô Quang Trưởng đã nói với Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC một câu đáng để chúng ta và hậu thế suy ngẫm:
“Coi như đây là một cuộc tự thoát”! (TT2/TQLC trang 548)


Tài liệu tham khảo:
1/TT2/TQLC.
2/ Can Trường Trong Chiến Bại của PĐĐ Hồ Văn Kỳ Thoại.
3/ Street without Joy và Last Reflections of a War của Bernard Fall.


NGÀY THỨ 14 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 23-3-1975 TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ - LỮ ĐOÀN 147 TQLC

Ngày 23 tháng Ba, lo lắng và bối rối vì lịnh lạc đổi thay, bất nhất, LĐ 147 TQLC mở đường rút về điểm hẹn tại Tân Mỹ, hiểu rõ rằng sinh mạng của toàn lữ đoàn gìờ phút này nằm hoàn toàn trong tay của những người bạn Hải Quân. Nhưng những tàu Hải Quân chỉ được thông báo về kế hoạch này vào giờ phút chót, khi LĐ 147 TQLC đã rời quá xa vị trí phòng thủ tại Hương Điền. Hải Quân đã cố gắng hết sức để đến điểm hẹn kịp lúc, nhưng rất tiếc điều này không thể thực hiên được, và chỉ tới nơi với một số tàu đổ bộ quá ít ỏi, không đủ để bốc các binh sĩ TQLC còn bị kẹt lại trong bờ. Những tàu đỗ bộ tới được khu vực bốc quân lại không thể cập bờ bởi những cồn cát ngầm, và chỉ có số binh sĩ nào bơi thật giỏi, mới có thể bơi tới được các tàu LCM đậu cách bờ hàng vài trăm mét.

Khi hiểu rõ được vị trí mới của họ không thễ phòng thủ được, và các tàu Hải Quân không thể bốc họ, các binh sĩ TQLC bắt đầu phá hủy các vũ khí cộng đồng, quăng các hỏa tiển TOW chống tăng xuống biển. Bị kẹp giữa hỏa lực pháo nặng 130 ly và các binh đoàn Bắc quân truy đuổi, các đơn vị thuộc LĐ 147 TQLC tan rả hoàn toàn mà không hề có được một cơ hôị nào để giáp chiến sống mái với địch quân, và chỉ có khoãng 20 phần trăm là về tới Đà Nẵng !!



NGÀY 23-3-1975 TẠI MẶT TRẬN THỪA THIÊN HUẾ.

Ngày 23 tháng Ba, các tiểu đoàn diện địa bảo vệ tuyến Mỹ Chánh đã tự ý rút lui. Khu vực Núi Bóng-Truồi vẫn còn tương đối yên tĩnh. Các đơn vị Công Binh phá hủy một cây cầu trên QL1, phía đông Lộc Sơn để ngăn cản chiến xa địch tiến về Huế qua ngả Phú Lộc. Ngày 24 tháng Ba, sau khi nhận báo cáo về sự sụp đỗ của tuyến phòng ngự Mỹ Chánh, Tướng Trưởng họp với các tư lệnh chiến trường gồm Tướng Thi, Tướng Lân, Tướng Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Vùng 1 Chiến Thuật,và Tướng Khánh, Tư Lệnh SĐ1 KQ, để duyệt xét tình hình. LĐ 913 Điạ Phương Quân sau khi tự ý bỏ vị trí phòng thủ tại Mỹ Chánh, rút lui về phía nam, vượt qua khỏi Phong Điền. Việc tháo chạy của LĐ 913 ĐPQ đã gây những chấn động trong các đơn vị khác, và một cuộc triệt thoái toàn bộ đã xãy ra. Bộ Tham Mưu QĐ1 cố gắng tập họp các binh sĩ lại tại khu vực sông Bồ, nhưng số lượng binh sĩ đào ngũ tập thể đã gia tăng. Phần lớn binh sĩ đào ngũ không phải vì sợ hãi chiến đấu với quân thù, mà chính yếu là vì âu lo cho sự an nguy của gia đình họ!



NGÀY 23-3-1975

Ngày 22 tháng Ba, Bắc quân liên tục tấn công dọc tuyến phòng thủ tại Thừa Thiên. Quân miền Nam cũng mỡ những cuộc phản công nhằm chiếm lại đồi 224, một vị trí trọng yếu tại khu vực Mõ Tàu, nhưng không thành công. Cư dân cố đô Huế giảm còn khoãng năm chục ngàn người, và đèo Hải Vân nghẹt cứng dân tị nạn đang hốt hoảng tìm đường thoát hiểm về nam. Thành phố Đà Nẵng đông nghẹt những làn sóng người di tản. Cảnh Sát thị xã Đà Nẵng ước lượng đã có khoãng trên 100,000 dân tị nạn tại đây và dân chúng vẫn tiếp tục đổ dồn về càng lúc càng nhiều. Một phái đoàn liên bộ của chính phủ từ Sàigòn ra nhưng không giúp ích được gì mấy vì gạo đã không còn có đủ cho thị trường Đà Nẵng. Ngày 24 tháng Ba, chính quyền trung ương và điạ phương cố gắng di tản thưòng dân tị nạn mà con số giờ đã lên đến 400,000 về phiá nam bằng mọi phương tiện tàu thuyền có được. Tình hình chiến sự khả quan hơn, với những cuộc tấn công của Bắc quân vào Quãng Nam đã bị các đơn vị thuộc SĐ3 BB và lưc lượng diện địa chận đứng. An ninh tại thị xã Đà Nẵng tương đôi ổn định so với các nơi khác thuộc QK1.

Tại tây nam Tam Kỳ, Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 5BB, liên tục đụng nặng với quân chính qui BV từ ngày 12 tháng Ba. Tiểu Đoàn 2 BB khởi đầu cuộc hành quân với quân số 350 người, đến ngày 22 tháng Ba, đơn vị này chỉ còn khoãng 130 người. Tướng Nhựt cho thay thế tiểu đoàn này với Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 4BB; đồng thời cho dàn toàn bộ Trung Đoàn 4 BB, tăng cường bởi hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 5 BB và một chi đoàn chiến xa, tại khu vực tây nam Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 6,Trung Đoàn 6BB, được gởi tới Chu Lai để tăng cường phòng thủ căn cứ này. Riêng Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân vẫn nằm án ngữ bảo vệ vòng đai phía tây bắc Tam Kỳ.



GĨA TỪ VŨ KHÍ

Tác giả/Nhân vật: Huy Văn |21-03-2011|

( Chân thành cảm ơn: Trung Tá Hoàng Phổ, Liên Đoàn Phó LĐ 12 BĐQ, Đại úy Nguyễn Trung Tín , Y Sĩ Trưởng LĐ12 BĐQ, Đại úy Trần Văn Qui , Tiểu Đoàn Phó TĐ37/LĐ 12BĐQ Đã bổ sung chi tiết liên quan đến thời gian, vị trí, những lần giao tranh, hành trình chuyển quân và sinh hoạt của Liên Đòan 12BĐQ trong tuần lễ từ 23-03 đến 29-03-1975 )

Thị Xã Tam Kỳ, Quảng Tín. Ngày Chúa Nhựt 23-03-1975

Sáng. Theo Trưởng Ban 4 vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 2 BB. Cuộc tiếp xúc thật nhanh, gọn vì không có kết quả như mong đợi. Con ai người nấy lo. Yêu cầu tiếp liệu cho đơn vị tăng phái lúc nào cũng phải nhường ưu tiên cho cơ hữu của Sư Đoàn, nhất là Trung Đoàn 5. Họ đang đụng nặng không kém .

Trưa. Theo đoàn xe tải đạn vào vị trí của Pháo Đội mà lòng buồn vô hạn. Những lời an ủi và giải thích, dù được người Pháo Đ#7897;i Trưởng vui vẻ đón nhận, cũng chỉ để che dấu một thực trạng đau lòng: Quân Đội không đủ đạn cho chiến trường !

Bữa ăn thanh đạm với Đại úy Phương bị ngắt quãng liên tục vì anh phải lên máy theo dõi tác xạ của 4 khẩu 105 ly . Tiếng pháo kích của địch, tiếng phản pháo của ta, tiếng rè rè của máy PRC 25, tiếng nói như hét khi liên lạc, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp nhưng đặc thù của đời lính trận .
-Cánh TĐ 37 đang đụng nặng. Anh Phương buông máy, nói vội. Mình vừa ra lịnh ưu tiên cho Đại Đội 3. Ông Vương coi bộ mệt dữ. Thôi. Ăn tiếp đi Huy.
Cổ họng tôi đắng nghét. Cảm giác không khác gì đang nằm với trung đội ngoài kia. Vương Vũ đúng là cô đơn quá. Mấy thằng Em bây giờ chẳng còn ai bên cạnh. Lê Văn Hữu để lại nửa cái đầu ở Gò Nổi. Nguyễn Thanh Vân đang nằm liệt vì sốt rét rừng. Còn tôi đang thấp thỏm từ vòng đai Tiểu Khu. Bất lực. Các Trung Đội Trưởng bây giờ là ai,

Người mới bổ sung hay những cọp già dạn dày trận mạc của Đại Đội ?
Con đường nhựa đổi thành màu đất, chạy thẳng về hướng tây . Chíến trường chỉ cách quốc lộ non 3 cây số . Trên dãy đồi tung tóe khói, có đồng đội cũ đang cầm cự với địch .
Định nhờ máy của Pháo Đội để gọi thăm người Đại Đội Trưởng cũ nhưng lại thôi. Chỉ thầm mong an lành đến với mọi người .

Chiều. Nắng nhạt. Tam Kỳ hầu như chỉ còn một nửa dân số. Bưu điện đã ngưng mọi dịch vụ chuyển ngân từ hôm qua. Thị xã vắng lặng. Nhà cửa như bị bỏ hoang. Trường Trung Học Tỉnh lỵ trở thành Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 2 Bộ Binh ngay từ khi mất Tiên Phước. Tam Kỳ còn được chút sinh khí là nhờ những quán xá, khách sạn vẫn còn mở cửa .

Quán cà phê là khoảng sân của ngôi biệt thự khá bề thế, kiểu nhà mát của các villa Pháp , nằm ngay cạnh hậu trạm của Liên Đoàn. Xế trưa, quán vắng nên vị chủ nhân kiêm phục vụ viên vui vẻ ngồi lại trò chuyện. Khi được hỏi vì sao còn ở lại thì người trung niên có dáng dấp rất nghệ sĩ cho biết ông là một doanh nhân, ở lại một mình, còn vợ con đã ra Đà Nẵng từ mấy hôm trước.
- Tôi không có gì để lo sợ cả. Ông nói. Nếu không thì đã vọt mất rồi. Quán cà phê là để bà vợ tôi có việc gì đó để làm cho vui. Thu nhập không thành vấn đề, mặc dù công sức và tiền bạc bỏ ra cho ngôi vườn này cũng khá nhiều .
Tôi im lặng đảo mắt nhìn quanh. Đúng như lời ông nói. Quán đẹp là nhờ sự sắp xếp và bày biện cây kiểng: sạch sẽ và ngăn nắp. Quầy thâu ngân là một mái tranh thấp treo đèn và giỏ hoa. Giàn Akai nằm ngay trên quầy, cạnh tủ kiếng nhỏ bày bán thuốc lá. Quán có phong thái “Thạch Thảo “ đúng như tên gọi.
Thấy tôi trầm ngâm, người chủ nhân đứng dậy đi vào nhà. Tiếng nhạc Paul Mauriat dìu dặt vọng lại từ hai chiếc loa đặt trên tam cấp dẫn lên cửa chính. Không khí im lắng trong màu nắng nhạt làm tôi chợt nhận ra cuộc chiến đang đến hồi quyết liệt ngoài kia bỗng nhiên ngưng hẵn tiếng súng từ lúc nào không biết. Phút an bình tạm thời của một ngày chúa nhựt, hay là sự im lặng ngộp thở của cơn bão đang dần đến ?
- Đang tìm hứng để làm thơ phải không ?
Tôi quay lại, mừng rỡ nhận ra Đỗ Văn Tuấn, bạn học kiêm đồng đội quân trường. Tuấn ngồi xuống ghế đối diện, không chờ hỏi đã lên tiếng trước .
- Tao hỏi cầu may một Đại úy. Ổng cho biết mày đang làm xếp hậu trạm. Rồi lính của mày chỉ tao qua đây. Thật là bất ngờ !
Câu chuyện hàn huyên đưa chúng tôi trở lại thời lạng xe cua đào hồi còn ở trung học rồi những buồn, vui quân trường , sau cùng là thực tại không có gì sáng sủa vì…
- Tụi tao như rắn không đầu. Hiện giờ đang lo bảo vệ Bộ Chỉ Huy tiền phương của Sư Đoàn . Đại Đội Trinh Sát coi như xóa sổ . Trung Đoàn 5 bây giờ cũng đang kẹt cứng . Nghe nói cánh Biệt Động Quân của mày cũng đụng nặng suốt hơn hai tuần nay.
Tôi gật đầu kể cho bạn nghe về những gì mình biết được. Tinh thần thì vẫn còn nhưng phương tiện thì nghèo đến mức cùng cực . Địch đang ở thế mạnh. Chiếm đâu, giữ đó. Còn mình thì chỉ thụ động phòng thủ, hay tấn công mà không có kết quả . Đạn dược nhỏ giọt. Dân chơi mà chỉ có tiền lẻ để xài. Thật là trớ trêu .
Tôi nhìn Tuấn, rồi chạnh nghĩ đến những bạn bè cùng lớp, những đồng đội cùng khóa ở Đồng Đế . Mới đó mà đã gần ba năm. Kẻ còn, người mất. Và giờ này chỉ có hai đứa ngồi bên ly cà phê nhắc chuyện xưa để buồn cho thực tại. Khi từ giả nhau, sau cái bắt tay chỉ là lời chúc lành cho những ngày vô định sắp tới.

Đêm. Dài vô tận. Thị xã im lìm trong cảnh nhá nhem của phố phường thiếu điện. Nặng nề và căng thẳng , không có chút sinh khí ngoại trừ tiếng quân xa qua lại đó đây và tiếng pháo rời rạc , có vẻ như thăm dò của đôi bên. Sinh hoạt hậu trạm vẫn chỉ là những công việc thường lệ của bố trí, gát đêm trong tình trạng sẵn sàn ứng chiến lẫn tác chiến. Im lắng lạ thường. Cảm giác như nghẹt thở .

Thứ Hai 24-03-1975 . Đêm về sáng

Bê ta ! Đúng là tiếng bộc phá của đặc công . Mọi người tỉnh giấc ngay sau tiếng nổ đầu tiên. Dàn tuyến phòng thủ. Nghe ngóng. Nhận định . Lên máy liên lạc với Liên Đoàn . Địch đang đột nhập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn . Chỉ vài trăm thước. Vài khu phố. Dăm ba cái ngã tư. Địch có thể xâm nhập qua đây bất cứ lúc nào . Tất cả đều sẵn sàng . Tiếng lựu đạn, tiếng súng nổ dòn trong đêm. Một đêm mất ngủ. Đêm thật dài, và thật căng thẳng.

6h:30 . Đã có chút ánh sáng bình minh . Vẫn còn đụng độ quanh khu vực Trường Trung Học. Pháo bắt đầu nổ bên hướng Tiểu Khu và cả Bệnh Viện gần đó. Lệnh của Liên Đoàn : Nằm tại chỗ. Hậu trạm của các Tiểu Đoàn cho tin có đụng độ ở khu vực của 37 và 21 . Tiểu Đoàn 39 phía Tây Bắc không có báo cáo chạm địch. Nhưng Tam Kỳ đang bắt đầu hoảng loạn.

8h:00 . Không còn liên lạc được với Liên Đoàn qua điện thoại lẫn truyền tin. Không rõ vì sao . Chiếp Jeep duy nhất của Hậu trạm đã theo Đại úy Nhân về Đà Nẵng chiều hôm qua nên Trung Sĩ Năm phải lấy Dodge chạy qua Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn nhận lịnh trực tiếp. Khi trở về thì báo cáo của người Hạ Sĩ Quan Ban 4 không có chút lạc quan .

- Liên Đoàn Trưởng và Ban 3 bận máy liên tục . Truyền Tin và nhóm Tác Chiến Điện Tử đóng ở đâu không biết . Ban 2 của Thiếu Tá Vũ cũng không thấy ai . Chắc là theo Liên Đòan Phó qua Tiểu Khu họp khẩn cấp. Trinh Sát thì cũng chỉ biết lo bảo vệ khu ga xe lửa và phía tây của Bộ Chỉ Huy. Chỗ này là tùy Thiếu úy định đoạt. Bên đó cũng lộn xộn lắm vì không ai nắm rõ tình hình gì cả.

Tôi thở dài nhìn quanh . Mỗi hậu trạm chỉ có vài người, lại phải lo quân nhu, tiếp liệu lỉnh kỉnh . Xe mười chiếc, người thì trên dưới một Trung Đội, kể cả tài xế và quân nhân chờ trở lại đơn vị . “ Tùy Thiếu úy “ cũng có nghĩa là không còn trông chờ lệnh lạc gì của ai. Và ngoài kia , phía quốc lộ Một , đã rần rần tiếng xe và dòng người rút về hướng Bắc . Tiếng súng và tiếng pháo kích đã thật gần . Thêm một cố gắng để liên lạc với Liên Đoàn mà không được, nên tôi cho lệnh thu dọn lều trại.
Còn đang loay hoay nhổ lều, cuốn bạt, thì Liên Đoàn Trưởng từ đâu phóng xe tới. Bộ dạng hầm hầm, nhìn quanh, rồi gào lên :

- Mấy anh đang làm gì vậy. Định chạy làng phải không ? Ai chỉ huy ở đây ?
Tôi lật đật đến chào kính. Chưa dứt câu thì bản đồ trên tay ông đã vỗ lên nón sắt của tôi :
- ĐM ! Ngoài kia đang đánh đấm. Trong này tính vọt hả ?!
Ông trừng mắt nhìn tôi. Cả hậu trạm hết hồn đứng lặng người . Tôi cũng không nhận ra vị Trung Tá mới ba ngày trước đó đã gọi tôi trình diện và vui vẻ cho biết sẽ trả tôi về làm Chỉ Huy Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Hôm đó ông thân mật hỏi han chuyện Sài Gòn, và cả chuyện học hành của tôi trên Đà Lạt lúc chưa bị Tổng Động Viên . Hôm nay thì khác . Ông như chỉ muốn trút sự bực bội hay phẫn nộ gì đó, và tôi không may đã thành nạn nhân. Có lẽ là nạn nhân đầu tiên trong ngày.
Tôi cảm thấy nhục nhã vì bị đơn vị trưởng hành hung ngay trước mặt thuộc cấp của mình , nhưng vẫn giữ thế nghiêm và im lặng nhìn ông, không phân bua, không giải thích , và sau đó tôi lại thấy thông cảm cho ông. Xét cho cùng, quả là tôi cũng muốn bỏ cuộc. Tôi chỉ là tép riu, còn Liên Đoàn Trưởng của một đơn vị nổi tiếng mà chạy làng thì khó có thể chấp nhận được .

Không nhận được lời nào của tôi, Trung Tá An quay sang quát tháo mọi người cho đã nư rồi lên xe phóng đi sau câu chưởi thề như lúc mới tới. Mọi người còn im lặng đứng nhìn tôi, hoang mang. Nhưng tôi đã nhìn ra được nỗi tuyệt vọng và sự đau khổ tột cùng qua thái độ của Trung Tá An nên cho lệnh thu dọn thật nhanh.
Khi đoàn xe chuyển bánh thì tôi biết là cũng đã đến lúc phải bỏ Tam Kỳ . Quốc Lộ Một đông nghẹt mọi thứ xe cộ và người, dân cũng như quân . Khó khăn lắm mấy chiếc GMC của 21 và 39 mới quẹo ra được quốc lộ để nhập vào dòng di tản . Đến phiên Hậu Trạm Liên Đoàn thì chỉ lọt mấy chiếc GMC chở xăng, dầu, đạn dược. Xe Dodge vì kéo “ rờ mọt “ lương khô nên kẹt ngay giữa ngả tư . Loay hoay tới lui hoài không sau quẹo trái được. Toán Hậu Trạm của 37 đi sau cùng chờ lâu sốt ruột nên quay đầu tìm đường khác mà đi lúc nào không hay .

9h:30 . Phía trước chỉ còn lác đác vài nhóm thường dân và sau lưng vắng hoe. Lo tìm cách quay xe quẹo vào trục lộ mà quên luôn cả những giao tranh đâu đó thật gần . Trên chiếc Dodge bây giờ chỉ còn tôi và hai binh sĩ thặng dư “ theo Thiếu úy tới cùng “ . Tài xế thì vừa chưởi thề vừa cố gắng nhích tới nhích lui mà không có kết quả . Không thể bỏ xe, mà cũng không tháo đựơc “ rờ mọt “ để thoát thân .

Đang lo lắng cùng cực thì từ đâu xuất hiện một gia đình năm người, hai vợ chồng , hai con nhỏ và một lão niên. Người chồng có lẽ là một nghĩa quân, súng đeo vai, tay xách bị . Thấy xe, họ mừng rỡ đứng lại, nhưng rồi thất vọng khi thấy đang kẹt tại giữa đường .
- Phải chạy nhanh lên, Thiếu úy ơi . Nghe nói xe tăng của tụi nó đã qua cầu phía bên kia phố rồi .
Nghe anh lính nói, tài xế hoảng hốt nhấn ga. Chiếc xe kẹt lề, nhồi lên nhích xuống. Vô phương. Tôi tuyệt vọng lắc đầu. Chưa biết phải làm sao thì từ đâu xuất hiện thêm vài người lính Sư Đoàn 2 .Tôi hỏi thăm họ về Đỗ Văn Tuấn và tình hình bên Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn .
- Đặc công đánh vô Trường học từ sáng sớm . Một ngừơi lính kể lại . Tụi nó chỉ có mấy thằng nhưng liều mạng . Sau đó có thêm một toán nữa , có lẽ là du kích. Tới sáng thì mình bể tuyến, mạnh ai nấy rút. Tụi em kẹt lại sau cùng, chạy vòng phía sau rồi mới nhắm hướng bọc ra đây. Không còn ai nữa đâu. Tụi nó chiếm Trường học rồi.

Không suy nghĩ, tôi gọi họ cùng với mọi người khác phụ đẩy chiếc xe. Bảy, tám người góp chung sức lúc đang tuyệt vọng; nên kết quả là chiếc Dodge gầm rú, tới, lui vài lần rồi vọt ngay lên lên lề . “ Rờ mọt “ phía sau ngã qua, lắc lại tưởng chừng như muồn gãy cả trục bánh .
Tài xế cho xe yên vị trên đường . Mọi người hối hả leo lên . Hai cháu bé và cụ già ngồi trong cabin, hai người lính Hậu Trạm đeo hai bên hông , những người còn lại đứng phía sau, kể cả tôi. Lúc xe chuyển bánh mới hay khu vực trong tầm mắt, trước, sau ,đều vắng lặng. Mới hơn 10 giờ sáng mà Tam Kỳ đã bỏ ngõ từ lâu. Tiếng súng lớn, nhỏ vẫn còn, nhưng ngoài tiếng xe Dodge đang rồ ga vì kéo nặng , tôi không nghe được tiếng xích sắt của T 54 mặc dù Trường Trung Học và chiếc cầu phía nam Thị xã chỉ cách chúng tôi vài trăm thước .

Đến gần Khu Hành Chánh và Tiểu Khu thì chúng tôi bắt kịp đoàn người di tản . Pháo của địch đang làm tình làm tội những nơi trọng yếu , kể cả Bệnh Viện. Con đường huyết mạch trở thành “ Quốc Lộ kinh hoàng “ . Đáng buồn nhứt là là những người dân không có phương tiện. Họ lết bết đi hai bên lề, đưa cặp mắt thèm thuồng pha lẫn van xin nhìn đoàn xe đủ loại đang ngược bắc.
Vừa ra khỏi Tam Kỳ thì cảnh tượng càng tang thương hơn. Quốc lộ bình thường khá rộng, bây giờ trở nên chập hẹp với mọi thứ trên đời vung vãi trên đường: từ quần áo, vật dụng linh tinh, kể cả xăng dầu của xe cộ bị hư hỏng, đến những nhầy nhụa khác không thể phân biệt là thứ gì. Măc kệ. Xe vẫn cứ chạy. Người vẫn cứ đi. Không phải không khí chiến tranh mà là hình ảnh của một bi kịch thoát hiểm.

