Monday, January 21, 2019

viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá. Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi. Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu…” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?…” Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao. Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy để em đỡ ra xe”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt. Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười – như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu. Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh… Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà. 29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác: - Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây. Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy: - Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không? - Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy. - Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên. Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức. - Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống. - Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân. Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy… Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy: - Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy. Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng: - Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy. - Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy. Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn. Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương. Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, chưa được tiếp tế. Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy…” rồi ra đi. Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu. Tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thường Đức, giờ mình chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy a!ỉ”. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm. Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau. UserPostedImage VIẾT THÊM CHO LỜI KẾT – Trận Thường Đức có thể nói là trận đánh lớn nhất của SĐ Nhẩy Dù, hơn 3 tháng quần thảo với hai SĐ cộng quân là SĐ 304 và 324, thêm nhiều Trung đoàn tăng cuờng cùng các Trung đoàn pháo, Cộng quân rút khỏi Thường Đức, ngọn đồi 1062 trước xanh tươi, giờ trơ trụi cây cối, được chiếm đi chiếm lại nhiều lần của hai bên, số thiệt hại như sau : - Sư Đoàn Dù có 2 Lữ Đoàn 1 và 3 tham dự với 7 TĐ thay phiên nhau xa luân chiến, 500 tử thương , khoảng hơn 2000 bị thương, số tổn thất bằng 50% quân số. - Cộng quân, ba Trung đoàn 24, 26, 66 coi như xóa sổ, hơn 2000 bị chết, 5000 bị thương. Trong số những người hy sinh của SĐ Dù, có nhiều ĐĐT và Trung đội trưởng, Đại Úy Ngụy văn Đàng, một ĐĐT của TĐ 3 Dù đã phải gọi pháo binh và phi cơ dội ngay trên đầu mình vì địch quá đông, tràn ngập điên cuồng trong chiến thuật biển người. Khi tìm được xác anh, ĐU Đàng chết trong thế ngồi, mắt mở trừng trừng, người đầy vết đạn, anh chết mà chúng vẫn tiếp tục bắn vào anh. Người bạn thân cùng khóa 25 Võ Bị với Chương là Đại Úy Võ Thiện Thư, Đại Đội trưởng ĐĐ34 cùng Trung Úy Tô văn Nhị khóa 26 lên tiếp cứu cho Đàng cũng đã chiến đấu dũng mãnh. Địch xử dụng 1 Trung đoàn, cuồn cuộn biển người, cuối cùng, cũng như Đàng, Thư đã gọi pháo binh bắn ngay lên đầu khi bị địch tràn ngập, cả hai hy sinh. Khóa 26 VB về Nhẩy Dù 10 Sĩ Quan thì nội trong trận Thường Đức cũng đã hy sinh 5 người. Các Sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Đà Lạt phải trải qua một hành trình 12 năm ở Tiểu học và Trung học, 4 năm tại Trường Võ Bị, tổng cộng 16 năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy, những người sẽ là rường cột của Quân Đội sau này, nhưng chỉ cần một viên đạn, ngay trận đánh đầu tiên, đã hy sinh, có uổng phí không? Không, người Sĩ Quan Hiện dịch là như vậy, cần được tôi luyện trong khói lửa. Hơn 5 tháng sau trận đánh tàn khốc này, miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Một sự thật đau lòng bởi sự phản bội của người Mỹ, cả một Quân đội hùng mạnh bị trói chân, trói tay trong cuộc chiến tuyệt vọng. Ở Thường Đức, Nhẩy Dù đã anh hùng chiến đấu giữ vững được bờ cõi, những năm tháng trước đó, ở Quảng Trị, Bình Long, Kontum, Qưân lực VNCH đã chiến đấu dũng cảm, rồi bao trận đánh oai hùng năm xưa. Khi người Mỹ đã xong công việc, họ gọi là cuộc rút quân trong danh dự, thật ra đây là cuộc rút quân nhục nhã, cuộc rút quân phản bội, chỉ tội nghiệp, ta đã hy sinh uổng phí, mấy trăm ngàn người chết để đổi lấy một kết cuộc bi thảm. Bây giờ bỗng dưng nổi lên có những người mà năm xưa khi khói lửa chiến tranh, họ còn nhỏ, chưa phải cầm cây súng, chưa biết thế nào là chết chóc, chưa có cảm giác khi đồng đội ngã xuống bởi đạn thù, tóm lại, họ chẳng phải hy sinh gì hết, giờ họ lớn tiếng hỏi các Tướng lãnh (Quân Đội) đã xin lỗi nhân dân chưa? Câu hỏi thật lạ, chính họ phải xin lỗi những người đã nằm xuống vì đất nước, vì sự an toàn cho họ, họ phải xin lỗi vì sự nhởn nhơ ngoài vòng chiến mà bao người khác đã chết thay cho họ, những Don Quichotte thời đại cầm kiếm múa may, họ nghĩ rằng Quân Đội phải chịu trách nhiệm trong việc miền Nam bị mất mà họ thì không chăng? Một Don Quichotte khác lớn tiếng thóa mạ các Tướng Lãnh hèn nhát, làm mất nước, lạ một điều, những người này chưa hề cầm súng chống lại quân thù trong cuộc chiến vừa qua, những người này khi đất nước chìm trong lửa đạn, họ vắt mũi chưa sạch, nhưng giờ họ làm như thể nếu họ chỉ huy thì ta sẽ không thua. Các Tướng có hèn nhát không? Tướng Nguyễn viết Thanh, Tướng Đỗ cao Trí, Trương quang Ân đã hy sinh tại mặt trận, 5 vị Tướng đã tuẫn tiết không đầu hàng giặc, còn bao nhiêu Sĩ Quan khác nữa mà họ là những anh hùng trong bóng tối, họ có hèn không? Chương, cho đến khi dành viên đạn cuối cùng cho mình, nằm xuống mà vẫn không hiểu tại sao miền Nam lại mất, bao nhiêu bạn bè, đồng đội anh cũng đã nằm xuống mà không biết mình bị phản bội, giá biết được, liệu họ có liều hy sinh cho một điều vô lý như thế? Họ là những người lính, mà người lính lúc nào cũng nghĩ tới nhiệm vụ và thi hành lệnh. Xin kính chào những người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống cho quê hương. Trần Như Xuyên Nguồn:Buonvuidoilinh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột tháng 3.1975. UserPostedImage *Tình hình Tây Nguyên những tháng đầu năm 1975 Hai năm sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê 27.1.1973, Cộng Sản Hà Nội đã trắng trợn vi phạm hiệp định lên đến con số nhiều ngàn lần. Thực chất ý nghĩa hiệp định mà phía Hoa Kỳ và Bắc Việt cùng tay sai của nó là Mặt trận Giải phóng Miền Nam (Việt Cộng) ký với nhau bất chấp nguyện vọng của dân chúng Miền Nam, là hợp thức hóa sự hiện diện của binh đội Bắc Việt trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa và nâng Mặt trận Giải phóng lên thành một thực thể tại Miền Nam. Như vậy Việt Nam Cộng Hòa cùng một lúc phải đương đầu với hai lực lượng võ trang và chính trị của Cộng Sản, mặc dù trên thực tế chúng chỉ là một và đều cùng là một loại thổ phỉ như nhau. Trong lúc lính Mỹ còn đang lục tục lên phi cơ rút lui ra khỏi Việt Nam theo qui định trong vòng 60 ngày, thì trước, ngay và sau giờ hiệu lực của hiệp định là 8 giờ sáng ngày 28.1.1973, Cộng quân đã mở nhiều cuộc vi phạm, mà lớn nhất là việc tấn chiếm xã Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Với sự trợ lực rất lộ liễu của phái đoàn Ba Lan và Hung Gia Lợi trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn như làm lơ không cứu xét khiếu nại của Việt Nam Cộng Hòa, chụp hình những căn cứ quân sự của Việt Nam Cộng Hòa và lén lút gửi cho các “đồng chí” Hà Nội của chúng, binh đội Bắc Việt và quân Việt Cộng ngang nhiên mở những cuộc xâm nhập, tấn công, phục kích, làm đường giao thông, giành dân lấn đất và những hình thái chiến tranh xâm lược khác hoàn toàn giống hệt và dữ dội hơn trước khi ký hiệp định nữa. Phía Việt Nam Cộng Hòa nhẫn nại tuân thủ những điều khoản ngừng bắn, thậm chí tháng 6.1973 chính phủ của chúng ta ra thông tư đề nghị phía Cộng Sản cùng ngồi xuống bàn thương nghị để thảo luận những chi tiết cho cuộc tổng tuyển cử dự trù tổ chức trong tháng 12.1973, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Dĩ nhiên phía Bắc Việt làm bộ phớt lờ, giả câm, giả điếc, không nghe, không thấy gì hết. Nghe nói đến có sự giám sát của quốc tế là bọn chúng sợ và co vòi lại tức khắc. Những người thường vỗ ngực xưng là “đánh Mỹ cứu nước” và “giải phóng” cho dân tộc, là “chính nghĩa” đầy mình mà lại sợ hãi một cuộc tổng tuyển cử chân chính? Điều này hoàn toàn đúng, vì Cộng Sản rất ngán ngại trực diện với sự thật. Chúng biết chắc nếu nhận cùng tổ chức tổng tuyển cử hai Miền để bầu lên một chính phủ duy nhất với những con mắt “cú vọ” rất nghiêm nhặt của quốc tế, chẳng những dân Miền Nam sẽ bầu cho những chiến sĩ Quốc Gia mà cả dân Miền Bắc sẽ nhân thời cơ này tẩy chay thẳng thừng bọn giết người khát máu Cộng Sản. Một điều có lợi cho Cộng Sản là dân số Miền Bắc nhiều hơn của Miền Nam, vậy chúng còn sợ. Vậy con đường duy nhất mà Hà Nội chỉ có thể chọn lựa, là tiếp tục xua thanh niên Miền Bắc tràn xuống Miền Nam, nhồi nhét đủ mọi thứ căm thù vào đầu óc mà họ đã bị đầu độc từ lúc cắp sách đến trường, để gây nên thành cảnh núi xương biển máu, trong tiếng kêu khóc hãi hùng và thảm thiết của nhân dân hai miền. Sau khi chiếm được Phước Long trong những ngày 30.12 đến 7.1.1975, để trắc nghiệm khả năng chống trả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đo lường phản ứng của Hoa Kỳ, Bắc Việt quyết định mở rộng chiến trường và tái phát động một cuộc chiến tranh tổng lực mới, mà sử gia thế giới gọi là Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Ba 1973-1975 (Lần thứ nhất: 1945-1954, lần thứ nhì: 1954-1973). Mục tiêu kế tiếp của chúng sẽ là một tỉnh nào đó nằm trên cao nguyên thuộc Quân Khu II của Việt Nam Cộng Hòa. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, vùng cao nguyên luôn luôn là cánh cửa quan trọng bậc nhất mà phía Cộng muốn mở toang để ào xuống đồng bằng Miền Nam, phía Việt Nam Cộng Hòa cố khóa chặt nó bằng bất cứ giá nào. Cho nên các vị Tư Lệnh Quân Khu II đều coi trọng hai tỉnh Kontum và Pleiku, là hai vị trí tiền đồn ngăn chống cơn bão đỏ Cộng Sản bảo vệ toàn lãnh thổ phía sau lưng. Khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú nhận nhiệm vụ lên Quân Khu II cuối năm 1974, bản thân ông đã gặp khó khăn đầu tiên, khi ông không được quyền chọn lựa nhân sự cho Bộ Tham Mưu Quân Đoàn II mà ông biết chắc chắn là những sĩ quan mẫn cán và tài ba cùng làm việc với ông, điều mà những vị Tư Lệnh các Quân Khu khác đã chưa từng gặp phải. Ông phải chấp nhận Bộ Tham Mưu do Bộ Tổng Tham Mưu bố trí sẵn hay thành phần sĩ quan của Bộ Tham Mưu cũ. Ông sẽ phải tìm cách thuyết phục Bộ Tham Mưu đang chờ đón ông trên Thành Pleime, tức bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, cùng hợp tác với ông tìm được phương cách làm việc chung và hữu hiệu trong tình chiến hữu để bảo vệ Quân Khu II. Nhân đây cũng xin được nhắc lại danh xưng Quân Khu và Vùng Chiến Thuật. Trước năm 1970, trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa được sắp xếp lại thành bốn Vùng Chiến Thuật, cải danh từ danh xưng Quân Khu dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Theo đà lớn mạnh và cải tổ quân đội từ năm 1967 trở đi, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định nâng cao vai trò chiến lược của bốn Vùng Chiến Thuật. Tháng 10-1970, Tổng Thống Thiệu ký sắc lệnh cải danh bốn Vùng Chiến Thuật thành bốn Quân Khu và danh xưng này giữ đến ngày 30.4.1975. