Nhân đọc
cuốn "Về
Từ Tân Cảnh"
của Đại Tá Tôn Thất Hùng,
KBC 7865, ngày 24 tháng 4 năm 1974.
Lời mở đầu:
Sau trận Tân Cảnh năm 1972, tôi thường ngày theo
rỏi tin tức chiến
sự đang sôi động trên khắp chiến trường miền Nam Việt Nam trong mùa hè
đỏ lửa,
đặc biệt về mặt trận Kontum, về câu chuyện thoát hiểm của Đại Tá Tôn
Thất Hùng,
sau khi Tân Cảnh bị cộng sản Bắc Việt tràn ngập bằng chiến xa.
Báo chí và truyền thông có tường thuật về trận đánh Tân Cảnh, và có đề
cập đến
tập hồi ký chiến trường kể lại đoạn đường gian truân thoát hiểm trong
rừng của
Đại Tá Tôn Thất Hùng từ Tân Cảnh đi về hướng Kontum ... tập hồi ký có
tựa đề "Về
Từ Tân Cảnh".
Nhưng mãi đến 30 năm sau, hôm nay "Sàigòn" mới hân hạnh được
tác giả cho mượn
đọc cuốn sách duy nhất còn lại, để làm lưu niệm, trên đường định cư tị
nạn cộng
sản tại Hoa Kỳ, San Jose, Cali; với lời dặn dò: "đọc xong nhớ hoàn
trả vì gia
tài chỉ còn một cuốn chót". Anh nói tiếp: " ... đem được cuốn
hồi ký "Về Từ Tân
Cảnh" này lọt khỏi công an quan thuế cộng sản Việt Nam là một
sự may mắn, không tưởng
tượng được. Sau này, nhờ vậy mà hồi ký được bạn bè hỏi mượn xem, hoặc
trích đăng
- ví dụ báo Tiếng Vang đã đăng toàn bộ. Đây là một chuyện thật về chiến
trận Tân
Cảnh vào mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Sách được nhà xuất bản Văn Nghệ Dân Tộc xuất bản đợt đầu vào tháng 4
năm 1974,
(chủ nhiệm là nhà thơ Tô Thuỳ Yên) không bán, chỉ dành tặng các chiến
sĩ Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH), thư viện Quốc Gia, các thư viện Trường
Quân Sự
và trường Trung Học của Việt Nam Cộng Hoà.
Sách dày 215 trang, khổ lớn, thay lời tựa do nhà văn Quân Đội Lê Huy
Linh Vũ
viết,
tức Trung Tá Nguyễn Trường Thọ, gốc ở Huế, từ cục
Quân Cụ chuyển ngành qua Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cuộc Chiến Tranh Chính
Trị;
Trung Tá Thọ đã chết trong ngục tù cộng sản ở Bắc Việt năm 1976-1979...
Hình bìa
trước, in bản đồ quân sự, có địa danh Tân Cảnh, Kontum, Pleiku ... Hình
bìa sau
in bản nhạc "Người Chết Trở Về" của nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh.
Sách gồm ba phần:
- Phần một là "Bình Hải" chưa xong đã lên "Sơn
Trấn" - Hai ngày rưởi cuối cùng
tại bản doanh chiến thuật của Tư Lệnh họ Lê - Còn mất trong đường tơ kẻ
tóc.
- Phần hai là Cô độc lữ hành - Gặp ân nhân - Lại một lần nữa suýt
vinh thăng ...
nằm ...
- Phần ba là Thay lời kết luận ...
Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (TQLCVN) đã từng quen thuộc với
các địa
danh Pleiku, Kontum, Dakto, Tân Cảnh ... của vùng 2 chiến thuật. Từ năm
1962,
Tiểu Đoàn 2 TQLC đã có mặt để bảo vệ an ninh khi Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đến
viếng thăm đồng bào Kinh-Thượng tại Tân Cảnh ... Chiến Đoàn TQLC có
những lúc
hành quân dài ngày liên tục, vượt núi băng rừng, dưới những cơn mưa tầm
tả, lạnh
buốt của vùng Ba-Biên-Giới. Quân sĩ đều bị lỡ chân, bị vắt cắn hút máu,
đói và
rét. Lương thực mang theo đã cạn, thời tiết xấu, máy bay không đến tiếp
tế thả
dù được, mỗi lần đụng trận chạm địch, muốn tản thương bằng trực thăng
phải huy
động cả Đại Đội chặt cây, dọn bải bốc ... mất cả nửa ngày.
Nói đến Tân Cảnh, là nói đến mục tiêu của bao chiến dịch của giặc! Tân
Cảnh là
một vị trí chiến lược then chốt.
Tân Cảnh có nhiều kỷ niệm vui buồn với TQLCVN. Cố Chuẩn Tướng Nguyễn Bá
Liên, vị
cựu Tư Lệnh TQLCVN, 1963 - 1964, cấp chỉ huy tài ba,
đã nhiều lần xua quân vào
Biệt Khu 24, đánh những trận tuyệt vời trong mùa chiến dịch 1968-1969,
trước khi
tử nạn trực thăng trưa ngày 6 tháng 12 năm 1969 tại đỉnh Dat-Rekat,
không xa Tân
Cảnh bao nhiêu.
Trận Đức Cơ 1965, Chiến Đoàn A TQLCVN của "Ông Già Hự" (Cố
Đại Tá Nguyễn Thành
Yên) với Tiểu Đoàn 2/TQLC của Thiếu Tá Hoàng Tích Thông và Tiểu Đoàn
5/TQLC của
Thiếu Tá Dương Hạnh Phước đã tham dự trận đánh giải vây Trại Lực Lượng
Đặc Biệt
Đức Cơ và mở đường tiếp tế cho trại dọc theo Quốc Lộ 19B. Thời gian
này, Đại Tá
Tôn Thất Hùng là Tham Mưu Phó được tăng phái làm phụ tá Tư Lệnh kiêm
Tham Mưu
Trưởng hành quân Biệt Khu 24 cho Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, vì Đại Tá
Hùng am hiểu
nhiều về tình hình và địa thế toàn vùng Cao Nguyên hơn ...
Trận Bình Giả của Tiểu Đoàn 4/TQLC năm 1964; tiếp sau đó là cuộc hành
quân truy
lùng địch của các Chiến Đoàn TQLC trong khu vực Bình Giả, quận Đất Đỏ
... thuộc
tỉnh Phước Tuy - Bà Rịa. Lúc này Trung Tá Lê Đức Đạt là Tỉnh Trưởng,
kiêm Tiểu
Khu Trưởng Phước Tuy, và là bạn đồng khóa 6 Võ Bị Đà Lạt, thân thiết
với Trung
Tá Nguyễn Thành Yên, Chiến Đoàn Trưởng kiêm Tư Lệnh
Phó Binh Chủng TQLCVN.
Đôi lời giới thiệu về tác giả:
Đại Tá Tôn Thất Hùng gốc Huế (hoàng phái), nhập ngũ Quân Đội
Pháp (đồng hoá) năm
1945 trong Binh Đoàn Thông Ngôn (Corps Militaire des Interprètes de
Langue
Locale de l'Armeé de Terre, viết tắt là CMILLAT), mà rất nhiều cấp
Tướng và Tá
(các vị đã từng làm việc với ông khi ông còn "phụ trách Đoàn"
(Contrôleur du
CMILLAT) ở cấp vùng (Zone): Vùng Bắc rồi vùng Nam của Quân Đội Pháp ở
Trung Việt
(Zone Nord, rồi Zone Sud des F.T.C.V.)), đã xuất thân (chuẩn bị) từ
"lò CMILLAT"
này, rồi được đào tạo để xuất thân (chính thức) từ các trường Võ Bị
Quốc Gia
danh tiếng như Đà-Lạt (mà tên lúc tiên khởi là Đập-Đá, vì trường được
thành lập tại
địa danh này ở Huế, Thừa Thiên) Nam Định, hay Thủ Đức, và sau này, do
tài năng
của bản thân, đã vươn cao lên trong Chính Phủ và Quân Lực VNCH, điển
hình là quý
vị:
Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh | Tham Mưu Trưởng (TMT) Liên Quân |
Trung Tướng Ngô Dzu | Tư Lệnh Quân Đoàn 2 |
Chuẩn Tướng Võ Dzinh | TMT Không Quân |
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai | TL/SĐ7/BB (đã tuẩn tiết 30 tháng 4 năm 1975) |
Đại Tá Phạm Anh | Thứ Trưởng Bộ Chiêu Hồi |
Đại Tá Vĩnh Biểu | Phụ tá lãnh thổ vùng 1 Chiến Thuật |
Đại Tá Phan Đình Hùng | Tỉnh Trưởng Kontum (cuối cùng) |
Đại Tá Huỳnh Ngọc Lang | Cựu phó An Ninh Quân Đội (đã mất trong ngục tù cộng sản) |
Đại Tá Phạm Ngọc Thiệp | Trưởng Phòng 2 Bộ TTM |
Trung Tá Phan Viết Ba | Tiểu khu phó Tiểu Khu (TK) Khánh Hòa (tử nạn máy bay cùng Tướng Phong) |
Trung Tá Lê Trung Hưng | Tiểu khu phó TK Pleiku |
Trung Tá Nguyễn Đình Hữu | Tùy viên quân lực tại Thái Lan |
Trung Tá Nguyễn Kim Khánh | Tỉng Trưởng Ninh Thuận (giải ngũ năm 1963) |
Trung Tá Nguyễn Mâu | Trưởng khối Cảnh Sát Đặc Biệt |
Trung Tá Lữ Phụng | Trưởng Phòng 2 SĐ23/BB (đã mất trong tù cs năm 1976) |
Thiếu Tá Tôn Thất Cang | Tiểu khu phó TK Phú Yên (bị vc giết năm 1964?) |
Thiếu Tá Phạm Ngọc Côn | TMT TK Kontum |
Xin nói thêm, cũng xuất thân là "anh tẹt nháp" | |
Trung Tướng Trần Thanh Phong | Tử nạn máy bay với Tr/Tá Phan Viết Ba |
Đại Tá Lê Đức Đạt | TL/SĐ22/BB (tử trận ở Tân Cảnh) |
Trung Tá Nguyễn Văn Mười Ba | Cựu An Ninh Quân Đội (đã mất tại Pháp, sau 1975) |
Tháng 12 năm 1954, anh
được chuyển qua Quân Đội
Quốc Gia Việt Nam (hiện dịch) với cấp bậc cũ trong quân đội Pháp là
Trung Úy
(anh là Lieutenant Interprete từ
1950).