Tiếng hò hét,chưởi bới, tiếng súng bắn mở đường hay xua đuổi những ai chắn lối, hoặc hù dọa những người muốn nhào lên xe để được sướng thân , hòa lẫn với tiếng kèn xe chói tai và liên tục, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp, rối bời nhưng khẩn thiết. .
Xe đò, xe nhà, xe hàng, xe gắn máy, quân xa, cơ giới đủ loại, lớn, nhỏ, hai bánh, ba bánh, bốn bánh v/v.. . Mọi thứ đều cố bò, cố nhích về phía trước. Bò, nhích là phải, vì lòng đường chật ních các lọai xe và người. Xe hư là khốn nạn cuộc đời, vì chắc chắn phải bị bỏ lại. Sang, hèn như nhau. Dân, quân cũng không khác. Mọi thứ phương tiện, có động cơ hay không, đều được tận dụng tối đa để chở người, chở của .

Mạng người cũng rẻ rúng như bèo. Súng tha hồ bắn. Xe tha hồ lách, chạy, càng xa càng tốt. Giờ phút này ai nấy đều muốn đến nơi an toàn , và Đà Nẵng là mục tiêu tối hậu . Quốc Lộ 1 như con rắn khổng lồ . Đuôi còn lòng thòng nơi nào đó tận trong phố Tam Kỳ không chừng, còn đầu thì không biết đã tới đâu.

Trưa. Con đường từ Tam Kỳ về Thăng Bình, quận cực bắc của Quảng Tín , bình thường chỉ mất mười lăm, hai chục phút xe chạy là tới nơi. Hôm nay khác. Đôi khi chỉ có người ( và vật ) còn có thể di chuyển. Xe cộ thì nằm cứng một chỗ mỗi lần có chiếc nào đó hết xăng hay hư máy nửa chừng. Khổ sở lắm mới ủi được qua một bên để lấy lối cho xe chạy tiếp.

Giữa dòng thác người và xe đang chậm chạp tiến về phía bắc là một sĩ quan không rõ cấp bậc, đứng chận những quân nhân có lẽ là thuộc cấp của ông, đẩy họ vào lề, nơi đã có một số quân nhân khác đang xớ rớ đứng, ngồi. Chung quanh họ là vợ con, là người thân lớn, nhỏ. Mọi người đều lộ vẻ hoang mang, lo lắng. Chỉ có đám trẻ con còn được vài nụ cười thật ngây thơ và hồn nhiên khi tụm năm, tụm ba với nhau.

Nhìn lại xe Dodge mới hay gia đình người lính Tiểu Khu và nhóm quân nhân Sư Đoàn 2 cũng đã bỏ đi hồi nào không biết. Đoàn xe Hậu Trạm tìm được nhau nên cùng dừng lại để kiểm tra quân số, tiếp liệu phẩm và lên máy liên lạc với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn. Nửa ngày trời dang nắng làm con người khô khốc, nhưng lại không thấy khát , không thấy đói. Chỉ hút thuốc, hút liên tục đến mềm môi, rát cổ, để tạm trấn áp nỗi lo lắng, buồn bực .
Tôi ‎buột miệng chưởi thề khi có người đề nghị chạy luôn về hậu cứ, và ra lệnh nằm tại chỗ chờ tin tức của Liên Đoàn. Đành là giữa lúc hỗn quan, hỗn quân thì mình có tòan quyền quyết định . Nhưng cả buổi chỉ thấy vài nhóm đồ bông lẻ tẻ, đa số đeo theo xe hậu trạm mà đi. Các Tiểu Đoàn chắc chắn còn phía sau.

Tôi đã quyết định không sai. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đang ở phía trước không bao xa, ngay trong căn cứ Hương An. Chỉ vì lo điều động đại đơn vị nên bây giờ “ Xếp “ mới nhớ tới chúng tôi. Mất liên lạc suốt nửa ngày đồng nghĩa với đoán già, đoán non, hay đồn nhảm những tin tức không có ích lợi gì cho tinh thần chiến đấu của đơn vị.

Giờ này Liên Đoàn Phó còn đang điều động hai Tiểu Đoàn 21 và 37 cùng với một Chi Đoàn Thiết Vận Xa triệt thoái theo chiến thuật , lấy quốc lộ làm trục chính tiến về hướng bắc. Họ là những người sau cùng rời khỏi Quảng Tín. Kỳ An ơi Kỳ An ! Đất lành của hiền nhân Phan Chu Trinh đành bỏ lại cho địch. Ba cây số để ra tới quốc lộ phải trả bằng máu xương giữa nắng trưa hực lửa.

17h00. Dang nắng cả ngày ngoài trời, tinh thần căng thẳng cực độ. Sau cùng, hậu trạm được lệnh vào Hương An nằm chung với Liên Đoàn. Lại kiểm điểm nhân sự và tiếp liệu, phân chia vị trí cho từng hậu trạm Tiểu Đoàn, trực máy để liên lạc thẳng với Liên Đoàn Trưởng . Công việc thường lệ , quen thuộc, nên đâu vào đó rất nhanh, gọn . Thì giờ còn lại là nghe ngóng tình hình . Nhất là tin tức về các Tiểu Đòan .

Không có dấu hiệu truy kích của đại quân địch khi đã ra khỏi Tam Kỳ. Chỉ là những hoạt động quấy rối của du kích địa phương dọc theo lộ trình di tản. Cứ vậy mà hai Tiểu Đoàn BĐQ cùng Chi Đoàn Thiết Vận Xa di chuyển về tới quận Thăng Bình và bắt tay với một đơn vị của Sư Đoản 3 BB vào lúc gần nửa đêm.

Cùng lúc đó, Trinh Sát và ban 4 làm công việc của Kiểm Soát Quân Sự, đồng thời tìm xem còn đồng đội nào rơi rớt hay lạc lõng ở phía sau hay không. Hai chiếc GMC chầm chậm lăng bánh . Gío tháng 3 bắt đầu trở lạnh . Dân chúng đã tản mác đâu hết. Quốc lộ vắng lặng. Nhà cửa hai bên đường không có dấu hiệu còn người sinh sống. Có lẽ họ đã bỏ đi hay không muốn lên đèn, mở điện. Lác đác có vài bóng người đi dọc theo con lộ. Họ chỉ quay đầu nhìn theo xe, rồi lầm lũi bước tiếp. Dù sao đi nữa thì Thăng Bình hòan toàn yên tĩnh. Một dấu hiệu đáng mừng, hay đáng lo ?! .
Đêm. Dài lê thê. Đêm căn cứ thật yên lắng, đủ để nghe tiếng truyền tin rè rè đâu đó. Lại cà phê, lại thấp thỏm. Vài nhóm nhỏ chụm đầu bàn tán, trao đổi tin tức, hỏi han tình hình . Lại một đêm hút thuốc đến vàng tay. Một ngày trời gần như quên lững miếng ăn mà vẫn không thấy đói. Thêm một đêm chong mắt chờ sáng trong dằn vặt, âu lo .

Thứ ba 25-03-1975 .

Sáng họp khẩn với Liên Đoàn mới hay Pháo Đội 12 của Đại úy Phương và Trạm Xá của Y Sĩ Đại úy Nguyễn Trung Tín đã về tới Phú Lộc hôm qua. Ban 4 hành quân rời Hương An ngay sau khi liên lạc và điều động đoàn xe Quân Vận đến bốc toàn bộ Liên Đoàn về hậu cứ. Đoàn xe thật ra chỉ là vài chiếc tăng phái vì nhu cầu đâu phải chỉ có Bịệt Động Quân. Vì vậy xe hậu trạm rồi cơ hữu của từng Tiểu Đoàn cũng được xử dụng tối đa.

Tuy không kẹt xe và hỗn loạn như hôm qua , nhưng quốc lộ vẫn một nhịp hối hả, cấp bách của cơ giới đủ loại, nhứt là xe nhà binh. Về ngang Duy Xuyên đã thấy dòng người từ trong Trà Kiệu túa ra đủ để gây khó khăn cho giao thông trên lộ chính . Xe và người cứ thế mà dồn về Đà Nẵng . Vĩnh Điện cũng bị kẹt cầu , kẹt lộ, vì xe từ Tỉnh lộ nối với Giao Thủy, Đại Lộc cũng rần rần nhập vào .

Nhưng về tới Miếu Bông, Câu Lâu, Cây Lan, Phước Tường thì sự hớt hãi mới rõ nét với những lo lắng, hoang mang trên mặt người và sự dồn nén, bế tắc lưu thông trên công lộ. Phải dùng đến sự thị uy của Quân Cảnh trên Commando Car mới giải tỏa trật tự và an ninh phần nào trên đường dẫn vào phố chính. Xe từ Huế xuống, từ Quảng Tín lên . Người theo xe nườm nượp . Đà Nẵng đã trở thành ốc đảo, thành chiếc phao và thành niềm hy vọng sau cùng của Quân và Dân Quân Khu 1 .

Không kể thời gian chờ đợi, rồi thứ tự lên xe, thì phải mất hơn bốn tiếng mới đưa được toàn bộ Liên Đoàn 12 BĐQ về tới Phú Lộc, nhưng không phải ai cũng suông sẻ và may mắn như những chuyến đầu tiên. Đoàn xe sau cùng, võn vẹn có 6 chiếc dành cho Tiểu Đoàn 37 và số quân nhân còn lại của 21, đã bị phục kích tại cầu Bà Réng, cửa ngõ vào Đà Nẵng từ hướng nam, ngay trong vùng trách nhiệm của Trung Tá Võ Vàng, lúc đó đã về chỉ huy một lực lượng Địa Phương Quân của Tiểu Khu .
Một xe GMC tan tành vì B40 ! Lại đổ máu và chiến đấu trong điều kiện nghiệt ngã nhứt: mỗi người một gắp đạn phòng thân đã cầm cự rồi đẩy lui đám du kích chừng 20,30 tên. Đường về lại chia hai ngả: kẻ qua Tổng Y Viện Duy Tân để được ướp lạnh hay băng bó, người vào Phú Lộc trong sự rời rã đến tột cùng.

Phú Lộc của những hân hoan lúc dưỡng quân, của hạnh phúc khi xum họp, đã thật nặng nề với bất ổn và xôn xao cũng như bất cứ nơi nào khác. Nụ cười quen thuộc trong các trại gia binh đã nhường chỗ cho ánh mắt âu lo, bồn chồn, những giọt nước mắt xót xa cho những ai hy sinh hay trọng thương trong giờ phút cuối. Hậu cứ Liên Đoàn chưa bao giờ căng thẳng và buồn tẻ như lúc này.

Sắp xếp đâu đó xong xuôi là đã chập choạng tối. Ăn tạm mì gói bên Câu Lạc Bộ, về xem công điện và văn thư mới nhận thì Đại úy Quỳnh vào thông báo Ban 4 trực chính nên có công tác khẩn cần thi hành ngay. Tôi giao việc lại cho Ông Quỳnh, rồi đến gặp Trung úy Long, Ban 5, nhận một Tiểu Đội Kiểm Soát, và 2 GMC để ra Đà Nẵng tảo thanh , tước khí giới và bắt giữ những quân nhân bất hảo đang phá phách ngoài phố.

Đà Nẵng đang gặp nhân mãn. Người và xe đầy nghẹt trên đường. Thành phố đang lên cơn sốt vì dòng người di tản từ hai đầu Bắc, Nam dồn vào không ngớt. Cảnh sát sắc phục đã biến mất. Chỉ còn dân Dã Chiến và Quân Cảnh Tiểu Khu đang cố vãn hồi trật tự từ trên các Commando Car. Đã có lệnh nổ súng bắn bỏ những ai vô kỷ luật và phá rối trị an . Đã có những thương vong và bất hạnh vì những phát súng vô tội vạ hay cướp bóc lẻ tẻ .

Ngoài đường bây giờ lính tráng tới lui tấp nập. Dân chúng cũng xuôi ngược ồn ào. Lại thỉnh thoảng kẹt xe . Đôi lúc phải dừng lại để “ hỏi thăm sức khỏe “ phe ta : những anh em thuộc Liên Đoàn 14 và 15 BĐQ từ hướng tây bắc rút về. Tội nghiệp cho những con Cọp tan đàn không còn nanh vuốt đang lạc lõng giữa phố thị.

Lính thì không gom một ai. Vũ khí, đa số là M16 , thì cũng được nửa sàn xe . Một vòng phố chính cũng mất hơn hai tiếng đồng hồ. Đủ để chứng kiến cảnh hoang mang của dân tình và vẻ thất thểu của những người lính không còn đơn vị. Sự sụp đổ nhanh quá. Như Domino trên bàn cờ. Không có gì giữ lại được. Kể cả sự cố gắng ổn định tình hình của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, một dũng tướng ngày đêm sát cánh với mọi đơn vị .

Đà Nẵng bây giờ là một cái rọ khổng lồ không hơn không kém. Hèn chi địch không cần truy đuổi ráo riết. Cứ để sợi thòng lọng từ từ siết lại. Tuy vẫn còn tiềm năng và đang cố vãn hồi trật tự, nhưng Đà Nẵng không khác gì cá nằm trên thớt, như con mồi đang tuyệt vọng vẫy vùng trong chiếc lưới đang dần dà phủ chụp .

23h00. Xe về Phú Lộc. Khu gia binh nhìn thoáng qua thì vẫn như lúc bình thường: tối tăm và im vắng sau khi máy đèn ngưng chạy. Nhưng chắc chắn trong từng nhà là những thao thức triền miên vì chỉ chưa có lần nào Liên Đoàn rối rắm như hiện nay, kể cả Lam Sơn 719 và Mùa Hè Đỏ Lửa. Ba năm, hai lần lui binh khẩn cấp, nhưng lần này thì tình hình tồi tệ đến mức không ngờ. Buồn thay!

Hai chiếc GMC nằm ngay giữa sân cờ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn .“ Chiến lợi phẩm “ để nguyên trên xe. Toàn là súng không có đạn. Mọi thứ khác, kể cả lựu đạn, được mang vào văn phòng ban 4. Ai nấy đều mệt nhoài. Hai ngày mất ngủ đang bắt đầu hành hạ tôi. Chỉ kịp hoàn tất bản báo cáo là hai mắt đã híp lại không cách gì cưỡng được. Trước khi thiếp đi, tôi cũng còn đọc thấy mảnh giấy trên bàn : 8 giờ sáng 26-03 họp với LĐT.

Thứ tư 26-03-1975.

Đêm ngủ ngon nhưng sáng dậy cả người khô ran. Câu Lạc Bộ vẫn đông nhưng câu chuyện đã không ồn ào như mọi khi. Ai nấy cũng đều có vẻ trầm ngâm một cách bất thường. Vài gương mặt quen thuộc của Tiểu Đoàn 37 cũng có mặt. Thì ra cuộc họp có các Đại Đội Trưởng về tham dự.
8h00 : Phòng họp đang xì xào to nhỏ tự động lắng ngay xuống khi Liên Đoàn Trưởng xuất hiện. Vào hàng. Phắc. Chào kính. Trình diện. An vị. Lại im lặng. Không khí thật nặng nề. Trung Tá An trợn mắt nhìn khắp phòng rồi bất ngờ gào lên :

- Nếu tôi là Đại úy Phương thì ra ngoài sân cờ tự vận cho rồi.
Mọi người bàng hoàng chưa biết chuyện gì xảy ra, thì Liên Đoàn Trưởng đã chạy đến đấm túi bụi vào mặt người Pháo Đội Trưởng . Nhưng ông chỉ đánh trúng chừng hai bạt tai là đã bị Liên Đoàn Phó giữ lại từ phía sau, rồi kéo trở lại bục thuyết trình . Im lặng hồi lâu. Mọi người cũng nín thở sau phút giây bất ngờ. Một lát sau, Trung Tá An mới chậm rãi chỉ vào Đại úy Phương mà nói :
- Người này đã làm nhục cho binh chủng vì chưa có lệnh mà đã rút chạy về hậu cứ trong khi mọi người còn ở hành quân .

Tôi lạnh người vì lời buộc tội này. May quá ! Nếu không vì chiếc xe Dodge bị kẹt ngay giữa phố Tam Kỳ thì không biết ai vọt trước ai. Và không chừng tôi cũng chịu chung số phận như Đại úy Phương hôm nay, nếu không cương quyết ở lại Thăng Bình .

Như muốn an ủi con chiên bị tế thần, đồng thời nói về tình trạng hỗn loạn lúc còn ở Quảng Tín , Liên Đoàn Phó ôn tồn giải thích với mọi người là sau cuộc họp khẩn cấp với Tiểu Khu vào sáng ngày 24-03-1975 thì ông trở về BCH/ LĐ 12BĐQ, đóng tại Ga xe lửa Quảng Tín, để thông báo cho Tr/ Tá An biết về cuộc triệt thoái ra khỏi Tỉnh.

Sau đó BCH/LĐ di tản khẩn cấp về hướng Đà Nẵng. Và đó cũng là lần gặp mặt cuối cùng trong ngày của ông với Liên Đoàn Trưởng vì ông bận rộn với việc điều động các đơn vị trực thuộc ( 2 TĐ/ BĐQ và Chi Đoàn TVX ) rời vị trí đóng quân để di tản về hướng bắc. Trong ngày 24-03-1975 ông không liên lạc được và cũng không nhận được một lệnh gì của Tr/ Tá An.

Theo lời Trung Tá Hòang Phổ thì 24-03-1975 là một ngày xáo trộn về mọi mặt. Tiểu Khu không liên lạc được với Sư Đoàn 2 BB nên đã họp các đơn vị còn lại, dưới sự chủ tọa của Đại Tá Đào Mộng Xuân, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Tín. Sau khi thẩm định tình hình chung, tất cả sĩ quan đại diện các đơn vị đồng lòng chấp thuận giải pháp di tản khẩn cấp ngay sau đó.

Kết quả là Trung Tá Hoàng Phổ cùng với Bộ Chỉ Huy Nhẹ ( 6 quân nhân ) và hai Tiểu Đoàn 21 và 37 về đến Thăng Bình sau một ngày di chuyển, và sau khi Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 12 BĐQ đã yên ổn nằm trong căn cứ Hương An từ lâu rồi. Đến lúc đó , Chi Đoàn Thiết Vận Xa mới rời LĐ 12 BĐQ để tăng phái cho Trung Đoàn 56 của Sư Đoàn 3BB.
Sau đó, buổi họp được tập trung vào việc thông báo tình hình chung và tổng kết báo cáo của từng Ban và từng Tiểu Đoàn . Và cuối cùng là nhận lệnh ứng chiến tại chỗ cũng như chờ đợi bổ sung về mọi mặt. Không khí rõ ràng là căng thẳng. Trong ngày, có tin Liên Đoàn nhận lệnh trực tiếp của Tướng Trưởng để cùng với Sư Đoàn 3 khai thông đoạn đường từ Non Nước đi Hội An . Nhưng rồi chờ mãi cũng không thấy gì .

11h00. Điện thoại từ Văn Phòng Liên Đoàn Trưởng gọi đích danh tôi qua trình diện. Trung Tá An ngồi yên tại bàn viết chờ tôi chào kính. Ông có mệt mỏi và xanh xao thấy rõ.
- Bận quá nên tôi quên . Đây là Sự Vụ Lệnh về lại 37 để coi hậu cứ cho Thiếu Tá Gio . Cố gắng nhé .
Tôi nhận Sự Vụ Lệnh rồi trở về ban 4 ngồi thừ người. Đây là mơ ước từ lâu nhưng bây giờ thì đã trễ. Trung Tá An có lẽ chỉ muốn giữ lời hứa với đàn em mà thôi, vì ông dư biết trong điều kiện như hiện nay thì khó có thể nhận lãnh trách nhiệm mới.

Tuy vậy, tôi cũng lội qua hậu cứ của Tiểu Đoản 37, theo đường tắt vòng ngang trại gia binh. Hậu cứ vắng tanh. Không gặp ai quen biết mặc dù chỉ vài tiếng trước đây còn ngồi họp với nhau bên Liên Đoàn. Qua văn phòng của Đại Đội 3 cũng trống trơn. Vào Câu Lạc Bộ thì chỉ gặp những người không quen. Hỏi thăm về Nguyễn Thanh Vân, người về đơn vị sau tôi chừng một tháng, cũng không ai biết đang ở đâu, một người lính cho biết đã thấy Vân theo Trung Sĩ Tuấn, Trung Đội Phó của Vân ra Đà Nẵng từ lâu .

Tôi xuống trại gia binh, định vào thăm gia đình Trung Sĩ Chế Việt, một người bạn văn nghệ, và thăm chị Hương, vợ Thiếu úy Vũ Thành Công, người đã nằm lại trên một ngọn đồi nào đó tại Quảng Tín hai tuần trước. Cả hai nhà đều đóng cửa im lìm. Tôi buồn bã về lại Liên Đoàn, lòng thầm nguyện vài lời kinh cho Phê Rô Vũ Thành Công, người bạn và cũng là người anh đã hết lòng chỉ dẫn tôi mọi điều .
Chiều. Dạo một vòng qua hậu cứ 21 và 39 định tìm Cốc A Sam và Nguyễn Văn Ước, hai người bạn cùng khóa, về đơn vị cùng ngày. Cả hai hậu cứ cũng lác đác người ra, kẻ vào . Không ai biết hai người đồng khóa của tôi ở đâu. Lệnh ứng chiến coi như vô hiệu lực. Gía súng vẫn ngay ngắn nằm im trong các sam, nhưng người cầm súng thì tản mác đâu không thấy. Tình trạng thật đáng buồn .

Tôi như kẻ vô gia cư. Trên nguyện tắc, là đã về lại Tiểu Đoàn 37, nhưng thực tế thì không ai màng tôi muốn ở đâu. Thiếu Tá Gio không có công điện triệu hồi. Ban 1 Liên Đoàn chắc là chưa cắt giảm quân số nên Hỏa đầu vụ vẫn thoải mái “ Mời Thiếu úy ăn trưa “ .Bữa ăn trưa không có tiếng hỏi han, bàn bạc tình hình . Vắng mặt hầu hết mọi người. Không khí thật buồn nản gì đâu!
Vì vậy tôi quyết định ra Đà Nẵng, một mình . Mấy hôm nay nắng đẹp, trời trong, nhưng lòng người thì héo úa. Nhịp sống Đà Nẵng vốn đã vội vàng, sôi nổi, nay lại càng dồn dập hơn, và cuống cuồng hơn bao giờ hết.

Bưu điện ra thông báo ngưng mọi dịch vụ chuyển ngân, bưu phẩm v/v… Tình hình trầm trọng đến vậy sao ? Vậy là lương tháng nằm gọn trong túi, không còn cơ hội gởi chút ít về cho gia đình như thông lệ. Chờ gần một tiếng mới tới phiên gọi điện thoại . Thằng bạn thân lo lắng hỏi han đủ thứ và cho biết Sài Gòn có tin đồn sẽ bỏ Đà Nẵng. Nhờ hắn nhắn tin tôi vẫn bình an đến gia đình và vài lời tâm tình vụn vặt khác, là đành gác máy để còn nhường cho người kế tiếp. Số người chờ gọi điện thoại, chờ gởi điện tín, đứng đông nghẹt cả tiền sảnh, lao nhao và bất an thấy rõ.

Tôi trở ra đường, lòng nặng trĩu. Đâu cần phải chờ SàiGòn tung tin, ngay tại Đà Nẵng này cũng đã nhìn thấy được phần nào cuộc diện. Thành phố hỗn loạn hơn bao giờ hết. Ngoài đường bây giờ lính đông hơn dân. Họ đi thành từng đoàn, từng nhóm, đa số vẫn còn vũ khí. Cướp bóc xảy ra càng ngày càng nhiều hơn. Nhưng Đà Nẵng vẫn gượng sống. Hàng quán vẫn xôn xao. Chợ búa vẫn sô bồ. Sinh hoạt nói chung vẫn như mọi ngày mặc dù tình hình đang đến hồi chung cuộc.
Bước chân đưa tôi dài theo Độc Lập, ra Hùng Vương để hướng về Chợ Cồn . Vừa đi ngang cà phê Diên Hồng, ngay Ty Thông Tin thì gặp Nguyễn Văn Kiệt, anh chàng vừa theo Liên Đoàn 15 BĐQ rút về rừ mặt trận tây bắc đèo Hải Vân.