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú dù lên cao nguyên rất muộn trong những tháng cuối của năm 1974, đã nhanh chóng thiết trí một trận liệt phòng thủ cao nguyên rất chặt chẽ, dựa trên cái cột xương sống là Sư Đoàn 23 Bộ Binh, với sự tăng cường hùng mạnh của năm Liên Đoàn Biệt Động Quân: 21, 22, 23, 24 và 25, cộng với Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, Thiết Đoàn 21 Chiến Xa và Pháo Binh. Với trận thế cứng như thép đó, Hà Nội nhận thấy không thể đánh thủng nổi như thời mùa hè 1972. Chúng họp bàn tìm một cái kẻ hở, chỗ yếu nhất của quân ta để thọc mũi nhọn vào, từ đó xé toang ra và mở rộng cường độ chiến tranh. Rà tới rà lui, chúng tìm thấy tỉnh Darlac và Quảng Đức. Nhưng quân Cộng đã thất bại nhiều trận lớn trên chiến trường Quảng Đức, mà ở đó có Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã đánh chúng thua xiểng liểng trong những tháng cuối năm 1973. Tỉnh Darlac và thành phố tỉnh lỵ Ban Mê Thuột được chọn làm mục tiêu tấn công của chiến dịch mà Bộ Chính trị Hà Nội mệnh danh là Chiến dịch 275, danh xưng ghép từ số 2 của tháng 2 và số 75 của năm 1975. Bước sang tháng 4.1975, nhận thấy chiều hướng chiến tranh đã nghiêng hẳn về phía chúng, Hà Nội cải danh Chiến dịch 275 thành Chiến dịch Hồ chí Minh. Tướng Văn tiến Dũng sẽ là Tư lệnh của chiến dịch này và đã dự trù nó sẽ kéo dài trong hai năm 1975 và 1976. Có nghĩa là Tướng Dũng chỉ hy vọng đánh tiêu hao lực lượng QLVNCH, chứ Dũng chưa dám mơ tưởng đến một chiến thắng chung cuộc. Phòng thủ Ban Mê Thuột chỉ vỏn vẹn có Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 53 Bộ Binh và một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 45 Bộ Binh, thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, với trách nhiệm bảo vệ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn do Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn chỉ huy. Nằm chệch về hướng Tây Nam thành phố vài cây số là Phi Trường Phụng Dực do Tiểu Đoàn 3/ Trung Đoàn 53 trấn giữ. Đồng thời, Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn của Trung Tá Võ Ân cũng nằm trong chu vi phi trường. Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 53 đang hành quân đánh địch tại mặt trận Daksong của tỉnh Quảng Đức. Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlac có trong tay 6 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân và một số Trung Đội Nghĩa Quân đóng rải rác khắp tỉnh Darlac, nhưng ông chỉ có thể cho di chuyển hai Tiểu Đoàn về phòng thủ thành phố. Quân số của lực lượng phòng giữ Ban Mê Thuột lúc nổ ra cuộc ác chiến tương đương bốn Tiểu Đoàn. Phía Cộng quân có ba Sư đoàn hùng hậu 320, 316 và 10, cùng nhiều đơn vị chiến xa, phòng không, pháo binh, đặc công. Quân số ít ỏi của Ban Mê Thuột không quá 3.000 tay súng, mà phải chống chỏi một sức nặng bốn Sư đoàn địch, với quân số tương đương 40.000 người. Có nghĩa là mỗi chiến sĩ Ban Mê Thuột phải chiến đấu với trên 10 tên lính Cộng Sản. Trước khi chiến trường Ban Mê Thuột khởi diễn, binh đội Cộng Sản Bắc Việt đã có nhiều cuộc giao tranh với chiến sĩ cao nguyên từ những ngày đầu năm. Cấp chỉ huy chiến trường B3 địch, tức Mặt trận Tây Nguyên theo danh xưng của Cộng quân do Thượng tướng Hoàng minh Thảo làm Tư lệnh, đã dấy động chiến cuộc khắp nơi để tạo hỏa mù và đánh lạc hướng phán đoán của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hầu che dấu chuyển động của những Sư đoàn sắp tham dự trận đánh Ban Mê Thuột. Những ngày tháng Giêng năm 1975, các phi cơ oanh tạc của Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 6 Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã rất bận rộn oanh kích nhiều đoàn xe tiếp vận của giặc ở phía Bắc Kontum và đã hủy diệt được 17 xe vận tải Molotova. Nhiều toán thám kích Lôi Hổ của Nha Kỹ Thuật đã được thả sâu xuống vùng địch và đã phá hủy được nhiều đường ống dẫn dầu của địch. Những chiến sĩ Lôi Hổ, những bóng ma trong rừng sâu và trên đường biên giới đã chiến đấu và chết trong âm thầm để đưa được những tin tức quí báu về Bộ Tư Lệnh. Trong một cuộc chạm súng và bị truy đuổi ác liệt, một toán Lôi Hổ tình cờ ngồi nghỉ trên một vật tròn dài và lành lạnh. Nhìn kỹ, thì nó chính là một cái ống dẫn dầu. Trước khi rút, quân ta cho nó nổ tung lên trên trời. Những mảng lửa bùng lên thành những chiếc nấm khói đen cuồn cuộn che kín một khoảng trời. Nhưng những chiến công đó không ngăn nỗi đoàn quân Bắc Việt đêm ngày rùng rùng tuôn xuống phương Nam. Đặc công địch hoạt động rất mạnh và gây nhiều tổn thất cho quân ta. Ngày 9.1.1975 kho dầu chứa một triệu rưỡi lít nhiên liệu bị đặc công địch đột nhập đặt chất nổ phá hủy hoàn toàn. Sư Đoàn 23 Bộ Binh phối hợp với Biệt Động Quân mở những cuộc hành quân càn quét khu vực phía Bắc tỉnh Kontum trong tháng 1.1975 đã gặp sự kháng cự dữ dội của các đơn vị địch. Dự định tiến lên Căn Cứ Võ Định cũ hồi mùa hè 1972 của Sư Đoàn 23 đã không thành công. Thời điểm này, người hùng Kontum 1972, Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá đã rời cao nguyên về Sài Gòn giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh, thay thế ông là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, rồi đến Chuẩn Tướng Lê Trung Tường. Ngược lại tại mặt trận Pleiku trên Quốc Lộ 19, Cộng quân tràn ngập các cứ điểm của Tiểu Đoàn 233 Địa Phương Quân cách Căn Cứ Lệ Trung 19 cây số về hướng Đông. Chuẩn Tướng Tường lập tức đưa Trung Đoàn 45 Bộ Binh đến giải tỏa và tái chiếm được. Trong khi đó thì Trung Đoàn 271 Cộng quân rời bỏ chiến trường Quảng Đức để xuống tham dự mặt trận Phước Long, nên Thiếu Tướng Phú lệnh cho Trung Đoàn 53 Bộ Binh trở về bản doanh Sư Đoàn ở thành phố Ban Mê Thuột mà cũng là bản doanh của Trung Đoàn. Trong lúc quân ta di chuyển tái phối trí, thì Sư đoàn 968 Bắc Việt từ Lào xâm nhập vào lãnh thổ Kontum và Pleiku. Sư đoàn 968 Bắc Việt đóng quân trong đất Lào đã hai năm, nay nhận lệnh đến thay thế Sư đoàn 320 được điều xuống mặt trận Ban Mê Thuột, đồng thời với chiến xa. Cuối tháng Giêng, Không Quân Việt Nam phá hủy được 3 chiếc T54 ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Thiếu Tướng Phú điều động Trung Đoàn 53 và Trung Đoàn 45 hành quân tìm kiếm dấu vết Sư đoàn 320, nhưng chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt. Đây là mưu đồ đánh lừa cấp chỉ huy Quân Đoàn II, để Thiếu Tướng Phú cho rằng Sư đoàn 320 chỉ mở “Diện” (diversion) để che dấu chiến trường “Điểm” chính mà ông cho là sẽ nổ lớn tại Kontum và Pleiku. Trong khi đó thì các chiến sĩ Trung Đoàn 45 Bộ Binh tiếp nhận một Cán binh hồi chánh, anh này đã cho biết rằng những đơn vị trinh sát của Sư đoàn 320 và 10 của Cộng quân đã có mặt tại Darlac và Quảng Đức. Càng đi gần đến những ngày cuối tháng Hai, có nhiều dấu hiệu nguy hiểm cho thấy có một cái gì đó rất không bình thường sắp diễn ra tại Darlac, hay chính xác hơn, tại thành phố tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, rất giống những gì đã xảy ra tại Phước Long hồi cuối tháng 1.1975. Một đoàn công voa của Quân Đoàn II chạy trên Quốc Lộ 21 từ Nha Trang lên hướng Ban Mê Thuột bị quân Cộng phục kích gây thiệt hại nặng. Cùng lúc đó, một đơn vị Việt Nam Cộng Hòa phục kích một đơn vị trinh sát giặc chỉ cách Ban Mê Thuột 12 cây số về hướng Bắc, đồng thời các chiến sĩ Sư Đoàn 23 Bộ Binh chỉ vài ngày trước ngày mặt trận Ban Mê Thuột nổ ra là ngày 10.3.1975 đã bắt được một Thiếu úy Truyền tin Bắc Việt đang thiết trí đường dây gần Quốc Lộ 21. Tất cả những dấu hiệu lạ thường đó đã khiến cho Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II, cùng các cộng sự viên của ông giải đoán, rằng một chiến trường Phước Long thứ hai sắp sửa tái diễn tại Ban Mê Thuột. Phòng 2 Quân Đoàn trình kết luận của mình lên Bộ Tư Lệnh, Thiếu Tướng Phú đồng ý hành động. Ngày 4.3.1975, Thiếu Tướng Phú lệnh cho Quân Vận chuyển Trung Đoàn 45 đang bảo vệ Pleiku xuống Ban Mê Thuột. Nhưng để làm cho tình hình cao nguyên thêm phức tạp, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Kontum và Pleiku ngay trong ngày 4.3.1975, song song đó Trung Đoàn 44 Bộ Binh của Sư Đoàn 23 và Liên Đoàn 25 Biệt Động Quân tại vòng đai bảo vệ thành phố Pleiku bị bộ binh Bắc Việt mở những cuộc tấn công lớn. Thiếu Tướng Phú đã thay đổi kế hoạch điều quân bằng cách cho hủy bỏ cuộc di chuyển của Trung Đoàn 45 về Ban Mê Thuột, đồng thời báo cho Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, chuẩn bị gửi Trung Đoàn 42 từ vùng duyên hải lên Pleiku. Ngày 4.3.1975, đánh dấu ngày thứ nhất Chiến dịch 275 của Hà Nội khởi diễn trong mưu toan tấn công cao nguyên và có thể đi xa hơn nếu tình hình cho phép. Trước nhất, Đèo Mang Yang trên Quốc Lộ 19 từ Pleiku đổ xuống Bình Định, và Đèo An Khê từ Bình Định đi lên Pleiku bị quân Cộng chiếm lấy. Con lộ tiếp vận cực quan trọng từ duyên hải lên cao nguyên bị chận nghẹt tại hai cao điểm thật hiểm trở. Bằng giá nào quân ta cũng phải khai thông quốc lộ, nên Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân vừa từ Quân Khu IV ra tăng viện đã nhận lệnh cùng Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh xuất phát từ Pleiku tiến quân giải tỏa chốt địch. Cuộc tiến quân này làm chúng ta nhớ lại những ngày đánh chốt đẫm máu tại Đèo Chu Pao trên Quốc Lộ 14 mùa hè 1972, cũng với Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh và Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai. Lần giải tỏa này thật khó khăn quá đỗi, vì hỏa lực yểm trợ cho bộ binh từ phi cơ và pháo binh đã bị giảm sút rất nhiều. Chiến sĩ Mũ Nâu và Mũ Đen chỉ có thể lấy xương thịt và lòng quyết chiến của mình ra để lấp đầy những thiếu vắng ấy, và để đương đầu với những loại hỏa lực giết người đã quá mạnh của địch. Như các loại súng phóng hỏa tiễn B40, B41, SA7, AT3, đại liên 12 ly 7, 12 ly 8, 13 ly 8, đại bác phòng không 37 ly, đại bác tầm xa 130 ly, 152 ly, 122 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng không giật 85 ly, 75 ly. Những thứ vũ khí tối tân nhất của khối Cộng mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không có vũ khí tương đương. Cộng thêm với chiến thuật thí quân biển người của bọn tướng tá Cộng Sản, người lính Việt Nam Cộng Hòa không còn sự chọn lựa nào khác, ngoài việc tận lực chiến đấu đến viên đạn và giọt máu cuối cùng. Trên Quốc Lộ 21 nối liền Ban Mê Thuột với tỉnh Khánh Hòa và thành phố tỉnh lỵ Nha Trang, Cộng quân tràn ngập một căn cứ của Địa Phương Quân và hoàn toàn cắt đứt giao thông từ duyên hải lên cao nguyên. Như vậy hai con lộ huyết mạch đem người và vật lực lên cao nguyên đã bị bóp nghẽn. Thế trận bao vây và cô lập cao nguyên của Tướng Văn tiến Dũng đã hình thành. Tuy nhiên, với những lợi thế rõ ràng như vậy mà Tướng Dũng vẫn còn ngán ngại sức chiến đấu dũng cảm đến phi thường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên ông ta đã chưa lấy quyết định ngày đánh Ban Mê Thuột là ngày nào gần nhất. Nếu không có chuyện một sĩ quan Truyền tin Bắc Việt bị quân ta bắt được trên con đường 21 mà chắc chắn sẽ tiết lộ binh tình của địch chung quanh thành phố Ban Mê Thuột, thì có lẽ Tướng Dũng cũng chưa dám liều ra lệnh đánh. <br><br> Ngày D ấn định là buổi rạng sáng ngày 10.3. 