Anh đã tốt nghiệp Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp năm 1967 và khóa 3 Cao Đẳng
Quốc Phòng (CĐQP) năm
1970-1971. Từ năm 1959, anh đã từng giữ các chức vụ Tham Mưu Phó
(TMP) rồi Tham Mưu Trưởng (TMT) cấp Sư Đoàn, cấp
Quân Khu và cấp Quân Đoàn/vùng Chiến Thuật (TMT/QĐ2 1968-1970). Mãn
khóa 3 CĐQP,
anh tình nguyện ra lại chiến trường để rồi, lại phải làm
Phụ Tá Tư Lệnh cho 2 vị
Tư Lệnh Sư Đoàn 22-BB (Chuẩn Tướng Lê Ngọc Triển và Đại Tá Lê Đức Đạt
từ 1/3/72). Trong đầu
năm 1972, anh là Đại Tá thâm niên trong hàng cấp Đại Tá của Sư Đoàn
22-BB.
Trong 30 năm quân ngũ, anh đã có 17 năm phục vụ ở Cao Nguyên qua 5
nhiệm kỳ, có
nhiều huy chương mà trong đó có 2 chiến thương. Anh có biệt danh là
"Hùng Râu",
với hàng ria mép tỉa đẹp như tài tử Clark Gable và thích hút ống
"pipe" (ở thắt
lưng, luôn luôn có 2 pipes đựng thuốc pipe hiệu Captain Black). Trong
QL/VNCH
trước 1975, chỉ có 4 Sĩ Quan được phép bộ TTM cho để "ria":
Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại
Tá Hà Xuân Vịnh (Không Quân), Đại Tá Nguyễn Văn Bạch (Công Binh) và
anh. Bạn bè thường cho là
anh giống tài tử Gregory Peck. Từ 1947, anh thường uống rượu mạnh
(trong bidon
hành quân luôn luôn là Martell, Hennessy hoặc Remy Martin), cũng như
xoa mạt
chược thì (quen) không hề xếp bài (chưa khi nào "chao
ù"). Tháng 9 năm 1994, sau
khi được mổ tim và đeo máy trợ tim, anh đã bỏ hẳn pipe, rượu và mạt
chược.
Mũ Xanh Sài-Gòn cùng Chiến Đoàn A TQLC từng sát cánh hoạt động hành
quân trong
tình chiến hữu với anh qua các trận chiến Dakto, Pleime, Đức Cơ ...
trong năm
1965-1966.
Sau năm 1975, lại là bạn tù thân thiết của 13 năm tù "cải
tạo cộng sản", từ trại
tù Yên Bái, xuống Hà Tây, Hà Nam, và vào Long Khánh
...
Hơn 10 năm định cư tỵ nạn tại Mỹ, tháng 7 năm 2004, nhân dịp tôi tham
dự Đại Hội
kỷ niệm 50 năm thành lập Binh Chủng TQLC/VN
tổ chức tại Houston, Sẳn trớn, tôi bay qua San Jose, thăm các chiến hữu
TQLC,
gia đình Hậu Nghĩa, dự kỷ niệm 50 năm lớp Khải Định Huế 48-55, và đặc
biệt các
chiến hữu cựu tù nhân chính trị ở Bắc Cali này. Tôi được dịp gặp lại
anh lần đầu
tiên tại Mỹ, cùng với anh Vũ Quang Chiêm, anh Phan Đình Hùng, anh Bùi
Đức Tài,
anh Võ Quế và nhiều anh em chiến hữu khác.
Lần hội ngộ ngày 17 tháng 7 năm 2004 tại thành phố San Jose, chúng tôi
được đải
ăn món Dim Sum tại nhà hàng Royal City, có cả anh chị Tôn Thất Hùng
tham dự.
Buổi ăn ngon trong bầu không khí thân tình chiến hữu, biết bao nhiêu kỷ
niệm vui
buồn kể cho nhau nghe mà không thể nào kể hết. Buổi hội ngộ thật đáng
nhớ suốt
đời và không biết có còn dịp khác nữa không?
Anh năm nay đã 80 tuổi, cơ thể tuy bị giải phẩu 16 lần (2 lần do bị
thương ở
chiến trường VN năm 1947 và 1972, 6 lần mổ tim ...) về nhiều căn bệnh
khác nhau.
Sức khỏe may mắn là tốt, nhờ sự chăm sóc của chị Hùng đã 50 năm nay.
Tinh thần
vẫn còn sáng suốt và minh mẫn. Lúc tôi hỏi anh về trận Đức Cơ, Tân Cảnh
... anh
vẫn còn nhớ các chi tiết để giải thích những điểm thắc mắc của tôi. Anh
sống
thoải mái và hạnh phúc với gia đình ở Milpitas, các con đã trưởng thành
và thành
đạt... đầy đủ cháu nội, ngoại. Trong số 3 cháu nội trai, luôn luôn đứng
đầu lớp
(tiểu học), có 1 đưá có lẽ sẽ nối nghiệp "lính" của ông nội,
vì thích mặc đồ
lính rằn ri và sống rất kỷ luật.
Vào
Chuyện: Về Từ Tân Cảnh
(Bài soạn thảo và đúc kết các dữ kiện
quan
trọng này do Mũ Xanh Sài-Gòn viết lại trong tập sách 215 trang chính
...)
Phần Một: "Bình Hải" chưa xong đã phải lên "Sơn
Trấn"
Mùa hè đỏ lửa 1972 - Mặt trận Kontum
Trong tháng 3 năm 1972, Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng
Phòng 2 Quân Đoàn II
(TP2/QĐ2), đã ghi
nhận được các tin tức tình báo là Tướng CSBV (công sản Bắc Việt) Hoàng
Minh Thảo
đã huy động ba Sư Đoàn: 2, 320 và F10, được yểm trợ bởi Lữ Đoàn 203 xe
tăng và
nhiều Trung Đoàn pháo để chuẩn bị cho chiến trường Kontum.
Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II, sau khi hội ý với Cố Vấn
Trưởng Quân Đoàn II
là John Paul Vann, đã phối trí BTL/TP (Bộ Tư Lệnh Tiền Phương) Sư Đoàn
22 BB do
Đại Tá Lê Đức Đạt làm Tư Lệnh, vừa nhận bàn giao của Chuẩn Tướng Lê
Ngọc Triển
kể từ 1 tháng 3 năm 1972.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Hành Quân, đồn trú chung với Bộ Chỉ Huy Trung
Đoàn 42 của Trung Tá Nguyễn Hữu
Thông, đã hoạt động tại Tân Cảnh từ trước. Ba Trung Đoàn 41, 42 và 47
hoạt động
trong khu vực Tân Cảnh - Dakto cùng với một Thiết Đoàn Kỵ Binh và Lữ
Đoàn II Dù.
Ngày 14 tháng 4 năm 1972, trận địa pháo của cộng sản Bắc Việt đã đổ ập
xuống căn
cứ "Charlie", người hy sinh đầu tiên lại là Trung Tá Nguyễn
Đình Bảo, Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù.
Từ ngày 20 đến 22 tháng 4 năm 72, các Sư Đoàn CSBV áp sát vòng đai Tân
Cảnh. Đại Tá Trịnh
Tiếu, TP2/QĐ2 xin tiến hành ngay kế hoạch tiêu diêt địch bằng B-52 mà
trước đây
Tướng Ngô Dzu và Cố Vấn John P. Vann đã tiên liệu. Điều bất ngờ là John
P. Vann đã
từ chối lời yêu cầu dùng B-52 để "dọn sạch" đối phương!
Nguyên nhân là John P.
Vann không muốn yểm trợ cho Đại Tá Lê Đức Đạt. Vann có ác cảm với Đại
Tá Đạt vì
Đại Tá Đạt lên nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh
(TL/SĐ/22-BB) ngoài ý muốn của Vann !?