- Đi đâu lang thang vậy cha. Hai thằng kia đâu ? Kiệt “ Mã Tấu “ hỏi tôi trước.
- Tao đi một mình. Không gặp Cốc A Sam và thằng Ước. Tôi vừa trả lời, vừa bắt tay chào những người ngồi chung với Kiệt. Không ngờ mày cũng biết chỗ này. Hai chị em cô hàng là hoa khôi ở đây đó.
- Tao và mấy thằng em đi lòng vòng chơi. Tình cờ thấy hai em này bảnh quá nên nhào vô luôn. Sẵn dịp ngồi nhìn qua khách sạn Ô Kê mà nhớ hồi tụi mình mới ra nhận đơn vị. Mày còn nhớ không ?
Tôi gật đầu rồi gọi cà phê. Anh chàng trưởng toán Chuẩn úy “ sữa” của gần hai năm trước vẫn không thay đổi: ồn ào , ruột để ngoài da và thoải mái chấp nhận mọi tình huống.
Chúng tôi trao đổi tin tức về Liên Đoàn 15 vừa di tản vào hôm qua, về tình hình của Đà Nẵng của và những bạn cùng khóa.
- Kệ mẹ nó. Tới đâu thì tới. Ai sao mình vậy. Cho tới giờ phút này tụi mình còn nguyên vẹn là đã tốt số lắm rồi. “ Mã Tấu “ nhà ta khẳng khái kết luận .
Hai chữ nguyên vẹn làm tôi chợt nghĩ tới Đại Đội Trưởng của tôi thời còn ở Tiểu Đoàn 37. Khi rút khỏi Kỳ An , ông bị trúng mìn cụt chân, được đệ tử cõng và Tiểu Đoàn Phó chận xe, chuyển thẳng về Đà Nẵng và đang nằm trong Duy Tân . Tôi rủ Kiệt vào thăm Đại úy Vương . “ Mã Tấu “ gật đầu ngay và nói thêm .
- Tao có đọc thư của mày nói về một trong những người hùng trận Sa Huỳnh, kiêm “ Bố Già “ thương mày như con, nên muốn xem mặt ổng cho biết.

17h30 . Quân Y Viện Duy Tân ! Vườn Hoa Tình Thương của Quân Đội. Nơi xoa dịu những nhức nhối cả thể xác lẫn tinh thần của người chiến sĩ . Niềm hạnh phúc vô bờ của những ai đả bỏ lại máu ,thịt, xương của mình ngoài mặt trận . Bệnh viện tối tân đứng hàng thứ nhì của cả nước chiều nay tất bật không kém đường phố ngoài kia. Sôi nổi nhưng trật tự. Thật đáng khâm phục.
Đại úy Vương còn đau và mệt sau cuộc giải phẫu, nên chúng tôi không nói chuyện nhiều , chỉ an ủi và bày tỏ sự thông cảm đồng thời trấn an nhau về tình hình hiện tại. Mãnh hổ một thời, nay chỉ là cọp già ba chân nên không dấu sự lo lắng cho vợ con. Tôi hứa sẽ làm hết sức cho gia đình ông và ngay sau đó cảm thấy xấu hổ vì biết là mình sẽ không giữ được lời .
- Nhưng ít ra mày cũng đã mang tới cho ổng một tia hy vọng. Kiệt “ Mã Tấu “ thở dài khi chúng tôi ra cổng . Hy vọng là liều thuốc bổ về mọi mặt !

Tôi im lặng, trong lòng vẫn còn áy náy. Tép riu như tôi thì làm được gì !? Ngay lúc này tôi cũng là ” Con Bà Phước “ như Kiệt mà thôi. Thấy tôi không vui,” Mã Tấu “ cũng không bắt chuyện. Khi về tới Chợ Cồn mới kéo tôi đi ăn .
Cầu Vồng. Quán cơm bình dân. Con đường Nguyễn Hoàng dẫn về Ga xe lửa, qua Trần Cao Vân, vào Tam Tòa . Hai đứa lội một vòng sau bữa ăn chiều nhưng không tìm được hai người bạn Tiếp Liệu của tôi, với chủ đích là rủ nhau ra quán mà thôi. Người nhà của họ cho biết là hai bạn đó đã không thấy về từ hôm qua.

Lộng Ngọc. Lại là quán cà phê quen thuộc của dạo nào chân uớt chân ráo mới ra Đà Nẵng. Ngồi cầu may xem có tên nào “ tung cánh chim tìm về tổ ấm “ hay không. Rốt cuộc cũng chỉ có Kiệt và tôi ôn cố tri tân cho đến lúc quán đóng cửa .
- Tao hứa với một thằng em là về nhà nó ngủ , nhưng bây giờ thì trễ quá rồi .
- Nhà ở đâu? Tôi hỏi lại.
- Ông Ích Khiêm .
- Xa quá. Thôi, bụi đời đêm nay đi. Mai tính .
Khách Sạn Ô Kê . Lại là Ô Kê ! Một đêm thân tình với mọi thứ trên đời đem ra kể cho nhau nghe . Mới hôm nào cả đám gần 40 chục tên quai chảo quậy tứ tung lúc mới vừa từ Sài Gòn ra . Sau đó là 8 tên thức trắng để sáng chia tay ra đơn vị ngay sau đêm Noel 1973. Bây giờ chỉ có hai đứa chúng tôi nằm rù rì cho quên niềm ưu tư, lo lắng.

Thứ năm 27-03-1975.

Sáng. Chia tay với Kiệt mà lòng bùi ngùi . Hai thằng Sài Gòn gần như thức trắng đêm để bàn loạn đủ mọi điều liên quan tới thời cuộc để rồi chỉ nhìn nhau thở dài. Lại bắt tay chúc bình an như hai năm trước. Lại hẹn gặp nhau, nhưng địa điểm là tại…Sài Gòn !
Hẹn, mà trong lòng rưng rứt, bán tín bán nghi vì…

Đà Nẵng trong cơn hấp hối đã trở thành ngựa chứng. Hỗn loạn đến cùng cực. Tình trạng tồi tệ đến mức rối rắm. Không cách gì vãn hồi được trật tự. Nhà cửa ngoài phố đã có dấu hiệu vô chủ. Quân xa và cơ giới vẫn chạy nghẹt đường. Lại thêm một ngày gượng sống để chờ phép lạ, hay đúng hơn là chờ được di tản vào Nam trước khi địch tràn vào.

Con đường từ quốc lộ vào Phú Lộc bình thường chỉ toàn in bánh xe ôm hay lác đác vài GMC hoặc Jeep ra vào, nhưng sáng nay thì mù mịt bụi cát vì một đoàn quân xa đang từ hậu cứ chạy ra. Không phải chuyển quân, mà dẫn đầu là chiếc Dodge của Trạm Xá. Tôi chua xót nghĩ thầm: không lẽ …
Đúng như tôi dự đoán. Khi về tới Liên Đoàn là nhận được tin Tổng Y Viện Duy Tân đang di tản. Xe ra đón thương binh rồi đưa họ thẳng xuống tàu Hải Quân để vào Sài Gòn trước. Tàu hải quân đậu ở đâu, bến nào ? Không ai biết. Cứ cho xe ra nhận thương binh thì có chỉ thị tại chỗ ngay.
Thiếu úy cóc cắn như tôi mà còn biết là đã tới ngày cáo chung của Quân Đoàn 1 và Đà Nẵng, huống chi các đàn anh cấp lớn hơn .Cho nên tới phiên Liên Đoàn rơi vào tình trạng vô chủ. Cả hậu cứ vắng tanh dù chỉ mới hơn 10 giờ sáng .

Gặp Đại úy Phương tại ban 4 thì được biết sáng nay không có họp gì cả vì Liên Đoàn Trưởng và Liên Đoàn Phó cùng với các ban trực thuộc hành quân đều không thấy đâu . Chắc là đi họp bên Sư Đoàn 3. Các ban khác thì chỉ làm việc cho có rồi mạnh ai nấy chạy lo gởi gấm gia đình trên những chuyến bay cuối cùng rời khỏi Đà Nẵng . Ban 4 thì lo giúp Bác Sĩ Tín di tản thương binh. Các Tiểu Đoàn, Pháo Đội 105 ly và Đại Đội Trinh Sát vẫn án binh bất động, cũng có nghĩa là bất khiển dụng.

Bữa cơm trưa trong phòng ăn chỉ võn vẹn có năm người. Đại úy Phương, Trung úy Long, ban 5, Thiếu úy Hướng, ban tài chánh, tôi, và người Hạ Sĩ Quan ẩm thực. Không có ai muốn gợi chuyện hay bàn luận, kể lể, nên bữa ăn thật buồn tẻ. Hầu như ai nấy cũng chỉ cầm hơi và cố nuốt để không phụ lòng một quân nhân hết lòng với bổn phận và hết tình với quân đội là người đã lo chu toàn hai bữa cơm cho chúng tôi.

- Có gì đâu Thiếu úy. Bổn phận mà. Trung Sĩ Kính cười nhẹ khi tôi ngỏ lời cám ơn sau bữa ăn.
Một vòng hậu cứ của 39 và 21 rồi cả khu gia binh Phú Lộc mà vẫn không tìm được Nguyễn Văn Ước và Cốc A Sam nên tôi lững thững lội ra tận ga Hòa Khánh, thăm gia đình người chủ quán cà phê Hương Xưa.

Quán trưa, người vắng . Anh Quyến, một Sĩ quan Cảnh Sát còn kẹt đâu đó trong Ty Nội An . Tiếp tôi là chị Quyến và Hương, em anh Quyến. Chúng tôi ngồi tại chiếc bàn quen thuộc, trong góc, sát quầy thu tiền. Nơi mà chỉ mới một năm trước đây là chỗ tụ tập của nhóm nhỏ ưa thích văn nghệ đủ mọi thành phần, đủ loại sắc phục trong vùng .

Chiếc bàn có khắc tên những người đã vĩnh viễn ra đi, là nhân chứng của một chuyện tình dễ thư)#417;ng và lãng mạn không thua gì tiểu thuyết, phim ảnh giữa một lao công đào binh, Hồ Huy Đăng và Hương, cô nữ sinh Trung Học Hòa Khánh .

Hồ Huy Đăng, người lao công gốc Tiểu Khu Gia Định, dân nhà giàu ham vui ,thích làm binh nhì hơn đi học khóa Sĩ Quan chỉ vì làm lính thì dễ xin về gần Sài Gòn hơn làm quan , tay đàn ghi ta ngọt như Trung Nghĩa, thầy dạy nhảy của hầu hết những ai thích nhót ở Tiểu Đoàn 37 BĐQ, hai lần trúng đạn khi tải thương tại Phong Thử và Tiên Phước, là linh hồn của ban Văn Nghệ Tiểu Đoàn.
Lần nào về dưỡng quân, anh cũng ra đây ngồi mỗi ngày. Cả đơn vị đều tin tưởng anh nên thả lỏng anh muốn đi đâu thì đi, không hỏi han, dò xét và không sợ anh bỏ trốn, dù biết là người nhà đã có lần vào tận hậu cứ để thuyết phục anh vọt ra Đà Nẵng để xuống tàu người anh rể, một Sĩ Quan cấp tá đang công tác tuần duyên tại vùng Một .

- Dù sao nó cũng có học. Tại gàn bướng và nghệ sĩ quá nên cứ là lính suốt đời.
Thiếu tá Gio đã từng công khai bày tỏ sự thương tưởng của mình đối với một lao công đào binh đa tài, đa năng. Buồn thay, chỉ một ngày sau khi được phục hồi danh dự,cố Binh Nhứt Hồ Huy Đăng đạp mìn banh xác tại Trà Kiệu, cuối tháng 7 -1974, để lại những trái tim đẫm lệ tại Phú Lộc, Hòa Khánh và cả Sài Gòn .
- Hồi đó vui quá. Chị Quyến chép miệng thở dài .
- Ngày nào cũng ca hát tới khuya. Hương cũng gật đầu phụ họa. Mọi người đều nói chưa bao giờ khu này dễ thương đến như vậy.

Tôi cũng góp lời nhắc những chuyện tưởng chừng như không thể nào thực hiện được trong môi trường và điều kiện của đời quân ngũ. Trong một lần dưỡng quân . Nhằm phiên tôi trực Đại Đội nên phải dẫn cả Trung Đội qua nằm bên hậu cứ Liên Đoàn ứng chiến. Tối hôm đó cả nhóm văn nghệ tiểu đoàn hẹn nhau ra Hương Xưa để họp mừng Sinh Nhật của Hương. Kẹt một người cũng mất vui, nên tôi bỏ nhỏ với anh em là nếu có gì cần thì chạy ra quán gọi tôi về ngay.

Buổi họp mặt thật thân tình. Quán cà phê thành sân khấu văn nghệ. Mọi thực khách, từ bạn học của Hương cho tới hàng xóm của anh chị Quyến, vốn là những người lính Sư Đoàn 3, Chi Khu và cả Nhân Dân Tự Vệ trong khu vực, đều hát hò với nhóm BĐQ một cách thân mật và tất nhiên, người vui nhứt là cô nữ sinh vừa tròn 17 tuổi, và nổi bật hơn hết là Hồ Huy Đăng.
Vui quá nên quên cả giờ giấc và ngoại cảnh . Đến khi tan hàng thì tôi điếng hồn khi nhận ra cả đám em út với súng đạn đầy đủ đang cười cười đứng ngay ngoài cửa chờ chúng tôi về chung . Thấy tôi nhăn nhó, người Tiểu Đội Trưởng khinh binh trấn an.
- Chuẩn úy đừng lo. Họ chỉ cần vài người theo tăng cường cho Kiểm Soát Quân Sự thôi , nên ông phó cho tụi này ra đây, cả buổi tối mà nằm treo võng trong đó thì chán chết.
May quá. Đúng như lời anh ta nói. Không có gì trục trặc trong suốt mấy tiếng đồng hồ vui chơi ngoài quán. Thật là một kỷ niệm khó quên !
Tôi từ giả chị Quyến và Hương sau vài lời an ủi về sự lo lắng tất nhiên cho một tương lai mờ mịt. Nói với họ mà cũng như nói với chính mình vì trong hoàn cảnh hiện nay thì ai cũng như ai. Mọi người đều là nạn nhân của thời cuộc. Cách này hay cách khác .
Chiều. Hậu cứ vẫn một nhịp điệu lây lất cho hết ngày. Thưa thớt người qua lại. Chỉ có khu vực Phòng Tài Chánh là còn một số thân nhân tử sĩ ngồi chờ thủ tục giấy tờ.Và quân xa ra vào để lấy nhiên liệu để lo việc chuyển tải thương binh. Các nơi khác đều vắng tanh. Bên Câu Lạc Bộ thì từng nhóm vài ba người ngồi bàn tán công khai tình hình chiến sự. Tôi gặp lại Đại úy Phương tại đây.
Anh Phương ngồi một mình tư lự, tay xoay xoay ly cà phê một cách vô thức trong khi mắt dán vào khoảng trống ngoài cửa sổ kế bên. Thoáng thấy tôi, anh vẫy tay gọi lại ngồi chung bàn .
- Huy còn ở lòng vòng với Liên Đoàn hả ?
- Thì cũng như Đại úy thôi.
- Tôi thì khác. Dù sao cũng còn mấy tấn sắt vô dụng vì chẳng còn đạn, nằm bên kia chưa biết giải quyết ra sao. Còn Huy thì đã hết bổn phận ở đây rồi mà.
Tôi cười, nói đại khái về tình hình bên Tiểu Đoàn 37 và cả hai Tiểu Đoàn còn lại cho anh biết rồi kết luận .
- Hậu cứ chẳng còn gì để bàn giao. Dù có thì cũng chỉ là con số trên giấy tờ mà thôi. Giữ sự vụ lệnh lại làm kỷ niệm còn hơn.
Chúng tôi cùng im lặng hồi lâu. Anh lại nhìn ra cửa sổ, còn tôi châm điếu thuốc, dựa lưng vào tường, thả bâng quơ vài vòng khói trắng, trong đầu trống rỗng. Một lát sau, tôi nghe tiếng anh thở dài .
- Sáng hôm qua …
- Tôi rất thông cảm cho Đại úy. Mọi người cũng nghĩ như vậy. Vã lại, tôi cũng là nạn nhân của “ Bố già “ như anh.
Đại úy Phương nhướng mày, ngạc nhiên, nhưng không hỏi thêm mà chỉ tiếp lời vừa bị tôi cắt ngang.
- Tôi biết Ông An đang đau lắm. Tôi không hận ông ấy đã đánh tôi. Mình là vật tế thần để ông ấy đỡ mất mặt với mọi người. Xem như đó là cách trả ơn cho Quân Đội và gánh cái nhục chung với thượng cấp. Trong hoàn cảnh như hiện nay, nếu tôi là “ Xếp”, thì cũng phản ứng như vậy thôi.
Tâm sự của Đại úy Phương làm tôi suy nghĩ về chính mình trong ngày rời bỏ Tam Kỳ. Và mặc dù vẫn thấy Liên Đoàn Trưởng hơi quá đáng , tôi cũng đồng tình với anh Phương khi nghĩ về nỗi lòng của Trung Tá An .
Câu nói của Đại úy Phương về chuyện trả ơn cho Quân Đội cứ lảng vảng trong đầu sau khi từ giả nhau. Mãi nghĩ ngợi lan man mà không biết tôi đã đi hết chiều dài của Phú Lộc và đang trên đường vào hậu cứ Tiểu Đoàn 37. Nhưng thay vì quẹo phải để tới cổng chánh thì tôi đi thẳng, xuyên qua ngôi làng nhỏ, ngay trước mặt hậu cứ để ra tới biển .


Tôi nằm dài trên cát, dưới bóng mát của hàng dương, nhìn ra khơi. Xa xa là vài chiếc thuyền con đang hướng về chân trời, nơi có những chấm đen chập chờn trong khói sóng. Là tàu Hải Quân như lời đồn hay là ảo giác của hy vọng mong manh ? Mặc kệ . Tôi nhắm mắt, thiếp đi trong tiếng sóng đều đặn vỗ bờ và tiếng rì rào nhè nhẹ như âm nhạc của hàng dương cao, rậm.
Giấc ngủ ngắn nhưng thật say, không mộng mị, đủ lấy lại sức sau mấy ngày biếng ăn, mất ngủ. Nước biển mát lạnh làm tôi tỉnh hẳn khi vốc mấy bụm rửa mặt. Trở ra theo con đường cũ, tôi lững thững vòng qua hậu cứ Tiểu Đoàn 37. Vừa tới cổng thì gặp Nguyễn Thanh Vân và Trung Sĩ Tuấn, làm phó cho tôi một thời gian, bây giờ là Trung Đội Phó của Vân, cùng đi ra.

- Về nhận bàn giao trễ vậy ông. Vân nói đùa. Phải khao đó nha.
Tôi hỏi thăm tình hình thì được biết hậu cứ chỉ còn cái vỏ. Mỗi ngày điểm danh cho có lệ . Chỉ có trực gát là còn quy củ nhà binh, mọi thứ khác, kể cả lệnh cấm trại và ứng chiến tại chỗ coi như đã không còn hiệu lực. Bằng chứng là hai chàng đang trên đường rời hậu cứ để ra Đà Nẵng.
Vân rủ tôi cùng đi. Tôi gật đầu. Cả ba chúng tôi đi tắt xuống khu gia binh, băng qua đám ruộng và khu nghĩa trang cũ của người Hoa để ra Phú Lộc. Chừng nửa tiếng sau là chúng tôi có mặt ngoài Chợ Cồn . Trong những ồn ào của thành phố đang tuyệt vọng, có ba chàng độc thân lang thang, hòa lẫn vào dòng thác ngược xuôi của đám rắn không đầu, của đám cọp không còn móng vuốt .
Một Sư Đoàn Bộ Binh còn nguyên vẹn, hơn một Trung Đoàn Bộ Binh từ Huế vào, Ba Liên Đoàn Biệt Động Quân, Một Trung Đoàn của Sư Đoàn 2, không kể hai Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở vùng Hà Nha, Thường Đức và các đơn vị của Tiểu Khu Quảng Nam, Quảng Tín cùng với những đơn vị và binh chủng khác đều đang tập trung tại Đà Nẵng. Nửa triệu người. Trong số đó có ít nhứt 20 ngàn tay súng còn đủ khả năng tác chiến. Vậy mà Đà Nẵng không có sức kháng cự và sắp rơi vào tay địch. Vì sao !?

Chúng tôi không có thì giờ và cũng không muốn nhức đầu vì những vì viễn ảnh đen tối nên tận dụng thời gian để lòng vòng phố xá . Vui được lúc nào hay lúc đó. Nên lại quán hàng lê la, lại cà phê, bi da cả buổi tối rồi vòng trở lại Phước Tường , tìm đến nhà Trung Sĩ Lộc, một thời cũng làm phó cho Vân.
Trung Sĩ nhứt Lộc “ điếc “ niềm nở tiếp chúng tôi và bày ngay một chầu nhậu dã chiến để “ lãng quên đời “ . Chưa có cuộc nhậu nào “ êm ái “ như lần này vì cả bốn người không ai buồn mở miệng nói, đùa như thường lệ. Chỉ rót cho nhau rồi yên lặng nâng ly.
Cứ như vậy mà uống cho tới khi chị Lộc nhắc mọi người đi ngủ thì cũng đã gần sáng.

Thứ sáu 28-03-1975. 8h00.

Lộc “ điếc” quyết định không vào hậu cứ. Trung Sĩ Tuấn cũng về nhà tận trong Tam Tòa. Chỉ có Vân và tôi đón xe lam vào Phú Lộc dù không biết là sẽ làm gì sau đó.
Lại một ngày dài đang bắt đầu trong hối hả. Đà Nẵng như đang chạy đua với thời gian. Địch gia tăng pháo kích vào Phi Trường, đài Kiểm Báo và căn cứ Hải Quân bên Sơn Trà .
Phố vẫn đông nghẹt người và xe. Vẫn là nỗi hớt hãi như những ngày qua, nhưng hôm nay thì trầm trọng hơn .

Chúng tôi chia tay khi vào tới Phú Lộc. Vân theo đường tắt, băng ruộng vào Tiểu Đoàn 37. Tôi quyết định vào Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn. Vắng ngắt. Chỉ lẻ tẻ một vài người còn ngồi đâu đó trong các văn phòng. Hình như không còn ai muốn làm việc. Câu Lạc Bộ cũng không có ai. Tôi rảo một vòng rồi về lại văn phòng ban 4. Chỉ có Trung Sĩ Năm đang xớ rớ trước cửa .
Tôi hỏi thăm về Đại úy Quỳnh, Trưởng Ban 4, và về cuộc di tản thương binh cả ngày hôm qua. Trung Sĩ Năm lắc đầu .

- Tội nghiệp Ông Quỳnh lắm. Ổng lo đủ thứ. Chạy tới chạy lui với Bác Sĩ Tín để lo cho anh em ngoài Duy Tân. Nhưng khi xuống tới bến phà thì không thấy tàu nào vô được. Tụi nó pháo quá xá. Bên phi trường còn tệ hơn, cũng bị pháo tưng bừng. Chết nhiều lắm. Nghe nói mình xin cho thương binh nằm tạm trong Bệnh Viện Việt Đức để chờ tải thương tiếp. Sáng nay Ổng có vào đây một chút để lo xin thêm xe của Quân Vận rồi vọt ngay về nhà để lo cho gia đình. Công việc ở đây chỉ có tôi. Mấy anh em khác thì cũng ở nhà luôn từ lâu nay rồi.