1975. Sự liều lĩnh rất trái với thông lệ thận trọng của tướng lãnh Cộng quân đã khiến cho những đơn vị binh đội Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột đã trả một cái giá đắt. Những cán binh non choẹt được huấn luyện qua loa rồi bị thảy vào lò lửa Miền Nam đã là những nạn nhân thiêu thân oan khiên của cuồng vọng cướp bóc từ Hà Nội. <br><br> <br><br>* Cuộc ác chiến Ban Mê Thuột. <br><br> Ngày 8.1.1975, hai ngày sau khi Phước Long của Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, Bộ Chính trị Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc họp bàn thảo mục tiêu tấn chiếm kế tiếp. Ban Mê Thuột được chọn làm mặt trận mở đầu cho Chiến dịch 275. Nếu chiếm được Ban Mê Thuột rồi, binh đội Cộng Sản sẽ lấn sâu xuống vùng đồng bằng duyên hải và hy vọng khuấy động được một cuộc “tổng nổi dậy” của nhân dân Miền Nam. Chiến dịch này Hà Nội cẩn thận dự trù sẽ kéo dài sang năm 1976 mới có thể đạt được một chiến thắng toàn thể. Như vậy, ngay từ khởi đầu, Cộng Sản Hà Nội vẫn rất ngán ngại sức kháng cự quyết liệt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. <br><br> Tuy rằng Phước Long bị lọt vào tay giặc, nhưng một Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Địa Phương Quân, hai Đại Đội của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù cùng các Đại Đội Trinh Sát 5, 18 và 25 đã anh dũng kháng cự, đã mở những cuộc đánh cận chiến hạ nhiều xe tăng địch. Trong trận đánh đẫm máu không cân sức ấy, Sư đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt đã bị quân ta gây thiệt hại nặng. Những chiến xa T54, T59 của giặc được gắn thêm hai tấm bửng sắt dầy hai bên hông xe để chống hỏa tiễn M 72 của quân ta, bình xăng chỉ được đổ một dung tích vừa đủ chạy trong ngày. Điều đó cho thấy phía địch quân rất sợ sức chiến đấu của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đại tướng Văn tiến Dũng, người nhận trách nhiệm chỉ huy toàn chiến dịch cũng đã để ra gần hai tháng dài nghiên cứu chiến trường mới dám đi đến quyết định tấn công Ban Mê Thuột. Các Sư đoàn 320, 316 và 10 được đặt thống thuộc chiến dịch. <br><br> Ngày 8.3.1975, Trung đoàn 9 của Sư đoàn 320 Cộng quân mở đầu chiến dịch đánh cao nguyên khi chúng tấn công Chi Khu Thuần Mẫn thuộc tỉnh Phú Bổn, cách Ban Mê Thuột 60 cây số về hướng Bắc, nằm gần ngã ba Quốc Lộ 14 và Tỉnh Lộ 487. Đại Đội 23 Trinh Sát của Sư Đoàn 23 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nằm giữ Thuần Mẫn với quân số không quá 150 chiến sĩ bị sức ép quá nặng của Trung đoàn 9 Cộng Sản, sau nhiều giờ giao tranh buộc phải rút ra khỏi Chi Khu. Đoàn chiến binh này đã dắt díu nhau về được đến khu vực phi trường Phụng Dực vài ngày sau đó và đã được Trung Tá Võ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, giao cho trấn giữ một góc phi trường. <br><br> Một đơn vị của Trung Đoàn 45 Bộ Binh cũng chạm súng lớn với các thành phần của Sư đoàn 320 Bắc Việt và bị cầm chân trên Quốc Lộ 14. Kể từ lúc đó, đoạn QL14 phía Bắc Ban Mê Thuột đi lên Pleiku và Phú Bổn đã bị quân Cộng cắt đứt. Ngày 9.3.1975 đến lượt Sư đoàn 10 Bắc Việt mở những cuộc tấn công vào Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đang trấn giữ Kiến Đức và Địa Phương Quân ở Đức Lập đều thuộc tỉnh Quảng Đức, nhưng đều bị quân ta đánh tháo lui. <br><br> Cuộc chiến tại Đức Lập diễn ra ác liệt, quân địch cố đánh, quân ta cố giữ. Các chiến sĩ Địa Phương Quân cầm cự được đến rạng sáng ngày 10.3.1975. Trung Tá Nguyễn Cao Vực, Quận Trưởng Quận Đức Lập, có mặt cùng với chiến sĩ diện địa đối đầu với quân giặc. Quân Cộng đã dùng đại pháo 130 ly, súng không giật 82 ly bắn dữ dội vào Chi Khu Đức Lập và một Chi Đoàn Kỵ Binh phòng thủ bên trong. Tất cả các xe thiết giáp đều bị bắn cháy ngay từ giờ đầu giao tranh không còn sử dụng được. Quân ta còn chịu một thất bại nữa khi Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 53 Bộ Binh bị địch tràn ngập tại khu vực Daksong vào lúc ban trưa cùng ngày. Những thành phần còn lại của Tiểu Đoàn hỗ trợ cho nhau rút lên Darlac và tìm đường về Ban Mê Thuột. Như vậy trong hai ngày khởi diễn chiến dịch cao nguyên 275 quân Cộng đã hình thành thế trận gọng kìm bao vây Ban Mê Thuột từ hướng Bắc và hướng Nam. Về phía Đông, Quốc Lộ 21 nối liền Ban Mê Thuột và Nha Trang cũng bị các đơn vị Cộng quân chốt giữ. Hướng Tây còn bỏ ngỏ và im lặng một cách lạ thường, cho thấy cơn giông bão chiến tranh sẽ dậy lên dữ dội từ đó. <br><br> Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II đến lúc này biết chắc tất cả những chiến cuộc rối bời ở Kontum, Pleiku, Quảng Đức trong tháng 2 và đầu tháng 3.1975 chỉ là chiến trường phụ, Ban Mê Thuột mới là mặt trận chánh. Trong lúc tình hình cao nguyên thật khẩn trương, Thiếu Tướng Phú bay xuống Ban Mê Thuột vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 23 Bộ Binh nghe Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, và Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng Darlac thuyết trình trận liệt phòng thủ với sự có mặt của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn và Đại Tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnh Trưởng Quảng Đức. Đại Tá Quang đã trình Thiếu Tướng Phú trận thế bố trí của ông như sau: <br><br> - Phía Bắc có Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh. - Phía Nam là Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 23 Bộ Binh và một Tiểu Đoàn bộ binh. - Phía Đông có Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac và Chi Khu Ban Mê Thuột. - Phía Tây, vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh và Kho Đạn Mai Hắc Đế. - Trung Đoàn 53 thiếu, chỉ có một Tiểu Đoàn đang trấn giữ phi trường Phụng Dực về phía Đông thành phố. <br><br> Buổi họp kéo dài đến trưa, Đại Tá Luật cho dọn cơm mời mọi người. Bữa cơm thời chiến rất đạm bạc. Tất cả đều dùng cơm dĩa, thức uống có nước ngọt hay bia. Thiếu Tướng Phú ăn rất nhanh để còn kịp trở về Quân Đoàn theo dõi tình hình chung. Đại Tá Luật không có thể ngờ rằng, đây là bữa ăn cuối cùng giữa ông và người Tư Lệnh mà sẽ vĩnh viễn đi vào lịch sử một tháng sau. Trọng trách một Quân Khu với rừng núi mênh mông và dãy Trường Sơn hùng vĩ bạt ngàn đang đè nặng lên đôi vai gầy nhỏ của vị Tướng có vóc đáng mảnh khảnh. Nhưng nào ai biết được đàng sau khuôn mặt xương xương và khắc khổ đó, là cả một quyết tâm giữ vững từng tấc một của tổ quốc, là một khối óc cứng như thép và một trái tim nồng nàn tình đất nước. Đại Tá Vũ Thế Quang, người sĩ quan Nhảy Dù cùng binh chủng cũ với Thiếu Tướng Phú, đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II trước khi chia tay với lời thề tử thủ Ban Mê Thuột: ”Tôi sẽ giữ vững Ban Mê Thuột và tôi sẽ chết ở đó.” Vẫn chưa được an tâm lắm, về đến Pleiku, Thiếu Tướng Phú điện xin Bộ Tổng Tham Mưu gửi cho một Liên Đoàn Biệt Động Quân. Nhưng Bộ Tổng Tham Mưu đã từ chối, viện cớ không còn một lực lượng trừ bị nào nữa, ngoài Liên Đoàn 7 Mũ Nâu đang rất bận rộn hành quân trong lãnh thỗ Quân Khu III (nhưng đột nhiên ngày 14.3.1975, Liên Đoàn 7 Mũ Nâu lại được không vận ra Pleiku, trong lúc Quân Đoàn II đang rất bận rộn với kế hoạch rút quân). Thiếu Tướng Phú buộc phải xử dụng lực lượng ông có trong tay để đương đầu với trận thế của giặc. <br><br> Tiểu Đoàn 72 và 96 Biệt Động Quân thuộc Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân của Trung Tá Lê Quý Dậu đang trấn đóng trên vùng Đèo Chu Pao QL14 và phòng giữ thành phố Kontum được cấp tốc không vận xuống Buôn Hồ, một làng Thượng cách Ban Mê Thuột 35 km về hướng Bắc. Từ Buôn Hồ, Liên Đoàn 21 Mũ Nâu được dự trù vận chuyển đường bộ xuống Ban Mê Thuột. Song song với cuộc chuyển quân này, Đại Đội 45 Trinh Sát của Trung Đoàn 45 Bộ Binh VNCH đang hành quân ở Ban Don nhận lệnh gấp rút trở về thành phố. Đại Tá Luật gọi Tiểu Đoàn 204 Địa Phương có mặt ở Ban Don nhanh chóng rút về thành phố. Nhưng thời gian đã không còn thuộc về quân ta nữa rồi. <br><br> Lúc 2 giờ sáng rạng ngày 10.3.1975, những trái đạn pháo 130 ly đầu tiên dội xuống thành phố đã mở màn cho trận đánh Ban Mê Thuột. Phố xá còn đang say ngủ giữa đêm trường, bỗng choàng tỉnh vì những tiếng nổ ùng oàng đinh tai nhức óc của đạn pháo địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac báo cáo bị pháo địch dội trúng. Đại Tá Luật từ lầu hai tư dinh Tỉnh Trưởng chạy xuống hầm chỉ huy mà những vị Tỉnh Trưởng tiền nhiệm đã xây cất bằng bê tông cốt sắt rất kiên cố. Hầm có thể chống được đạn pháo, trong hầm có trang bị đầy đủ máy móc truyền tin để liên lạc với những đơn vị trực thuộc cũng như với cấp trên, hay tận trung ương rất dễ dàng. Từ hướng Tây, các loại đạn đại pháo Cộng quân tới tấp nã vào Tiểu Khu, Đài Truyền Tin ở sân bay L19 và Kho Đạn Mai Hắc Đế. Pháo Binh Tiểu Khu và Pháo Binh Sư Đoàn 23 phản pháo mãnh liệt. Tiếng nổ của đôi bên rền trời, những mảng lửa khói của đạn pháo địch nổ bùng lên trên nhà cửa và đường phố Ban Mê Thuột, không khác mấy cuộc đại chiến tại An Lộc hay Kontum hồi Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Cuộc pháo kích kéo dài hai tiếng đồng hồ. Khi màn đạn pháo của địch có vẻ thưa dần, chiến sĩ phòng thủ thành phố biết chắc cuộc xung phong bộ binh của địch sẽ tiếp theo trong vài giây phút ngắn ngủi nữa. Quân ta ghìm súng dưới chiến hào bình tĩnh chờ đợi. Những họng đại liên M60 sẵn sàng bắn vào bất cứ cái gì di động trước mặt. Súng bắn tăng M72 được kéo ra trong tư thế sẵn sàng kích hỏa vào những khối thép T54 của lực lượng thiết giáp địch. Lựu đạn chuẩn bị cho những cuộc cận chiến mà chắc chắn sẽ rất đẫm máu. Những đợt sóng xung phong hung hãn của giặc ngay từ những phút đầu đã bị khựng lại thê thảm trước màn lưới hỏa lực rất kiên quyết của quân ta. Quân địch điều động chiến xa rổn rảng lăn bánh xích xông vào. Sau những trận đại bại mùa hè 1972, lần này bộ binh và xe tăng địch phối hợp nhịp nhàng hơn. Văn tiến Dũng rất sở trường lối tấn kích tung thâm, hay còn gọi là “Hoa Nở”. Nhiều mũi dùi sẽ thọc rất mạnh và rất sâu vào tận trung tâm kháng cự của quân ta, quậy nát bộ chỉ huy, rồi từ đó đánh bung rộng trở ra mọi hướng, giống như đóa hoa nở. Nhưng cũng chính lối đánh này đã nướng rất nhiều chiến xa địch, vì chúng vào quá sâu. Quân ta lại rất sở trường lối đánh nghênh cản và triệt hạ. Bộ binh địch bị quân ta tập trung hỏa lực tiêu diệt không cho chúng bám vào xe tăng, trong khi đó những toán diệt tăng dùng “Bà Già M72” làm thịt chiến xa của chúng. Toàn thành phố Ban Mê Thuột sau những ngày yên bình bỗng đã chìm trong cơn bão lữa kinh hồn. Tiếng kêu gào xung phong của giặc nghe rền rền ghê rợn như tiếng của đoàn âm binh từ dưới địa ngục, tiếng đạn nổ ầm ầm khắp mọi hướng, tiếng la hét cận chiến của hai bên vang vọng hãi hùng giữa đêm khuya. Tại phi trường L19, Đài Truyền Tin đã lọt vào tay giặc. Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Cộng quân tiến sát vào căn cứ dùng lựu đạn tung vào hầm phòng phủ làm một số sĩ quan, binh sĩ tử thương và bị thương. Đặc công Bắc Việt tấn công dữ dội vào Kho Đạn Mai Hắc Đế, song chiến sĩ ở đây can cường đẩy lui nhiều đợt xung phong của chúng. Nhưng đến gần 5 giờ sáng thì vị Đại Úy Chỉ Huy Trưởng Kho Đạn trúng đạn bị thương rất nặng không còn chỉ huy được nữa. Nửa giờ sau Kho Đạn thất thủ. Như vậy hướng Bắc và hướng Tây coi như đã bị bỏ ngỏ, địch đã mở được hai mũi dùi tiến vào. Khoảng 7 giờ sáng, các đơn vị của Sư đoàn 320 Bắc Việt đã có mặt trong thành phố, chiến xa địch cũng lăn bánh xích ì ầm tràn vào. Bảo vệ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 2/53 chiến đấu anh dũng đánh bung tất cả đợt tấn công của binh đội Cộng Sản. Chiến sĩ Địa Phương Quân bố trí chung quanh dinh Tỉnh Trưởng làm thành một bức tường vững chãi. Những chiếc xe tăng địch chạy lầng quầng trên đường phố rất giống cảnh tượng trong lòng thị xã An Lộc và Kontum năm 1972, chẳng mấy chốc mà 5 chiếc T54 đã bị những ống phóng M72 từ Tiểu Đoàn 2/53 Bộ Binh và từ lực lượng Địa Phương Quân bắn hạ. Để thuận tiện phối hợp tác chiến, Đại Tá Luật gọi điện xin Quân Đoàn cho phép ông được di chuyển Bộ Chỉ Huy qua cùng với Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Quang. Thiếu Tướng Phú chấp thuận yêu cầu. Những chiếc quan sát cơ L19 của Quân Đoàn II gửi tới chỉ điểm mục tiêu cho Pháo Binh và phi cơ oanh tạc đã đẩy tinh thần chiến đấu của quân cán chính Ban Mê Thuột lên rất cao. * Chiến thắng ở Phi Trường Phụng Dực . Tin chiến thắng từ Phi Trường Phụng Dực dồn dập gửi về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 và Quân Đoàn II. Trung Tá Võ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 báo cáo các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3/53 bắn hạ hai chiếc chiến xa địch và tịch thu rất nhiều súng ống. Trung Tá Ân đang cho con cái đem chiến lợi phẩm vào phòng khách phi trường. Tại khu vực trách nhiệm của Đại Đội 23 Trinh Sát quân Cộng không đánh thủng nổi. Nhưng lực lượng Không Quân trong phi trường đã phải cam chịu tổn thất 1 trực thăng vận tải CH 47, 1 quan sát cơ O.1 và 6 chiếc UH1, đều thuộc Sư Đoàn 6 Không Quân. Bảy chiếc UH1 của Sư Đoàn 2 Không Quân bị trúng đạn, nhưng các phi công đã cố gắng lái 3 chiếc bay ra khỏi chiến trường. Tiểu Đoàn 3/53 bắt được 2 tù binh Cộng Sản. Chúng khai là cán binh thuộc Trung đoàn 25 Độc lập và Tiểu đoàn 401 Đặc công. Nhưng ngược lại Cộng quân cũng bắt được những nhân viên thuộc ICCS (Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn) gồm một người Iran và một Nam Dương (Indonesia) cùng với ông Paul Struharic, Đại Diện Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Ban Mê Thuột, cùng với 8 dân sự và giáo đạo ngoại quốc đem về trại giam thiết lập gần Đức Cơ, Pleiku. Tất cả đều được phóng thích về sau này. Đến 9 giờ sáng, Đại Tá Quang và Đại Tá Luật hân hoan nhận được tin quân ta vừa bắn hạ thêm hai xe tăng địch nữa trước Câu Lạc Bộ Sĩ Quan trên đường Thống Nhất. Một sĩ quan thuộc Đại Đội 23 Trinh Sát sau này gặp lại Đại Tá Luật trong một trại tù ngoài Miền Bắc, kể cho ông biết rằng chính anh đã dẫn binh sĩ đi thám sát dọc theo đường Thống Nhất và đã đếm được đến 10 chiếc đã bị quân ta rang muối trên đường phố. Sau chiến thắng Phước Long, thiết giáp Cộng Sản đã nghênh ngang tiến vào Ban Mê Thuột và tưởng rằng quân ta sẽ thoái lui nhanh chóng. Mặc dù sự chênh lệch lực lượng giữa quân ta và quân địch quá rõ, Địa Phương Quân trang bị nhẹ phải đối đầu với những Sư đoàn nặng của Cộng Sản, với sự yểm trợ hùng hậu của đại pháo và chiến xa, nhưng quân ta vẫn không nao núng. Những tổ M72 nhỏ bé của quân ta phóng những mảng lửa màu cam chết chóc bắn lên những chiếc pháo tháp tròn đen xám làm chúng nằm bất động giữa đường phố. Cuộc chiến đấu càng kéo dài thiệt hại đôi bên càng lên cao. Đến giữa trưa, lúc 12 giờ 45, Thiếu Tá Hy, Trưởng Phòng Ba Tiểu Khu Darlac, báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh rằng Tiểu Khu đã trúng pháo địch rất nặng, hầm TOC (Tactical Operation Center: Trung Tâm Hành Quân) của Tiểu Khu, gây tử thương và làm trọng thương nhiều binh sĩ, trong đó Trung Úy Năm, Trưởng Phòng 5 Tiểu Khu Darlac, đã đền nợ nước. Thiếu Tá Hy xin phép được di tản ra khỏi Tiểu Khu. Đại Tá Luật chấp thuận. Một tiếng đồng hồ sau, Thiếu Tá Hy báo cáo địch đã tập trung pháo binh bắn vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi sau đó chiến xa và bộ binh địch tràn ngập hệ thống chiến đấu của Thiếu Tá Hy. Đại Tá Luật mất liên lạc với Thiếu Tá Hy, người sĩ quan hành quân mẫn cán và tận tụy của ông. Tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phú âu lo theo dõi tình hình Ban Mê Thuột, một mặt liên lạc với cánh quân Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân của Trung Tá Lê Quý Dậu vẫn còn dậm chân tại Buôn Hồ. Đoàn quân xa từ Pleiku không xuống Chi Khu Buôn Hồ được vì chốt chận của Sư đoàn 10 Bắc Việt tại Thuần Mẫn, các chiến sĩ Mũ Nâu buộc phải hành quân bộ nhanh chóng tiến vào Ban Mê Thuột tiếp cứu. Cuộc hành quân bắt đầu từ 6 giờ chiều ngày 10.3.1975, Sư đoàn 10 tổ chức chận đánh Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân liên miên trên suốt quãng đường Quốc Lộ 14 dẫn vào thành phố. Vừa tiến vừa đánh chốt, đến gần nửa khuya, Trung Tá Lê Quý Dậu liên lạc với Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Quang báo cáo những toán tiền sát của Mũ Nâu đã chạm chân lên khu vực ven thị xã và đang ở gần khu vực Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Thiếu Tướng Phú lệnh Trung Tá Dậu bất cứ giá nào cũng phải tái chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu ngay trong đêm. Giữa đêm đen rạng ngày 11.3.1975, quân địch và quân ta đều hiện diện trong thành phố. Bộ đội và chiến xa Sư đoàn 320 đang bám chặt khu trung tâm, trong khi đó chiến sĩ phòng thủ Ban Mê Thuột giữ chắc khu vực phía Đông, Nam, và Tây. Tiểu Đoàn 225 Địa Phương Quân vẫn trấn giữ vững vàng Đồi 559. Tiểu Đoàn 242 Địa Phương Quân bảo vệ chặt chẽ kho đạn Sư Đoàn, trong khi Tiểu Đoàn 243 Địa Phương Quân vẫn ghìm súng chống ngăn quân giặc trên Đồi 491 ở phía Nam. Trong khu vườn cà phê phía Tây Ban Mê Thuột, Tiểu Đoàn 1/53 Bộ Binh từ chiến trường Quảng Đức trở về mấy ngày trước cùng Chi Đoàn 3 của Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh thiết lập chiến tuyến bảo vệ Bộ Tư Lệnh Mặt Trận của Đại Tá Quang. Lúc 1 giờ khuya, Đại Tá Luật đọc bài phát thanh, do Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung Úy Chiến Tranh Chính Trị Dzi thảo, trên Đài Ban Mê Thuột kêu gọi dân chúng bình tĩnh và an tâm, ông thông báo các lực lượng tăng viện của Quân Đoàn II sẽ chiếm lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac. Tuy nhiên lời trấn an này đã không được chứng thực, vì các chốt chận của giặc đang chận đánh dữ dội Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân. Cuộc chiến đấu giữa hai bên tạm lắng đọng đôi chút trong đêm, để đến 7 giờ sáng hôm 11.3.1975 pháo địch tiếp tục ồ ạt dội xuống Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Đại Tá Vũ Thế Quang. Chiếc xe Jeep của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật bị trúng một trái đạn nổ tung. Là một chiến binh Nhảy Dù từng xông pha trăm trận, Đại Tá Quang vẫn ung dung điều động tất cả đơn vị chống trả hữu hiệu mọi cuộc tấn công của quân Cộng. Những Sư đoàn gọi là thiện chiến của Hà Nội như Sư đoàn 320 mệnh danh là Sư đoàn Điện Biên, giờ đây chỉ còn là cái bóng của chính nó. Đã hội được đầy đủ yếu tố bất ngờ mà binh đội và chiến xa của chúng vẫn không làm chủ nổi tình hình trong ngày đầu cuộc chiến. Giả sử nếu Trung Đoàn 45 Bộ Binh không bị đình hoãn ở Pleiku và vẫn tiếp tục di chuyển xuống Ban Mê Thuột, thì số phận của Sư Đoàn 320 trong thành phố càng tệ hại hơn. Tại khu vực phi trường Phụng Dực, Sư đoàn 316 Cộng quân vẫn không tiến qua nổi chiến tuyến rất cứng của Tiểu Đoàn 3/53 Bộ Binh và Đại Đội 23 Trinh Sát. Cuộc ác chiến Ban Mê Thuột tiếp diễn với cường độ đã dần dần tăng lên mức nóng đỏ khốc liệt. Hàng hàng bộ đội mới toanh và non choẹt của Cộng quân ào ạt xông lên làm những cái cây thịt sống trước họng súng của quân Nam. Có tất cả trên 400 cán binh Bắc Cộng nằm phơi xác khắp thành phố và 13 chiếc tăng bị bắn gục nằm cháy đen rải rác. Trung Tá Võ Ân báo cáo quân Sư Đoàn 316 đang dùng đến cả súng phun lửa quyết tâm thiêu cháy con cái của ông. Những loại súng sát thương rùng rợn nhất dội ầm ầm lên mọi kháng tuyến của quân phòng thủ. Liên Đoàn 21 Mũ Nâu vẫn còn bị cầm chân ngoài ngoại ô không vào thành phố được. Trung Tá Lê Quý Dậu dẫn hai Tiểu Đoàn 72 và 96 Biệt Động Quân dạt về phía Phi Trường Phụng Dực, với hy vọng bắt tay được với Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53 của Trung Tá Võ Ân, rồi từ đó mở một mũi đột phá vào. <br><br>Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 chỉ còn có mỗi một chiếc thiết vận xa M 113 còn nguyên vẹn. Là một chiến sĩ Mũ Đen từng xông pha bên Hạ Lào và trên chiến trường Quảng Trị, Đại Tá Luật đã ngồi trên chiếc thiết giáp nhỏ nhắn mà thân thiết này cùng với một xạ thủ điều khiển cây đại bác không giật 106 ly để đương đầu với hàng hàng lớp lớp chiến xa địch. Trong lúc đó thì Trung Úy Hoành chỉ huy một Trung Đội Địa Phương Quân bảo vệ tư dinh Tỉnh Trưởng báo cáo quân ta bắn hạ hai chiến xa T54 mà trước đó chúng dùng đại bác 100 ly bắn trực xạ vào dinh làm lầu hai bị sụp xuống. Hai trong ba đứa con nhỏ của Đại Tá Luật may mắn thoát chết, nhưng em bé con trai út bị chấn động mạnh ở ngực và tử thương. Trung Úy Hoành xin phép dẫn Trung Đội và tất cả binh lính trong dinh cùng mấy em bé rút ra khỏi dinh Tỉnh Trưởng. Từ giây phút đó Đại Tá Luật không còn gặp lại những đứa con của mình nữa cho đến khi ông từ trại tù Cộng Sản trở về hơn mười năm sau. Thanh toán xong dinh Tỉnh Trưởng, chiến xa giặc dồn toàn lực bao vây và tấn công Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Đại Tá Luật và người chiến sĩ Mũ Đen trưởng xa kiêm xạ thủ chỉ còn có thể trông cậy vào khẩu đại bác 106 ly cuối cùng trên chiếc M113. Chưa bao giờ một cựu Tư Lệnh Lữ Đoàn Kỵ Binh với những chiếc xe tăng M48 từng bắn hạ nhiều T54 giặc mà giờ đây ông phải đối đầu với chúng bằng một chiếc M113 nhỏ bé. Một tương phản thật quá chênh lệch và hoàn toàn điên rồ. Rất giống tình trạng một chú bé cầm gậy đánh nhau với một tướng cướp có cây mã tấu sáng loáng. Khoảng 10 giờ sáng, nhiều chiếc T54 đã rầm gú tiến về Bộ Tư Lệnh. Chiếc M113 ẩn trong chòm cây rậm rất kín đáo, bọn giặc không nhìn thấy, nên chúng cứ lù lù tiến tới. Tiếng máy xe tăng và tiếng bánh xích kêu ầm ầm buốt óc. Những khối sắt phụt khói đen nghịt, chầm chậm tiến tới phía cổng cách hơn 250 mét, rồi 200 mét… Những giây phút chờ đợi thật quá căng thẳng. Hai thầy trò kiên nhẫn chờ cho chiếc xe tăng dẫn đầu tiến đến khoảng cách 100 thước, Đại Tá Luật ra lệnh bắn. Thay vì là tiếng nổ lớn chát chúa quen thuộc của đại bác 106 ly, thì nó chỉ dội lên một tiếng “cóc” khô khan. Trong khi mọi người đứng tim dán mắt vào đoàn quái vật vẫn lừ lừ lăn bánh xích, Đại Tá Luật gào lên: <br><br> - Gì thế? Xạ thủ trả lời: - Trở ngại tác