John P. Vann nguyên là cố vấn trưởng, cấp bậc Trung Tá cho Đại Tá Huỳnh
Văn Cao
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB vào năm 1961-1962. Trong trận Ấp Bắc I, 1962, ở
Định Tường
mà CSBV tuyên truyền láo khoét là chiến thắng "vẻ vang". Trớ
trêu thay, cố vấn
J.P. Vann của SĐ7/BB, Đại Úy J. Scanlon cố vấn "hèn nhát" của
Đại Đội 7 - M113
do Đại Uý Lý Tòng Bá làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 7-M113, và nhà báo
thiên tả Neilshehan, cả 3
người hợp lại, tạo một "scandale" về trận Ấp Bắc I, bóp méo
sự thật và nói xấu
Quân Đội VNCH. Trong trận Ấp Bắc I, Đại Tá Bùi Đình Đạm nắm quyền Tư
Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Theo nhận xét của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá thì J.P Vann là một sĩ quan cố
vấn có
tình tình nóng nảy và hăng say quá độ, và có thái độ trịnh thượng đối
với mọi
người...
Sau trận Ấp Bắc I, J.P. Vann giải ngũ và về Mỹ. Năm 1966, Vann trở lại
Việt Nam,
từ 1967-69, với tư cách là quan chức dân chính cao cấp của Mỹ, Vann chỉ
huy cơ
quan CORDS (Civil Operations Revolutionary Development Support) mà
chính phủ
VNCH có tên gọi là "Trung Tâm Bình Định Phát Triển". Khi được
bổ nhiệm làm cố
vấn trưởng QĐII. Vann tranh đấu để được hưởng quyền lợi ngang hàng với
một cấp
tướng của quân đội Mỹ.
Sau trận Kontum kiêu hùng năm 1972, John P. Vann đã tử nạn trực thăng,
lúc đang
bay từ Pleiku đi Kontum... Vann có vợ Việt Nam...
Ngày 22 tháng 4 năm 1972
Từ Bà Gi, bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22-BB, Qui Nhơn, lúc 8
giờ sáng, một trực thăng cất cánh đi Tân Cảnh, chở Đại Tá Tôn Thất
Hùng, Cố Vấn
Phòng 3, Trung Tá Crunk, Thiếu Tá Phú, Đại Úy Châu thuộc Phòng 3 Sư
Đoàn và
Trung Úy Bình thuộc Đại Đội Tổng Hành Dinh ... qua khỏi đèo Mang Yang,
đỉnh đèo
trên Quốc Lộ 19 là tới Pleiku. Trực thăng dừng lại để đổ xăng, luôn
tiện để các
sĩ quan tham mưu vào liên lạc phối hợp với Bộ Tham Mưu Quân Đoàn II;
sau đó là
tiếp tục lên Tân Cảnh.
Sáng nay địch lại pháo kích vào Tân Cảnh. Trực thăng phải bay lượn kiểu
bươm
bướm từ Diên Bình lên. Đang ở độ cao 700 mét rồi bay đứng (hovering)
ngay một
chỗ, và nhào xuống, nhào thẳng xuống bải đáp, là sân cờ của đồn Tân
Cảnh. Mọi
người trên trực thăng đã chuẩn bị sẵn sàng tư thế, nhanh nhẹn nhảy
xuống đất, để
trực thăng cất cánh ngay, tránh đạn pháo của địch. Lúc này đúng 11:00
giờ trưa ...
Hai ngày rưởi cuối cùng tại bản doanh chiến thuật của Tư Lệnh họ Lê.
Đại Tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB |
Đại Tá Hùng đến hầm thuyết trình thì gặp ngay
Đại Tá Lê Đức Đạt, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, đang ngồi nghe
Trung Tá
Nguyễn Văn Tân, Trung Đoàn Trưởng 47, trình bày tình hình tại khu vực
trách
nhiệm. Bên cạnh là Đại Tá Kaplan, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn 22 Bộ Binh, đẫy
đà và
mạnh khỏe như lực sĩ ... Ông Tư Lệnh có vẻ mệt mỏi, chắc vì nhiều đêm
thao thức
trằn trọc. Nhưng sau cặp kính "nhốp" trắng, tia mắt vẫn thông
minh, nhanh nhẹn
... Trong buổi chiều 22 tháng 4 năm 72 Tân Cảnh lãnh thêm cả ngàn quả pháo, cà 122 ly lẫn 130 ly. Nhưng không có thiệt hại nào về nhân mạng. Vì quân nhân mọi cấp, luôn luôn khôn khéo, ẩn vào các hầm hố tại các vị trí chiến đấu đã ẩn định từ trước. Mỗi khi cần liên lạc, địch vừa dứt pháo, với nón sắt, áo giáp, vũ khí cầm tay, họ nhanh chân chạy "zích-zắc" theo cái giao thông hào. 20:00 giờ, Quận Trưởng Dakto, Thiếu Tá Lò Văn Bảo, báo bằng C-25: - Có nghe tiếng chiến xa địch đang rú ở vài cây số hướng Tây, có lẽ hướng suối Dak-Ngay. Cố Vấn Kaplan cũng được Bộ Tham Mưu Sư Đoàn thông báo, nhưng không tin! Mãi đến khi Cố Vấn Chi Khu xác nhận, Kaplan mới cho gọi Cố Vấn Quân Đoàn II, xin phi cơ C-130 "spector" có trang bị đại bác 57 ly, lên quan sát và tác xạ khi cần ... Đến 22:00 giờ, phi cơ "spector" báo cho hay là đã quan sát có khoảng 9 hay 10 thiết giáp địch đã bị pháo của Sư Đoàn 22 bắn hạ và đang bốc cháy trên Quốc Lộ 14. Có một vài chiếc chạy về hướng sông Tân Cảnh.... Ngoài ra "spector" còn hạ được 2 chiếc khác. Mệt mỏi quá, tất cả nhân viên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Hành Quân từ Tư Lệnh trở xuống đều qua một đêm không ngủ ... chờ mãi cho đến sáng, chẳng có tin tức gì hấp dẫn hơn Ngày 23 tháng 4 năm 1972 Một Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã giao tranh với địch quân tại một vị trí gần Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 (BTL/SĐ22) Tiền Phương, Tân Cảnh. Cũng trong ngày này, cộng quân pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hoả tiển 122 ly và AT-3 Sagger tầm nhiệt. Lực lượng chiến xa bảo vệ BTL/SĐ22 Hành Quân lúc bấy giờ chỉ có 10 chiếc chiến xa, đang điều động dàn đội hình ngăn chặn địch, đã bị hỏa tiển của cộng quân bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích... Thiếu Tá Nguyễn Bá Như, Trung Đoàn Phó 42, cùng Đại Úy Cố Vấn Kenneth Yoman đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12 ly 7 để tác xạ địch, cũng bị hỏa tiển Sagger bắn trúng, bồn nước nổ tung và cà hai vị sĩ quan này chết tại chỗ. Khoảng 10:00 giờ tối ngày 23 tháng 4 năm 72, tại Quận Dakto, cách Tân Cảnh 2 km về phiá Bắc, đơn vị trú phòng quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T-54 của CSBV tiến về hướng Quận. BTL/QĐ-II đã đưa C-130 spector lên thả trái sáng; trong khi đó 15 chiến xa T-54 khác của địch chạy về Tân Cảnh. Phi cơ C-130 spector tác xạ để ngăn chận chiến xa địch, nhưng không có hiệu quả. Vì loại phi cơ này không có đạn chống chiến xa. |
Tình hình chiến sự tại Tân Cảnh đã bước vào những giờ phút quyết định
của cuộc
chiến ...
Từ tờ mờ sáng, Chi Khu Dakto đã tung thêm nhiều toán thám sát Địa
Phương Quân
vào vùng Kon-Hojao. Trung Đoàn 42 thì làm chặn dưới, từ hướng sông Tân
Cảnh lục
soát đến đèo Dakto. L-19 từ Kontum lên, tham gia vào cuộc truy tầm.Còn
khu trục
thì đã sẵn sàng tại Pleiku.
Ầm! ầm! Một chiếc M-41, một trong vài chiếc còn lại, đang án ngữ tại
Trung Tâm
Hành Quân, được lệnh di chuyển ra cổng chính để tác xạ vào một lô cốt
bê-tông,
đã bị đặc công cộng sản chiếm trong đêm. Ra gần tới cổng trại, chiếc
M-41 bị ngay
hỏa tiển điều khiển của giặc từ hường dãy núi phía Đông thị trấn bắn
vào. Chiếc
M-41 bốc cháy ngay. Hỏa tiển này, là loại vũ khí mới của địch, có mức
bắn tầm xa
bằng súng cối 82 ly, có tên là AT-3 Sagger tầm nhiệt. Từ hướng Đông và
Nam doanh
trại, tiếng súng phóng lựu RPD và AK-47 của địch lại nổ dòn. Tiếng đại
liên M-60
của quân ta bố phòng, lại bắn trả dữ dội.
Buổi thuyết trình sáng hôm ấy, chấm dứt lúc 8 giờ 30 sáng; các cấp chỉ
huy xuống
hầm Trung Tâm Hành Quân để hội ý về những kế hoạch trong ngày và kế
tiếp ...