Tôi nghe nói mà cảm thấy xấu hổ vì mấy hôm vừa qua chỉ biết thở vắng than dài và lòng vòng cho qua ngày giờ. Vì vậy tôi quyết định ở lại ban 4 biết đâu chừng còn có thể làm được chuyện gì đó. Trung Sĩ Năm giao cho tôi mớ công điện mới nhận và những báo cáo mới thảo xong rồi từ giả ra về .
Tôi vừa xem báo cáo vừa quay điện thoại gọi qua hậu cứ Tiểu Đoàn 37, mục đích là thăm Thiếu Tá Gio và giải thích vì sao tôi có Sự Vụ Lệnh mà không về nhận bàn giao.
Bên kia đầu giây là Thiếu úy Tuấn , người tạm thay thế Thiếu úy An để coi hậu cứ từ tháng giêng đến nay .
- Ông Huy ơi là Ông Huy. Đi đâu mất biệt vậy ?! Tuấn reo lên .
Tôi giải thích việc Liên Đoàn giữ tôi ngoài ban 4 hành quân để Đại úy Quỳnh lo cho ban 4 hậu cứ. Sau đó “Xếp “ quên luôn nhu cầu của Tiểu Đoàn 37, mãi cho tới hôm kia mới có lệnh trả tôi về. Tiếc là đã quá trễ .
- Nhờ hồng phúc của ngài, Tuấn đùa, nên tui hưởng nhàn mấy tháng nay. Khỏe chuyện này nhưng nhức đầu chuyện khác huynh trưởng ơi.
Chúng tôi nói thêm vài chuyện nữa rồi gác máy. Người bạn khóa 59 Rừng Núi Sình Lầy, có gốc cỡ cổ thụ vì bố là công chức cao cấp, dân kỳ cựu làm tại Tòa Hành Chánh Tỉnh. Từ lề đường Bạch Đằng, thoải mái buớc xuống sông Hàn là có ghe đưa ngay ra tàu hải quân, vậy mà Tuấn vẫn chung thủy ngồi tại hậu cứ trong lúc chung quanh chẳng còn ai. Thật đáng nể phục.
Có bóng người đến ngay trước cửa . Là Nguyễn Thanh Vân, với ba lô mini đeo một bên vai, trên nắp ba lô là hai trái “ măng cụt “ M26. Lựu đạn tròn khó cầm nhưng dễ lăn.
- Ông đi hành quân hả ? Tôi cười .
- Tui tính đi luôn nhưng nghĩ tới ông nên vô đây từ giã.
Tôi hỏi Vân định đi đâu . Người bạn khóa 6 /72 Thủ Đức nói ngay là xuống Thanh Bình, ra bờ biển tìm ghe đánh cá, mướn họ ra khơi. Cùng lắm là cướp ghe . Tôi hỏi sao không thưc hiện ‎ chuyện này ngay tại làng chài Phú Lộc thì Vân lắc đầu .
- Họ chỉ có ghe nhỏ không đủ mạnh để nhồi sóng, nhứt là khi có đạn pháo kích rớt nổ kế bên. Vã lại quen nhau quá. Làm liều, trở mặt cướp ghe thì …
Vân bỏ lững câu nói, nhưng tôi hiểu. Dù trong hoàn cảnh sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc thì người lính cũng nghĩ đến chút tình quân dân. Huống chi đây lại là những người rất thân quen với Biệt Động Quân từ bao lâu nay.
Tôi biết Vân không còn tiền, vì lương tháng 3 đã xã láng từ lúc còn nằm trong Trạm Xá của Bác Sĩ Tín khi bị sốt rét ở Tam Kỳ , nên móc túi đưa cho anh chàng một ít. Anh bạn gốc Long Xuyên từ chối. Tôi nhét đại vào túi áo của Vân .
- Coi như cho mượn. Nếu về được Sài Gòn ông thì ghé đưa cho bà già tôi.
Vân ngập ngừng rồi gật đầu. Chúng tôi từ giả nhau sau lời chúc bình an và cái siết tay thật chặc. Khi ra tới cửa, Vân bất chợt quay lại hỏi tôi.
- Tụi mình đi chung nha ?! Ông đâu cần phải ở lại đây.
Tôi lắc đầu, không trả lời. Chỉ cười tiễn chân bạn, lòng thầm chúc bình an cho Vân. Người bạn Trung Đội Trưởng đi chưa bao lâu thì có một chiếc Jeep ghé lại. Bước xuống xe là một Trung Tá. Tôi ra cửa chào ông. Vị Sĩ Quan Sư Đoàn 3 cho biết Ông thuộc Phòng Một, vừa chạy một vòng hậu cứ Liên Đoàn .
- Như đi vào chỗ không người. Lính tráng hầu không còn ai. Nơi này cũng vậy. Thiếu úy là sĩ quan duy nhất còn trực văn phòng.
Tôi không giải thích hoàn cảnh của mình, mà chỉ hỏi thăm vị Trung Tá về sự có mặt của ông thì được biết là Sư Đoàn cần nắm chắc khả năng tác chiến của đơn vị, kể cả tăng phái, để có kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng. Ông cho biết đại đơn vị của Sư Đoàn đang từ vùng Đức Dục và Đại Lộc rút về . Mặt trận vùng Nam Ô, và ở phía tây bắc thì hy vọng vào Tiểu Khu và Liên Đoàn 12 BĐQ.

- Nhưng với tình hình này thì coi như tuyệt vọng rồi. Ông thở dài, nhìn quanh một vòng rồi ra xe.
Tôi thừ người ngồi nhìn mớ giấy tờ bề bộn trên bàn, lòng trống rỗng . Một lát sau bỏ ra ngoài đi một vòng khu vực sân cờ . Đã quá trưa nên cả hậu cứ đã vắng càng thêm vắng. Bước chân đưa tôi thả dài qua Câu Lạc Bộ rồi ra cổng chính . Trại gia binh và con đường ngoài Phú Lộc đang rần rần người qua lại. Không thấy ai quen . Cũng không biết phải làm gì nên tôi trở vào ban 4, nằm trên chiếc ghế bố trong góc phòng, định nghỉ mệt một chút rồi đi kiếm gì ăn, không ngờ lại ngủ một giấc ngon lành.
Chiều. Bụng đói khi thức dậy. Lại mì gói bên Câu Lạc Bộ. Cà phê và vài hơi thuốc cho tỉnh táo rồi ngồi đó mà vẩn vơ nghĩ ngợi về tình trạng của đơn vị và tình hình chung . Rối rắm và mù mờ về mọi mặt. Bỏ đi, hay ở lại ?! Chỉ có bấy nhiêu thôi mà lấn cấn, phân vân thật nhức đầu. Sau cùng, tôi trở qua bên văn phòng.

Vừa đi ngang qua khu Tài Chánh thì đã thấy Đại úy Phương và người tài xế của anh . Xe đang nổ máy. Anh Phương mang nón sắt và cả áo giáp như đi hành quân. Thấy tôi, anh xuống xe kéo tôi lại.
- Huy hay gì chưa ?
- Hay chuyện gì, Đại úy .
-Thượng Sĩ Chấn ôm tiền vọt rồi. Bây giờ Ban Tài Chánh trống trơn. Thiếu Tá Bộ cả ngày không thấy đâu .Trung Tá An nghe nói ở miết trong nhà. Hậu cứ bây giờ coi như vô chủ . Huy có muốn đi với tôi không ?
Lần thứ nhì có người rủ đi. Đi đâu ?! Cá nằm trong rọ. Thú kẹt trong chuồng. Lấy gì mà thoát. Và cũng như nhiều người khác, Anh Phương đưa ra một lối thóat, một hy vọng.
- Mình tìm cách qua Bộ Chỉ Huy Hải Quân bên Sơn Trà, hay qua Non Nước may ra có tàu hay ghe đón ra biển.
Nghe cũng có lý, nhưng tôi ngần ngại vì nhiều nguyên do mà quan trọng nhứt vẫn là đơn vị vẫn còn đây. Không thể bỏ đi ngang như vậy. Anh Phương tỏ vẻ thất vọng khi tôi lắc đầu nhưng không nói gì, chỉ đưa tay bắt rồi ra hiệu cho tài xế chuyển bánh. Tôi đứng nghiêm chào anh để tỏ lòng kính trọng một đàn anh vui tánh, hiền hòa với mọi người.
Bên phòng Tài Chánh không còn ai lảng vảng. Nhưng rồi từ đâu không biết, một số quân nhân đến trước cửa nhìn vào, bàn tán xôn xao. Có người còn khẳng định thấy Thượng Sĩ Chấn ôm cặp táp đi về hướng biển Phú Lộc. Người khác thì nói Ông Chấn có bà con làm lớn bên Hải Quân nên hẹn nhau đưa tàu vào đón ra khơi.

Thôi thì đủ mọi thứ tin đồn. Nhưng chắc chắn Thượng Sĩ Chấn không thể mang đi hết số tiền trong két sắt. Hình như lương lính vẫn chưa phát chỉ vì muốn giữ chân họ, nên tiền còn lại chắc chắn phải hơn chục triệu . Không phát lương mà lính không làm loạn thì cũng lạ nên tôi cũng bán tín bán nghi.
Mọi người còn đang ồn ào, lao nhao thì Trung úy Long, ban 5, từ đâu xuất hiện ra lệnh giải tán. Khi chỉ còn lại hai người, anh nói nhỏ với tôi.
- Bố già chỉ thị riêng cho tôi và ông Hòe bằng mọi cách phải đục tủ sắt lấy tiền. Không thể bỏ cho tụi nó lấy xài. Cơm chiều xong là bắt tay vào việc. Huy có thể giúp một tay không. Bí mật. Càng ít người biết càng tốt.

Tôi gật đầu, phần lớn vì tò mò và cũng vì không biết đi đâu, làm gì cho qua đêm nay .
Trung úy Long vui mừng hẹn gặp lại khoảng 7, 8 giờ tối, rồi về khu nhà cư xá Sĩ Quan bên kia đường. Còn tôi định ra Hòa Khánh xem lễ chiều và ghé Hương Xưa giết thì giờ.
Nhưng mới tới sân cờ là gặp Đại úy Hòe. Ông cho biết là cần gấp một số quân xa, càng nhiều càng tốt để lo chuyển gia đình binh sĩ ra bến phà ngoài sông Hàn chờ tàu Hải Quân vào đón.
- Không có Ông Quỳnh ở đây. Huy lo dùm nha. Càng sớm càng tốt.
Tôi gật đầu, không suy nghĩ. Quay điện thoại gọi các Tiểu Đoàn, nói ngắn gọn mọi chuyện. Đi một vòng gom những ai còn lai vãng để phụ mở kho kiểm lại xăng, dầu chờ cấp phát cho đoàn xe .Còn đang đôn đốc nhân sự thì có người nói đã thấy Đại úy Quỳnh đưa đoàn xe Quân Vận vào hậu cứ . Ông đang vào tìm và bàn riêng với Trung Tá An bên khu cư xá .

19h00. Bên ngoài rần rần người đang lên xe. Trong dãy văn phòng của Liên Đoàn chỉ có phòng của ban Tài Chánh có đèn . Các nơi khá đều đã đóng cửa im lìm. Đại úy Hòe, Trung úy Long và tôi ngồi trên băng ghế nhìn tủ sắt đựng tiền. “ Đồ nghề” chỉ có hai cây búa và một cái đục sắt tà đầu. Hơn 10cm bê tông đằng sau lớp vỏ bằng thép, đục như thế nào đây !? Bàn qua tính lại một hồi thì Trung úy Long ra tay trước, mới đầu gõ nhè nhẹ , sợ có ai nghe được rồi tò mò vào xem thì phiền. Nhưng sau đó là tống hết sức. Tiếng kim khí vang rền trong đêm.
-…Mẹ ! Thằng nào mò vô đây tao bắt làm cho biết. Tiền của Quân Đội mà! Chỉ có mấy “ quan “ làm thì bất công quá. Trung úy Long lẩm bẩm. Đau tay thấy mẹ !
Ba người thay nhau hì hục làm đến nửa đêm mà kết quả chỉ mới được một lỗ cỡ chừng trái cam quanh ổ khóa . Chúng tôi bàn nhau chắc là phải dùng claymore thì họa may mới phá được tủ bê tông, nhưng lại sợ náo động cả hậu cứ và gây hoang mang cho những người còn đang chờ di tản ngoài kia.

Thứ bảy 28-03-1975 .

Khoảng 2 giờ sáng, Đại úy Hòe cho biết Trung Tá An có hỏi thăm tình hình “ thụt két “, rồi nói là cứ ráng thêm chút nữa xem sao. Mỏi nhừ và vộp cả hai tay mà chưa phá được lớp bê tông. Chán nản, chúng tôi ra ngồi ngoài sân cho mát. Đến lúc này mới nghe loáng thoáng tiếng vọng của pháo kích. Không biết là địch đang rót vào đâu, rất đều đặn .
Đoàn xe di tản cũng đang vét chuyến cuối cùng . Tin tức cho hay mỗi lần trở ra đường là càng khó di chuyển vì xe cộ lưu thông bừa bãi và đều hướng về phía Sơn Trà, qua ngõ Cầu Trịnh Minh Thế. Ba chúng tôi nhìn nhau . Không ai nói lời nào. Một lát sau lại trở vào tiếp tục “ công tác “.

5h00. Cả khu hậu cứ im lìm. Hoặc là mọi người đã được đưa đi, hoặc Phú Lộc đang ngủ vùi sau một đêm dao động. Mệt, mỏi, thất vọng và bất lực nên chúng tôi bỏ cuộc. Tủ sắt vẫn ngạo nghễ nằm im đó , loang lỡ, lem nhem, nhưng …vô sự !.
Đại úy Hòe sang cư xá báo cáo cho Trung Tá An rồi trở qua tự mình ngồi vào tay lái của chiếc Jeep đang chờ sẵn . Trung úy Long kế bên, còn tôi và tài xế cùng với một “ đệ tử ” ngồi băng sau. Trên xe có đủ vũ khí cho mọi người, kể cả lựu đạn và M79 .
Xe ra cổng. Người lính vẫn còn đứng trong vọng gát nhìn theo. Phú Lộc không có tiếng động. Trên xe cũng im lặng, mỗi người một tâm trạng. Không ai nói với ai lời nào.
Quang cảnh ngoài quốc lộ thật bình yên. Xe cộ lác đác nên Đại úy Hòe phóng thoải mái. Tới Cây Lan rồi vào Đà Nẵng mới bắt đầu đông dần. Tân cảng thì khác. Xe cộ đủ loại đậu loạn xạ . Khó khăn lắm mới lách vào tận cổng.

Người lính an ninh Tân Cảng nhứt định bắt chúng tôi bỏ xe, bỏ súng mới cho vào. Đang căng thẳng thì ông Hòe bảo lên xe rồi quay đầu chạy ra, vượt cầu Trịnh Minh Thế. Tới ngả ba Non Nuớc, vừa quẹo về hướng Sơn Trà thì đã thấy quân xa đủ loại nằm chơ vơ trên đường. Không thể nào chạy tiếp. Xe quay đầu nhắm hướng Non Nước, tống hết ga.

6h30. Ánh bình minh lờ mờ đủ soi sáng cảnh tượng hoang tàn trong Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Vùng 1. Giấy tờ vung vãi đầy đường. Non Nước đã thành một bãi rác với từng nhóm người đang phá tung những dãy nhà tiền chế và kho quân lương của Liên Đoàn 14 BĐQ để hôi của.
Đại úy Hòe chán nản quay xe trở ra. Trạm gát ngoài cổng đã mất bóng người lính đứng trực khi mới vào. Nhìn thoáng qua nhà chờ đợi kế bên thì thấy lố nhố những bóng người với mớ vũ khí không thể lầm lẫn được: B40 và ..AK !
- Chết mẹ ! Việt Cộng !
Đại úy Hòe rít lên trong kẽ răng rồi nhấn ga . Chiếc xe lao vội trở ra, bụi bay mù mịt, bánh nghiến trên đường khét lẹt. Đôi bên không ai nổ súng. Nếu có thì hậu quả sẽ ra sao?
Chúng tôi cùng im lặng cho đến khi trở lại khu Tân Cảng dưới chân cầu Trịnh Minh Thế. Đã không có cách nào chạy sâu vào tận cổng như lúc sáng sớm. Xe cộ bỏ lềnh khênh ngoài đường, chắn cả lối vào vốn rất rộng .
Đại úy Hòe do dự dừng xe , chúng tôi bước xuống nhìn đoàn người đang lũ lượt tay xách, nách mang ,vượt qua cổng để vào bến phà. Lưỡng lự và phân vân một hồi lâu, Trung úy Long đề nghị chạy một vòng qua Quận Nhứt, xuống đại lộ Bạch Đằng cầu may hay về bên biển Thanh Bình tìm ghe.

Đại úy Hòe gật đầu, ra hiệu lên xe. Nhưng tôi chán nản không muốn đi đâu nữa. Ai cũng nhìn tôi ngạc nhiên nhưng rồi chỉ lặng lẽ chào nhau sau vài lời chúc may mắn . Tôi đứng im nhìn theo xe vọt về hướng Đà Nẵng rồi lẫn vào dòng người bước vào Tân Cảng. Không còn bóng dáng người lính giữ an ninh ngoài cổng. Mọi người thoải mái mang vũ khí đủ loại xuống bến phà. Tôi bất giác sờ vào bụng và túi . Khẩu Colt với hai gắp đạn cùng với hai trái “ măng cụt “ làm tôi yên tâm phần nào.

8h00 Tôi chọn đại chiếc xà lan gần nhứt. Vừa ngồi xuống một chỗ trống là đã nghe một câu than thở thật não lòng.
- Chờ từ 2 giờ sáng cho tới giờ này mà không thấy tàu vô kéo ra. Rầu quá.
Như vậy là trước đó đã có người được đón ra tàu hải quân. Và những căn cứ sát biển dễ dàng di tản hơn hết. Còn tại đây và trên sông Hàn thì đành chào thua vì địch pháo chận ngay ngoài cửa biển. Biết như vậy thà ở lại Phú Lộc rồi liều mạng lấy ghe vượt sóng cho rồi. Tôi nhủ thầm, trong lòng nặng trĩu. Đang còn vẫn vơ nhìn qua ngó lại thì có người gọi tên tôi.

Chị Hương từ trong đám đông chen đến kế bên tôi. Vừa nắm tay là chị bật khóc nức nở. Tôi cũng kềm lòng để khỏi quỵ ngã trong lúc này. Nhìn chị tiều tụy và hốc hác làm tôi thấy nhói nơi ngực. Người vợ lính là như vậy. Chịu đựng một cách âm thầm. Chấp nhận mọi nghịch cảnh. Nhưng trong trường hợp của chị và những ai cùng hoàn cảnh thì thật đau lòng .

Xác chồng không nhận được. Nay lại phải chấp nhận đời góa phụ trong lúc cô đơn và đau khổ tột cùng. Tôi không biết phải an ủi thế nào nên chỉ hỏi chị Hương về dự định cho tương lai.
- Thì chỉ mong đừng lọt vào tay tụi nó thôi. Chị trả lời. Đã chạy một lần rồi. Bây giờ lại gặp nữa thì đúng là tận số. Tôi chỉ mong về đến Hố Nai thì xin lễ và phát tang cho anh Công một lượt . Hai, ba tuần nay chỉ biết chầu chực lo giấy tờ mà thôi.
Rồi chị lại bật khóc, làm tôi luống cuống. Nhìn túi xách nhỏ xíu trên vai chị, tôi bùi ngùi nghĩ đến anh bạn thân. Có lẽ hành trang của chị chỉ là mớ hình ảnh kỷ niệm mà tôi đã xem đi xem lại mấy lần trong căn nhà của trại gia binh.

Đang tìm lời an ủi chị Hương thì một tràng đạn dòn dã quét ngang trên đầu. Mọi người hết hồn rạp người trên xà lan. Nhiều tiếng la hét kèm lời văng tục và tiếng chưởi thề vọng lại từ trên bờ .
- Thôi mấy ông ơi . Giờ phút này còn bắn nhau làm gì. Sao không giỏi bắn nhau với Việt Cộng đi.
Một cụ già đã thống thiết kêu lên giữa tiếng lên đạn và tiếng chân chạy rầm rập ,thật gần.
- Ông là Sĩ Quan . Vậy nói với họ một tiếng đi.
Tôi ngẩng dậy nhìn quanh. Thì ra một bà cụ ngồi gần chị Hương đang còn chỉ vào tôi.
- Nói một tiếng đi ông.
Tôi than trời trong bụng. Nhìn lại thì ai nấy đều không có lon lá, còn mình thì vẫ sờ sờ bông mai trên cổ áo. Chết lúc này thì thật là lãng nhách . Tôi vừa lồm cồm ngồi dậy vừa than thầm .
Trên bến là một nhóm quân nhân chừng hơn chục người đang dàn hàng ngang, súng chĩa thẳng ra hướng sông. Sau lưng họ là những người cùng phe đang vào trong kho Quân Tiếp Vụ hôi của . Tràng đạn vừa rồi là để cản bước những ai muốn ăn ké để lôi ra nào là thuốc lá , sữa hộp và những thùng giấy, xa quá không nhận ra là thứ gi.
Tôi bước lên bờ, đang lưỡng lự vì thấy không đáng để dàn xếp gì cả, thì có vài tiếng reo từ phía sau lưng .
- Có đồ chơi đây Thiếu úy .
Quay lại thì thấy một người ngồi trên xe lăn với vũ khí đủ loại vắt ngang bụng .B a bốn người đi theo chung quanh, trang bị như đang ở hành quân, với cả M60 và M79 . Người thương binh cười thật tươi, chìa cho tôi một khẩu M16, băng cong .
- Lâu quá mới gặp lại Thiếu úy.
Là Đồng “ Đen “, do nước da thật sậm nhìn thoáng cứ tưởng là lai Miên hay Mỹ đen . Lê Thành Đồng, 14 tuổi đã nhập băng “ Ngươi Dơi “ nhảy lên xe lô bồi của Mỹ để quơ rồi ném hàng xuống đường. Bỏ học, đăng lính năm 16 tuổi chỉ vì “ … Thích bộ đồ bông và cái mũ nâu. Trông ngầu gì đâu ! “ .
Là tay anh chị kiêm mặt rô của khu Đường Rầy ngoài Đà Nẵng, nhưng cũng là một khinh binh thiện chiến, một đồng đội dễ thương . Binh nhì muôn năm dù đánh trận không thua bất cứ một chiến sĩ xuất sắt nào. Không lên lon được là vì ba gai và thường xuyên trốn trực gát mỗi lần về dưỡng quân tại hậu cứ.

Là thương binh đầu tiên vì đạp mìn trong ngày giải tỏa áp lực địch tại Trà Kiệu, mở đường cho cuộc di hành về cầu Giao Thủy, để từ đó tiến vào Đức Dục , tháng 7-1974.
Đồng “ Đen “ vẫn không thay đổi mặc dù đôi chân bây giờ là chiếc xe lăn. Vẫn nụ cười tươi như một hình thức ngụy trang cho tình cảm bên trong và vẫn là sự hăm hở khi nhập trận. Chỉ có điều …
- Thôi đi mấy ông ơi. Vịêt Cộng tới sát bên đít rồi còn ở đó sanh sự với nhau làm gì !
Tiếng ai đó bất chợt kêu lên thống thiết làm mọi người chùng bước. Và nhóm lính bên kia dường như đã hôi của chán chê, hay nhìn đám đồ bông bây giờ đang hàng ngang cỡ vài chục mạng, nên đâm ra lạnh giò, nên lần hồi tản mác vào đám đông .
Dường như chỉ chờ có thế, đám bạn của “ nguời hùng xe lăn “ ào ạt xung phong vào kho. Theo sau họ là một rừng người, mới vừa rồi còn nép mình thật sát xuống sàn tàu hay trên mặt đường, bây giờ thì tranh nhau vào quơ quào, vơ vét.

Tôi lẵng lặng trở về xà lan, ngồi nhìn về hướng biển rồi Sơn Trà. Không có bóng dáng một con tàu nào trở lại kéo xà lan ra khơi. Hằng ngàn người tuyệt vọng đứng ngồi không yên, đã có một số bỏ lên bờ và tiến dần ra cổng.
Tôi xách khẩu M16 đi dài theo bến phà tân cảng. Cả chục chiếc xà lan đông nghẹt người và người. Ai nấy thấp thỏm, âu lo, trông ngóng. Trong số hằng ngàn người chắc chắn có đồng đội của tôi trong đơn vị, nhưng không ai nhìn nhau . Để làm gì ! Bất quá cũng chỉ là những câu chuyện không đầu không đưôi, hay cùng lắm là trao đổi một vài tia hy vọng mà thôi .
Khi tôi trở lại chỗ cũ thì Đồng “ Đen “ đang làm công việc “ từ thiện “. Anh chàng phân phát toàn bộ “ chiến lợi phẩm” lấy trong kho ra cho mọi người. Thấy tôi đang trờ tới, Đồng “ Đen “ đưa tay vẫy rồi sau đó nhét vào tay tôi hai cây thuốc Quân Tiếp Vụ .
- Thiếu úy hút với tụi em cho vui.
Tôi cám ơn rồi bỏ vào túi mọi đeo trên vai dù Ruby Quân Tiếp Vụ không phải là loại thuốc lá tôi thường hút. Nhìn qua phía nhà kho thì vẫn còn ngừơi ra kẻ vào không ngớt. Có lẽ ngồi lâu, buồn chán nên khi có dịp là họ sẵn sàng khuấy động, huống chi đây lại là dịp may hiếm có để vơ vét của chùa.
12h00 . Nắng trên đầu dọi xuống. Nóng nực và khô khốc. Người chen chúc, chật chội. Cảm giác thật khó chịu khi mà hy vọng theo từng giờ vơi đi. Đang ngồi nhắc chuyện xưa với chị Hương thì bỗng dưng cổng chánh của Tân Cảng mở toang . Một nhóm người ùa vào la toáng lên.
- Tụi nó tới rồi. Việt Cộng đã chiếm Đà Nẵng rồi bà con ơi.
Không phải ong vỡ tổ, mà là sóng vỗ tràn bờ. Hàng ngàn người từ các xà lan túa lên bờ trong nháy mắt. Lại là cơn hoảng loạn tột cùng. Phút chốc lại là cảnh chen lấn ngay tại cổng. Lần này là để chạy trở ra .