xạ, Đại Tá! - Mở “culasse” ra xem? - Trình Đại Tá, “percuteur” gãy! - Có “percuteur” thay thế không? - Thưa… không! <br><br> Câu trả lời làm người Đại Tá Kỵ Binh toát mồ hôi, vì khẩu đại bác 106 ly là hy vọng cuối cùng, dù mỏng manh, để chờ viện binh tới. Khẩu 106 ly không giật là phương tiện duy nhất chống trả với T54 địch. Những loại súng khác chỉ là trò đùa với chúng. Những khẩu hỏa tiễn M72 diệt tăng đã cạn dần, cạn dần theo cùng với số chiến xa địch bị bắn hạ. Không 106 ly, không M72, người lính Ban Mê Thuột không thể hình dung những ngày sắp tới sẽ phải làm gì với đoàn chiến xa hung bạo của giặc.. <br><br> * Thảm họa không mong muốn . <br><br> Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Đại Tá Quang vẫn còn một hy vọng chót vào những oanh tạc cơ phản lực A37 mà Quân Đoàn II đang gửi đến giải tỏa chiến trường, ít nhất cũng làm chậm tốc độ tấn công của địch. Chiếc quan sát cơ L19 bay vòng vòng trên bầu trời thành phố liên lạc với Bộ Tư Lệnh xin mục tiêu oanh kích. Đại Tá Quang cho ngay yếu tố: “Dội cách Bộ Tư Lệnh một trăm thước.” Trong tác chiến, hàng ngàn lần chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu pháo binh bắn giải cứu trong khoảng cách sát thương 50 thước, thậm chí có lúc 20 thước, nhưng với chuyện bỏ bom, khoảng cách 100 mét là một sự mạo hiểm chết chóc. <br><br> Trong vòng vây thắt ngặt của giặc, Đại Tá Quang không còn giải pháp nào khác. Nếu những trái bom ném xuống chính xác, thì ông còn có thêm được một ít thời gian quí báu kéo dài cuộc kháng cự. Còn cơ hội, còn súng còn đạn và còn lòng kiên quyết thì quân ta còn đánh, và đánh rất dũng cảm. Chiếc L19 bắn trái khói màu xuống khu vực quân Cộng. Một chiếc A37 gan dạ xà xuống trong bức màn lửa cháy bỏng của phòng không địch. Trái bom chúi đầu xuống theo một đường cong quán tính. Thật quá không may cho số phận của Ban Mê Thuột, nó lạnh lùng rơi đúng lên nắp hầm Bộ Tư Lệnh Mặt Trận của Đại Tá Quang. Những người trong hầm thình lình nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp. Mặt đất bị chấn động runh rinh như ngày tận thế. Cát, đá, bụi đất tung lên cao hàng trăm thước. Bộ chỉ huy đầu não của cuộc kháng cự đã bị dội bom trúng. Trong một khoảng cách 100 thước, người chiến sĩ bộ binh chấp nhận rủi ro và không có gì để oán trách người bạn Không Quân Việt Nam. Chỉ có sự đau xót cay cực mà số mệnh đã quá tàn nhẫn dành cho người lính chúng ta vậy thôi. Trung Tâm Hành Quân bị phá hủy gần như hoàn toàn. Những máy móc truyền tin liên lạc đều tiêu tán theo mây khói. Một số lớn sĩ quan và binh sĩ trong Trung Tâm hy sinh và bị thương. Đại Tá Quang may mắn chỉ bị thương nhẹ. Liên lạc với các đơn vị và thế giới bên ngoài hoàn toàn bị cắt đứt. Người chết đạn hết, Đại Tá Quang buộc phải tìm cách tháo thân ra ngoài. Ông cùng Đại Tá Luật và những chiến sĩ sống sót dìu dắt nhau rút về hướng Suối Bà Hoàng phía Tây thành phố, cách Bộ Tư Lệnh chừng 250 thước. Tuy rằng trái bom dội trúng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, nhưng nó cũng có tác dụng ngăn chận đoàn chiến xa địch đang hùng hổ tiến tới. Khoảng 100 chiến sĩ kéo nhau di tản, vọng theo mỗi bước đi của các anh có tiếng loa phát thanh của Cộng Sản từ phía chùa Tỉnh Hội Phật Giáo Ban Mê Thuột kêu gọi đầu hàng. <br><br> Đoàn quân quá đông rất dễ bị giặc truy đuổi và phát giác, nên hai vị Đại Tá đồng ý tách rời nhau, mỗi người đi về một hướng. Đại Tá Quang sẽ lần mò đi về hướng Nam tìm cây cầu ở cây số 14, từ đó xuôi hướng Đông Nam xuống Nha Trang. Nhưng Đại Tá Quang không thể đi thoát, vì Quốc Lộ 21 dẫn về Nha Trang đã bị giặc kiểm soát, nên trong cuộc hành trình về phương Nam ông đã sa vào tay quân địch, chấm dứt đoạn đường chiến đấu hai mươi năm của một người lính. Đại Tá Luật chọn đi về hướng Tây tìm vào ẩn trú trong khu vườn cà phê của cựu Trung Tướng Thái Quang Hoàng thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chờ đêm xuống sẽ tìm đường bọc lên hướng Bắc rồi bẻ sang hướng Đông về Nha Trang. Có khoảng 20 chiến sĩ và ông Phó Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ theo cùng. Nhưng khi bò ngang một khoảnh đất trống dẫn đến khu vườn cà phê, thì đoàn di tản rơi vào ổ phục kích của một đơn vị giặc. Người chỉ huy cao cấp thứ hai của mặt trận Ban Mê Thuột cũng đã lọt vào tay quân Cộng. Khoảng 4 giờ chiều Cộng Sản điều động một chiếc xe tăng đến chở Đại Tá Luật đi về hướng Tây. Thật oái oăm làm sao. Một chiến binh Mũ Đen từng vùng vẫy khắp chiến trường với đoàn kỵ binh dũng mãnh, giờ đây số phận đưa đẩy ông ngồi trong lòng một con ngựa sắt, mà là của kẻ thù và với tư cách của một người tù binh. <br><br> Chưa hay biết tin vị Tư Lệnh chiến trường đã bị bắt, Trung Tá Võ Ân và Trung Đoàn 53 vẫn kháng cự quyết liệt tại Phi Trường Phụng Dực sang đến ngày 12.3. 1975. Tinh thần chiến đấu của quân ta vẫn lên cao, Sư đoàn 316 Bắc Việt đánh không thủng nổi chiến tuyến Phụng Dực. Trung Tá Võ Ân gọi điện về xin gửi thêm đạn dược và viện binh, nhưng ông không bao giờ còn có thể bắt liên lạc được với Đại Tá Quang nữa. <br><br> Phía mặt trận của Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, chiến sĩ Mũ Nâu đang đối đầu với các thành phần của Sư đoàn 320 Bắc Việt đang rùng rùng chuyển quân xuống, sau khi đã làm chủ tỉnh lỵ Ban Mê Thuột. Trước tình hình nguy ngập đó, Bộ Tổng Tham Mưu buộc phải ném vào chiến trường cao nguyên Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, để thay chân Trung Đoàn 44 Bộ Binh trấn giữ Pleiku. Các Sư Đoàn Không Quân Quân Khu II cung cấp nhiều trực thăng vận tải CH 47 Chinook, nhưng số lượng phi cơ thiếu hụt quá nhiều cho những mặt trận, chỉ có một Tiểu Đoàn và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44 Bộ Binh được chuyển đến Chi Khu Phước An ở phía Đông Nam và cách Ban Mê Thuột chừng 30 cây số. Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường cũng được thiết lập tại đây để trực tiếp chỉ huy cuộc giải tỏa. Chuẩn Tướng Tường kết hợp một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 45, một của Trung Đoàn 44 và một của Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân thành một Chiến Đoàn Đặc Nhiệm tiến quân dọc theo Quốc Lộ 21 về hướng Tây để bắt tay với Trung Đoàn 53 tại Phi Trường Phụng Dực. Tập trung tại chiến tuyến Phung Dực, dưới quyền của Trung Tá Võ Ân còn có Tiểu Đoàn 1/53 vừa rút từ vườn cà phê về, Tiểu Đoàn 3/53 và Đại Đội 23 Trinh Sát của Sư Đoàn (số phận Tiểu Đoàn 2/53, Đại Đội 45 Trinh Sát và hai Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trong thành phố không rõ),. Để bảo đảm phía hậu tuyến cho Chiến Đoàn, năm Tiểu Đoàn Địa Phương Quân của Khánh Hòa có nhiệm vụ hành quân khai thông và bảo vệ đoạn Quốc Lộ 21 từ Nha Trang lên đến Đèo Khánh Dương. <br><br> * Cuộc họp quyết định ở Cam Ranh <br><br> Ngày 15.4.1975, Sư Đoàn 23 Bộ Binh khởi diễn cuộc phản công giải tỏa Ban Mê Thuột. Nhưng mọi sự đều đã quá muộn, vì những yếu tố quá đỗi bất ngờ và nằm ngoài sự tính toán của các cấp chỉ huy chiến trường. Trong lúc chiến sĩ Chiến Đoàn Đặc Nhiệm đang chuẩn bị xuất quân, thì họ có biết đâu rằng trong cuộc họp mật ngày 14.3.1975 tại Cam Ranh, Tổng Thống Thiệu đã lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú thi hành kế hoạch tái phối trí lãnh thổ và quân lực của ông. <br><br> Trong cuộc họp còn có sự hiện diện của Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia. Sau khi nghe Thiếu Tướng Phú thuyết trình tình hình khẩn trương của Quân Khu II, đặc biệt tại Ban Mê Thuột và xin trung ương gửi thêm viện binh, Tổng Thống Thiệu đã lệnh cho Thiếu Tướng Phú điều động các đơn vị Quân Đoàn II triệt thoái ra khỏi Kontum và Pleiku. <br><br> Tổng Thống Thiệu giải thích rõ rằng cán cân quân sự từ sau khi Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27.1.1973 ngày càng không cho phép Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa căng mỏng quá mức để giữ đất, hiện tại tình hình đòi hỏi Quân Lực phải co lại và chỉ giữ những phần lãnh thổ còn có thể đủ sức giữ được. Hơn nữa nếu có bỏ vùng cao nguyên mà ba phần tư diện tích là rừng núi hoang vu và với đa số là người Thượng sinh sống để bảo vệ miền duyên hải và đồng bằng đông dân cư có nền kinh tế trù phú, là một hành động cần thiết và cấp thiết. Vì những lý lẽ đó, Tổng Thống Thiệu quyết định cho rút các đơn vị Quân Đoàn II và tăng phái ra khỏi cao nguyên. Nhưng vì tỉnh Darlac nằm song song với tỉnh Khánh Hòa và ở phía dưới tỉnh Phú Yên, nên nếu chiếm lại được, thì nó chính là cái tiền đồn trấn giữ vững chắc con đường tiến xuống phương Nam của quân Bắc Cộng từ phía Tây. Thiếu Tướng Phú nhận lệnh phải thực hiện hai cuộc hành quân lớn. Một, rút quân chủ lực ra khỏi Pleiku và Kontum, rồi tập trung lại và tổ chức cuộc tái chiếm Ban Mê Thuột. <br><br> Thiếu Tướng Phú đã thẳng thắn đề nghị xin cho ông tiếp tục tử thủ Pleiku và bảo đảm sẽ giữ được cao nguyên. Nhưng tất cả những giới chức trong cuộc họp đều lặng thinh một cách lạ lùng, không ai góp lời hỗ trợ hay tán thành lời khẩn cầu sinh tử ấy. Nếu trong ngày đó, quân ta được bám chặt lấy cao nguyên, thì với Sư Đoàn 23 Bộ Binh từ hướng Quốc Lộ 21phía Đông Nam lên, các Liên Đoàn Biệt Động Quân từ hướng Bắc và Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ miền duyên hải Bình Định; ba Sư đoàn 10, 316 và 320 đã bị thiệt hại và rất mệt mỏi của Văn tiến Dũng sẽ bị kẹt trong cái túi lửa Ban Mê Thuột, ít nhất chiến dịch 275 của chúng sẽ bị khóa chặt ở đây trong một thời gian vô hạn định. Trong khi đó thì tại ba quân khu còn lại các lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kềm cứng ngắt các đơn vị địch. Dù đang ở thế hạ phong, nhưng trong vòng vài năm nữa, quân Nam vẫn còn cầm chân và làm trì trệ được tất cả những chiến dịch tổng tấn công của Cộng quân. Cái thế được hay thua không một nhà phân tích quân sự nào dám đoan xác rồi sẽ ngã về phía nào. <br><br> Ngày N của cuộc hành quân do Thiếu Tướng Phú tùy nghi, nhưng càng sớm càng tốt. Để bảo đảm mặt trận duyên hải vững vàng, Thiếu Tướng Phú đặc phái Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tư Lệnh Phó Phụ Tá Hành Quân, xuống trông coi chiến trường Bình Định. Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh Phó Lãnh Thổ, chịu trách nhiệm Bộ Tư Lệnh Nhẹ Quân Đoàn II tại Phú Yên để điều hợp công tác tái phối trí các đơn vị cao nguyên về đó. Chuẩn Tướng tân thăng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II, làm Tư Lệnh cuộc hành quân triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 7 B. Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, giữ nhiệm vụ giám sát cuộc hành quân. Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn được bổ nhiệm làm tân Tỉnh Trưởng Darlac thay thế Đại Tá Nguyễn Trọng Luật mất tích, cho thấy quyết tâm tái chiếm Ban Mê Thuột của Thiếu Tướng Phú. <br><br> Nhiều sử gia đã chỉ trích lệnh điều động nhân sự của Thiếu Tướng Phú là không thích đáng, đặc biệt vị Tư Lệnh cuộc hành quân. Tuy nhiên chúng ta nên nhìn lại trận liệt của Quân Đoàn II trong thời điểm đó để có một cái nhìn và một lượng định chính xác hơn. Chuẩn Tướng Lê Trung Tường đang chỉ huy Sư Đoàn 23 Bộ Binh trên Quốc Lộ 21, Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm đang chỉ huy Sư Đoàn 22 Bộ Binh đánh địch tại Đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 và mặt trận Bình Định. Lực lượng hùng hậu còn chưa tung ra tham chiến hết là các Liên Đoàn Biệt Động Quân 4, 6, 7, 22, 23, và 25 (Liên Đoàn 24 bị cầm chân ở Quảng Đức, Liên Đoàn 21 không rõ tin tức tại Ban Mê Thuột). Như vậy Thiếu Tướng Phú đã hành động hết sức thích đáng khi chỉ định Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II, chỉ huy lực lượng di tản trên Liên tỉnh Lộ 7B mà thành phần làm nỗ lực chánh là binh chủng Mũ Nâu. Nếu tính theo quân số thì các Liên Đoàn Biệt Động Quân hợp thành tương đương gần hai sư đoàn, Chuẩn Tướng Tất đang hành xử nhiệm vụ của một tư lệnh sư đoàn. Hơn hết, kinh nghiệm điều hợp quân binh chủng hồi mùa hè năm 1972 tại Kontum và Quảng Trị cho thấy tốt hơn cả là bổ nhiệm chính giới chức cao cấp nhất của binh chủng đang làm nỗ lực chánh làm Tư Lệnh chiến trường, là giải pháp chính xác nhất. Chuẩn Tướng Tất đã xuất sắc làm tròn bổn phận được giao phó, cùng với đoàn Mũ Nâu đi sau chót hết của cuộc di tản, ông đã anh dũng sa vào tay giặc ngay trên chiến trường và đã trả giá đắt cho sự kháng cự bất khuất đó bằng mười mấy năm tù cộng sản trên đất Bắc. <br><br> Trong khi vị chủ tướng bị giải về Bắc, thì Tiểu Đoàn 34 Biệt Động Quân của Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân đã đánh một trận lừng lẫy cuối cùng mà sẽ được trân trọng ghi vào chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Các chiến sĩ Mũ Nâu đã đánh tan hoang các chốt chận trên Liên Tỉnh Lộ 7B từ quận Củng Sơn về tỉnh lỵ Tuy Hòa, nhất là ở đoạn Đập Đồng Cam thuộc Phú Yên, cam chịu thiệt hại rất nặng để khai thông đường sinh lộ cho đồng bào và chiến hữu các quân binh chủng bạn về đến được Phú Yên. Tiểu Đoàn 34 Biệt Động Quân rách nát sau nhiều trận giao tranh, nhưng là một trong vài Tiểu Đoàn còn giữ vững tinh thần quyết chiến, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, lúc ấy đã di chuyển về Nha Trang, đặc phái Tiểu Đoàn lên trấn giữ Đèo Cả, đoạn đường hiểm trở trên Quốc Lộ 1 ở giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa từ ngày 27.3.1975. <br><br> Trên đỉnh Đèo Cả có tảng đá rất lớn mà người bên dưới nhìn lên trông nó rất giống hình dáng một người thiếu phụ đang bồng một đứa trẻ đứng nhìn về phía chân trời, dường như đang trông ngóng người chinh phu còn đang chinh chiến ỡ mãi ngoài chiến trường xa. Nên hòn đá có tên là Hòn Vọng Phu. Người thiếu phụ sẽ còn mãi mãi đứng đó, giữa trời mây lồng lộng gió kêu gào thê thiết, để nhỏ lệ nhìn hàng đoàn xe di tản, trên đó hàng chục ngàn những chiến binh u sầu cúi đầu cầm súng đi mãi về phương Nam. Chuyến đi đó không ai biết đến khi nào sẽ trở lại. Hòn Vọng Phu rồi đây chắc chắn sẽ không còn trông thấy bóng dáng quen thuộc của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngược xuôi trên con đường Đèo Cả này nữa rồi. Nàng sẽ vĩnh viễn bế con đứng đó thổn thức gọi tên những người lính đến ngàn đời. Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi nữa, những người chinh nhân Tiểu Đoàn 34 mặc áo rằn ri hoa rừng trấn đóng trên đỉnh đèo cũng sẽ đớn đau từ giã Hòn Vọng Phu để tan biến vào dòng chảy di tản bàng hoàng của đoàn quân dân lũ lượt phía dưới. <br><br> UserPostedImage <br><br> * Cuộc chiến đấu cuối cùng của Sư Đoàn 23 Bộ Binh trên Đèo Khánh Dương <br><br> Để ngăn chận các đơn vị phản công của Sư Đoàn 23 Bộ Binh từ Phước An tiến về Ban Mê Thuột trên Quốc Lộ 21, Tướng Văn tiến Dũng điều động Sư đoàn 10 Bắc Việt từ Quảng Đức lên nghênh chiến. Các chiến sĩ Trung Đoàn 45 Bộ Binh hành quân nhanh chóng, nôn nóng bắt tay với chiến sĩ Trung Đoàn 53 tại Phụng Dực. Các đơn vị tiền quân của Trung Đoàn 45 tiến đến gần con sông Ea Nhiea, chỉ còn cách Phụng Dực 10 cây số, thì Tiểu Đoàn 2/45 chạm súng dữ dội với các thành phần của Sư đoàn 10 Cộng quân. Tiểu Đoàn 2/45 quyết tiến lên, quân giặc quyết chận đứng quân ta tại con sông Ea Nhiea, tiếng súng hai bên nổ vang vọng cả núi rừng. Chuẩn Tường Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đích thân bay trên một C&C UH 1 quan sát và chỉ huy. Đạn phòng không của địch bắn lên đầy trời, chiếc trực thăng chỉ huy bị trúng nhiều vết đạn, Chuẩn Tướng bị thương nhẹ vào chân và lệnh cho chiếc C&C rời khỏi chiến trường. Từ giây phút đó, Trung Đoàn 45 Bộ Binh tận lực chiến đấu đơn độc, cấp chỉ huy cao nhất chỉ là vị Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 2/45 bị thiệt hại rất nặng. Nhận được tin Chuẩn Tướng Tường rời khỏi mặt trận và đang điều dưỡng trong Quân Y Viện Nha Trang, Thiếu Tướng Phú bổ nhiệm Đại Tá Nguyễn Văn Đức, Sĩ Quan Tham Mưu Quân Đoàn II quyền Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. <br><br> Đại Tá Đức đảm đang nhiệm vụ nặng nề giải tỏa Ban Mê Thuột, hoặc ít nhất bắt tay được với Trung Đoàn 53 Bộ Binh tại Phụng Dực, trong lúc cán cân lực lượng đã rất nghiêng lệch về phía Cộng quân. Tình hình càng lúc càng bất lợi cho Đại Tá Đức, khi ông nhận được tin Sư đoàn 10 Bắc Việt đã cho một lực lượng đi vòng qua chiến tuyến của Trung Đoàn 45 tiến quân về Đèo Khánh Dương và uy hiếp nặng nề các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân của Khánh Hòa. Các chiến sĩ Địa Phương Quân bắt được một số tù binh, mà theo cung từ của họ, Trung đoàn 25 Độc lập Bắc Việt đã có mặt tại mặt trận Khánh Dương. Trung Đoàn 45 bị kẹt giữa hai tuyến lửa, phía trước mặt là các chốt chận dầy đặc của Cộng quân, phía sau lưng có nguy cơ bị cắt đứt đường về. <br><br> Tin tức không vui về cuộc di tản đau thương trên Liên Tỉnh Lộ 7B từ ngày 16.3.1975 buộc vị Tân Tư Lệnh quyết định lệnh cho Trung Đoàn 45 kéo trở về lập phòng tuyến chận giặc trên Đèo Khánh Dương. Trung Đoàn 45 lập kế hoạch cho các Tiểu Đoàn yểm trợ nhau lần lượt rút trở về Phước An, tiếp tục rút về hướng núi Chu Kuk gần Đèo Khánh Dương. Quân ta thiết lập công sự chiến đấu trên những cao điểm ghìm súng chờ giặc, cũng như chờ tiếp đón chiến sĩ Biệt Động Quân và Trung Đoàn 53 tại Phụng Dực. <br><br> Bắn đến viên đạn cuối cùng, các chiến sĩ Trung Đoàn 53 sau chín ngày anh dũng cầm chân Sư đoàn 316 Bắc Việt tại chiến tuyến Phụng Dực đành phải cắn răng rút bỏ phi trường. Một sự ra đi đau lòng không bao giờ muốn. Nếu còn đầy đủ súng đạn như những ngày hùng mạnh cũ, thì còn lâu, rất lâu, hay sẽ không bao giờ Trung Đoàn 53 Bộ Binh chịu nhường Phụng Dực cho giặc. Chỉ mới chưa quá hai năm, Trung Đoàn 53 và Trung Đoàn 45 đã đánh các đạo quân hùng hậu thuộc Mặt trận B3 Tây Nguyên của quân Cộng thua xiểng liểng tại Quảng Đức thì có lý nào các anh cam chịu thúc thủ tại chính bản doanh của các anh hay sao. <br><br> Ngày 18.3.1975, tình hình đã vô cùng tuyệt vọng vì không còn liên lạc được với Sư Đoàn và Quân Đoàn, Trung Tá Võ Ân và em út của ông chỉ có thể nhặt lấy súng ống đạn dược của quân giặc tháo chạy bỏ lại trên chiến trường, cùng dắt díu nhau mở những mũi đột phá ra khỏi vòng vây của Sư đoàn 316 theo Quốc Lộ 21 xuôi hướng Đông Nam tìm về Nha Trang. Đại Đội 23 Trinh Sát trấn giữ một góc phi trường là đơn vị cuối cùng nhất của Sư Đoàn 23 Bộ Binh rời khỏi Phụng Dực, đánh dấu một trang sử bi thiết mở đầu cho cuộc tang thương uất nhục của đất nước. <br><br> Ngày 21.3.1975, Trung Tá Võ Ân cùng các chiến sĩ dũng cảm của Trung Đoàn 53 lên đến đỉnh Đèo Khánh Dương, vui mừng bắt tay vị Trung Đoàn Trưởng và chiến sĩ Trung Đoàn 45 Bộ Binh. Có lệnh bốc toàn bộ Trung Đoàn 53 và Trung Đoàn 45 bằng không vận về Cam Ranh, để ở đó Đại Tá Nguyễn Văn Đức cùng các chiến sĩ của ông với quân số khoảng 4.900 tay súng xây dựng lại sức mạnh và tiếp tục chiến đấu. Với chiến công ở Phụng Dực, Trung Tá Võ Ân được đặc cách vinh thăng Đại Tá. Các chiến sĩ Mũ Nâu của Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân được tiếp nhận và đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ để được tái tổ chức. Các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được di chuyển vào Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Lam Sơn, tái trang bị và sẽ được cải chuyển bổ sung cho các Sư Đoàn Bộ Binh. Mặt trận Khánh Dương trao lại cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù của Đại Tá Lê Văn Phát và hai Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 40 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh. <br><br> Ngày 22.3.1975, trong lúc đoàn quân dân di tản đang còn bị ùn tắc bên bờ Bắc con sông Ba gần quận Củng Sơn, Tuy Hòa, thì mặt trận Khánh Dương nổ lớn. Trung Đoàn 40 Bộ Binh nhận nhiệm vụ nặng nề ngăn chận Sư đoàn 10 Bắc Việt phía bên kia Đèo Khánh Dương, trong khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù vừa từ Quân Khu I di chuyển bằng tàu về đến Cam Ranh đã được lệnh đổ quân lên cấp tốc thiết lập chiến tuyến trên đèo. Trung Đoàn 40 Bộ Binh giao tranh đơn độc và khốc liệt với các đơn vị của Sư đoàn 10 Cộng quân có xe tăng và đại pháo yểm trợ. Không có hỏa lực hỗ trợ, quân ta lùi dần về đỉnh đèo. <br><br> Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 và Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn, e ngại Sư đoàn 10 Bắc Việt có thể né tránh quân Dù để đi vòng xuống hướng quận Diên Khánh và theo Tỉnh Lộ 420 đánh vào Nha Trang, nên đã điều động Trung Đoàn 40 cấp tốc hành quân xuống Diên Khánh chận địch lần nữa. Sự ra đi của hơn hai ngàn chiến sĩ bộ binh, đã để lại những khoảng trống lớn dọc theo chiến tuyến Khánh Dương, và làm cho gánh nặng của chiến tranh càng thêm quá sức gồng gánh của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Nhưng Nhảy Dù là Cố Gắng, nên Nhảy Dù dù ở tình cảnh nào cũng quyết chiến đấu. Các đơn vị Nhảy Dù đào hầm hố trên đỉnh cao gần 1.000 thước có tên là Núi Chu Kroa chờ đợi Trung đoàn 28 Bắc Việt và chiến xa đang ầm ì áp sát càng lúc càng gần. Một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân giữ an toàn mặt Nam cao điểm cho quân Mũ Đỏ. Chịu trách nhiệm mặt trận này là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, cũng như ông toàn quyền chỉ huy Trung Đoàn 40 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 34 Biệt Động Quân đang trấn đóng trên Đèo Cả. <br><br> Ngày 30.3.1975, mặt trận Khánh Dương bùng nổ lần thứ hai. Trung đoàn 28 và Trung đoàn 66 Bắc Việt được sự yểm trợ của hai Chi đội xe tăng và Trung đoàn 40 Pháo Binh Bắc Việt ồ ạt tấn công lên toàn Lữ Đoàn 3 Dù. Pháo binh địch dội xuống chiến tuyến quân Dù những cơn bão lửa khủng khiếp, với quyết tâm mở cho được con đường xuống Khánh Hòa, lực lượng Kỵ Binh cam chịu thiệt mất 4 trong số 15 chiếc thiết vận xa M113. Thiết Đoàn 21 Chiến Xa M48 của Quân Đoàn II đã bị kẹt trên Liên Tỉnh Lộ 7B và chịu tan rã tại quận Củng Sơn, Tuy Hòa, nên quân ta không còn chiến xa để nghênh cản xe tăng địch. Những chiếc M113 mỏng mảnh xông ra tiền tuyến nghênh chiến với những chiếc T54 to lớn của cộng quân. <br><br> Dưới cơn pháo dữ dằn của địch, những khẩu 105 ly ít ỏi còn lại của Lữ Đoàn 3 Dù buộc phải rút về Buôn Ea Thi. Sự di chuyển này đã làm cho các đơn vị tuyến đầu của Lữ Đoàn 3 Dù nằm ngoài tầm yểm trợ của các pháo đội 105 ly. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, một thời lừng lẫy trên chiến trường Quảng Trị năm 1972, hai Đại Đội đã đặt chân lên Cổ Thành Đinh Công Tráng hồi đầu tháng 7.1972, những tưởng đã dựng được ngọn cờ Việt Nam trên dãy tường thành đổ nát, thì một trái bom laser “dội lầm” làm nhiều chiến sĩ Dù bị tử thương, hai Đại Đội dội ngược trở ra. <br><br> Giờ đây, cũng Tiểu Đoàn 5 Dù nằm hứng pháo 130 ly địch. Dứt pháo, xe tăng và bộ binh giặc lổn ngổn bò lên đông đặc như những con kiến hung hãn. Tiểu Đoàn 5 Dù đánh trận cuối cùng của mình, nhiều chiến sĩ ngã gục trong chiến hào. Dần dần, con số tay súng còn chiến đấu được đã giảm xuống đến 20% quân số. Thật đớn đau quá đỗi, để bảo vệ đất nước, cứ mười người lính thì đã tử trận và chiến thương hết 8 người. Trong những nỗ lực tột cùng, Tiểu Đoàn 5 Dù bắn cháy được ba chiếc T54, nhưng vẫn không thể ngăn được những con sóng biển người cứ mãi điên cuồng tràn lên. Tiểu Đoàn 6 Dù cũng chịu cùng cuộc chiến đỏ lửa với đồng đội. Còn nhớ những ngày tháng 11.1974 khốc liệt trên những đỉnh cao Thường Đức, đặc biệt đỉnh 1062, Tiểu Đoàn 6 Dù đã giành đi giật lại với quân Sư đoàn 304 Bắc Việt dãy liên cao điểm trong vùng núi Trường Sơn Quảng Nam. Trận đánh kéo dài và đẫm máu ấy giờ đây tái diễn trên cao điểm 1,000 thước. Lần đó gần như toàn Sư Đoàn Dù tham chiến. Còn bây giờ chỉ mỗi Tiểu Đoàn 6 đơn độc, nhưng vẫn Cố Gắng đến tận cùng phía đằng sau nỗi chết chóc và sức chịu đựng của mình. Cho đến khi không còn gì để đánh nữa, toàn Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đành cắn răng nối bước Trung Đoàn 53 Bộ Binh nhặt súng đạn địch lên mở đường máu tìm về phía Nha Trang. Khi về đến được Núi Hòn Sơn ở phía Bắc thành phố Nha Trang, thì Lữ Đoàn 3 Dù chỉ còn một phần tư quân số hiện diện. Quân Dù rút đến đâu, binh đội và xe tăng Cộng quân áp sát theo tới đó. <br><br> Ngày 1.4.1975 nhân viên Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ Nha Trang được không vận về Sài Gòn. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II và Ban Tham Mưu di chuyển vào Cam Ranh. Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Đoàn 40 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Địa Phương Quân lục tục từng nhóm nhỏ kéo vào theo và tan rã ở đâu đó một cách đau xót. Ngày 2.4.1975, Bộ Tổng Tham Mưu lệnh cho Quân Đoàn II cấp tốc di chuyển vào Quân Khu III bằng hải vận, để sau đó đánh dấu chấm hết hoạt động của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận được sáp nhập vào lãnh thổ Quân Khu III. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vì cuộc di tản cao nguyên kéo theo sự sụp đổ toàn Quân Khu II, bị quản thúc tại gia ở Sài Gòn. Một dũng tướng từng xông pha trên những chiến trường lớn: Hạ Lào 719, Thừa Thiên – Huế Mùa Hè 1972, từng làm tướng lãnh giặc kinh hồn, giờ đây đang đếm từng ngày bước tiến của giặc và từng giây phút cuối cùng của cuộc đời mình. <br><br> Cuộc di tản Cam Ranh ngày 2.4.1975 cũng viết đến những dòng chữ cuối cùng của chương sử Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Đại Tá Đức và chiến binh của ông ngậm ngùi chia tay nhau. Không ai có thể hẹn với nhau ngày tái ngộ trên một vùng đất nào đó ở phương Nam. Không ai biết được cái gì đang chờ đợi họ trên con đường dài thăm thẳm ở phía trước. Những chiến binh của một thời Mùa Hè Kontum 1972 được mệnh danh là những Người Lính Kontum Kiêu Hùng giờ đây cũng tan tác theo vận nước và sẽ nổi trôi theo cùng với định mệnh tang tóc của cả một dân tộc. <br><br> Phạm Phong Dinh . <br><br> </font> https://nguyenvanguyen.blogspot.com/2019/01/q-could-vietnam-win-total-war-with-us.htmlnoreply@blogger.com (Thanh)0tag:blogger.com,1999:blog-484459571859985074.post-2459934639090096619Thu, 10 Jan 2019 02:58:00 +00002019-01-11T07:26:14.527-08:00<font size="5" color="navy"><b>Quyển Nhật Ký Của Tắc-Kè</b> <br><br> Topa <br><br> Tắc-Kè tên thật là Phạm Công Tắc, con của Đại úy cảnh sát Phạm Công Kiếm dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm; chứ không phải là Ngài Phạm Công Tắc vị lãnh đạo tôn giáo đạo Cao Đài. Phạm Công Tắc tức Tắc-Kè sinh năm 1952. <br><br> Năm 1961 ba của Tắc-Kè bị Việt Cộng ban đêm đến nhà lôi ông ra sau, bắn vào đầu. Lúc đó Tắc Kè chín tuổi. Chỉ còn hai mẹ con, nhưng mẹ Tắc-Kè quyết định đưa Tắc-Kè vào một nhà dòng do các vị Linh Mục ngoại quốc đến từ nhiều quốc gia cai quản; phần đông đến từ Ý Quốc. Tắc-Kè được hoãn dịch vì học vấn… Cho đến năm mất miền Nam thì Tắc-Kè được hai mươi ba tuổi. <br><br> Tắc-Kè từ giã cõi đời đúng vào mười giờ ba mươi phút sáng ngày 30 tháng tư năm 2016, thọ sáu mươi bốn tuổi. Tắc-Kè mất đúng vào thời điểm bốn mươi mốt năm trước, ông “Tổng thống cơ hội” (lời của Tắc-Kè) Dương Văn Minh đầu hàng cộng sản. <br><br> Quen thân với nhau ba mươi tám năm, nhưng, chỉ đến khi Tắc-Kè qua đời vì bạo bệnh tôi mới biết vì sao anh sống độc thân và vì sao anh tự nhận mình là Tắc-Kè. Tắc-Kè ít khi nói về mình. Vì vậy, khi đọc xong Quyển Nhật Ký Của Tắc-Kè, tôi mới biết anh là người suốt hơn bốn mươi năm đã âm thầm chống nhà cầm quyền Việt Nam. Chống bền bỉ bằng đủ mọi cách, kể cả cách giả làm bạn với ông Đại sứ Việt Cộng đầu tiên của miền đất thấp tên là Đinh Hoàng Thắng, mà, ông này thì cứ tưởng mình đã thu phục được một tên chống cộng – tuy chỉ là loại cắc ké. <br><br> Đối với ông Đại Sứ Việt Cộng, Tắc-Kè rất xem thường nên anh thường cho ông tiền; khoảng năm ba trăm đô la Mỹ một tuần, để, khi có dịp thì Tắc-Kè sẽ sử dụng ông. Chuyện sử dụng ông Đại sứ đã xảy ra khi có một người đồng hương gặp tai nạn với nhà cầm quyền Việt Nam, và, chính người đồng hương này đã gọi điện thoại nhờ đến sự giúp đỡ của Tắc-Kè. <br><br> Người đồng hương này rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại, ông tên là Trịnh Vĩnh Bình; nổi danh là “vua chả giò”. Bình đã gom toàn bộ tài sản đem về Việt Nam làm ăn. Bình tưởng phen này nhà cầm quyền Việt Nam sẽ phải vinh danh, sẽ phải mang ơn… sẽ dựng tượng mình là Việt kiều yêu nước. Tại Việt Nam Bình luôn ủng hộ mọi dự án của nhà cầm quyền trung ương lẫn địa phương, nhất là tự mình giúp cho dân nghèo với những số tiền thật lớn… để lấy điểm với nhà cầm quyền hơn là vì lòng nhân đạo. <br><br> Nhưng, Bình có ngờ đâu nhà cầm quyền Việt Nam đã không vinh danh mình mà lại “sắc phong” mình là: “Bình Hà Lan” có vẻ là tay chơi, cho có vẻ là tên tội phạm quốc tế nguy hiểm hầu có cớ để cướp hết tài sản của Bình. Trịnh Vĩnh Bình là người có thật tài về kinh doanh. Nhưng về chính trị thì Bình không hiểu cộng sản, hay... hiểu nhưng vẫn cứ lao đầu trở về với cùng mục đích mà bọn Trung Quốc từ bao ngàn năm qua vẫn muốn thôn tính quê hương hình chữ S của chúng ta. <br><br>Để có sự hậu thuẫn mạnh của chính giới Hòa Lan, Bình đã khôn khéo gia nhập vào một đảng lớn của Hòa Lan. <br><br> Có thật sự Bình giàu đến độ mang về Việt Nam chín mươi ký (90) vàng và nhiểu triệu đô la Mỹ không? Hay có một thế lực nào đó yểm trợ tiền cho Bình với mục đích đen tối của nhóm? Chúng ta nên nhớ: Bình là người Việt gốc Hoa. Khi Bình tỵ nạn ở Hòa Lan Bình chỉ giao thiệp với người Hoa mà thôi, ngoại trừ những khi buôn bán lẻ tẻ thì với người Việt Nam… <br><br> Vì lời khẩn nài của Bình, Tắc-Kè nhận giúp đỡ, mà việc trước tiên là dàn xếp cho người em trai của Bình là Trịnh Vĩnh Phát gặp ông Đại sứ Đinh Hoàng Thắng. Phát đã đưa tận tay cho Đinh Hoàng Thắng năm ngàn (5.000) đô la Mỹ. Từ đây Tắc-Kè đã sử dụng Thắng cho mục đích của mình là buộc Thắng phải nhúng tay vào việc giải cứu Trịnh Vĩnh Bình. <br><br> Việc giải cứu Bình đang diễn ra suông sẻ, cho đến khi Tắc-Kè thông báo cho người đại diện của Bình là Trịnh Vĩnh Phát biết, công việc đã giải quyết xong. Trịnh Vĩnh Bình sẽ nhận lại được năm mươi (50) phần trăm toàn bộ tài sản đã mất. Nhưng, nhóm người lo công việc này sẽ lấy hai mươi (20) phần trăm. Và như vậy thì toàn bộ tài sản của Bình sẽ còn lại ba mươi (30) phần trăm. <br><br> Khi nghe Tắc-Kè nói như vậy, Trịnh Vĩnh Phát đã đứng lên tuyên bố: <br><br> – “Chúng tôi sẽ lấy lại một trăm (100) phần trăm chứ chín mươi chín phần trăm cũng không nhận.” <br><br> Nói xong Phát bỏ đi thẳng và chấm dứt mọi liên lạc với Tắc-Kè. Tắc-Kè đã vì giúp cho Trịnh Vĩnh Bình mà bị khốn đốn nhưng lại không dám khai phá sản. Lúc đó Tắc-Kè đang làm Giám Đốc một công ty xuất nhập cảng quần áo trẻ em. <br><br> Cho đến hôm nay, tháng 9 năm 2016, Trịnh Vĩnh Bình vẫn đang nhờ tổ hợp luật sư Covington & Burling của Mỹ đưa nội vụ ra tòa án quốc tế thưa nhà cầm quyền Việt Nam. <br><br> Cộng sản Việt Nam nghi Bình trở về là do một nhóm tài phiệt người Tàu yểm trợ với mục đích chính trị. Nhưng, Việt cộng sản vốn là những tên ngu dốt và tham lam với nội bộ năm phe ba phái... phe nào cũng nghĩ mình có quyền nên đã hành động bộp chộp để đưa đến hệ lụy cho đến tận ngày nay. <br><br> Trịnh Vĩnh Bình và gia đình là những người “ăn cháo đái bát” vì, cho đến khi nhắm mắt, Tắc-Kè vẫn hối hận là - đã không đặt điều kiện từ lúc đầu khi đồng ý nhúng tay vào giúp Bình. <br><br> Có thật là có một nhóm tài phiệt người Tàu yểm trợ cho Bình về Việt Nam với mục đích chính trị không? <br><br> Những tên tài phiệt đó là ai? <br><br> Người “Việt kiều” nào đã cố vấn cho Bộ Ngoại Giao Việt Nam diệt Trịnh Vĩnh Bình? <br><br> Tên an ninh nào đã cầm đầu nhóm theo dõi Trịnh Vĩnh Bình và lần lượt triệt hạ hết những người của Bình tại Việt Nam? <br><br> Tất cả những thắc mắc trên đây đều nằm trong Quyển Nhật Ký Của Tắc-Kè và sẽ lần lượt được tôi gởi đến các quý độc giả. <br><br>…… <br><br> Tắc-Kè rất muốn tham gia vào một tổ chức chính trị nào đó để cùng nhau tranh đấu, nên tổ chức đầu tiên mà Tắc-kè tìm đến là của ông kỹ sư mang tiếng nhiều về một quyển sách được ông viết và xuất bản. Trong khi Tắc-Kè tỏ thái độ xem thường viên Đại sứ Đinh Hoàng Thắng thì ông kỹ sư lại tỏ ra hồ hởi và hãnh diện mỗi khi nói: <br><br> – “Viên Đại sứ đã đích thân đến thăm tôi và còn ngủ lại nhà tôi nữa.” <br><br> Ông kỹ sư học cao và nhiều tham vọng nhưng lại có tính lãng mạn, theo Tắc-Kè thì ông không phải là người để làm chính trị vì ông đã không nhìn ra được cái dã tâm của viên đại diện của nhà cầm quyền là, chỉ muốn lợi dụng ông kỹ sư giúp cho hai người con của ông ở lại Pháp mà thôi. Tắc-Kè thất vọng và từ giã ông kỹ sư để không bao giờ còn gặp lại nhau. <br><br> Từ đầu quyển nhật ký cho đến kết thúc, Tắc-Kè luôn gọi Hồ Chí Minh và nhóm người của ông là bọn cộng phỉ, là bọn lật lọng, là bọn xảo trá, là bọn dã man, là bọn dâm đãng, là bọn hèn hạ… nhất lịch sử dân tộc Việt Nam. Một trong những tên đó hiện đang làm Thiếu Tướng Phó giám đốc công an thành phố Saigon cũ, tên Phan Anh Minh. <br><br> Trước khi Tắc-Kè bị hôn mê, anh đã kịp để lại quyển nhật ký tặng tôi nên tôi mới được biết Tắc-Kè có một lần thoát khỏi địa ngục cộng sản Việt Nam đúng vào ngày 30 tháng tư. Tình bạn giữa Tắc-Kè và tôi không dính dáng gì đến chuyện chính trị vì đó là điều tôi không có khả năng. Nhưng, tiền bạc của hai người thì rất “tự nhiên.” <br><br> …………………… <br><br>Tôi gặp Tắc-Kè ngày 15 tháng 5 năm 1978, để rồi sau đó không bao lâu chúng tôi trở thành đôi bạn thân thiết cho đến nay. Ngày tôi gặp Tắc-Kè, hôm đó là buổi trưa nắng gắt. Khi đó Tắc-Kè làm công việc mua bán quần áo cũ ở chợ trời Sài Gòn. Còn tôi là người đi lang thang vì không có việc gì để làm. Thấy Tắc-Kè cầm trong tay ba cái quần và vài cái