Nhịp độ làm việc rộn ràng và khẩn cấp. Bổng có tiếng "ziu - zu!
ziu! zu! ziu!"
đột nhiên từ khoảng lỗ thông hào của phòng Truyền Tin bay vút vào ...
qua mặt
Đại Tá Đạt, Cố Vấn Trưởng Kaplan, Đại Tá Vy Văn Bình Chỉ Huy Trưởng
Phòng Thủ
Căn Cứ và Đại Tá Hùng ... một hỏa tiển bay qua luôn trước mặt Trung Tá
Châu
Truyền Tin ngồi gần đó, ... và nổ "ầm" ... sau khi chạm vào
tường và dội lại...
nổ ngay, cách bàn giấy Đại Tá Đạt hơn 1 mét. Một sĩ quan Phòng 3 hy
sinh ngay
tại chỗ, Thiếu Tá Phương, sĩ quan liên lạc Biệt Động Quân Biên Phòng
nằm đè lên
bất tỉnh. Một số sĩ quan Việt-Mỹ khác bị thương. Giấy tờ và bàn ghế bắt
đầu bén
lửa ... cháy... nhốn nháo và hỗn loạn.
Trong khi đó, pháo 122 ly và 130 ly của địch tiếp tục nổ ở sân cờ, ở
hàng rào
phòng thủ, và một số cơ sở trong doanh trại. Tiếng nổ thật chói tai...
Tất cả quân nhân thuộc Bộ Tham Mưu Sư Đoàn còn lại, đều phân tán ra các
giao
thông hào, sẵn sàng chiến đấu tự vệ, vì lúc ấy đã nghe rõ tiếng AK-47
của địch
nổ chát chúa ở Cổng Chính... Một số sĩ quan Tham Mưu đã rút an toàn qua
hầm
Trung Tâm Hành Quân của Mỹ... Tuy nhiên thân tình Việt-Mỹ đã bắt đầu
bất ổn. Cố
Vấn Kaplan đi tới, đi lui, nét mặt đăm chiêu khó chịu. Trung Tâm Hành
Quân mới
này, chật chội vì nhiều người quá... hơi người nồng nặc... bình nước
uống thật
lớn, trên bàn cạn dần...
Khoảng hơn 11:00 giờ trưa, Trung Tá Nguyễn Hữu Thông, Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn
42, cùng với Đại Úy Dobbins bước vào Trung Tâm Hành Quân mới, và trình
với Đại
Tá Đạt Tư Lệnh SĐ-22:
- Địch xuất hiện khá nhiều ở Đông và Đông-Nam doanh trại.
- Cobra (trực thăng võ trang) đang hoạt động mạnh và hữu hiệu.
- Diên Bình đã sắp xếp tạm xong.
- Tiểu Đoàn 2/42 đang lục soát ở ven thị trấn.
- Thành phần còn lại, kể cả Tiểu Đoàn 4 là đơn vị đang giải tán, vẫn từ
doanh
trại bung quân ra và đang cận chiến nhiều nơi với địch.
- Không liên lạc hàng ngang với Trung Đoàn 47 ở Phượng Hoàng được.
- Chưa có báo cáo gì của toán Địa Phương Quân Chi Khu Dakto...
Vào lúc 17:00 giờ, Đại Úy Lâm, Không Quân và 2 nhân viên khác từ bên
hầm tiếp vận,
uể oải bước vào, sau khi báo cáo đã hoàn tất việc tải thương...
Chiều nay sự giao thiệp giữa Đại Tá Đạt và cố vấn Kaplan không còn đượm
vẻ tương
đắc như trước nữa. Tuy không nghe rõ hai người nói gì với nhau, nhưng
qua nét
mặt từ từ ửng đỏ của vị Tư Lệnh, Bộ Tham Mưu biết rằng ông đã kém
vui...
Vì biết tình hình nghiêm trọng, sau khi thảo luận với Quân Đoàn II, Đại
Tá Đạt
chỉ thị rút Tiểu Đoàn 9 Dù ở Ngok-Tu về tăng cường cho Tân Cảnh. Tuy
nhiên vì
không liên lạc truyền tin được, nên Trung Đoàn 47 không chuyển lệnh
được cho
Tiểu Đoàn 9 Dù...
Ông Tư Lệnh thở dài... rồi dùng siêu tần số liên lạc với Tướng Ngô
Dzu... Một
lúc sau, Đại Tá Đạt hội ý với Bộ Tham Mưu:
- OK! Quân Đoàn thuận cho mình rút! kể từ ngày mai.
Anh em lại nhìn nhau. Nghĩ rằng, quyết định ấy có hởi trể (?). Vòng vây
của
địch, ngày càng siết chặt. Rồi! Cái gì cũng quá muộn rồi! Trầm ngâm...
thở
dài... Lúc ấy vào khoảng 21:00 giờ đêm 23 tháng 4 năm 1972.
Máy móc và tài liệu mật mã truyền tin đã cháy hết rồi, trong buổi sáng.
Nhưng
rồi Bộ Tham Mưu cũng đã ngụy đàm được với hai vị Trung Đoàn Trưởng 42
và 47. Vắn
tắt cho họ biết quyết định trên. Dặn 47 cho Thiếu Tá Quận Trưởng Dakto
biết lệnh
ấy luôn. Vẫn không liện lạc được với Tiểu Đoàn 9 Dù!?
Chủ Nhật ngày 24 tháng 4 năm 1972
Quá nữa khuya, 23 rạng ngày 24, qua điện thoại của Đại Tá Trịnh Tiếu,
cho biết
Trung Tướng Ngô Dzu và toàn bộ Tham Mưu Quân Đoàn II, đang ngồi trực ở
Trung Tâm
Hành Quân (TTHQ) để theo rỏi tình hình ở Tân Cảnh... Đại Tá Hùng thay
mặt trả
lời, là tuy anh em đều mệt mỏi, tình hình hơi nản, nhưng chúng tôi vẫn
vững tinh
thần, và còn tiếp tục chiến đấu được...
Tội nghiệp cho anh em, kể cả Tư Lệnh Đạt, cực nhọc đã hơn 80 ngày
rồi!
03g00 sáng, Trung Tướng Ngô Dzu gọi điện thoại thăm hỏi tình hình và
được Đại Tá
Hùng báo cáo là tinh thần anh em rất bình tĩnh, rất tốt...
05g00 sáng, từ trong hầm TTHQ, nghe rõ nhiều tiến nổ M-72, nghe hệ
thống máy
truyền tin C-25 của Trung Đoàn 42; có giọng báo cáo khẩn cấp, nhiều
"tăng" T-54
địch xuất hiện ngay ở cổng chính và phiá Bắc Trại. M-72 của quân bạn
bắn tới tấp
mà không ngăn cản nổi...
Qua hệ thống siêu tần số, liên lạc với Quân Đoàn, lúc ấy là 6 giờ kém 5
phút,
sáng thứ hai ngày 24 tháng 4 năm 1972, Đại Tá Hùng gặp được ngay Đại Tá
Lê Quang
Bình, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- "Tăng" địch đã xuất hiện ở ngay cổng trại Tân Cảnh. Anh cho
Không Quân lên
ngay. Tôi chấm dứt liên lạc với anh từ nay... Chào...
Và chỉ nghe tiếng "chao ôi" của người bạn cũ trong máy!!!
- Trình Đại Tá Tư Lệnh, có gì thì cũng đến 7g00 sáng mới "nổ"
lớn!
- Kaplan đâu? Đại Tá Đạt hỏi
- Họ rút rồi!
- Khi nào?
- Lúc nãy, cách đây vài phút (!?)...
Nhận thấy tình hình vô vọng, Cố Vấn (CV) Kaplan, CV Trưởng Sư Đoàn 22
Bộ Binh,
đã liên lạc khẩn cấp yêu cầu CV Truởng Quân Đoàn II, John P. Vann, bay
lên cứu
ông và toán CV Mỹ!. Khoảng 4:00 giờ sáng, John P. Văn lái trực thăng
trinh sát đặc
biệt OH-58KIOWA, loại mới nhất của Không Quân Mỹ, đáp xuống một bãi đáp
rất hẹp,
bên cạnh bãi mìn để bốc Kaplan....
Trung Đoàn 47 báo cáo, bộ chỉ huy Trung Đoàn đang bị địch tấn công
mạnh, giọng
của Trung Đoàn Trưởng 47, mới vừa lên trong máy, đã tắc nghẹn! Như vậy,
cánh
quân của 47 từ sân bay Phượng Hoàng... không về đến Tân Cảnh được
nữa... Mất
liên lạc với 47 luôn!
Vậy quân trú phòng bảo vệ cho Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Sư Đoàn đã ra sao?
Phải
chăng là địch đã lần hồi chiếm được phòng tuyến Đông của trại rồi?
Nghĩa là nay
Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật... chỉ còn vỏn vẹn nhân viên Bộ Chỉ Huy mà thôi.
Sắp đến
lúc phải "tự lực cánh sinh". Lúc này khoảng 14g00...
Sau cặp kính "nhốp" trắng, đôi mắt ông Tư Lệnh long lanh...
trông buồn quá,
nhưng vẫn hùng dũng...