Tôi thừ người ngồi tại chỗ. Nhìn mọi người chen chúc mà chua xót nghĩ thầm về màn hài kịch di tản . Còn gì nữa mà hối hả trở ra …nạp mạng ! Trốn cũng chạy mà về cũng chạy thật là mĩa mai làm sao!
Cũng có nhiều người ngồi lại như tôi. Không biết họ đang nghĩ gì. Riêng tôi thì hoang mang cùng cực. Đầu óc trống rỗng, nhẹ tênh như đang mơ, hay đang hiện diện trong một khỏang trống rất mơ hồ. Đã có lúc tôi dựng ngược khẩu súng, nhìn vào nòng sắt đen ngòm rồi nghĩ đến viên đạn đang nằm sẵn trong đó. Chỉ cần bóp cò…
Có ai đó vỗ nhẹ vai tôi. Ngẩng đầu lên, tôi nhận ra vợ chồng Trung Sĩ Trần Sự và hai cháu nhỏ. Người Hạ Sĩ Quan Tiếp Liệu của Đại Đội 3 ái ngại nhìn tôi.
- Mình về đi Thiếu úy.
Về ! Về đâu !? Gia đình tôi ở tận Sài Gòn . Giờ phút này chắc trong đó vẫn hy vọng vào một phép lạ cho Đà Nẵng. Còn ngôi nhà lợp tôn trong trại gia binh cấp cho anh có lẽ chỉ còn tường và vách mà thôi.
Thấy tôi vẫn còn lạc hồn, Anh Sự chụp ngay khẩu M16 quăng xuống sông, rồi lôi tôi đứng dậy . Tôi đi theo anh như cái máy. Mãi đến khi ra tới cổng, tôi mới nhận thấy chị Sự có vẻ mệt vì phải bồng đứa con nhỏ và xách túi khá to. Tôi đỡ lấy cái túi nhưng chị giao cháu bé chừng hai, ba tuổi cho tôi bồng .
Đuờng về Đà Nẵng cũng một nhịp điệu cuống cuồng, lũ lượt, lính tráng có người còn nguyên súng ống còn dân thì tay bế, tay bồng, tay dắt, chạy ngang, chạy ngược, ai nấy cũng đều hớt hãi và thất thần như nhau . Anh Sự cho biết là sẽ đưa gia đình về nhà người chị ở gần ngả ba Cây Lan , và chúng tôi đang hướng về Ông Ích Khiêm , theo đường tắt để đi cho nhanh .
Đang vội vàng rảo bước thì có một chiếc Jeep mui trần chặt cua thập gấp. Trên xe nhảy xuống năm, sáu người, trên tay trái mang băng đỏ, chỉa súng vào chúng tôi và vài quân nhân còn mang vũ khí đi chung hướng. Sau vài phát chỉ thiên, họ đồng loạt hét lớn, đằng đằng sát khí.
- Bỏ súng xuống. Cởi đồ ra. Mau lên. Chống cự bắn bỏ mẹ.
Tôi đang ôm con anh Sự trên tay, chưa kịp thả cháu xuống đất thì ăn một đạp ngang hông, đau điếng .
- Ngoan cố hả. A! Giờ này mà còn khoe lon lá .
Thêm một cú lấn bằng báng súng vào vai làm tôi nóng mặt nhưng chưa kịp có phản ứng thì một người quát lên, giọng nghe rất quen.
- Để đó cho tao. Mày qua bên kia đi.
Gã thanh niên hứ một tiếng rồi bỏ qua bên kia đường hò hét thị uy tiếp. Còn tôi và cả Trung Sĩ Trần Sự trố mắt nhìn người đàn ông có vẻ là chỉ huy của đám thanh niên mang băng đỏ này. Không thể nào ngờ được kẻ đang cầm M16 , mặc thường phục, đeo kiếng đen đang đứng trước mặt chúng tôi lại là Trung Sĩ Nguyễn Văn Bi, mới năm ngoái còn là Tiểu Đội Trưởng khinh binh của tôi,người vỗ tay lớn nhứt mỗi lần nghe tôi hát, hồi Tết được về Duy Tân vì bị sa ruột . Bây giờ là kẻ cầm súng áp đảo chúng tôi .
Bi “ thòng “ kéo tôi qua một bên , nói nhỏ.
- Thiếu úy thông cảm. Tình thế bắt buộc thôi. Tụi nó là Thanh Niên Quyết Tử . Đang hăng máu lắm . Cởi bỏ đồ lính đi Thiếu úy. Ông còn đeo lon như vầy dễ chết lắm. Anh Sự nữa. Lột đồ ra. Mau lên đi.
Tôi lột áo, lòi khẩu Colt nằm gọn trước bụng . Trung Sĩ Bi lật đật chộp ngay.
- Tụi nó thấy là ông kẹt lắm. Có khi mất mạng là khác.
Không có áo thay, tôi đành ở trần đứng xớ rớ không biết làm gì. Lại có tiếng la hét, chưởi thề bên kia đường . Lại súng nổ .Hai đứa bé rúc vào lòng mẹ khóc tấm tức. Chúng tôi nép sát vào cổng sắt của căn nhà ngay góc phố, dù biết là đạn không nhắm qua bên này. Trung Sĩ Bi nhìn dám “ quyết tử” rồi quay lại lùa chúng tôi rẽ qua góc phố .
- Anh Sự và Thiếu úy đi lẹ lên. Mau đi.
Chúng tôi dắt díu nhau đi sau cái vẫy tay kín đáo của người đồng đội cũ. Vừa khuất sau vài căn nhà thì lại nghe tiếng la hét của mấy tay ” quyết tử ” bắt bỏ súng, cởi đồ . Nhưng lần này thì có tiếng chưởi thề đáp trả .
- Bỏ súng cái con…
Và ngay sau đó là súng nổ liên tục. Người chạy tán loạn, hãi hùng . Khi im lắng thì tôi lóng nhóng định trở lại xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng Anh Sự đẩy tôi tiếp tục chạy theo chị Sự và hai đứa nhỏ. Thật tình , tôi chỉ muốn biết người đồng đội cũ ra sao mà thôi.
Suốt trên đường về chỉ thấy toàn là đám băng đỏ, cầm loa phóng thanh , chạy xe lòng vòng thành phố kêu gọi “ ngụy quân “ buông súng, rồi trấn an bà con và ca ngợi “ giải phóng “. Không thấy một bóng dáng Việt Cộng chánh hiệu nào cả .

15h00.Mãi đến khi về tới Cây Lan mới gặp vài nhóm “ Nồi niêu soong chảo” đội nón tai bèo, mang dép râu ngơ ngác nhìn phố xá hai bên. Thì ra chỉ là đám hậu cần của Mặt Trận quảy gánh vào trước. Địch sợ mắc bẩy như hồi Mậu Thân nên để cho đám “ quyết tử ” ra mặt trước, rồi tới đám nhà bếp dọn đường để nếu lỡ xảy ra chuyện gì thì bọn chính quy vẫn nguyên vẹn .
Thật là đau đớn và mỉa mai làm sao! Đà Nẵng của khí thế hừng hực lúc chào đón Thủy Quân Lục Chiến Mỹ 10 năm trước, và của một thời oanh lịêt, vàng son, đã bị đám đàn bà, con nít chiếm cứ một cách êm thấm. Mọi sự diễn ra như trong một giấc mơ .Và trong những mờ ảo của hình ảnh và sự vật chung quanh là cờ đỏ sao vàng cùng với cờ Mặt Trận xuất hiện đầy trên các dãy phố. Mau quá! Và cũng lạ quá ! Chỉ mới mấy tiếng đồng hồ thôi mà đã phất phới rợp trời.
Chị của Trung Sĩ Sự nghẹn ngào khi mở cửa cho chúng tôi vào nhà . Sau những giọt nước mắt mừng mừng, tủi tủi, là những tiếng than vắn, thở dài, không biết ngày mai sẽ ra sao. Buồn bã và tuyệt vọng tới mức không ai muốn ăn uống gì cả .

Khi cởi bỏ chiếc quần lính tôi mới nhớ là còn hai trái lựu đạn M26 trong túi. Anh Sự lấy gói chung với giày bốt, bỏ vào bao rác rồi ném đại ra đường. Chúng tôi đứng ngay ngoài cửa nhìn bâng quơ một vòng. Ngoài đường lại đông nghẹt người qua lại. Lần này, xen lẫn với y phục dân sự là nón cối, mũ tai bèo và kaki Nam Định. Đà Nẵng đã thật sự rơi vào tay kẻ địch.

Người dân, sau những ngày phập phồng, sợ hãi, đã phần nào tỉnh táo trở lại mặc dù vẫn còn dáo dát tìm nhau sau những trốn chạy bất thành. Đà Nẵng vẫn đang nhốn nháo, phân vân. Nhưng lần này là do sự hiện diện của những người mà trước đó một ngày còn là mối đe dọa nặng nề .
Đêm. Vẫn là nỗi thao thức triền miên cho một tương lai bất định. Buồn bã và trống rỗng trong đầu. Không ăn gì mà vẫn thấy no. Mệt nhoài sau một đêm thức trắng và một ngày căng thẳng mà vẫn không thấy buồn ngủ. Trung Sĩ Sự và tôi ngồi ngoài phòng khách hút thuốc liên tục.
Chúng tôi ngồi im lặng , mỗi người một dòng suy nghĩ trong khi cả nhà đã ngủ yên ( hay làm bộ ngủ yên ? ) từ lâu. Tôi cố nhớ lại cả ngày hôm nay và thầm cầu chúc bình an cho những người thân thương không biết đang làm gì, ra sao, nhứt là sự cô đơn của chị Hương và sự trở cờ của người đồng đội đã từng vào sanh ra tử với tôi trước đây.

Càng nghĩ tới Trung Sĩ Bi, tôi càng thấy đau cho số phận của đơn vị và của những người lính miền Nam . Bỗng dưng tất cả đều buông xuôi để bọn nằm vùng nổi lên nắm lấy cơ hội và dọn đường cho đám bộ đội nhởn nhơ tiến vào thành phố như đi ngắm cảnh giữa chỗ không người.
Không ai có dự định gì cho ngày mai hay tương lai. Gia đình anh Sự sẽ ở lại đây vài hôm để thăm dò tình hình . Còn tôi thì chưa biết sẽ làm gì, đi đâu . Có lẽ sẽ ghé qua nhà bạn bên Trần Cao Vân hay Nguyễn Hoàng, hoặc lần mò tìm cách ra biển rồi tới đâu thì tới.

Vẫn còn phập phồng, hoang mang, nên trong lòng cứ như thắt quặn từng cơn . Rồi lại nghĩ tới Sài Gòn, tới gia đình và những người thân . Mọi người đang làm gì. Buồn quá . Phải không Ba, phải không Má. Đau quá phải không các bạn của tôi ơi !?

Phước Long mất , cả nước để tang. Cao nguyên mất, mọi người bàng hoàng . Bây giờ Đà Nẵng và cả Vùng 1 cũng không còn . Có bao nhiêu giọt lệ nhỏ xuống để tiếc thương phần đất đã lọt vào tay địch. Hôm nay là Đà Nẵng. Ngày mai đến lượt nơi nào. Thì hãy đợi ngày mai. Còn bây giờ là đêm dài vô tận . Đêm của Người Lính tan hàng, tức tưởi. Đêm của Đà Nẵng buồn thiu trong ngày đầu thay đổi chủ. Than ôi !!!

HUY VĂN

( Để nhớ những ngày sau cùng của Liên Đoàn 12 BĐQ và của Thành Phố Đà Nẵng.
Kính dâng hương linh Trung Tá Nguyễn Văn An, Quyền Liên Đoàn Trưởng, và Chiến Hữu các cấp thuộc Liên Đoàn 12 BĐQ )

Ghi chú bổ sung :

Sáng ngày 29-03-1975,vào lúc 9 giờ , Thiếu Tá Hồ V Hạc( K19 VBQG ) Tiểu Đoàn Trưởng TĐ39/ LĐ12 BĐQ ,đã tập họp toàn bộ Tiểu Đoàn, gồm đủ cả 4 Đại Đội, và tuyên bố giải tán đơn vị sau khi cho biết là ông đã liên lạc với các cấp, hàng dọc cũng như hàng ngang. Ông có khuyên quân nhân trực thuộc không nên mang theo súng đạn theo người vì không còn cần thiết và vì an nguy của cả vợ con binh sĩ . Sau cùng, ông cho lệnh xuất kho để phân phát lương thực và những gì cần thiết cho toàn thể mọi người.
Liên Đoàn 12BĐQ chính thức tan hàng ngày hôm đó, sau 9 năm góp mặt trong cuộc chiến bảo vệ phần đất của miền Nam tự do.

[/SIZE] NGÀY THỨ 15 (TRONG LOẠT BÀI 52 NGÀY ĐÊM 1975 MẤT NƯỚC)


NGÀY 24-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 - THỪA THIÊN HUẾ

Lúc 6 gìờ chiều ngày 24 tháng Ba, Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Thi bắt đầu di tản toàn bộ lực lượng phòng thủ Huế. Tất cả các đơn vị tại phía bắc và phía tây Huế đưọc lịnh tập họp tại Tân Mỹ, một cảng nhỏ nằm về phía tây bắc Huế, vượt qua một kênh hẹp để tới Phú Thuận, và di chuyễn về phía tây nam xuôi xuống đảo Vĩnh Lộc. Các đơn vị dự trù sẽ vượt qua cửa Đầm Cậu Bảy bằng một cầu phao do Công Binh bắt sẵn, di chuyễn dọc theo ven biển tới QL1. Từ đó họ sẽ vượt đèo Hải Vân về Đà Nẵng. Tất cả các chiến cụ nặng gồm chiến xa, xe tải, trọng pháo đều được lịnh phá hũy tại chỗ. SĐ 1BB được giao trọng trách bảo vệ cuộc triệt thoái đã dàn quân tại quận Phú Thứ đề làm một tuyến chặn lực lượng truy kích của Băc quân.

Khi dân chúng Huế biết được lệnh rút lui này, họ đã đổ xô về Tân Mỹ, rời khỏi Thừa Thiên bằng mọi phương tiện tàu thuyền tìm được ở đây. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1 của Tướng Thi đặt bản doanh tại Tân Mỹ, cùng với Bộ Tư Lệnh SĐ TQLC, và Bộ Chỉ Huy LĐ147TQLC. Tiểu đoàn 7 TQLC án ngữ bảo vệ Cảng và an ninh cho Bộ Tư Lệnh QĐ, và SĐTQLC.

Lúc này lực lượng SĐ 1 BB rút lui khỏi khu vực Truồi- Núi Bóng. Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân, thay thế SĐ1 BB ,trấn giữ các vị trí tại sông Truồi, lui quân về Phú Bài sau khi bị thiệt hại nặng trong các trận đụng độ đẫm máu với lực lượng tấn kích của Bắc quân. Trung Đoàn 54BB triệt thoái khỏi khu vực Mõ Tàu, lui về căn cứ Eagle, phía tây nam Huế, gần QL1. Trung Đoàn 3 BB rút khỏi các vị trí tiền tiêu tại Sơn Huệ Trạch về Nam Hòa, phía nam Huế. Trung Đoàn 51 BB lui về phía tây Huế, và Trung Đoàn1 BB rút về từ Núi Bóng đóng quân quanh vòng đai thị xã Huế cùng Bộ Tư Lệnh SĐ.

Trong khi cuộc triệt binh chiến thuật đang tiến hành, một phái đoàn gồm những- vị-khách-không-mời của Bộ Tỗng Tham Mưu từ Sài gòn ra thẳng Tỗng Hành Dinh của Tướng Trưởng, mang mệnh lệnh bốc SĐTQLC khỏi Vùng 1 ngay lập tức để về bảo vệ thủ đô Sàigòn! Tướng Trưởng quyết liệt phản đối quyết định này, viện lẽ ông không thể nào bảo vệ được Đà Nẵng nếu SĐTQLC rút đi. Phái đoàn TTM khuyên ông bỏ Chu Lai, đưa SĐ2 BB về phòng thủ Đà Nẵng. Tướng Trưởng cho lịnh rút SĐ2BB khỏi căn cứ Chu Lai, nhưng ông vẫn báo cho phái đoàn cao cấp của Bộ TTM hay, Đà Nẵng sẽ không bảo vệ được nếu không còn SĐ TQLC. Một tin thật buồn đến cùng lúc với ông, các lực lượng tan tát còn lại của SĐ 2BB, đã không còn đủ hiệu năng tác chiến nữa !



NGÀY 24-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 – THỊ XÃ TAM KỲ


Ngày 24 tháng Ba, chính quyền trung ương và điạ phương cố gắng di tản thưòng dân tị nạn mà con số giờ đã lên đến 400,000 về phiá nam bằng mọi phương tiện tàu thuyền có được. Tình hình chiến sự khả quan hơn, với những cuộc tấn công của Bắc quân vào Quãng Nam đã bị các đơn vị thuộc SĐ3 BB và lưc lượng diện địa chận đứng. An ninh tại thị xã Đà Nẵng tương đôi ổn định so với các nơi khác thuộc QK1.

Tại tây nam Tam Kỳ, Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 5BB, liên tục đụng nặng với quân chính qui BV từ ngày 12 tháng Ba. Tiểu Đoàn 2 BB khởi đầu cuộc hành quân với quân số 350 người, đến ngày 22 tháng Ba, đơn vị này chỉ còn khoãng 130 người. Tướng Nhựt cho thay thế tiểu đoàn này với Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 4BB; đồng thời cho dàn toàn bộ Trung Đoàn 4 BB, tăng cường bởi hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 5 BB và một chi đoàn chiến xa, tại khu vực tây nam Tam Kỳ. Tiểu Đoàn 6,Trung Đoàn 6BB, được gởi tới Chu Lai để tăng cường phòng thủ căn cứ này. Riêng Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân vẫn nằm án ngữ bảo vệ vòng đai phía tây bắc Tam Kỳ.


NGÀY 24-3-1975 CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 - TẠI MẶT TRẬN TAM KỲ

Ngày 24 tháng Ba, Bắc quân bắt đầu tấn công thị xã Tam Kỳ. Đặc công địch xâm nhập trung tâm thị xã vào buổi sáng, phá hủy nhà máy điện Tam Kỳ. Pháo binh địch bắn cấp tập dọc theo tuyến phòng thủ của quân ta, và tới trưa, chiến xa và quân bộ chiến tùng thiết địch đã xuyên thũng tuyến phòng ngự của một tiểu đoàn ĐPQ và Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 5 BB. Tới chiều tối, thị xã Tam Kỳ thất thủ. Tướng Trưởng ra lịnh cho Tướng Nhựt rút hết lực lượng thuộc SĐ 2 ra khỏi Tam Kỳ, lui về phòng thủ Chu Lai. Nhưng lúc này, Tướng Nhựt không còn nắm được tình hình cũng như các đơn vị dưới quyền ông nữa! Ông cố gắng gom số binh sĩ còn lại của Trung Đoàn 4 BB, đưa về Chu Lai ngay đêm hôm đó. Hai tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 5 BB tan tát trong cuộc đụng độ với Bắc quân cũng được gom lại, di chuyễn vê phía nam. Các đơn vị thuộc LĐ 12 BĐQ trấn gìữ vòng đai phía tây bắc Tam Kỳ, bị thiệt hại nặng, buộc phải rút lui về căn cứ hỏa Lực Baldy, ngay ranh giới tỉnh Quãng Nam, cùng với bộ tham mưu của Tư Lệnh Phó SĐ 2 BB. Tướng Trưởng lập tức cho lịnh di tản tất cả các lực lượng tại tỉnh Quãng Ngãi về Chu Lai để tăng cường phòng thủ căn cứ này. Trong lúc đó, đặc công CS phá sập một cây cầu quan trọng trên QL1, đoạn đường từ Quãng Ngãi về Chu Lai.



NGÀY 24.3.1975: CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 1 - QUẢNG NGÃI

Cũng trong ngày 24 tháng 3, Cộng quân bao vây tỉnh lỵ Quảng Ngãi, tối cùng ngày, các đơn vị đồn trú tại thị xã Quảng Ngãi và khu vực phụ cận được lệnh rút quân về Chu Lai.

Trong khi tất cả các lực lượng của QĐ 1 - QK 1 đang tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phía bắc thành phố Huế và phía nam Chu Lai thì một bức điện của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu gửi đi cho Bộ Tư lệnh QĐ 1 - QK 1, chỉ thị Tướng Trưởng cho rút toàn bộ quân tại Huế và Chu Lai về tập trung tại Đà Nẵng để tổ chức tuyến phòng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị, Tướng Trưởng ra lệnh cho SĐ 1 BB và các đơn vị tại Huế rút về Đà Nẵng. Theo kế hoạch rút quân này, SĐ 1 BB cùng các đơn vị thống thuộc và tăng phái phải di chuyển quân về cửa Tư Hiền và cửa Thuận An. Hải Quân và Công binh sẽ lo nhiệm vụ làm cầu đường. Sau đó SD TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ được chở bằng tàu. Bộ Tư lệnh Tiền phương QD 1 sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này.




NGÀY 19-3 ĐẾN NGÀY 24-3-1975 TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 2 - BÌNH ĐỊNH


Tướng Niệm với vỏn vẹn 2 trung đoàn còn lại trong tay, và không còn lực lượng trừ bị, đã ra lịnh cho các tiểu đoàn bộ chiến của ông cố giữ vững những vị trí chiếm được, sau khi lực lượng SĐ22 BB không thành công trong nổ lực khai thông đèo An Khê. Trong lúc đó, cuộc triệt binh xuôi đông của các đơn vị QĐ 2 đang tiến hành trên LTL 7B. Tới ngày 19 tháng Ba, Bắc quân đã kiểm soát được mạn đèo phía Tây dẫn vào vùng phụ cận của An Khê. Ngày 22 tháng Ba, Tiểu Đoàn 5, Trung Đoàn12 BV tiến vào An Khê. Mọi sự kháng cự của lực lượng phòng thủ tại đây chấm dứt. Hơn 5000 thường dân chen chúc trên những hưong lộ xuôi nam, cố gắng tìm đường thoát hiểm về Qui Nhơn.

Ngày 24 tháng Ba, Trung Đoàn 42 BB triệt thoái dọc theo đường 19, phía đông Bình Khê, và Trung Đoàn 41 BB triển khai lực lượng phòng thủ Bình Khê.

Cùng ngày 24 tháng Ba, Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào Bình Khê, đồng thời bao vây, cô lập hai Trung Đoàn 41 và 42, SĐ 22 BB đang phòng thủ bảo vệ quận lỵ này. Các Trung Đoàn 141, và 12 thuộc SĐ3 BV ào ạt tiến về phía đông hướng Phù Cát. Mặt Trận B3 địch cho điều thêm Trung Đoàn 95 B từ Pleiku, tiến về phía đông, dọc theo QL19, để bắt tayTrung Đoàn 2 chính qui Bắc Việt, phối hợp tấn công nhằm tiêu diệt Trung Đoàn 42 BB, đang dàn quân bảo vệ phía đông quận Bình Khê. Nhưng Trung Đoàn 41 và 42 BB không để địch quân kịp thực hiện ý đồ, đã phá vở vòng vây của quân BV, rút lui về Qui Nhơn cùng với hơn 400 binh sĩ ĐPQ được trực thăng cứu thoát từ đèo An Khê ngày hôm trước. Khi lực lượng thụộc hai trung đoàn này đang đào hầm hố, cũng cố vị trí phòng thủ Qui Nhơn, thì Sàigòn cho lịnh di tản những đơn vị còn lại của SĐ 22BB.



NGÀY TÀN CUỘC CHIẾN (Phần II) – TUY HÒA VÀ CON LỘ MÁU

Tác giả/Nhân vật: Vĩnh Hiếu

Riêng tặng cho cố Trung Tá Khưu Văn Phát, nguyên Phi đoàn Trưởng phi đoàn 215, Thần Tượng, người đã đề nghị và khuyến khích tôi viết bài Tuy Hòa và Con Lộ Máu khi anh đang còn hiện hữu trong cuộc đời nầy .

Một nén hương thắp đến cho vong hồn anh được an vui nơi vùng trời miên viễn .

Vĩnh Hiếu

Phần mở đầu:

Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 14 tháng 3 năm 1975, trong cuộc họp khẩn cấp của các tướng lãnh cao cấp và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Cam Ranh đã đưa đến quyết định triệt thoái tất cả chủ lực quân của Quân Đoàn II và tất cả chiến xa, pháo binh cũng như máy bay ra khỏi Pleiku và Kontum. Lệnh triệt thoái được giữ kín trong vòng bí mật giữa những cấp chỉ huy Quân đoàn, để tránh sự hoang mang cho tầng lớp hành chánh cũng như dân chúng địa phương. Phần còn lại của các lực lượng Địa Phương Quân và các cơ sở hành chánh vẫn tiếp tục làm việc với cấp tỉnh trưởng cũng như các cấp quận trưởng, như không có gì thay đổi (!).

Con đường cho cuộc triệt thoái lịch sử này đã được chọn là con đường hoang phế Liên Tỉnh Lộ 7B.
Từ Pleiku theo con Quốc lộ 14 về hướng Ban Mê Thuột khoảng bốn mươi cây số sẽ gặp đầu mối đường Liên Tỉnh Lộ 7B. Ngã ba đường này thường được gọi là “chĩa ba” Mỹ Thạnh. Từ đây, con lộ 7B dài hơn hai trăm cây số xuyên qua vùng rừng núi hiểm trở, đi ngang qua thị xã Phú Bổn (Cheo Reo) và huyện Phú Túc trước khi đến Tuy Hòa. Con đường đất này uốn lượn theo những ngọn đồi cao, đôi khi ôm dài theo mé bờ sông hay băng ngang những con suối cạn; có những đoạn, đường đã bị sụp lở vì bị mưa xoi mòn hay cây cối chắn ngang lối đi. Ba chiếc cầu chính trên con lộ này là Phú Thiện (50m), Lê Bạc (600m) và Cà Lúi (40m), lâu ngày không sửa chữa tu bổ, hư hao, gãy đổ…và đây là con đường cho hàng trăm ngàn người và gần bốn ngàn chiếc xe đủ loại, đủ cỡ, ngay cả cho những chiếc chiến xa M-48 nặng gần năm chục tấn đi ngang qua.

Đêm 16 tháng 3/ 75 tất cả lực lượng của Quân Đoàn II hơn cả trăm ngàn quân nhân đủ mọi thành phần cùng hàng ngàn quân xa và chiến xa hạng nặng được lệnh di chuyển. Cuộc triệt thoái âm thầm bất ngờ được êm xuôi trong đêm đầu tiên cho đến sáng hôm sau. Khi tin đồn về cuộc lui quân tới tai quần chúng địa phương, dân chúng hoang mang, hốt hoảng tột cùng, cả thành phố vội vã ùa chạy theo đuôi đoàn quân với bất cứ phương tiện di chuyển nào sẵn có trong tay. Một cuộc triệt thoái hỗn loạn bắt đầu…

Nguyên tắc căn bản của một cuộc lui quân, phần đoạn hậu tối thiểu phải có một lực lượng đủ khả năng chặn đường truy kích hoặc làm chậm bước tiến của địch quân nếu bị truy đuổi, để bảo vệ cho sự an toàn của đoàn quân. Mỉa mai thay, phần đuôi của đoàn quân này là hàng trăm ngàn người dân vô tội, tất tả bám theo mang trên tay chỉ là những gói áo quần hay những đồ cần thiết tối thiểu.
Con đường lộ hiểm trở, đổ nát này đã thành một con lộ kinh hoàng, một dòng sông của xác người và máu. Những cái chết kiệt lực vì đói, khát, thời tiết ngày nóng đêm lạnh, của những trận mưa pháo, địch quân ngày đêm rót vào đoàn người không ngưng nghỉ.
Một ký giả lão thành Nguyễn Tú đã viết lại:

Thật thương tâm khi phải mục kích cảnh người dân không có khả năng di tản bằng xe hơi, xe vận tải, hay bất kỳ phương tiện chuyên chở nào có được. Họ thật cơ cực, phải di tản bằng đôi chân, và họ chiếm đa số, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người lớn tuổi, đi tất tả như chạy, không được dù chỉ một giọt nước để làm dịu cơn khát như cháy cổ. …

Không thể nào đếm được bao nhiêu trẻ em đã ngã xuống trên đường đi, bao nhiêu cụ già bơ vơ phải đứng lại dọc đường, không còn cất bước đi được nữa, và còn bao nhiêu người khác phải chịu đựng đói khát trên suốt chặng đường tìm đến Tự do và Dân chủ.

Một sĩ quan biệt động bảo tôi: “Lần này, tôi không thể nào còn nhìn thẳng vào mặt đồng bào mình lần nữa.”
Một anh binh nhì nói: “Thật khốn kiếp, chúng ta rút lui không hề kháng cự. Tôi thà chiến đấu, rồi chạy trốn nếu thua và tôi chấp nhận như vậy.”
Một Đại Úy Không Quân than: “Thật thảm thương, nhất là khi nhìn lại Pleiku, giờ chỉ còn là một thành phố bỏ hoang. Chỉ còn thấy lửa cháy khắp nơi. Tôi buồn quá.
“Tôi ngạc nhiên quá. Hãy nhìn những con người này, những trẻ em này. Thật khốn khổ, đáng thương quá!”, một người lính khác nói thêm. …


Dưới ngòi bút của nhà văn Phan Nhật Nam đã mô tả:

Cuộc di tản lớn quá, mối đau thương dài đặt trên hai trăm cây số đường núi với hai trăm ngàn người dân thường đi từ Kontum, Pleiku… Trời cao nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi, lo âu, tuyệt vọng, lính gục ngã trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ trên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời ? Còn biết kêu vào đâu ? Với ai ?

Nhà văn Phạm Huấn đã viết:

Liên Tỉnh Lộ 7 Pleiku-Phú Bổn-Phú Yên con đường máu dài 300 cây số đã là nơi chôn vùi hàng ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội.
Thật kinh hoàng, khủng khiếp. Biển người và biển máu.


Và sau cùng một nhân chứng trong đoàn người khốn cùng đó đã viết về những chiến sĩ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa:

10 phi tuần phản lực A 37 đánh bom CBU và Napalm yểm trợ cho đoàn quân triệt thoái ngày 24-3-1975 sau đó đã được thực hiện đúng như Đại Tá Thảo, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Không Quân Phan Rang “hứa” với Tướng Phú. Những phi công anh hùng đã khắc phục, chế ngự mọi hiểm nguy, mọi trở ngại kỹ thuật, thời tiết và sự an toàn cho chính bản thân mình; để cứu đồng bào và các chiến hữu anh em. Những phi công cảm tử anh hùng của QLVNCH đã bay xuất trận hôm ấy trong tinh thần của những hiệp sĩ. Trên vùng trời Phú Yên lúc 17 giờ ngày 24-3-1975, khi những cánh đại bàng xuất hiện “họ“ thật sự là những cứu tinh, là những người đã mang theo sự sống cho Đoàn người, Đoàn quân phía dưới. Như hàng trăm ngàn đồng bào và các chiến hữu khác có mặt hôm đó tại Liên Tỉnh Lộ 7, tôi muốn được bày tỏ sự kính phục đặc biệt và ca ngợi những phi công anh hùng này

Những điều đã được mô tả chỉ là một giọt nước mắt trong đại dương thống khổ của tất cả những ai đã đi trên con lộ này. Hàng vạn người dân vô tội đã bỏ mạng cũng như hằng vạn những chiến sĩ đã gục ngã dưới lằn đạn địch quân mà chưa hề có cơ hội để chống trả. Tất cả đó là hậu quả của một quyết định vội vã, sai lầm của cấp lãnh đạo.

Súng đạn và bánh mì

Tám giờ sáng, tại Không Đoàn 62 Chiến Thuật những chiếc máy bay đủ loại bận rộn chuẩn bị rời phi trường. Vừa cất cánh chiếc trực thăng võ trang ra khỏi phi đạo, tôi cho con tàu giữ ở cao độ thấp bay dọc theo ven biển Nha Trang hướng về phía bắc, trực chỉ thành phố Tuy Hòa. Sáng hôm nay nắng đẹp, những giải mây như lụa trắng nhẹ nhàng treo lơ lững trên bầu trời trong xanh. Trên mặt biển mênh mông lấp lánh như một tấm gương bạc khổng lồ, những chiếc thuyền đánh cá cỏn con nuối đuôi nhấp nhô hướng về phía chân trời. Ngoài khơi lác đác vài hòn đảo một màu xanh thẩm đang im lìm tắm nắng mai.

Ngồi trên chiếc ghế bay từ căn phòng lái tôi lặng yên thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời của miền duyên hải, chiêm ngưỡng một không gian diễm lệ trữ tình của quê hương. Trong tiếng nổ đều đặn của động cơ cùng tiếng chém gió của cánh quạt quen thuộc từ khoảng không gian nhỏ bé này, tôi cảm thấy mình như là một cánh chim tự do đang xỏa cánh bay lượn trên vòm trời thân yêu. Cho dù mỗi ngày phải đương đầu với hiểm nghèo, với cái sống chết, với phong sương gian khổ tôi thấy mình vẫn còn được may mắn và hạnh phúc hơn nhiều người trai cùng thế hệ. Nhưng từ khi Ban Mê Thuột đột nhiên rơi vào tay địch quân, tâm tư tôi bắt đầu lo ngại và hoài nghi về cuộc chiến, viễn ảnh chiến thắng quân thù mỗi lúc một xa vời. Thời thế đã đổi thay quá nhanh, tôi vẫn chưa chấp nhận được tình huống của thực tại, những tư tưởng bi quan, yếm thế thường lẩn quẩn trong đầu óc tôi. Rít dài hơi thuốc phà vào khoảng không gian trước mặt, tôi trầm ngâm, suy tư…



-Chút nữa mình đáp Tuy Hòa hay bay thẳng ra vùng luôn vậy?
Trong intercom đột nhiên câu hỏi của Thiếu úy Nguyễn Đức Liên đưa tôi trở lại với hiện tại. Tôi quay qua nhìn người bạn đồng nghiệp, rồi trả lời:
-Chắc mình ghé phi trường Đồng Tác đổ thêm xăng và liên lạc với Bộ binh xem thử có phi vụ nào không, sau đó mình sẽ bay tới vùng thả bánh mì cho đồng bào sau cũng được.

Từ khi tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 3 Dù tại Khánh Dương trên Quốc Lộ 21 nối liền Ban Mê Thuột và Nha Trang bị Bắc Quân áp đảo lung lay, phi đoàn Thần Tượng đã được lệnh thay đổi vùng hành quân, chuyển hướng qua yểm trợ cho cuộc rút quân của Quân Đoàn II tại Pleiku về Tuy Hòa. Hằng ngày nhiều phi vụ đơn độc của Phi đoàn 215 được biệt phái ra vùng đồng bằng Phú Yên hổ trợ cho đoàn người di tản trên con lộ 7B. Ngoài mục đích tiếp tế, rải thức ăn của tiểu khu Tuy Hòa cho đồng bào, mục đích chính yếu của những chiếc trực thăng là bốc tất cả những ai có thể chở được từ con lộ 7B đem về tập trung tại vài trung tâm tiếp cư như phi trường Đồng Tác, một phi trường khổng lồ của Mỹ đã bỏ lại, nằm phía nam Tuy Hòa chừng năm bảy cây số.

Trong thời gian rối loạn này với những biến cố dồn dập, những phi vụ ít được kiểm soát, công việc của những hoa tiêu được đặt nặng trên tinh thần tự giác và trách nhiệm của mỗi người. Như ngày hôm nay, tôi được chỉ thị ra vùng hành quân trên chiếc trực thăng võ trang, không có chiếc C@C (Command and Control) đi dẩn đầu để tiếp xúc với Bộ binh, không có chiếc Hổ hai (chiếc võ trang số hai) theo sát cánh như bao ngày qua. Một mình một ngựa lên vùng, tùy cơ ứng biến. Gunship bay vào vùng hành quân đơn độc là trái với chiến thuật và nguyên tắc căn bản của trực thăng võ trang. Nhưng đây là lệnh của cấp trên, tôi không có sự chọn lựa nào hơn là cố chu toàn nhiệm vụ được giao phó.

Tôi tiếp tục cho con tàu bay thật thấp trên đầu con Quốc lộ 1. Gió biển mát lạnh lộng vào khung cửa mở toang, phía sau khoang tàu hai nguòi mê vô xạ thủ đang ngồi bên nhau trên chiếc ghế sát cửa, nhìn xuống con đường trải nhựa đen chạy viền theo bờ biển cát trắng. Những ghềnh đá nằm sát bên đường, sóng vỗ tung lên trắng xóa. Vài chiếc xe hàng, trên nóc chất đầy hành lý, chạy ngược chiều, những cánh tay vẫy chào khi chiếc trực thăng bay ngang. Một vài chiếc xe hai bánh đang phóng nhanh trên đường, trên xe mang nặng những bao bị, vội vã rời xa vùng lửa đạn hướng về nơi an toàn. Sau sàn tàu, những bao vải lớn nằm chất đống chứa đầy bánh mì tôi đã mua đem theo, kế bên, ông anh rể tôi tháp tùng theo từ sáng sớm đang thích thú quan sát cảnh vật chạy lùi phía dưới bụng chiếc trực thăng.

Hôm qua khi cả nhà đang quây quần trong bửa cơm chiều, sau một vài câu chuyện qua lại trong ngày, bỗng Me tôi chợt nhìn tôi rồi hỏi :
-Này con…, Me thấy hình như con có điều gì không vui phải không ? Con đang có vấn đề gì không?
Tôi ngập ngừng chưa trả lời, nhưng vì không muốn để cho bà lo lắng tôi nói:
-Dạ…, đâu có vấn đề gì, con chỉ hơi mệt vì bay hơi nhiều…, thêm vào đó…ngày hôm nay con đã gặp nhiều đồng bào mình chạy loạn, đói khát khổ sở, thấy tội nghiệp cho họ quá.
Ông anh rể tôi đang ngồi ăn kế bên với bà chị ruột của tôi, nghe câu chuyện xen vào hỏi:
-Nè…, mấy hôm nay tôi đọc báo thấy tin về vụ rút quân trên Pleiku về Tuy Hòa, có phải em bay trên vùng đó không ? Tôi gật đầu:
-Đúng rồi…, hằng trăm ngàn người bỏ chạy, thiếu thốn cực khổ…, không có ai giúp đỡ gì cả. Tụi Việt Cộng pháo kích và bắn loạn xạ vào dân lành không phân biệt già trẻ, đàn bà con nít. Chết nhiều lắm. Tôi nói tiếp:
-Hồi trưa nay tôi có gặp một nhóm người nhỏ chạy vào trong rừng trốn đạn rồi bị lạc luôn, tôi đáp tàu xuống bốc tất cả về Tuy Hòa. Nguyên phi hành đoàn lấy bánh mì ăn trưa của mình cho họ ăn, làm cả ngày tụi này đói meo.
Nghe nói tới đây, Me tôi chắc lưỡi, lắc đầu:
-Tội nghiệp quá…, vậy mình có thể làm gì được để giúp họ không con ?
-Dạ…, con đã có ý định mai mua bánh mì đem theo thả cho họ đó. Con biết đó chỉ như là muối bỏ biển thôi, nhưng có lẽ mình giúp được người nào hay người nấy. Vả lại con nghĩ một ổ bánh mì cũng có thể làm cho một người bớt đói một ngày để họ có sức tiếp tục đi tới nơi. Tôi nói tiếp:
-Nhưng chỉ có một mình con nên hơi khó khăn vì không biết làm sao chở được nhiều bánh mì vào phi đoàn được?
Nghe tôi nói xong, mọi người im lặng. Tôi chợt nhìn ông anh rể rồi đột ngột nói:
-Này…, anh Lộc…, ngày mai đi bay với tôi không ?
Bất ngờ bị hỏi, anh rể tôi lúng túng nhìn qua bà chị tôi đang chăm chú theo dõi câu chuyện.
- Tôi à…, tôi đi theo để làm gì hả ?
-Anh đi theo tôi ngày mai để phụ tôi mua và chở bánh mì đem vô phi trường thôi, rồi anh có thể về nhà sau đó hay là đi bay với tôi luôn thì tùy anh.
Nghe tôi nói xong, anh Lộc ngập ngừng rồi xoay qua nhìn vợ nói:
- Sao em…, em nghĩ sao? Có để cho anh đi theo giúp hay không ?
Bà chị tôi nuốt xong miếng cơm trong miệng, lúng búng trả lời:
-Này…, đi bay có nguy hiểm không vậy ? Chứ giúp đồng bào mình trong lúc này thì là chuyện nên làm, anh muốn thì cứ đi, tùy ý anh thôi.
Được sự đồng ý của bà chị tôi, anh rể tôi quyết định:
-Được, mai anh sẽ đi giúp em.
Me tôi nghe tới đó chen vào:
-Còn vấn đề tiền bạc, con có nhiều tiền đâu mà mua, để Me đưa phụ cho con mua bánh mì thêm. Con cần bao nhiêu cứ nói.
Nghe tới đây miếng cơm trong miệng tôi chưa kịp nuốt, bỗng dưng bị nghẹn lại, tôi không ngờ Me tôi dám để đứa con rể cưng độc nhất cũng như chị tôi dám để cho người chồng mới cưới, một ông thầy giáo mạo hiểm ra một mặt trận nóng bỏng như thế này.
-Anh chắc chưa?… Suy nghĩ cho kỹ đó, sáng mai tôi sẽ đánh thức anh dậy, tối nay đi ngủ sớm đi nghe. Tôi nhắc lại cho ông anh rể trước khi đứng dậy rút lui về phòng mình.

Sáng hôm sau thức dậy sớm hơn mọi khi, trời còn tờ mờ tối tôi gõ cửa phòng ông anh rể. Anh đã dậy từ lúc nào, áo quần sẵn sàng đang ngồi uống trà nóng chờ tôi. Tôi đưa cho anh chiếc áo bay của tôi bảo anh mặc để vào cổng phi trường khỏi bị hỏi giấy.
Hai anh em đèo bồng nhau trên chiếc xe Honda 90 già nua của tôi chạy ra lò bánh mì ở chợ. Khả năng xe chỉ chở được bốn bao bố bột mì nhét đầy những ổ bánh mới ra lò. Tôi cột từng cặp hai bao lại với nhau, đeo hai bên xe rồi chạy thẳng vào phi đoàn. Xe phóng ngang cổng Long Vân, mấy anh Quân Cảnh quen đưa tay chào rồi chỉ vào mấy bao bánh mì, có lẽ tò mò về những cái túi vải lớn treo hai bên chiếc xe.

Vào tới phi đoàn, tôi dựng xe trước cửa bảo ông anh rể đứng chờ, xong hấp tấp chạy ngay vào phòng phi đoàn trưởng. Trước cửa phi đoàn một đám hoa tiêu nai nịt gọn gàng tay xách túi nón bay, đang đứng nói chuyện hút thuốc lá chờ xe chở ra bãi đi bay, tò mò nhìn tôi đưa tay chào. Bước vào phòng phi đoàn trưởng, tôi gặp ngay Trung Tá Khưu Văn Phát đang ngồi sau bàn giấy.
-Chào Trung Tá, hôm nay tôi đi bay phi vụ ở Tuy Hòa, nhân tiện chở theo một số bánh mì thả giúp đồng bào, xin hỏi ý kiến Trung Tá trước. Trung Tá Phát mở mắt lớn nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, ngần ngừ một lúc rồi nói:

-À…, chuyện đó cũng tốt thôi…, nhưng anh bay gunship nặng đi thả bánh mình thì nên cẩn thận.
-Không sao đâu Trung Tá đừng lo. Tôi chêm vào
-Tôi chỉ nhắc cho anh biết thôi, tốt nhất là sau khi bắn đạn dược hết rồi thì làm gì cũng an toàn hơn. Hôm qua phi đoàn mình có một chiếc đáp chở đồng bào bị “over run” nặng quá cất cánh không nổi bị “crash” anh có biết không? Thôi…, tôi nói vậy anh nên cẩn thận.

Tôi nghe xong, đưa tay chào rồi vội vã trở lui. Vừa ra khỏi phòng gặp ngay Thiếu tá phi đoàn phó Sơn Thái Huyền đang bước vào. Vị Thiếu tá này là một huyền thoại trong phi đoàn 215, gốc người Miên, da ngăm đen và nhỏ con. Nghe anh em nói rằng Thiếu tá Huyền rất tin tưởng vào bùa ngải, thần chú. Có một lần đi bay với Trung úy Tôn Thất Kim trên một mặt trận lớn đang bùng nổ, bị phòng không bắn như pháo bông xung quanh tàu. Trung úy Kim ngồi trên ghế bay mặt xanh như tàu lá chuối, rút người trong chiếc áo giáp mang trước ngực liếc mắt nhìn qua ghế bên cạnh, Thiếu tá Huyền đang cầm cần lái, tỉnh bơ không hề có một phản ứng, nhưng miệng thì đọc to những câu thần chú khó hiểu. Lạ lùng thay, không biết vì sự mầu nhiệm huyền bí của những lời thần chú đó hay là vì số mạng lớn của phi hành đoàn, hôm đó tàu không hề bị một miểng đạn nào cả.

Chạy ra tới chiếc xe Honda, ông anh rể đang đứng chờ bên bốn bao bánh mì, tôi vội nói:
-Tôi nghĩ mình nên gủi bánh mì tại đây, rồi chạy ra lò bánh làm một chuyến nữa còn kịp giờ, tàu còn trống lắm.
Một khoảng thời gian sau, chiếc trực thăng võ trang đơn thương độc mã cất cánh rời thành phố Nha Trang hướng về Tuy Hòa chở đầy súng đạn hỏa tiễn và những bao bánh mì nóng hổi.

Sau hơn hai mươi phút bay dọc trên Quốc Lộ I, con tàu vừa tới trên đầu một vườn dừa xanh tươi bao la nằm kế bên bãi biển Đại Lãnh hình vòng cung cát trắng phau. Trước mặt không xa là đèo Cả cao ngất, tôi kéo con tàu vươn lên cao, mặt đất rời xa, con đường lộ và vườn dừa xanh nhỏ dần. Trước mặt tôi, dãy núi Đại Lãnh chạy dài ra ngoài biển theo hình dáng một cái móc câu bao bọc một vùng nước xanh, tạo thành một vùng vịnh lý tưởng, đó là vịnh Vũng Rô. Tại đây, Cộng Sản Bắc Việt lợi dụng địa thế kín đáo này đã dùng làm địa điểm tiếp nhận vũ khí của những tàu từ ngoài bắc vào. Ngày 16 tháng 2 năm 1965, Không Quân Việt Nam do hai phi công “Phượng Hoàng Kim Cương” và Trung úy Chánh bay hai chiếc A-1 đã đánh đắm một chiếc tàu của địch đang bỏ neo tại đây chứa đầy vũ khí đạn dược.



Chiếc trực thăng bắt đầu vào vùng vịnh Vũng Rô. Con tàu đột nhiên chao đảo, rung chuyển, nhồi lên rớt xuống như chiếc ghe con bồng bềnh trên giòng nước lũ. Đằng sau khoang tàu ông anh rể tôi ngồi trên thùng đạn, mặt mày hốt hoảng nhợt nhạt, tôi ghì cần lái cố giữ cho con tàu bớt rung. Chiếc trực thăng đang đi vào một vùng “nổi tiếng” về không khí nhiểu loạn (turbulence), nhiều phi hành đoàn thường tránh bay qua vùng này, nhất là trực thăng bay ở cao độ thấp.