- "Râu" à! Dù ông "Alpha" (Tư Lệnh Quân Đoàn II)
hứa cố gắng đem trực thăng đến
cứu anh em mình; nhưng khó mà đáp xuống được trong tình hình này! Hãy
tính cách
mà thoát ra bằng đường bộ thì có hy vọng hơn?
... Phải chăng đây là giờ hấp hối của chúng tôi?
- Không! không thể được! phải làm một cái gì để mà thoát.
Bộ Tham Mưu nhanh chóng hội ý:
- Nên rút hết ra ngoài! Thế giặc đang mạnh! Ra ngoài mà chiến đấu! Biết
đâu được
việc hơn? ... Xin Quân Đoàn cho thêm vài phi tuần nữa, thả bom phá vở
hệ thống
mìn của trại, rồi mở đường máu mà ra... Nên mở đường máu ra! Ra ngoài,
thoát vào
rừng, có nhiều may mắn hơn là chịu kẹt ở trong này...
Sau phút suy tư, ông Tư Lệnh quyết định:
- OK! Mở đường máu ra!
Lúc này khoảng hơn 15:00 giờ!
Điểm hẹn Diên Bình!
Còn...mất... trong đường tơ kẻ tóc.
- Xung phong! xung phong!
"Hùng Râu" quạt liền cả băng đạn colt vào hướng giặc... Tiếng
súng M-16, AK-47,
Trung liên của đôi bên nổ dòn... hổn loạn... "Hùng Râu" và
vài quân nhân chạy
lúp xúp theo đường mương, cạnh Tỉnh Lộ 512, đường đi lên sân bay... Ầm!
ầm! ...
- "Râu"! nằm xuống đã!
"Hùng Râu" vừa vội nằm xuống... thì một quả đạn... bay vút
ngay trên đầu, rớt
xuống và cày nát đám đất gần đấy...
Nhìn lại thấy Tư Lệnh Đạt, Trung Úy Tùy Viên Tiến, Trung Sĩ Thọ và hai
cận vệ
khác, đang nằm dài trong một cái hố tròn, rộng, bên vệ đường...
- Can gì không?... can gì không? ... "Râu"?
Đại Tá Đạt hỏi khẻ, khi thấy tôi nằm
xuống! Chống tay trái, mà nhăn mặt, có vẻ đau đớn!
- Nhẹ thôi! có lẽ khi nãy, bị một hoặc hai mảnh nhỏ 82 ly gì đó trên
khủy tay
trái...
- Cậu tính sao? Anh em thoát ra hết cả rồi!
- Tôi thấy có môt số chạy xuống hướng kho đạn, một số tiến lên sân bay
L-19.
- Khoan đã ông ơi! Tạm dừng đây, xem tình hình đã. ..."Hùng
Râu" trả lời: Khoan,
đừng gấp! Tư Lệnh ơi!
- Ở hướng Bắc và Đông, có nhiều lùm cây. Các hướng khác trống quá! Lát
nữa, lúc
bớt pháo, mình "dzọt" qua bên đó, tôi sẽ đi! Ông tính
sao?
- Thôi! tôi "dzọt" trước, chứ ở đây lạnh lắm!
Rồi ông Tư Lệnh gọi khẽ:
- Tiến, Thọ! theo tao! ...
Và cả hai người cận vệ kia ... cùng theo luôn ba thầy
trò ông Tư Lệnh... Tôi ở lại vị trí một mình.
Lát sau, tôi đành men theo bờ mương của Tỉnh Lộ 512, và cùng đi theo
vài quân
nhân đi đàng trước... Trước mặt, xa hơn một chút, Đại Tá Đạt đang cẩn
thận
tiến... Trung Úy Tiến lúp xúp đi trước, Đại Tá Đạt đi giữa, Trung Sĩ
Thọ đi sau.
Không thấy hai cận vệ khi nãy nữa? Chắc họ "dzọt" hướng khác
rồi!
Đạt Tá Đạt lúp xúp lên dốc... cái dốc dẫn đến sân bay L-19... Và lúc
ấy, súng nổ
vang... Các lùm cây, rặng cây ở hướng Đông mà tôi dự trù sẽ ẩn vào
đó... các lùm
cây ấy... bỗng đứng dậy! và chạy nhanh về hướng mà thành phần Bộ Chỉ
Huy mới
thoát về phía trước... Tôi liếc nhanh đồng hồ 17g45... gặp ngay một bụi
cây...
tôi liền chui vào... và may mắn nhất, dưới lùm cây này,,, có môt cái hố
thiên
nhiên. Có lẽ do nước chảy xoáy theo đường mương, tạo thành... Tiếng
súng nổ
vang... nổ dòn khá lâu...
Mưa... mưa...mưa to quá... Đúng 19g00... Trời đã tối hẳn. Tốt, chuẩn bị
chuồn
thôi! Liếc nhìn đồng hồ dạ quang, đúng 20:00 giờ! Bầu trời bổng nhiên
sáng
choang. Phi cơ "Hỏa Long" đang thả trái sáng hỏa châu, trên
bầu trời Tân Cảnh...
Phần Hai: Hoành Sơn Nhất Đái - Vạn
Đại Dung Thân - Cô độc lữ hành.
Ngày một (24 tháng 4 năm 1972)
Đồng hồ dạ quang chỉ 21:15 giờ, bò ra khỏi bụi cây, áo quần ướt sũng.
Vẫn còn
nón sắt, áo giáp, "bi-đông" còn một phần Hennessy! Kiểm soát
lại đạn dược... đã
xài hết 3 "sạt-gơ" rồi, còn 1 "sạt-gơ" trong súng.
Một lát, đã tiến tới quá dốc
đưa đến sân bay L-19. Chỗ mà khi chiều hồi 17:45 giờ còn thoáng thấy Tư
Lệnh Lê
Đức Đạt...
Không còn một ai hết! Yên lặng quá! Mùi máu đâu đây! Máu của bạn hay
thù? Phía
sau lưng, tiếng nổ ở trại Chu Văn Tiếp vẫn tiếp tục. Kho đạn tiếp tục
nổ. Chỉ
còn một mình ta thôi! Con đường về Diên Bình xa lắm! Như thế mình cũng
cách Tân
Cảnh được 5 hay 6 cây số gì rồi!
Ngày hai (25 tháng 4 năm 1972)
Mấy giờ rồi? 5 giờ sáng rồi! Tiến thối lưỡng nan. Đi nữa thì trời sắp
sáng rồi!
Đây là đâu, cũng chẳng biết nữa? Kiếm một chỗ trú ẩn, rồi tính sau...
Đã 06:00
giờ chiều. Qua được một ngày. Bụng đói cồn cào. 10:00 giờ đêm, khởi
hành đi
thôi! và lặng lẻ như bóng ma, như một Frankenstein! Nhắm theo hướng Bắc
và
Tây-Bắc mà bước, Trên trời, chùm Đại hùng tinh với ngôi sao Bắc Đẩu chỉ
về hướng
Bắc...
02:00 giờ sáng rồi, chắc đúng là cái suối hôm qua. Như vậy không còn xa
Phượng
Hoàng bao nhiêu nữa. Lại lủi thủi đi nữa! "Cô độc lữ
hành....!"
À, cái nhà ga phi cảng cũ của Phượng Hoàng đây rồi. Chỗ mà năm xưa,
Thiếu Tướng
Linh Quang Viên cùng Đại Tá Hoàng Văn Tỷ Tư Lệnh Phó, đầu năm 1964 thì
phải, đã
đưa bản doanh chiến thuật Sư Đoàn lên đóng tại đây cả tháng! Tung quân
đánh
thẳng vào hướng Tây của mật khu Đỗ Xá đó!... Sông Dak Pako! Múc nước đổ
đầy "bi
đông"... vượt qua cầu bộ hành... Trời mờ mờ sáng, 6 giờ rồi mà
sương mù quá
cở... Một xác, hai xác, ba xác.... toàn là xác Biệt Động Quân... Thôi
"chuồn"
gấp!
Mặt trời lên cao. Á! chỗ này có nhiều mây rừng chằng chịt... có thể là
một chỗ
ẩn núp tốt. Rời Tân Cảnh đã 2 ngày rồi, nhưng đã đói 4 ngày. Vì hôm 23
và 24 chỉ
được chút gạo sấy vào bụng vá 1 tô mì gói thôi... Thâm sơn giá lạnh.
Trời đất
mênh mông. Chả lẽ ta ta phải tuyệt tích oan uổng ở đây? Chết không một
lời trăn
trối cho vợ con!... Đêm trường thật là vắng tanh. Lạnh... muỗi quá. Có
nhắm được
phương hướng của dãy Ngok-Kon-Krin để đi lên phía của căn cứ hỏa lực
"5" không? ..."Buôn" nào đây? Vào kiếm
cái gì ăn đã. Phải dò dẫm thật cẩn thận... chả có ai cả! Mừng quá...
thơm, thơm,
thơm nhiều quá! cả một rừng thơm. Trời giúp ta rồi. Thôi! không có dao
thì thôi.
Ta hãy dùng răng mà cắn vỏ thơm vậy! Đau ơi là đau. Cạp vá cắn cho hết
vỏ của 10
trái thơm này, toét cha nó cả hai môi. Đau quá! Tuy nhiên chất ngọt của
thơm rót
vào huyết quản... thật là êm dịu, làm cho tỉnh hẳn người lại. Sống rồi,
có thêm
sức rồi!