Cách đây mấy năm, Thiếu úy Sơn, với cái tên Sơn “phu gạo” vì một thân thể “vai u thịt bắp” của anh, là một hoa tiêu trong phi đội trực thăng võ trang của tôi, trên đường từ Phù Cát về Nha Trang, phòng Hành Quân Chiến Cuộc đã được báo cáo vị trí của Sơn đang ở trên Vũng Rô và từ đó phi hành đoàn cùng chiếc trực thăng biệt vô âm tín. Suốt một tuần lễ sau, mỗi ngày phi đoàn đều cử một phi vụ đặc biệt đến vùng này tìm chiếc tàu mất tích, nhưng không ai hề thấy một dấu vết nào của chiếc trực thăng này. Riêng tôi còn nhớ, trong phi vụ đi tìm chiếc tàu của Sơn “phu gạo”, tôi suy luận rằng nếu chiếc trực thăng bị rơi xuống biển thì một vài ngày sau xác của phi hành đoàn sẽ nổi lên và trôi dạt vào bãi cát hay một ghềnh đá nào đó. Sau hơn một tiếng đồng hồ bay ở cao độ để mắt tìm kiếm xục xạo dọc theo bờ biển hay mõm đá, bỗng trước mũi tàu dưới thấp, xuất hiện hai vật màu đen nho nhỏ nằm kế bên nhau nổi bật trên bãi cát vàng sát mé nước, hình thù như hai xác người bị cháy đen trôi dạt lên bờ.

Vừa mừng vừa hồi hộp, tôi chỉ cho người hoa tiêu phụ và hai anh mê vô xạ thủ xem. Tất cả chồm lên phía trước chăm chú nhìn, trong lòng phấn khởi hy vọng đã tìm được xác phi hành đoàn. Tôi hạ cao độ, khi con tàu chỉ còn chừng một vài trăm bộ trên mặt biển, trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, hai “xác chết” cháy đen bỗng dưng di động về mé biển rồi biến mất dạng dưới làn nước trong. Tò mò tôi cho chiếc trực thăng xuống thấp, bay vòng nhìn xuống mặt nước. Qua làn nước trong vắt hai “chú” kỳ đà khổng lồ đen đủi như hai con cá sấu lớn đang nằm sát bên nhau dưới đáy cát, im ru bất động. Vừa ngạc nhiên lẫn thất vọng, tôi kéo con tàu lên cao, khi vừa đủ năm bảy trăm bộ, đột ngột tôi quay đầu trở lại mở nút rockets “on” rồi chúi mũi “dộng” hai trái hỏa tiễn xuống ngay chỗ hai con kỳ đà “vô tội” sát mé biển. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng nổ tung, hai cột nước trắng xóa phụt lên cao xao động cả vùng biển đang êm ả.

Ba người trong tàu có vẻ ngạc nhiên trước hành động bất ngờ không lý do của tôi, nhưng không ai nói một câu gì, cho đến khi tôi quay đầu chuyển hướng bay thì người xạ thủ lên tiếng:
-”Ông Thầy”…, sao mình không xuống coi thử có con nào chết không? …Tôi nghe nói mấy con kỳ đà biển này thịt ăn ngon lắm.
Trong lòng đang bực dọc, không vui và nhất là khi liên tưởng tới hình dạng xấu xí của con vật, tôi im lặng không trả lời tiếp tục bay thẳng, trong lòng phân vân tự hỏi về những hành động hung hăng hay háo sát vô lối của mình vừa qua, không biết có phải là do bản chất hay là do hậu quả của những ngày tháng vào sanh ra tử?

Con tàu đi quá Vũng Rô, tôi cho chiếc trực thăng băng qua rặng núi cao án ngữ trước mặt chia đôi hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, dưới thấp đèo Cả ngoằng ngòeo giữa vùng núi xanh. Đèo Cả không hùng vĩ như đèo Hải Vân, nhưng là một nơi có nhiều di tích lịch sử. Nhiều trận chiến giữa hai nhà Nguyễn, Tây Sơn và Nguyễn Ánh trong ba thập niên nội chiến (1771-1802) đã xảy ra tại đây, và ngọn đèo này được coi như là “Đệ nhất Hùng Sơn”. Bên phải tôi, ngọn Núi Đá Bia sừng sững, một trong những danh lam thắng cảnh của miền Trung. Khối đá to lớn, trơ trụi cao hơn 80 mét tọa lạc ngay trên đỉnh núi cao sát phía đông ngọn đèo Cả, ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ. Khối đá này người Phú Yên thường gọi là Linga, biểu tượng của thần Siva theo tín ngưỡng Chămpa (Chàm) là sinh thực khí của nam giới. Lúc xưa khi công phá Chiêm Thành, theo truyền thuyết năm 1471, Vua Lê Thánh Tông đã cho khắc chữ vào khối đá của ngọn núi này, nên được gọi là núi Đá Bia, tuy nhiên đời sau này chưa ai có được cơ may để đọc những dòng chữ đó, có lẽ thời gian đã xóa mất dấu tích.



Vượt qua đèo Cả, trước mũi tàu hiện ra một vùng đồng bằng tỉnh Phú Yên bao la bát ngát, đây là một vựa lúa lớn nhất của miền Trung phần được bồi bổ bởi nước sông Đà Rằng chảy qua trước khi ra cửa biển. Sông Đà Rằng theo tiếng Chàm có nghĩa là “con sông lau sậy”, mạch máu chính của nền kinh tế thị trấn Tuy Hòa, rất rộng lớn và có độ dốc cao nên mùa khô nước cạn trơ ra những cồn cát vàng nằm giữa lòng sông, hai bên bờ mọc đầy lau sậy. Phần thượng lưu của con sông này thường được gọi là Sông Ba.

Hướng về phi trường Đồng Tác nằm sát bờ biển, một phi trường khổng lồ của quân đội Mỹ bỏ lại, cách Tuy Hòa khoảng bảy cây số phía nam, tôi cho tàu giảm cao độ chuẩn bị đáp lấy thêm nhiên liệu. Từ trên tàu nhìn xuống phi trường một vùng đất mênh mông bỏ hoang còn lại chỉ là phi đạo chạy dài, đa số nhà cửa đã bị tháo gở hết chỉ còn chừa những nền xi măng. Cho con tàu chạy dọc theo taxiway, từ xa tôi có thể thấy hai tòa nhà hậu trạm quân đội, bên ngoài hàng ngàn người đang tụ tập gồm những những nguòi tỵ nạn hoặc những quân nhân vừa mới được trực thăng bốc về từ con lộ 7B cùng với thân nhân đến hỏi thăm hoặc chờ đợi tin tức người nhà. Đây cũng là trung tâm hoạt động của những cơ quan cứu giúp người tỵ nạn và cũng là nơi dùng cho những ban điều hành Bộ binh phối hợp với những phi vụ trực thăng của Không quân.

Tôi cho tàu đến trạm đổ xăng dã chiến gần đó, bên những bọc cao su đen khổng lồ căng phồng đựng JP-4 (xăng máy bay phản lực). Trong khi chờ đợi, tôi mở cửa bước xuống đất làm vài động tác cho giãn gân cốt thì một chiếc xe Jeep vừa đến đậu sát bên tôi, trên xe viên Đại úy tay áo mang phù hiệu đầu con cọp đen của Biệt Động Quân bước xuống, tay xách một cái máy radio FM. Sau khi đưa tay chào viên Đại úy hỏi tôi:
-Đây có phải là trực thăng võ trang của phi đoàn Thần Tượng biệt phái cho Tiểu khu Tuy Hòa không ? Hiện tại một đơn vị của chúng tôi trên đường lộ 7 tại Phú Túc bị một nhóm chốt của tiền sát của tụi VC pháo kích súng cối và đang cần sự yểm trợ của trực thăng võ trang. Mình có thể đi ngay bây giờ hay không ?
- Đại úy chờ đổ xăng xong rồi mình sẽ đi. Nhân tiện tôi có đem theo một số bánh mì trên tàu để giúp đồng bào trên đường chạy loạn về đây, sau khi yểm trợ xong tôi sẽ bay đi thả bánh mì xuống cho họ, nói cho Đại úy biết trước.

Người sĩ quan này quay đầu nhìn vào khoang tàu tỏ vẻ ngạc nhiên rồi trả lời:
-Vâng, tôi sẽ phụ với phi hành đoàn làm chuyện này. Viên Đai úy vừa nói xong thì từ xa một người đàn ông ngoại quốc cỡ trung niên trong bộ đồ kaki bốn túi vội vã chạy đến, trên người đeo mấy cái mấy ảnh. Gặp tôi đứng dưới đất kế bên cửa cockpit, anh ta bắt tay tôi và tự giới thiệu bằng tiếng Anh:
-Tôi là Richard Blystone*, đặc phái viên của thông tấn xã AP (Associated Press). Tôi đang làm việc tại vùng này, nếu có thể được xin anh vui lòng cho tôi đi theo tàu, cám ơn anh rất nhiều.
Chuyện xảy ra hơi bất ngờ, tôi chưa trả lời, im lặng nhìn người đàn ông ngoại quốc này một lúc, thấy ông ta có đeo tấm thẻ ký giả trên túi áo, tôi gật đầu đồng ý xong mở cửa leo lên ghế bay.
Con tàu đã đầy xăng, tôi chuẩn bị cất cánh. Trên sàn tàu chiếc trực thăng võ trang là một hỗn hợp lạ lùng: một viên Đại úy Biệt Động Quân, một anh ký giả ngoại quốc, một ông thầy giáo, hai anh phụ tá và một đống bánh mì chất cao ngay giữa sàn. Chiếc trực thăng chúi mũi rời mặt đất bay về hướng Tây, trước mắt con sông Đà Rằng lững lờ uốn quanh những cồn cát vàng và những bãi lau sậy.
Sau hơn hai chục phút bay, tàu đã đến khu vực huyện Phú Túc nằm kế con lộ 7B nơi đơn vị Biệt Động Quân đang đụng độ với đám tiền quân Cộng sản. Viên Đại úy chồm lên trên cockpit chỉ cho tôi ngọn đồi kế con sông nơi Cộng quân đặt súng pháo xuống con lộ phía dưới. Dưới chân đồi chạy dài ra là bãi cỏ lau mọc song song với bờ sông rồi đến bãi cát kế dòng nước.
Đang quan sát địa thế trước khi ước định vị trí tác xạ, bỗng tôi giật mình nghe tiếng người xạ thủ bên cánh phải la hốt hoảng trong intercom:
- Việt Cộng…, Việt Cộng…, a…ngay bờ lau…, hướng ba giờ…tụi nó đang chạy trong bụi lau.., đó..đó…
Tôi nghiêng đầu nhìn xuống dưới, qua tấm thép sắt chắn đạn, sát bãi cát ba bốn bóng đen nhỏ nổi bật trong đám lau đang vạch cỏ chạy nhanh hướng về cái miểu nhỏ. Ở trên cao cái miểu trông nhỏ xíu như con tem, mái nâu đậm tường gạch vàng nhạt chỉ cách những bóng người đang chạy chừng vài chục mét. Tôi tức thời chỉ cho viên Đại úy đang chồm sau lưng tôi. Viên Đại úy nhìn theo qua khung cửa và trong một cử chỉ vội vã ghé tai tôi hét t
-Bắn đi…, bắn đi…, tụi nó đó…mau lên…coi chừng tụi nó chạy mất…
Vừa nghe xong câu nói, mạch đập tim tôi đột nhiên tăng vọt, tôi tức khắc vòng con tàu ra xa để lấy trục tác xạ đồng thời hạ chiếc máy nhắm hỏa tiễn đem xuống trước mặt, nheo mắt nhìn vào h̕#7891;ng tâm. Cái máy nhắm bị cháy bóng đèn, tắt ngúm không xử dụng được. Tôi nghiến răng bực mình chửi thầm trong bụng, đẩy nhanh cái máy vô dụng về vị trí cũ. Chợt nghĩ đến ổ bánh mì nhét dưới túi quần bay, tôi thò tay xuống mò mẫm móc ra một một mẩu ruột nhỏ vo tròn lại xong ịn vào mặt kiếng chắn gió trước mặt làm điểm chuẩn để tác xạ. Không còn thì giờ để chậm trễ tôi đẩy con tàu chúi mũi xuống mục tiêu. Mấy tên Việt Cộng chạy vào ẩn náu bên trong chiếc miểu con vẫn còn đó, tin chắc chúng chưa bị phát giác. Tôi đưa viên bánh mì nhỏ dán trên tấm kiếng vào cái miểu con đang hiện rõ dần trước mặt, khi mẩu ruột bánh mì vừa vào đúng ngay trên mục tiêu tôi bấm nút…Xoẹt…trái hỏa tiễn đầu tiên rời dàn phóng lao xuống nổ tung ngoài bãi cát, cách xa cái miểu cả trăm thước. Mẩu bánh mì gắn quá thấp! Tôi tiếp tục đẩy cần lái về phía trước, chiếc trực thăng chúi mũi xuống mục tiêu gia tăng tốc độ, bắt đầu rung lên bần bật, lắc lư như chiếc võng, tôi cảm tưởng trục cánh quạt có thể gãy lìa bất cứ lúc nào…Xoẹt…xoẹt…xoẹt…Ba trái hỏa tiễn nối đuôi nhau lao xuống mục tiêu, một trái chui ngay vào mái ngói đen nổ tung khói mù mịt.
Trong khóe mắt tôi, Thiếu úy Liên ngồi im bất động hai tay đang bấu chặt vào thành ghế bay, bỗng nhảy chồm lên reo to:
-Hay quá!…Hay quá!…
Trong đám khói bụi đen đang bốc lên cao, một bóng đen đang bò lết ra hướng bờ cỏ lau…Con tàu quẹo lại, rung chuyển. Tay bật qua nút minigun tôi hét lên trong intercom:
-Minigun!…minigun!…
Người xạ thủ bên phải nhoài người ra hẳn bên ngoài bóp cò súng, khẩu minigun quay vù, rống lên âm thanh nhức nhối, hàng ngàn viên đan tua tủa bắn xuống vào đám bụi mù, đất cát văng lên khắp nơi. Thoáng đâu đây trong những tiếng động hổn độn, tôi nghe tiếng cóc…cóc…của khẩu AK-47 bắn trả. Tôi quẹo gắt con tàu lấy lại cao độ, vội vàng bay ra khỏi vùng, trong đầu tôi thần kinh vẫn còn căng thẳng. Đây là lần đầu tiên trong những ngày chinh chiến tôi đã vào vùng địch một mình, không có chiếc gun số hai theo sau yểm trợ. Điều này đã làm cho tôi cảm thấy rất bất an trong lòng.



Quay người lại phía sau tôi nhìn ông anh rể giáo sư của tôi ngồi trên sàn tàu kế bên những bao bánh mì, mặt mày thất thần, chưa hoàn hồn, còn anh ký giả ngoại quốc tóc tai rối bời vì gió lộng, đang hí hoáy viết, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ta chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra trong vài phút ngắn ngủi vừa qua. Vói tay ra hiệu cho vị sĩ quan Biệt Động Quân đang liên lạc với quân bạn bên dưới trên tầng số FM, tôi nói:
-Đại úy…, tôi muốn đi thanh toán mấy bao bánh mì này cho xong, sợ không đủ xăng. Sau đó trên đường về tôi sẽ tống hết đạn dược xuống ngọn đồi này, nếu Đại úy đồng ý.
Nói xong không đợi câu trả lời tôi quay mũi về hướng bắc bay dọc theo dòng sông Ba đang ngoằng nghòeo uốn khúc giữa vùng rừng cây rời rạc.Chỉ dăm ba phút sau, từ xa vài cây số tôi đã thấy đoàn người chạy giặc chen chúc trên con lộ, phần đầu của đoàn người dừng lại tại bờ phía bắc đầu cầu sông Ba. Chiếc cầu một phần giữa bị sập, một nửa nhịp chìm dưới đáy sông cạn. Xung quanh đó, một nhóm công binh đang xúm lại nối cây cầu. Từ xa trên cao tôi thấy một chiếc trực thăng Chinook đang bay đến, dưới bụng treo “tòng teng” (sling) tấm sắt rất lớn trông như một nhịp cầu.
Tại đây đoàn người đang dậm chân tại chổ. Đàng sau cả hàng cây số những người chạy nạn cùng hàng ngàn chiếc xe vẫn tiếp tục đi tới, dồn cục càng ngày càng đông tràn ra hai bên phía bìa rừng. Đủ mọi loại xe, cam nhông nhà binh, chiến xa M-113, xe hàng, xe ba bánh và cả hàng ngàn chiếc xe hai bánh của dân chúng chất chứa đèo bồng tất cả những gì có thể mang theo được. Nhìn hàng vạn người nối đuôi nhau chen chúc đói khát bên dưới, năm bảy bao bánh mì trên sàn tàu của tôi như một giọt nước nhỏ bé trên bãi sa mạc mênh mông nắng cháy, sự hăng say phấn khởi trong lòng tôi buổi sáng hôm nay tự nhiên tan biến tự lúc nào .
-Chắc mình phải đem thả nơi nào có ít người, chứ thả đây người ta đạp nhau đủ chết. Tiếng người mê vô phía sau tàu đề nghị. Thấy hợp lý, tôi cho tàu rời con đường lộ, bay dọc theo bãi cát bên bờ sông.
-Phía sau sẵn sàng nghe, mở hết mấy bao bánh mì ra đi, khi nào tôi bảo thì mọi người bắt đầu thả xuống – Tôi nói cho hai anh mê vô xạ thủ – Nhờ mấy người kia thả phụ cho nhanh.
Tại bờ sông cạn kế trên những cồn cát, từng nhóm người đang tắm rửa, hoặc lấy nước uống. Tôi cho con tàu bay rà xuống thấp, hàng trăm cánh tay đưa lên cao, như van xin cầu khẩn hơn là chào đón. Một số khác, trên tay cầm những xấp giấy hình như là tiền đưa lên vẫy vẫy như mời mọc, “khiêu gợi” chiếc trực thăng đang bay ngang qua đầu. Hình ảnh những xấp tiền trên bàn tay của những người dân chạy giặc, có thể là cả một gia tài mồ hôi nước mắt của họ dành dụm mang theo được, và ngay giây phút này sẵn sàng đánh đổi một chổ ngồi trên chiếc trực thăng để bay ra khỏi con lộ máu. Tôi bỗng dưng thấy mủi lòng thương xót cho đồng bào đang đau khổ cùng cực, nhưng đồng thời hành động vô tình của họ đã làm va chạm và tổn thương tự ái của tôi không ít. Tôi quay qua Thiếu úy Liên ngồi bên ghế trái đang nhìn xuống phía dưới, bất giác cả hai cùng quay lại, không ai nói gì nhưng trong đầu hình như cùng có một ý nghĩ cay đắng và xót xa.
Con tàu lướt qua một đám người nhỏ, tôi bay chậm lại rồi nói vội trong intercom:
-Thả đi…
Hàng chục ổ bánh mì rơi rải rác trên bãi cát vàng, từng nhóm người ùa chạy theo, nhào trên đất vồ vập, chen lấn dành giựt, một vài người già, con nít ngã lăn trên cát. Chỉ trong chốc lát, những bao bánh mì đã sạch nhẵn. Tôi lấy cao độ bay trở về, chợt nghĩ rằng mặc dù tàu còn một số đạn dược và rockets nhưng còn có thể chở được năm bảy người. Tôi bay vòng lại nhìn dọc theo dòng sông, tìm một nhóm người nhỏ, riêng rẽ để có thể bốc họ mà không bị tràn ngập như chiếc trực thăng của Thần Tượng đã bị rơi ngày hôm qua.



Bay qua một vùng rừng cây thấp, tôi thấy chừng năm bảy người đang núp nắng dưới bóng cây, hình như là một gia đình. Tôi lạng chiếc trực thăng xuống thấp và đáp kế bên tàn cây chừng vài chục mét, cát bụi bay mù mịt, nhóm người trong bụi cây ùa ra. Người đàn bà khuôn mặt mếu máo vì khủng hoảng, lấy chiếc nón lá che đứa bé đang ôm trong lòng cúi đầu chạy đến cùng với vài người đàn ông nhảy lên tàu. Phía sau không xa chừng vài chục người đang tràn tới chiếc trực thăng. Không một giây chậm trể, tôi nhấc tàu quay mũi ra hướng bờ sông cất cánh, để lại sau lưng một đám bụi mù và đám người đứng khựng lại vì thất vọng. Tàu lên cao, gió mát lồng lộng vào khung cửa, khác hẳn với cái nóng hừng hực trên cồn cát nắng cháy. Phía dưới đất, những người tỵ nạn đứng bên những bờ lau sậy đưa tay vẫy vẫy trong tuyệt vọng. Tôi quay đầu nhìn xuống một lần cuối cùng trước khi quyết định rời vùng. Chợt bên mé bờ sông tôi nhìn thấy hai người, đúng hơn là hai cô bé hình như đang giặt áo quần. Nghĩ rằng tàu có thể đủ chổ cho hai người nhỏ nữa tôi lạng một vòng và hạ con tàu xuống cách hai cô bé chừng vài chục mét. Mọi người trong khoang tàu nhìn ra chờ, anh xạ thủ đưa tay ngoắc, hai cô bé thản nhiên bỏ đi về phía đám người đang đứng dưới những tàn cây đằng xa. Gần đó hai đứa trẻ con đứng tắm sợ hãi bỏ chạy, vấp té ngã lăn trên đám cỏ dại.
Tôi kéo con tàu cất cánh và nói với phi hành đoàn:
-Chắc hai cô bé này đang đi với gia đình, không muốn đi một mình.Thiếu úy Liên gật đầu đồng ý.
Nhìn đồng hồ xăng đã xuống khá thấp, tôi vội vã hướng về Tuy Hòa. Trong tiếng động ầm ỉ của tiếng động cơ, tôi bỗng nghe tiếng người xa thủ nói rất to sau khoang tàu, hình như đang có gì lộn xộn. Tôi quay qua hỏi người hoa tiêu phụ:
-Liên, coi thử chuyện gì vậy ?
-Mấy người mới lên tàu dành nhau vô ngồi giữa, thấy tàu mở cửa họ sợ bị rớt ra ngoài.



Đang suy nghĩ vì con tàu bay qua ngọn đồi lúc nãy, phân vân không biết nên bắn xuống ngọn đồi như đã hứa với viên Đại úy trong khi tình trạng xăng trên tàu chỉ còn đủ để bay trở về. Tôi hơi bực mình quay qua nhìn Thiếu úy Liên và nói:
-Liên, bạn giải quyết giùm đi, biểu họ ngồi yên và coi chừng, tôi sắp sửa bắn rockets xuống ngọn đồi này đó.
Nói xong tôi quay lại ra hiệu cho viên Đại úy Biệt Động Quân biết, rồi quay đầu tàu vòng lại, chúi mũi phóng những trái rockets còn lại xuống ngay lưng đồi. Người xạ thủ nhoài người ra ngoài trút hết những viên đạn cuối cùng xuống đầu địch trước khi con tàu rời vùng. Âm thanh của những trái hỏa tiễn rít lên cùng với tiếng súng sáu nòng minigun rú lên như bò rống đinh tai nhức óc, đứa bé trong lòng người mẹ sau khoang tàu khóc thét lên, còn đứa con trai lớn hơn kế bên, mở trừng mắt, trên khuôn mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngồi chết cứng, mếu máo vì sợ hãi, khóc không ra tiếng.
Tàu đã cạn xăng và đạn dược, tôi phóng nhanh về Tuy Hòa. Bên cạnh, tôi thấy Liên móc gói thuốc mời người đàn ông hút, và hai người nói chuyện rất hăng say. Người đàn ông trong bộ áo quần nhàu nát, xốc xếch có lẽ là chồng của người đàn bà đang ôm đứa bé, trên khuôn mặt gầy ốm, mệt mỏi và xạm đen vì nắng nhưng đôi mắt lộ vẻ sung sướng với nụ cười nở rạng rỡ trên môi. Tôi hỏi Liên:
-Quen à ?
-Anh có tin không, đây là thằng bạn học cùng lớp với tôi hồi xưa, em ruột của Thượng Sĩ Kim y tá phi đoàn mình đó. Thật là một chuyện hi hữu, đúng là ý trời. Trong giọng nói của Liên tôi nghe như đang ẩn chứa một niềm vui bất chợt. Tôi trao cần lái cho Liên rồi móc thuốc ra hút, nghĩ xả hơi sau một thời gian dài căng thẳng.
-Hôm qua bạn làm gì? Tôi hỏi Liên.
-À, tôi bay cho tiểu khu Tuy hòa thả cơm vắt, mía khúc xuống cho dân chạy loạn và bốc người. Có chuyện này tôi quên kể cho anh nghe. Lúc bay ra vùng có một Ma Soeur đi theo tàu để thả đồ tiếp tế của tiểu khu Tuy Hòa. Khi tôi đáp xuống bãi cát, một toán người tràn tới leo lên tàu, Ma Soeur lẵng lặng nhảy xuống đất nhường chổ không lên lại tàu, tôi cứ chần chờ, bà ngoắc tay bảo tôi bay đi. Thấy một đám người đang chạy đến, tôi không thể chờ lâu hơn nữa được phải cất cánh. Trước đó tôi có nghe Ma Soeur nói là muốn được xuống con lộ gia nhập với đoàn người chạy nạn để giúp đỡ họ, nhưng tôi không ngờ.
Liên nói tiếp:
-Anh có biết không, khi chiếc tàu cất cánh, nhìn xuống thấy người nữ tu trong bộ áo dòng đứng chơ vơ, hai tay giử chiếc khăn bịt đầu trên bãi cát nóng cháy, gió bụi mịt mù như muốn cuốn thổi bay tấm thân nhỏ bé, hình ảnh đó có lẽ sẽ không bao giờ phai nhạt trong trí óc của tôi anh à. Khi nói tới đây, giọng của Liên đột nhiên như nghẹn ngào vì xúc động. Tôi vội quay mặt nhìn ra ngoài khung cửa, bất giác liên tưởng đến cái gọi là “giải phóng miền Nam” của quân Cộng Sản khát máu và những nổi thống khổ tận cùng mà cả hàng trăm ngàn người dân lành vô tội đang phải chịu đựng trên con lộ máu kinh hoàng này.