Ngày ba (26 tháng 4 năm 1972)
Hôm nay đã là ngày thứ ba, mà mình đã thoát khỏi Tân Cảnh. Như một con
cá sẩy
lưới. Khẩn cấp vô cùng!
"Buôn" nào đây? Phải chăng là làng
Dak-Rao-Kuan! Nhưng dân làng đi đâu hết rồi? Địch cũng đi qua đây rồi!
Chúng đã đập phá hết vật dụng, dụng cụ của dân làng... Tốt quá, tìm
được một con
dao rừng. À! lại có cả một chiếc áo "chandail"
nữa chứ! Quanh "Buôn" này có cả mấy vườn thơm. Lại bẻ, gọt vỏ
cả hơn chục trái.
Đem theo phòng hờ. Chứ biết còn mấy ngày nữa? Lương khô của ta
đây!...
Phành phạch!... Phành phạch! ...
Tiếng trực thăng từ đàng xa vang dội đến. Đồng hồ chỉ 6 giờ 20 sáng.
Nhưng trực
thăng chỉ xẹt qua đầu rồi đi thẳng luôn! Mình đâu có phương tiện gì
liên lạc với
họ... Thôi thế là hết rồi! Còn gì hy vọng nữa? Dùng răng cắn lần hồi
các mấu
chỉ, các cấp hiệu, huy hiệu "Tam Sơn Nhị Hà" (SĐ-22-BB) và
bảng tên. Rồi lấy dao
róc lần... Lấy chúc bùn bôi lên. Chôn hết vào lòng đất mẹ. Áo giáp, nón
sắt nặng
quá. Thôi ta cũng giã từ "mi" tại đây nhé! Tháo nhẫn cưới...
tháo băng tang - Kỷ
niệm ngày cu Huỳnh, đứa con Út mất đó - cất kỷ vào
"báp-phơi". kẻo lở mất, thì
buồn lắm!
Đêm nay lạnh quá, sao lạnh quá!
Ngày tư (27 tháng 4 năm 1972)
Sáng nay, bừng mắt dậy. Nguy to! sao mặt trời lại mọc ... bên tay phải?
Trong
đêm, ta đã loay hoay làm sao ... mà lại đi ngược lên hướng Bắc? Lộn xà
ngầu cả
rồi!
Bụng đói cồn cào. Thơm dự trữ đã hết, không còn gì nữa, trừ "bi
đông" nước...
- Chết cha rồi! Toàn là hầm hố chằng chịt. Có cả dây điện thoại nữa? Ta
đã lọt
vào vị trí đóng quân của địch rồi...Chà! có nhiều nhà tranh quá! Kho
tàng gì của
địch đây? Toàn là lúa. Chỗ nào cũng là lúa. Im phăng phắc. Thôi
"bỏ đi Tám",
chuồn gấp!
Cứ ngày nghỉ, đêm đi, trong giá lạnh và đói rét... Mưa vẫn rơi, mỗi lúc
một nặng
hột hơn... Đây là đâu? Ta đã lạc hướng rồi! Tính nhẩm hôm nay đã sang
ngày thứ
sáu gì rồi!
Cần phải định hướng, tìm ngay chỗ nào có suối nước, mới sống được? Nhịn
đói có
thể chịu đựng ít lâu nữa được... Nhưng không có nước thì xỉu, chóng
chết lắm!
Gặp Ân Nhân
Soạt! giật mình, hoảng
hốt! Nguy tai rồi, cái gì sau rặng tre? Lố nhố... khá
nhiều người Thượng. Đồng bào của
Paul-Nưr (bạn) hay của Y-Jon
(địch) đây? Cả thẩy là 11 người. Trước hết là một lão ông, tuy tuổi đã
cao,
nhưng còn quắc thước. Trên lưng, gùi 1 chiếc va-li, ở trần, mặc 1 quần
xà lỏn đã
bạc màu. Kế đến là 2 lão bà, một bà cụ thì ở trần, bà kia kia mặc áo.
Rồi là 2
thiếu nữ hay thiếu phụ gì đó, khoảng trên dưới 25 tuổi. Và 6 đứa trẻ
nít, đứa
lớn nhất khỏng 10 tuổi và nhỏ nhất là 1 bé đang được bế trên tay, tất
cả là 4
trai và 2 gái...
Tập trung vốn liếng thổ ngữ Djarai, pha lẫn tiếng Việt, hai bên
Kinh-Thượng nói
chuyện với nhau khá lâu... Tôi mới biết đây là hai gia đình hàng xóm, ở
gần Tân
Cảnh. Đã tản cư được mấy hôm rồi. Chớp được yếu tố đó, tôi khuyên họ
hãy cùng
tôi xuôi về Nam, để tìm nơi an toàn tạm trú lánh nạn... Họ đồng ý là
cùng nhau
xuôi làng Kon-Haring.
Tôi ra dấu đói bụng. Họ bẻ cho một phần củ mì, ra dấu cho tôi ăn. Củ mì
sống,
làm sao mà nuốt? Thôi đành nhai ngấu nghiến. Ngòn ngọt, đăng đắng thế
nào đấy?
Và nuốt ực với nước.
Rồi cả đoàn người, dọc theo sông Dak-Pako, xuôi về Nam. Đoàn tổng cộng
12 người.
Đi mãi, đi mãi cho đến khi trời tối hẳn; Đoàn người mới dừng chân nghỉ.
Vẫn bên
cánh sông Dak-Poko... Chưa tới Kontum được. Mà cũng chưa xa Tân Cảnh
bao nhiêu.
Cả đoàn người dừng lại, nấu ăn. Cơm chín rồi! Cơm! Hoan hô! Nồi cơm mì
cũng chín
rồi... Lão ông tên là K'O, còn người con gái, chồng là lính Địa Phương
Quân Tân
Cảnh đã tử trận năm ngoái, tên là Ch'le; Goá phụ kia, con của lão bà,
tên là
Kung.
Mười một ngày đi qua rồi, có lẽ đây là buổi cơm ngon nhất trong đời
tôi... chỉ
một nắm cơm nóng, ăn bốc, vài hột muối sống và một phần ba trái ớt cay,
chia cho
nhau... Nhưng sao mà ngon dữ vậy!
Ăn xong, mọi người nằm xoài ra mà ngủ đêm thôi.. Thấy bà cụ K'O vẫn ở
trần, tôi
liền trao ngay chiếc áo "chandail"
màu nâu tặng bà cụ cho đỡ lạnh. Cụ mừng lắm! goá phụ Ch'le liền đưa cho
tôi mượn
một chiếc "liner-poncho" để quấn vào người mà ngủ.
Ngày bảy (30 tháng 4 năm 1972)
Sáng nay, đoàn người tiếp tục đi về phía Nam. Vẫn chưa vượt sông
Dak-Poko
được...
À! chỗ này chắc đã xảy ra một trận ác chiến giữa Thiên Thần Mũ Đỏ và
địch? Rải
rác một vài áo giáp, một vài nón sắt, một vài nón rừng... lẫn lộn với
vài đôi
dép râu "Bình-Trị-Thiên", vài nón cối bọc vải nhựa của cộng
sản... chỗ này một
cây M-16, chỗ kia một khẩu AK-47 đã gãy ngang...
Đến chiều, khi dừng chân tại một ngọn đồi hoang vu, Ch'le mới cho biết
rằng ở
buôn Kon-Kotu, dân làng đã bị giặc lùa đi hết. Cụ K'O đã lần mò vào đó,
tí nữa
bị lính cộng sản bắt giữ. Khi thấy cộng sản đang tập trung dân làng ở
nhà "rông"
để cán bộ Thượng cộng nói chuyện, cụ K'O đã nhanh chân đánh bài tẩu
mã...
Thế là hướng Kon-Kotu đã bị nghẽn rồi! Không thể tiếp tục xuôi Nam, mà
phải tìm
đường khác để tránh lính cộng sản...
Ngày tám (1 tháng 5 năm 1972)
Đã trở lại dòng sông Dak-Poko rồi. Nước chảy xoáy và hơi sâu. Không bơi
qua
được, nhất là có 6 đứa con nít... May sao, cụ K'O đi lục soát một hồi,
tìm được
một chiếc thuyền gỗ độc mộc; tuy đã bị lủng một vài lổ. Nhưng xài tạm
đuợc. Hãy
tìm cách bít các lổ thủng lại!
Đoàn người lần lượt qua sông. Thật là vất vả, kẻ trước người sau, nắm
tay nhau
giây chuyền. Cứ mấy lần liên tiếp, suýt bị nước cuốn trôi. Cuối cùng
cũng qua
được hết. Mệt ơi là mệt. Kìa! kìa! Đàng trước kia, có một đoàn người!
Thượng có,
cộng sản có! Đông quá! Súng AK có, mã tấu có, lại có cả hai khẩu trung
liên
nữa...May quá, gió thổi ngược từ hướng Đông, nên giặc không phát giác
được...
Bà cụ K'O có vẻ bằng lòng khi thấy tôi lần hồi giống hình dáng của một
người
Thượng; đầu bù, tóc rối, da mỗi ngày một sạm đen hơn; áo quần tả tơi,
mang vớ
thay vì đi giày. Thật không còn thể thống gì nữa... May chỉ còn khẩu
Colt với 2
viên đạn, nhét bên hông trái, áo phủ choàng lên... Lại lên đường!
Đồng bào Thượng, họ khỏe thật. Giờ nào cũng di chuyển được, cứ ba bốn
tiếng đồng
hồ, lại nghỉ 15 phút, rồi tiếp tực đi. Không chút than van.
Ngày mười (3 tháng 5 năm 1972)
Sáng nay sương mù quá. Ngày nay chắc sẽ nóng như thiêu đốt. Nhờ trận
mưa to,
trong đêm, đỡ quá! Các "bình đông" đã đầy nước... Lại tiếp
tục đi... Đến
Kon-Horing. Trong "buôn" có đồng bào Thượng đi ra... Cụ K'O
tiến đến nói chuyện
líu lo, mình chẳng nghe rõ được gì cả! Không biết họ có đi báo cáo cho
cộng sản
đang chiếm đóng trong Kon-Horing không?
Và có 2 vợ chồng đi ra, người chồng là lính Tiểu Đoàn 3/42 cho tôi biết
là có
một số quân nhân của ta đang bị cộng sản bắt giữ làm tù binh, kể cả
Thiếu Tá
Tiểu Đoàn Trưởng 3/42. Đang ngồi trong nhà "rông" của
"buôn làng"...
Ngày mười hai (5 tháng 5 năm 1972)
Đoàn người lại tiếp tục ra đi... Nơi dự trù đến là làng Kon-Trang. Đi
được
nhiêu! Hay bấy nhiêu!... Khuya nay, ướt hết. Một trận mưa to đã đánh
thức mọi
người dậy! Ngủ gà! ngủ gật! Được phút nào hay phút ấy! Giật mình thức
dậy. Đồng
hồ dạ quang đã chỉ 4 giờ sáng rồi. Mọi người lại lên đường. Cụ K'O mò
mẫm bước
trước, mọi người âm thầm theo sau...
Ầm ầm! Ầm! Ầm! ....
Chết rồi! Dường như B-52! Đúng là B-52 rồi! Thả ở đâu mà ta có cảm giác
như là
gần lắm! Nằm im như thế này thật là "lảng". Cả đoàn cứ
"thấp thỏm" sợ bom ném
đến nơi...
Sáng rồi! Đoàn người lại lên đường. Trước mặt Quốc Lộ 14 hiện lên,
nhưng không
thể nào nhận xét là khoảng đường nào? Lại tiếp tục đi. Khi mọi người
đến một xóm
làng, thì chung quanh hoang tàn quá. Dak-Brong ơi! Buồn tênh và vắng
teo. Nhà
cửa cháy rụi. Chỉ còn một tấm bảng nền trắng, chữ xanh ghi "Nhà
Thờ Dak Brong"
- Yuan! (giặc)
Bổng nhiên cụ K'O ra dấu im lặng và nói khẻ, rồi chỉ
lui về phiá tay phải, hướng trên Quốc Lộ 14. Hú viá! Phúc đức quá! Nếu
hồi nãy,
cụ K'O không kịp ghì tay ta lại, thì chuyến này chắc chết hết. Trên dốc
đổ
xuống, một đám cộng sản vũ khí đầy đủ, khoảng 50 tên, đi ngược về phía
Bắc....
Cơm trưa xong, lại tiếp tục lên đường. Vẫn đi bên triền Đông của Quốc
Lộ 14.
Tối nay lại được dừng chân bên khe nước. Tối nay ngủ thật ngon... Đến 3
giờ
sáng, mọi người lục đục thức dậy và lên đường đi cho mãi đến 8 giờ
sáng, thì cụ
K'O chỉ về hướng đàng trước, phiá tay mặt và nói:
- Võ Định!
Đi thật lậu! đi thật lâu, và thật là mỏi chân. Mặt trời đã lên cao.
Thỉnh thoảng
có nghe tiếng L-19 bay trên đầu, có tiếng trực thăng phành phạch...
Chiều xuống dần... Đã bắt đầu hoàng hôn...
Ngô Trang! Ngô Trang! Đúng là đồn Ngô Trang trước mắt ta rồi. Nhưng sao
hoang
vắng thế? Đại Đội Địa Phương Quân đã rút bỏ?! Như vậy ta chỉ còn cách
thị xã
Kontum độ 10 cây số thôi! Không biết tình hình Kontum ra sao? Đói...
khát... bé
con lại khóc... Một hai trẻ nhỏ bị sốt đã hai ba hôm rồi! Làm nhớ đến
các con
mình ở nhà... đoàn người lại lầm lủi đi!
Lại một lần nữa... suýt vinh thăng nằm...
Đoàn người tiếp
tục đi. Kẻ trước người sau, níu áo nhau mà bước, vì trăng soi mờ
mờ. Trong rừng chỉ thấp thoáng thấy hình nhau thôi... Ra đến mem Quốc
Lộ 14,
mình cản họ không nên đi trên đường, sẽ bị địch đóng chốt chặn bắt,
nhưng bây
giờ họ trong tình trạng thất vọng và nản chí quá rồi. Họ liều mạng,
không kể gì
nguy hiểm nữa. Mình đành phải nối đuôi đi theo họ thôi...
Tôi lẻo đẻo đi sau cùng hết. Hai vai nặng chĩu vì mỏi mệt, vì đói...
Lại băng
qua một hàng kẽm gai "concertina" giăng trên mặt đường... Rồi
một hàng kẽm gai
khác! Kẽm gai đầu mà nhiều thế? Phúc đức là nãy giờ vẫn qua lọt hết...
Khi mọi
người chuẩn bị lên một cái dốc dài... thì ... tôi bỗng nghe tiếng
"soạt" bên
phải, rồi một cục đá được ném ra đường! Địch à? Chết cha rồi! Địch phục
kích?
Tôi khẽ la lên một tiếng nhỏ, đủ nghe:
- Yuan! (giặc)
Và ầm!...ầm!...ầm!... nổ liên tiếp sau đó... Tôi cảm thấy có máu chảy
từ cánh
tay trái. Máu! Từ trong cơ thể tuông ra... Tôi nằm sấp ngay tại chỗ, và
... đụng
nhầm Ch'le với đứa con trai. Cả hai mẹ con run cầm cập! Đủ loại vũ khí
thay nhau
nổ! Tiếng súng rền vang, như xé cả tai, tung cả óc! Hỏa châu sáng rực
một góc
trời. Mùi thuốc súng mịt mù khét lẹt... Hồi hộp! Khẩn trương! Nghẹt
thở!... Máu
tiếp tục chảy! Chịu đựng như thế này... được bao nhiêu nữa nhỉ!? Tai
bên trái đã
điếc mấy ngày rồi. Tay trái bị thương, như vậy là hai lần liên tiếp! Bị
thương
lần này có vẻ nặng hơn kỳ mở đường máu ra khỏi Tân Cảnh hôm 24 tháng 4
năm 1972;
...Máu chảy nhiều quá.
Giờ phút hãi hùng đã qua! Ta vẫn còn sống? Nhìn đồng hồ dạ quang, chỉ 2
giờ 30
sáng. Tiếng súng im rồi! Hết quả châu rồi!
Rút từ trong túi quần ra gói băng cá nhân. Gói băng này đáng lẽ đã được
xử dụng
từ chiều 24 tháng 4 năm 1972 khi thoát hiểm ở Tân Cảnh và bị thương bởi
các
miểng cối 82 ly của địch đó. Gói băng này mà nếu không được giác quan
thứ sáu
cảng giác, thì nay vào giờ phút bị thương trầm trọng này, còn đâu nữa,
để xử
dụng "thiết nghi" ... Nghĩ thật hãi hùng...
Thây kệ nữa! Mìn hay "concertina" gì... cũng mặc!
"Chuồn" nhanh đi! Kẻo khi mặt
trời mọc, thì mọi phản ứng đều không kịp nữa, muộn màng hết rồi! Và...
bò...
bò... mạo hiểm bò qua "concertina"! Ch'le ôm bé trai... bò
theo! Không biết đã
lọt qua mấy lần "concertina" nhỉ? Thật là hy hữu! Kể ra, mình
cũng học được...
nghề đặc công của cộng sản rồi đó... Ch'le! Bò đi! Tôi nói khẻ với
Ch'le và lần
hồi... kéo Ch'le và bé trai... bò...bò...bò... trên mặt đường nhựa.
Chết cha rồi! Mất mẹ khẩu súng Colt rồi! Chuồn nhanh! Lủi nhanh lên!
Chứ sáng
đến, giặc nó bắt được, thế nào chúng cũng hành hạ thân xác... 9 người
kia, đi
thất lạc.. không biết họ chạy hướng nào rồi?
Từ Tân Cảnh lận lội về đây , cũng
đã trên 40 cây số rồi, mà toàn là băng rừng,
chứ đâu phải ít?... Đã 5 giờ sáng, Ch'le dậy đi! Phải tìm cách
"chuồn" nhanh mới
được!.. Bỗng nhiên, khi liếc nhìn ngược lại phiá Bắc, tôi thấy thấp
thoáng có
vài mái "tôle". OK! hãy chuồn vào "buôn" này đã.