Thành phố Tuy hòa ẩn hiện trước mặt, nằm im lìm bên cửa sông Đà Rằng mênh mông mở rộng. Trên bầu trời trong xanh, những chiếc trực thăng như những con ong dập dìu bay tìm kiếm những người dân trên con lộ Liên tỉnh 7B, chở về trung tâm tỵ nạn. Tôi hạ cánh đáp xuống phi trường Đồng Tác, đám đông bu quanh những bãi đậu trực thăng, ào chạy đến gần nhìn những người trên tàu tôi vừa thả xuống đất, hy vọng sẽ gặp lại được những khuôn mặt thân quen của họ.



Một chiếc xe Jeep chạy đến kế bên tàu, viên Đại úy tay xách chiếc radio FM nhảy xuống đất leo lên xe rồi đưa tay chào phi hành đoàn. Người ký giả Mỹ còn nấn ná ở lại trên sàn tàu, trong tiếng ầm ĩ của động cơ, anh ta chồm lên từ phía sau ghé vào tai tôi nói lớn:
-Cám ơn anh rất nhiều về chuyến bay vừa qua. Tôi rất muốn giúp đỡ những người chạy loạn nhưng bất ngờ không đem theo nhiều tiền. Tôi chỉ có hơn mười ngàn đồng trong túi, xin gủi hết cho anh để ngày mai mua bánh mì giùm tôi. Nói xong anh dúi vội vào tay tôi xấp giấy bạc rồi nhảy xuống đất đưa tay vẫy chào.
Cầm xấp giấy bạc trong tay, tôi ngỡ ngàng nhìn theo người ký giả biến mất hút vào đám đông người …

Đà Nẵng Di Tản và Một Sự Gặp Gở Bất Ngờ

Tỉnh đường Tuy Hòa là một tòa nhà lớn nằm trên một vị trí đẹp nhất thành phố, kế bên bờ biển, mặt đông khu vườn cỏ nhìn xuống bãi cát vàng, phía nam nhìn ra cửa sông Đà Rằng mênh mông bát ngát. Từ trên cao nhìn xuống sân cỏ rộng của tỉnh đường đã có bảy tám chiếc trực thăng tắt máy đậu sẵn. Tôi lượn một vòng nhìn xuống, thấy có chổ trống vừa đủ cho một chiếc trực thăng, tôi hạ cao độ và chen vào đáp. Trên bãi cỏ của tỉnh đường, đứng lố nhố những phi hành đoàn và nhiều người ngoại quốc đủ mọi quốc tịch, trên người đeo đầy máy ảnh chạy lui chạy tới rất là bận rộn. Có lẽ họ là những nhà báo khắp thế giới đến săn tin tức về mặt trận đang sôi động tại chiến trường vùng II. Tắt máy tàu, mở cửa bước xuống sân cởi chiếc áo giáp nặng chịch trên người, trước mặt tôi đậu những chiếc trực thăng lẫn lộn của nhiều phi đoàn mang đủ loại phù hiệu như Hoàng Ưng, Thiên Ưng, Song Chùy v…v… từ Đà Nẵng di tản vào. Một chiếc trực thăng tản thương của phi đoàn 257 Cứu Tinh vừa đáp xuống, bụi mù tung lên, những người ký giả chạy ùa đến săn tin tức.

Ngày 27 tháng 3 năm 75, Cộng Quân gia tăng áp lực vào thì trấn Đà Nẵng, phi trường bị pháo kích liên tục. Tất cả máy bay được lịnh cất cánh lên trời để tránh thiệt hại. Pháo kích kéo dài không ngưng, tất cả trực thăng được lệnh rời bỏ phi trường Đà Nẵng đáp xuống phi trường Non Nước đậu qua đêm. Đây là một phi trường nhỏ của Mỹ bỏ lại cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng năm cây số hướng đông nam. Suốt đêm đó tất cả phi hành đoàn đều ngủ tại những “bunker” hoặc giao thông hào của những đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Trú đóng tại đó, đang chờ các tàu Hải Quân trên đường cập bến di tản tất cả lực lượng tại đây.

Sáng hôm sau, tình thế tại Đà Nẵng rất nguy ngập, Cộng quân tiến sát vào thành phố. Trong tình thế hỗn loạn đó, tất cả trực thăng của các phi đoàn đậu tại phi trường Non Nước được lệnh cất cánh di tản về Phù Cát. Thời tiết ngày đó rất xấu, trần mây thấp không hơn năm trăm bộ che kín bầu trời (overcast). Tất cả hoa tiêu trực thăng cất cánh tại phi trường Non Nước về căn cứ Phù Cát, Bình Định có hai giải pháp phải chọn lựa, một là bay trên trần mây mù mịt, hai là bay thấp dọc theo bờ biển. Đa số trực thăng tối hôm qua bay chờ khá lâu trên trời để tránh pháo của địch đã tiêu thụ một số xăng khá nhiều, bây giờ bình xăng không còn đầy để có thể bay xa. Nếu phải chọn con đường bay trên trần mây, và khi đến phi trường Phù Cát không tìm được khoảng trống để đáp xuống thì tàu có thể rớt vì hết xăng. Cũng nên biết rằng, đa số trực thăng không được trang bị những khí cụ hay máy móc để bay trong mây hay thời tiết xấu, cho nên đối với những hoa tiêu trực thăng bay trên trần mây không thấy được mặt đất là một điều tối kỵ. Giải pháp thứ hai bay thấp dưới trần mây, dọc theo bờ biển, nhưng những chiếc trực thăng phải đối phó với hỏa lực phòng không của địch qua nhiều vùng đã bị chiếm đóng. Cả hai giải pháp đều là nan giải cho những phi hành đoàn trong hoàn cảnh nguy ngập đó.

Một trong những hoa tiêu của Phi đoàn tản thương Cứu Tinh 257 đang đậu tại phi trường Non Nước là Trung úy Phạm Mẫn, cựu hoa tiêu phi đoàn Thần Tượng 215, đã chọn con đường thứ hai, bay thấp dưới trần mây về Phù Cát. Trên tàu khi đó chở đầy những quân nhân Không quân cũng như một số dân sự. Để tránh những súng nhỏ có thể bắn từ những làng mạc đã bị địch chiếm đóng, Trung úy Mẫn bay con tàu cách xa bờ biển chừng nửa cây số. Trên đường đi, trong tần số radio, những hoa tiêu liên lạc với nhau, kêu nhau ơi ới. Những chiếc trực thăng bay thấp bị đủ mọi loại súng của địch từ những ngôi làng dọc theo Quốc Lộ I bắn tới tấp, những chiếc máy bay bay trên cao thì trần mây mù mịt không tìm được đường xuống. Tình trạng rất bi đát.

Riêng Trung úy Mẫn, sau chừng nửa tiếng đồng hồ bay, khi vừa đi ngang quận Dục Đức, từ trong bờ một tràng đạn phòng không cỡ lớn nổ liên tục nhắm vào chiếc trực thăng đang bay thấp trên mặt biển. Một viên đạn trúng tàu nổ tung, một số người chết ngay trên sàn tàu, Trung úy Mẫn cố lết con tàu bay sát mặt biển tới được gần đèo Phù Củ thì rơi xuống bãi cát sát bờ nước. Từ phía sau đuôi của chiếc trực thăng, một nhóm Việt cộng từ một làng sát mé biển chạy đến. Những người nào còn sống sót trên tàu mạnh ai nấy chạy. Mẫn bị một vết thương ngay chân, lết ra khỏi tàu chạy về phía trước dọc theo bờ biển, những tiếng súng AK-47 nổ dòn vang vọng đàng sau. Chạy được chừng ba bốn cây số thì trước mặt khoảng năm bảy trăm mét, chừng bốn năm tên đầu đội nón cối chạy ngược lại chận đường, biết là không còn đường thoát, trong một hành động tuyệt vọng Trung úy Phạm Mẫn nhảy xuống biển bơi vòng ra khơi, hy vọng sẽ lẩn tránh được quân thù. Trên bờ mấy tên Việt Cộng vừa tới nơi đứng dương súng chờ đợi. Sức người có hạn, sau một chặng đường dài chạy trên biển với vết thương ngay chân, anh đã kiệt lực và đành buông xuôi giao thân cho địch. Anh bị trói thúc ké dẩn đi vào hướng đất liền, giữa một vùng bụi cây thấp mọc dọc theo ven biển. Trên trời cao những chiếc trực thăng của phi đoàn 243 Mãnh Sư tại căn cứ Phù Cát được lệnh bay ngược về hướng Đà Nẵng, hy vọng cứu cấp những phi hành đoàn bị rơi rớt dọc đường. Một chiếc trực thăng của phi đoàn Mãnh sư vừa bay ngang, tiếng động cơ và tiếng cánh quạt kêu ầm ỉ, bên dưới Trung úy Mẫn bị mấy tên Cộng Sản xô chúi nhủi vào một bụi rậm, dí súng AK-47 vào đầu không cho anh nhúc nhích. Trong giây phút dưới áp lực của mũi súng quân thù, Mẫn* vẫn còn đủ bình tĩnh để ngửng lên nhìn chiếc trực thăng đang bay qua đầu, lòng thầm biết ơn những người hoa tiêu bạn trong giây phút tận cùng của cuộc chiến vẫn “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, đúng như tinh thần bất diệt của Quân chủng Không quân.
-Ê…, Mãnh Hổ!
Đang đứng hút thuốc kế bên tàu tôi nghe tiếng ai kêu từ phía sau. Tôi quay lại. Một hoa tiêu mang phù hiệu trực thăng của phi đoàn 239 Hoàng Ưng đang đứng sau lưng nhìn tôi cười. Tôi nhíu mắt nhìn. Khuôn mặt rất quen thuộc, tôi cố moi lại trong trí nhớ.
-Mày quên tao rồi à, Nguyễn Hào đây!
-Hào.., trời đất…, Hào “gàn” phải không ? Mẹ…, lâu ngày quá.
Vừa nói xong tôi mừng rỡ ôm choàng lấy người bạn thân cùng khóa bay. Từ lúc chia tay nhau sau khi du học ở Mỹ trở về nước, mỗi thằng đi một vùng chiến thuật, chưa bao giờ chúng tôi có cơ hội gặp lại nhau. Hình ảnh của thằng bạn có giọng nói Bắc kỳ Hà Nội chậm rãi, ngọt ngào như mía lùi lại ẩn chứa một tánh tình “ngang tàng” nếu không nói là có tí “ngông”, trên một khuôn mặt rất là “boyish” đã trở lại trong tâm trí tôi. Những ngày bên trường bay vào những buổi đi học về, trong khi mấy anh “hoa tiêu học trò” vội vã chen nhau xuống chiếc xe buýt thì Hào lửng thửng một tay xách túi bay, một tay đút vào túi quần chậm rãi đi từng bước một về phòng, hình như chưa bao giờ tôi thấy anh ta vội vã cả.
-Chuyện gì đã đưa đẩy bạn lưu lạc nơi phương trời này vậy,… Hào? Tôi ngạc nhiên hỏi.
-Thì lúc Ban Mê Thuột bị tụi nó chiếm, từ Đà Nẵng tao tình nguyện biệt phái dẫn năm chiếc tàu lên Pleiku cho phi vụ không vận Sư đoàn 23 về tái chiếm Ban Mê Thuột. Chừng hai ngày sau thì phi vụ đó bị “xù”, tụi tao bị “xỉ” về vùng này bốc dân. Mấy lần tao nghe tiếng mày trên tần số mà chưa có cơ hội để gặp. Này, mày bay gunship phải không, tao có chuyện này muốn nói với mày.
-Có gì quan trọng không? Vừa nói tôi vừa móc ổ bánh mì dưới túi bay rồi hỏi:
-Mày ăn chưa?
-Tao ăn rồi, mày ăn đi. Lúc nãy tao đi chở dân về, gần tới Tuy Hòa bên mấy thửa ruộng hoang tao thấy hai ba con bò đang đứng ăn cỏ, tao định xuống “dớt” một con đem về cho lính mình ăn, tao thấy nhiều lính bộ binh đi lạc trong rừng được bốc về phi trường Đồng Tác tơi tả, tội nghiệp quá. Một mình không có gunship “cover” tao hơi ngại, bây giờ gặp mày đây tao mới hỏi mày đi bay yễm trợ cho tao “dớt” con bò về được không?
-Chuyện nhỏ thôi, nhưng coi chừng, nhiều lúc là bò của dân đó mày.
-Dân đếch gì, xa tuốt trong rừng, giờ này dân chạy hết rồi, để lại cho tụi Việt Cộng ăn cũng vậy thôi.
Cầm ổ bánh mì trên tay tôi vừa ăn vừa nói:
-OK, làm gì thì làm để tao “thanh toán” ổ bánh mì này cho xong đã rồi đi đâu thì đi.



Hơn mười phút sau hai chiếc trực thăng bắt đầu quay máy, tôi cất cánh chiếc trực thăng võ trang nối đuôi theo chiếc Hoàng Ưng của Hào rời bãi đậu. Hai con tàu lấy cao độ hướng ra phía bờ sông. Trên cao nhìn xuống, từ cửa sông Đà Rằng chạy dài về phía tây, cửa sông trông giống như đầu của một con bạch tuột với những sợi râu nằm giữa vựa lúa lớn nhất miền Trung phần, những mảnh ruộng hình vuông con con màu vàng cỏ rạ, nối tiếp nhau từ bờ sông chạy dài đến gần chân núi Đại Lãnh. Nhìn thằng bạn thân cắm đầu bay trước mặt, trên tần số riêng tôi gọi :
-Hào…, mày còn nhớ chỗ không đó?
-Yên chí đi…, cứ theo tao, năm phút nữa sẽ đến, cách con sông vài cây số ngay bìa rừng tao nhớ rõ.
Đúng như lời Hào nói, chỉ trong vài phút bay tôi thấy chiếc trực thăng trước mặt nghiêng cánh, hạ cao độ. Từ trên cao nhìn xuống, tôi có thể thấy một vùng ruộng bỏ hoang, không canh tác, cỏ vàng úa mọc đầy, nằm kế bên bìa rừng, ở giữa là một con suối cạn uốn éo, cỏ mọc xanh hai bên bờ.
-Hổ, mày thấy chưa…bãi ruộng gần con suối, cách đây hai tiếng đồng hồ tao đã bay qua đây rồi.
Tôi nhìn theo nôn nóng:
-Biết rồi…, mấy con bò đâu không thấy ?
-Từ từ đừng nóng, lẩn quẩn đâu đây thôi…
Hào bay dưới thấp chừng vài trăm bộ, tôi giữ vị thế cao hơn để quan sát tình hình, theo dõi tàu của Hào trong trường hợp có biến cố nào tôi có thể phản ứng kịp thời. Bỗng tôi nghe tiếng Hào trong tần số, giọng nói phấn khởi:
-Đây rồi…, đây rồi…, ba “chú” đang ăn cỏ đây.
Nhìn xuống dưới thấp, tàu Hào đang bay bỗng quay vòng lại, cánh quạt chiếc trực thăng chấp chóa, ba con bò đang đứng thản nhiên gặm cỏ trên một bãi ruộng hoang, kế bên một đám cỏ tranh vàng úa.
-Hổ…, mày trên cao cover nghe, tao xuống đây. Hào nói.
Tôi hạ cao độ, bay vòng rộng quanh chiếc tàu phía dưới, quan sát tình hình. Xung quanh đều là đồng không mông quạnh, không có dấu vết gì khả nghi cả, trừ đám rừng xa xa khoảng vài cây số. Chiếc trực thăng của Hào bay chậm lại và ngừng lại trên đầu ba con bò màu nâu đang bình thản đứng kế bên nhau. Bên hông cửa tàu của chiếc trực thăng phía dưới tôi có thể nhìn thấy khẩu đại liên đang khạc đạn, phóng ra những làn khói trắng nho nhỏ. Một con bò nhỏ nhất trong đám ngã quỵ xuống, hai con kia tức thời phóng chạy.
-Hổ, tao đáp xuống đây…coi chừng dùm tao nghe…
Quay qua khung cửa, tay cầm cần lái, mắt tôi chăm chú theo dõi tất cả mọi diễn tiến bên dưới. Chiếc trực thăng đáp kế con bò đang nằm trên mặt đất , cách đó một khoảng gần là một đám cỏ tranh cao tới ngực. Hai người mê vô xạ thủ nhảy xuống đất đồng thời một bên cánh cửa cockpit mở ra, người hoa tiêu phụ nhảy xuống theo. Ba người chạy đến kế bên con bò. Từ trên cao tôi theo dõi một hoạt cảnh ngoạn mục, ba anh phi hành trong bộ đồ bay, người mặc áo giáp, đội nón helmet ì ạch kéo con bò không nhúc nhích. Mấy ông mê vô xạ thủ và ông anh rể tôi ngồi sau sàn tàu chồm ra ngoài cửa hồi hộp nhìn xuống phía dưới theo dõi. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thầm nghĩ con bò quá nặng không thể nào ba người có thể đủ sức đem nó lên sàn tàu. Đúng như tôi đã dự đoán, trên tần số tiếng nói của Hà
-Nặng quá tụi nó kéo không nổi, Hổ…, tao xuống phụ với tụi nó…, cover cho tao nghe…Hào nói xong chưa chờ tôi trả lời, mở cửa nhảy xuống, chạy đến bên con bò. Bốn người xúm nhau, tiếp tục kéo. Cho con tàu bay thấp vài trăm bộ tôi nghiêng đầu theo dõi. Bỗng dưng cách chiếc trực thăng đang đậu phía dưới chừng vài chục mét, tôi phát giác một bóng người bận đồ đen vừa mới đứng lên giữa đám cỏ tranh mọc cao ngang ngực. Tôi la lớn cho mấy anh mê vô xạ thủ tôi nghe thấy để chuẩn bị:
-Có người…, đằng sau.., coi chừng…
Người xạ thủ hình như cũng thấy như tôi đã thấy, đến chụp khẩu minigun chỉa xuống ngay chổ đám cỏ tranh. Phía dưới là chiếc tàu của Hào đang nổ máy hoàn toàn không có người nào ở trên tàu, tôi không biết làm cách nào để thông báo cho phi hành đoàn bên dưới biết tình trạng đang xảy ra. Tôi sà con tàu xuống thấp bay ngang đầu chiếc trực thăng đang đậu dưới đất, bay vòng thật nhỏ như để báo hiệu cho bạn mình biết để đề phòng có người lạ khả nghi đang ở gần đấy.
Một cuộc diễn tiến bất ngờ xảy ra phía dưới như một cuốn phim đang quay chậm. Bóng người đang đứng giữa đám cỏ tranh bỗng vạch cỏ bước hẳn ra ngoài, tiến về hướng chiếc trực thăng đang đậu kế con bò, hai tay cầm khẩu AK-47 đưa cao lên khỏi đầu. Bốn người đang hì hục kéo con bò, bất ngờ ngưng lại, quay mặt về phía bóng người đang bước tới. Tôi thấy Hào rút khẩu “rouleaux” chỉa về phía người lạ. Hình như có một cuộc đối thoại ngắn đang xảy ra, tôi đoán vậy…Hào bước đến gần tay vẫn chỉa súng vào người lạ, tay kia vói giật khẩu AK-47. Bây giờ một người xạ thủ của Hào đã tỉnh hồn, nhảy lên tàu chĩa khẩu đại liên M-60 về phía “nhân vật” mới xuất hiện. Hình như cuộc đối thoại vẫn đang còn tiếp diễn… Đột nhiên trước sự ngạc nhiên, nếu không nói là sửng sốt của tất cả mọi người trên tàu tôi, “nhân vật” mới cùng phi hành đoàn bốn người của Hào xúm nhau lại kéo con bò lên sàn tàu. Nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra, chờ khi Hào đã an tọa trên ghế bay, tôi la trên tần số:
-Hào…, chuyện gì vậy…, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Trong hơi thở hổn hển có lẽ vì quá mệt sau khi khiêng con bò lên sàn tàu, tiếng nói của Hào đứt đoạn:
-Thằng…Việt cộng…, nó muốn hồi chánh…, nó xin tao chở về Tuy Hòa…
Tôi ngắt lời:
-Mày có chắc không ? Coi chừng đó…
-Không sao…đâu.., tao lấy súng nó rồi… Nó là dân du kích địa phương…có gia đình ở Tuy Hòa…
Nghe xong tôi thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ tên Việt Cộng này đang chăn bò, thấy trực thăng đến chạy núp trong đám cỏ tranh, và sau khi thấy chiếc gunship quần trên đầu tưởng là đã bị phát giác nên ra đầu hàng. Tôi gọi Hào:
-Mày làm tao hú hồn, thôi… chở con bò về phi trường Đồng Tác giao cho bộ binh và nhân tiện giao thằng Việt Cộng luôn.
Rồi tôi nói tiếp:
-Nhớ cắt một cái đùi tối về Nha Trang tụi mình nhậu nghe. (Còn tiếp)
Kỳ tới: Ngày Tàn Cuộc Chiến (Phần III) -Vĩnh Biệt Nha Trang
Vĩnh Hiếu
Phi đoàn Thần Tượng, 215

* Richard Blystone was a correspondent for Associated Press (ap) for 15 years, reporting mainly from Southeast Asia, where he was bureau chief in Bangkok, before moving on to Cable News Network. He is also an Associate of Producers International Media, and one of the world’s top journalists and writers… Now he is a retired senior correspondent for CNN
* Trung úy Phạm Mẫn bị Cộng quân bắt làm tù binh sau khi chiếc tàu anh bị bắn rớt trên bờ biển Quảng Nam ngày 28 tháng 3 năm 1975. Sau ba năm bị cầm tù, năm 1981 anh cùng hai đứa con trai vượt biển đến được bến bờ tự do.
-Xin cám ơn KQ Nguyễn Đức Liên, Phạm Mẫn, Nguyễn Hào đã đóng góp những chi tiết trong bài Ngày Tàn Cuộc Chiến (Phần II), cùng anh Herky428 về tác phẩm rất đẹp của Mãnh Hổ trên biển Nha Trang
-Riêng cám ơn Cánh Thép.com, là nguyên nhân để tôi tìm lại được Thiếu úy Nguyễn Đức Liên, một hoa tiêu phi đoànThần Tượng mà tôi đã mất liên lạc từ năm 1975, qua những bài viết về cuộc chiến của tôi.
Một bài viết của đặc phái viên AP, Richard Blyslone, về phi vụ tại Tuy Hòa.








NGÀY 24-3-1975 – TẠI CHIẾN TRƯỜNG QUÂN KHU 3 - TRIỆT THOÁT KHỎI BÌNH LONG


Ngày 24 tháng Ba, trong lúc cuộc triệt thoái khỏi Bình Long của QĐ3 đang tiến hành thì lực lượng Cộng quân thuộc 2 SĐ 9 và 341 chính qui BV, được sự yểm trợ của một thiết đoàn tank T54, tấn kích Chơn Thành. Liên Đoàn 31 và 32 Biệt Động Quân, với sự yểm trợ của Không Quân, đã đẩy lui Bắc quân, bắn cháy 7 chiến xa địch. Ngày 26 tháng Ba, SĐ 341 BV lại mở cuộc tấn công vào Chơn Thành nhằm thu hồi những T54 bị bắn cháy, nhưng BĐQ, một lần nữa lại đẩy lui quân địch.

Ngày 27 tháng Ba, cuộc di tãn khỏi An Lộc, Bình Long hoàn tất ; BĐQ vẫn nằm án ngữ bảo vệ Chơn Thành.

No comments:

Post a Comment