Liền rồi, kiếm thức ăn, nước
uống... lẩn trốn đến tối, sẽ kiếm cách đi nữa! Cần nhất là phải có nước
uống kẻo
khát, và đã mất máu nhiều quá rồi! Đây là một làng Thượng Công Giáo.
Nhưng chẳng
còn gì nguyên vẹn... giặc đã đập phá hết rồi! Hoang tàn! Phải chăng đây
là làng
Plei-Trum? Không có gí ăn cả! Đi kiếm "cái" nước uống! May
mắn gặp được cái
giếng nước... uống xong, tôi nói:
- Thôi đi lên cái nhà sàn này!
Tôi đi trước, xách theo 2 bầu đựng đầy nước uống. Ch'le theo sau, với
mấy trái
bắp khô... tay ẩm bé trai.
- Ch'le à! Mình nằm trốn ở đây. Tối sẽ đi. Đi bây giờ thì Việt cộng bắn
chết...
Nếu lỡ mình có chấm dứt cuộc đòi hôm nay ở đây, làm sao cho vợ con biết
nhỉ?
- Yuan! (giặc)
Ch'le hoảng hốt thốt lên tiếng đó, và tôi chưa kịp phản ứng gì... thì
Ch'le đã
ẩm con, vụt chạy lén xuống nhà sàn...
- Bắt lấy nó! bắt lấy nó! lục soát!
Chết cha rồi! tuần tiểu của giặc đã đến! Tiếng quát lên là một giọng
Nghệ An hay
Hà Tỉnh gì đó...Ừ! Tụi nó bao vây nhà sàn này rồi! Đông lắm! Nói giọng
thật khó
nghe... Hoặc ta nằm im, hết sức giữ im lặng, tối sẽ tẩu thoát. Hoặc lỡ
nếu tụi
nó có lên nhà sàn này mà lục soát, thì "sư", "cha"
nó, không đầu hàng gì cả!
Chửi cha nó một mách để nó "phơ" chết cho rồi!
- Nè, một tổ đi lấy nước, một tổ đi vo gạo, xong còn hành quân nữa
chứ!
Nghe tiếng được, tiếng mất. Dưới nhà sàn, có hai ba tên gì đó, có vẻ
mệt mỏi .
Nhưng nói gì, nghe không rõ. Đủ giọng nói, sao lại có giọng Nam nữa
nhỉ? Cái gì
mà "Gio Linh" nhỉ? À! mà sao không thấy chúng lên lục soát
nhỉ? Bây giờ tối đa
cũng chỉ 7 hay 8 giờ sáng.
- Đ.M.! Tổ cha nó!
Và một tràng văng tục, từ hướng giếng nước lên. Lạ nhỉ? Bắc Việt mà sao
chửi tục
thế nhỉ? Bạn hay thù?
- Đ.M.! Sư cha nó! có cái giếng nước mà đ... có "gầu"! Tổ cha
nó! làm sao có
nước mà nấu cơm?
- Thù... hay ...bạn?
Nếu là bạn, thì đám "KBC" (đơn vị quân đội Việt Nam Cộng Hoà)
này là ai? Chắc là
bạn rồi! Vì Bắc Việt đâu có xổ tiếng Đức dữ vậy? Phải tìm cách liếc
xem. Có phải
là bạn không?
Nhè nhẹ... Nhè nhẹ... rút cặp kính "nhốp" mầu, từ túi áo...
nhè nhẹ đưa lên mắt.
Liếc qua khe hở của tấm liếp!
Biệt Động Quân (BĐQ)! Chắc là anh em BĐQ! Liên
Đoàn 6 của Bé rồi đấy! Rằn ri nè!
Đội nón sắt nè! Xem kỹ, xem thật kỹ đi! May quá, họ đi giày nhà binh
hết! Mừng
quá! Mừng quá! Lỡ mà chỉ toàn là dép râu Bình-Trị-Thiên thì bỏ mẹ! giặc
cộng
đó!... Bạn đây rồi! Tim đập thình thịch...
Tôi nhè nhẹ ... nhè nhẹ ngồi dậy... và nhè nhẹ đưa chân... Két! Một
thanh gỗ
trên sàn nhà có lẽ không được siết kỹ, phát ra tiếng động như vậy... Từ
ngoài,
một hìng bóng lao vào, tay trên có súng...
- Khoan, đừng bắn!
- Anh là ai? "Dơ" tay lên!
- Đừng bắn, tôi là bạn đây!
Liếc nhìn một lần nữa, đúng rồi! Biệt Động Quân của mình rồi!
- Biệt Động Quân hả? Liên Đoàn 6 phải không?
- Phải!
Mừng quá mừng! Không tả cho xiết được. Nước mắt từ đâu nhè nhẹ trào ra.
Không
còn ngòi bút nào diễn tả hết nỗi xức động. Mùng rỡ đến nghẹn ngào!
- Tôi là bạn đây! Tôi thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh đây!
- Anh là ai? Trung Đoàn nào?
- Tôi thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn... để tôi lấy thẻ sĩ quan cho các bạn
xem!
- Không! đưa tay lên! đứng yên!
- Khoan, anh em xem kỹ. Tôi đang bị thương! Cứ nhìn tay trái tôi thì
rõ. Máu ra
nhiều rồi!
- Đúng! Biệt Động Quân này, chuyên môn đánh mìn cơ giới mà!
- Phải! và mìn đó đã nổ hồi đêm, làm tay trái tôi bị thương...
Vừa giải thích, bình tỉnh giải thích, tôi lần mò túi áo, lấy "bốp
phơi", lấy thẻ
sĩ quan ra, trao cho họ...
- Trời! Đại Tá!
- Đại Tá! Đại Tá!
- Cám ơn anh em. Liên lạc với đơn vị đi, và cho tôi xin một điếu thuóc
lá... Cám
ơn anh!
Trong khi một hiệu thính viên liên lạc máy PRC-25 về Đại Đội, tôi hàn
huyên với
các Biệt Động Quân, hút và rít những hơi thuốc lá ngon lạ lùng!...
- Dạ, Đại Tá thế là may mắn lắm!
- Sao vậy?
- Nếu Đại Tá về sớm hơn, chỉ chiều hôm qua thôi, ... là tiêu rồi!
- Ủa! Sao vậy?
- Hai, ba hôm trước, tụi Việt cộng nó đánh vào tận Nghỉa Trang Quân
Đội, mình
phải dội bom quá cỡ, có cả B-52 nữa!
Ừ! Phải rồi! Hôm mình bị điếc tai trái đó!
- Dạ, mời Đại Tá theo em về Đại Đội,
sẽ có xe Jeep trên Tiểu Đoàn đến đón, đưa
Đại Tá về Kontum, để gặp các thẩm quyền. Sau đó có trực thăng đua về
Pleiku
ngay...
- À! Hôm nay là mấy tây rồi nhỉ?
- Thưa Đại Tá, mồng 9 tháng 5 tây!
- Tính nhẩm, cũng đã mười sáu ngày qua!
Phần Ba: Thay Lời
Kết
|
Ngày 10 tháng 10 năm 1972,
qua sự tìm kiếm của văn phòng
Bộ Phát Triển Sắc Tộc của ông Paul Nưr,
Đại Tá Tôn Thất Hùng đã thăm gặp đuợc gia đình cụ K'O, ân nhân, tại
Trung Tâm Tỵ
Nạn Pleiku. Đại Tá Hùng đã đem tặng một số tiền bạc và lượng vàng y -
như đã hứa
- cùng thêm 2 thùng quần áo cũ, với thuốc lá, thực phẩm, ống vố hút
thuốc, mền
mùng v...v... Nhân dịp này, Đại Tá Hùng cũng được cụ K'O kể thêm là bà
mẹ của
Kung, đã chết hôm mìn nổ khuya mồng 9 tháng 5, trong khi Đại Tá Hùng
thì bị
thương ở tay... Bức hình của Đại Tá Hùng chụp chung với gia đình cụ K'O ở Trung Tâm Tỵ Nạn Pleiku hôm đó, đã được báo chí Quốc Nội và Quốc Ngoại đăng tải rộng rãi để đề cao hành động "Phò Nguy Tế Khổn" của một gia đình người Thượng đã có công với các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một hành động can đảm đáng ca ngợi của gia đình cụ K'O tiêu biểu cho đồng bào Thượng vùng Cao Nguyên luôn muốn thoát xa bọn cộng sản độc tài, khát máu... |
"Trọn một đời sống trong quân
ngũ mà có một việc tôi
không tài nào hiểu được đó là sức chịu đựng và tánh kiên trì của người
lính Bộ
Binh! Anh ta tiến lên chiến tuyến hay từ chiến tuyến trở lại hậu cứ,
thì mỗi
ngày, hai mươi bốn giờ, giờ phút nào, anh cũng có thể hẹn với tử thần
cả!
Nếu anh chưa gẫy gập xuống
Quả là một phép lạ!..."
Tướng Mac Arthur
Viết xong ngày 1 tháng 10 năm 2004
Mũ Xanh Sài-Gòn
Iowa City, IOWA - USA
Về từ Tân Cảnh
Đại tá Tôn Thất Hùng
|
No comments:
Post a Comment