áo, tôi lựa một cái quần màu nâu đen và muốn mua nhưng lại không đủ tiền. <br><br> Tắc-Kè nhìn cái quần tôi đang mặc với vẻ ái ngại nên Tắc-Kè hỏi: <br><br>– “Anh có bao nhiêu?” <br><br> – “Chỉ bằng phân nửa giá tiền anh nói.” <br><br> Tắc-Kè nhìn ngay mắt tôi chằm chằm. <br><br> Tắc-Kè luôn nhìn thẳng mắt người đối diện. <br><br> Sau này Tắc-Kè tâm sự: <br><br> – “Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Người ngay thẳng thì khi nói chuyện với người đối diện sẽ không bao giờ nhìn láo liên như những thằng cộng sản, vốn là những thằng ba que xỏ lá.” <br><br> – Tắc-Kè ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Như vậy thì chưa đủ vốn anh à.” <br><br> – “Tôi cũng nghĩ vậy nhưng …” Tôi lắc đầu tỏ vẻ tiếc nuối rồi bỏ đi, thì bất ngờ Tắc-Kè nói với theo: <br><br> – “Anh à.” <br><br> Tôi quay lại nhìn Tắc-Kè. <br><br> – “Tôi nghĩ anh là người thành thật chứ không như bọn rừng rú mới đạp đất Saigon nên tôi bán thiếu cho anh. Mặc cái quần như vầy thì… cũng như không mặ̣c.” <br><br> Tắc-Kè lấy cái quần đưa cho tôi, và anh nắm nhẹ tay áo tôi kéo đi theo vào quán nước gần đó, cho tôi thay quần. Cái quần của tôi đang mặc là cái quần vốn đã bị phai màu và sờn rách nhiều chỗ... nên đã được thợ may lộn từ bề trong ra bề ngoài cho thấy mới hơn, nhưng lâu ngày bị sờn cả hai bên mông đến nỗi nhìn thấy cả quần lót. Tôi đưa hết số tiền trong túi cho Tắc-Kè với lời cảm ơn chân tình. <br><br> - “Thà chịu nhịn đói chứ mặc cái quần rách như vậy thì quả là quá mắc cở nếu như chẳng may gặp người quen, nhất là những bạn gái năm xưa mà bây giờ cũng đang đứng đâu đó nơi đầu đường xó chợ để kiếm sống như … anh vậy.” <br><br> Tôi nhìn Tắc-Kè mà vô cùng biết ơn xen lẫn xúc động. Chúng tôi trở thành đôi bạn kể từ hôm đó. Mấy tháng sau tôi chứng kiến Tắc-Kè giúp đỡ một người phụ nữ có chồng đang bị tập trung cải tạo. Nhìn người phụ nữ phải đem bán từng quyển sách thuộc loại khoa học của chồng, Tắc-Kè nói với tôi: “Người Saigon đang bị trăm ngàn điều khổ đau, thiếu ăn, thiếu uống, làm cho con người phải keo kiệt, phải tính toán chi li từng đồng từng cắc… vốn không phải là bản tính của người Saigon. Người Bắc khi theo đoàn quân chiến thắng vào Saigon vốn cũng là bọn người tham lam, quỷ quyệt và nhiều thủ đoạn. Tôi giúp chị ấy vì chúng ta là mẫu người chính gốc Saigon còn giữ lại được nhân tính và tình thương đồng loại. Nếu tôi không nhờ ở sự cứu giúp của Thượng Đế thì rồi cuộc sống của tôi cũng không khá hơn chị ấy đâu. Tôi cũng có cha có mẹ có anh chị em cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà êm ấm. Chỉ đến khi chế độ văn minh và tự do của miền Nam bị thay thế bởi chế độ man rợ của bọn người Hồ Chí Minh thì gia đình tôi mới bị chia ly, mà nay chỉ còn mình tôi hiện diện trên cõi đời này thôi. Tôi hy vọng, tôi tin tưởng những người đã bỏ chạy rồi sẽ trở về quang phục lại quê hương. Nếu không, thì ít ra những người đó cũng sẽ làm một việc gì, để cho bọn man rợ Hồ Chí Minh phải chùn tay lại mà không còn vấy máu đồng bào miền Nam vô tội nữa. Đến nay anh, tôi, và người miền Nam đã sống năm thứ ba trên cái đất rệu rã bởi bọn người không biết một chút gì về làm kinh tế nên người người bị biến dạng vì đói ăn, thiếu uống. Mới chỉ có ba năm mà từ một đất nước phồn thịnh thật sự nay đã bị phá sản hoàn toàn. Các bạn tôi đã anh dũng đứng lên chống lại bọn người man rợ Hồ Chí Minh với những vũ khí ít ỏi còn sót lại để mong làm được một việc gì đó cho quê hương cho đồng bào. Tiếc thay… tất cả đều đã bị tiêu diệt vì mạng lưới tình báo của bọn cộng phỉ Hồ Chí Minh giăng đầy khắp mọi nơi. Tôi thoát được chỉ nhờ ở một sự may mắn...” Thời gian đằng đẵng mấy chục năm tôi không có dịp thăm lại ngôi nhà dòng cũ ở xã Trạm Hành thuộc thành phố Đàlat. Nhưng tôi có nghe là nhà dòng đã sụp đổ đến độ nhà cầm quyền không có tiền để sửa chữa nên đã bán lại cho Đài Loan làm nhà máy chế biến trà. Các Cha trong nhà dòng không bao giờ muốn rời xa nơi đó vì các Ngài đã bỏ rất nhiều của cải và tâm sức để mong đào tạo cho miền Nam có những Linh mục theo đường của Chúa đi truyền đạo. Các Ngài cũng không muốn rời bỏ các chủng sinh, nhưng các chủng sinh ngoan đạo đó bây giờ ra sao? Chiến tranh cướp nước và cướp của đã đi qua nhưng hận thù chia rẽ thì không bao giờ dứt được, bởi tội ác của bọn cộng phỉ đối với dân tộc vĩnh viễn không bao giờ gột rửa được, ngoại trừ khi cả bọn thành tâm hối lỗi cùng đứng cúi đầu nhận tội trước đồng bào cả ba miền thì khi đó mọi oán hờn và mọi tội ác mới may ra được bỏ qua. Tôi cũng không gặp lại Cha Chung. Không biết Cha ra sao, từ ngày bị mất nước... những đêm phải ngủ ở nhà ga, ngủ trong công viên, tôi đã khóc nhiều khi nhớ đến Cha. Tôi cũng không gặp lại Cha Hoàng mặc dù sau này tôi ở một đất nước cũng gần với nơi mà Cha đang sống. Tôi không có nhiều kỷ niệm với Cha. Có một điều làm cho tôi cười hoài đó là, khi tôi đến với trung tâm của Cha Hoàng trong “Chương trình trợ giúp thiếu niên sống ngoài hè phố.” Thì nay tôi cũng đang là người sống ngoài hè phố. Tôi tự nguyện rằng: -“Không sao cả, miễn là mình giữ được trong sạch trong cuộc sống và giữ cho ngọn lửa căm thù bọn cộng phỉ mãi mãi bừng cháy trong tim thì, tôi sẽ có cơ hội góp phần làm cho chế độ man rợ Hồ Chí Minh phải bị đánh đổ.” Tôi tin chế độ này phải sụp đổ! …….. 30/4/1975. Tôi đang ngồi uống café với ông Giám đốc Đỗ Ngọc Long ở nhà của ông thì nghe tin đầu hàng. Tiếng của ông “Tổng thống cơ hội” Dương Văn Minh phát ra từ cái radio văng vẳng như tiếng gọi hồn ai. Ông Long đang nói chuyện về những ngày sắp tới tôi sẽ phải làm gì thì giờ đây ông ngồi chết lặng đến không có một hành động hay một lời nói nào nữa. Gương mặt của ông gằm xuống và như đang bị đổ chàm. Một lúc thật lâu, tôi nhìn thấy từ hai con mắt của ông đỏ hoe và có nước. Tôi không dám nhìn ngay ông mà nhìn xuống ly café và tự hỏi: -Tại sao lại là hôm nay mà không để đến cuối tháng 5 rồi hãy đầu hàng. Vì, chỉ mười ngày nữa thôi là chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này rồi mà. Chúng tôi chưa bỏ đi vì còn chờ Cha Hoàng từ Thái Lan sẽ trở về trong nay mai. Cha Hoàng rời Việt Nam khi Xuân Lộc bị bọn cộng phỉ tấn công được bốn ngày, Cha đi ngày 13/04/1975. Theo như vậy thì từ hôm nay chúng tôi sẽ xa Cha Hoàng mà chưa biết bao giờ mới được gặp lại. Tôi hỏi ông Giám đốc Long như vẫn không tin vào đôi tai của mình: “Như vậy tiếng súng đã ngưng thật rồi sao ông Giám đốc? Ngưng thật rồi à? Như vậy là kể từ hôm nay sẽ không còn người bị chết vì súng đạn nữa … thật sao … ông Giám đốc?” Ông Giám đốc Long vừa ngẩng đầu lên nhìn tôi, thì ngay lúc đó có tiếng súng bắn một tràng thật dài phía trước nhà ông. Ông Long nhìn tôi với vẻ mặt hốt hoảng. Tôi đứng lên, đến bên cửa sổ vén hé cái màn mỏng nhìn ra phía trước. Trước nhà của ông Giám đốc Long là công viên nhỏ. Trước mặt công viên, tức bên phải nhà của ông Giám đốc Long là con đường Công Lý. Một chiếc xe jeep có bốn anh thanh niên ngồi trên với súng M16 cầm trên tay và mỗi người có miếng vải đỏ đeo nơi cánh tay. Trên sàn xe jeep có một xác người bị bắn chết để nằm ngửa cái đầu cùng hai cánh tay buông thõng đến gần sát đất. Tôi không thấy máu vì quá xa. Tôi cũng không biết nạn nhân già hay trẻ. Chiếc xe chạy vòng vòng công viên ba vòng, vừa chạy vừa bắn chỉ thiên, sau đó chiêc xe jeep chạy ra đường Công Lý. -“Đóng hết cửa lại đi Tắc.” Tôi đóng hết các cánh cửa lại, rồi đến ngồi đối diện với ông Giám đốc Long. Ông Giám đốc Long đứng lên đi đến bên tủ rượu, rót ra hai ly rượu mạnh. Ông đi đến bên và đưa cho tôi một ly. -“Uống đi Tắc. Có thể đây là ly rượu cuối cùng của anh em mình còn được ngồi bên nhau. Mai này nếu tôi có bị bắt đi làm đường xe lửa Xuyên Việt thì tôi cũng phải cam chịu. Tôi… sướng quá nhiều rồi nên nếu có bị khổ thì cũng phải ráng chịu.” Nói rồi ông khóc hu hu hu. Nước mắt cứ thế chảy dài xuống hai bên má ông. Lúc này tôi cũng không biết rồi số phận mình sẽ ra sao khi mà ông Giám đốc Long đã “tiên đoán” là ông sẽ bị đi làm đường xe lửa. Tôi cũng chưa hình dung ra được nhà tù sẽ như thế nào, và bọn cộng phỉ có bắt tôi đi tù không? Tôi đã làm gì có tội đâu mà bắt tôi đi tù? Tôi cảm thấy sợ hãi nên người tôi cứ run lên nhè nhẹ như đang bị sốt rét. Tôi sợ đám thanh niên kia quay lại rồi xông vào nhà bắt ông Giám đốc Long và thấy tôi nên chúng cũng bắt luôn và… bắn cả hai. Đây là thời điểm vô chính phủ thì tha hồ mà thanh toán hận thù lẫn nhau. Tôi không có kẻ thù và tôi cũng không thù oán ai cả, nhưng, tôi sợ người ta nghĩ tôi theo mấy Cha, nhất là mấy Cha người ngoại quốc, tức tôi là kẻ thù của họ. Cuộc sống của tôi phải nói là vô cùng khiêm tốn. Tôi luôn sống thật với lòng và không bao giờ phán xét ác ý với người nào chỉ vì tôi tin Chúa và sợ bị tội với Chúa. Tôi cầm ly rượu lên nhấp thử một chút. Tôi thấy thứ nước có màu vàng vàng này, sao nó cay sè và đắng nghét chứ chẳng có gì ngon để mà uống cả. Tôi đã hai mươi ba tuổi rồi, nhưng tứ đổ tường thì tôi hoàn toàn chưa trải qua, chưa nếm qua bao giờ. Tôi chỉ uống café và trà thôi. Đây là lần đầu tiên tôi nếm những giọt rượu. - “Chú cầm tiền về lo cho các em và nhớ là phải bình tĩnh. Nói các em cứ ở trong nhà. Nay mai tôi sẽ liên lạc với chú khi tôi gặp được những người của nhà cầm quyền mới này.” Nói rồi ông Long lấy từ trong cặp táp ra một cọc tiền giấy năm trăm được cuộn tròn bằng sợi dây thun. Tôi nhận cọc tiền, để vào trong cặp mà kể từ bây giờ tôi luôn ôm trước ngực. Khi tôi đứng lên từ giã ông thì ông ôm tôi và lại khóc làm cho tôi xúc động quá. - “Đi đường cẩn thận Tắc nhé.” – “Dạ. Ông Giám đốc yên tâm. Em sẽ cẩn thận.” Ra khỏi nhà, tôi đi theo đường Công Lý rồi quẹo phải lên Yên Đỗ. Tại đây tôi thấy mấy anh lính Nhảy Dù mà có một anh vác súng đại liên trên vai. Một người đàn bà có lẽ là thân nhân của anh lính Nhảy Dù vác cây đại liên nói: -“Đem súng lại Quân Vụ Thị Trấn bỏ ở đó nhanh lên.” Mấy anh lính liền bước đi và đi trước tôi khoảng chục bước thì lúc đó có một chiếc xe jeep chạy lên và người ngồi trên đó la lớn: -“Bỏ hết súng xuống bên đường và cởi đồ ra rồi về nhà… nhanh lên.” Mấy anh lính Dù làm theo lời mấy anh mặc thường phục, chỉ vì mấy người này có đeo tấm vải đỏ trên cánh tay. Tôi đi tiếp đến đường Lê Văn Duyệt. Tại công trường Dân Chủ tôi thấy súng đạn và quần áo lính liệng đầy. Nghĩ đến những người lính, những người tuổi trẻ đã hy sinh cho quê hương miền Nam, đã chết cho nhiều người được sống yên ổn; nhưng bây giờ thì… Tôi nhìn thấy phía trước mặt xuất hiện một đoàn người đang đi bộ hàng dài mà nước da của người nào người nấy tái mét cứ như là đang bị bệnh sốt rét vậy. Họ vừa đi vừa cười vừa nói chuyện râm ran vẻ khoái chí lắm. Thì ra họ là những người tù Chí Hòa vừa được “giải phóng” nên họ vui. Tôi nhìn thấy một chiếc taxi từ bên cảnh sát quận ba chạy đến tôi liền đưa tay lên ngoắc lại. – “Bác cho cháu về bên Bến Bình Đông.” – “Tôi cứ chạy được đến đâu thì hay đến nấy chứ … không biết đường bị cấm đoạn nào cả.” – “Dạ.” Xe chạy đến chợ cá Trần Quốc Toản, tôi nhìn thấy đoàn xe GMC của Sư đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đậu dọc theo con đường chạy đến trường đua. Những người lính của Sư đoàn, có người đang ôm con, có người đang đứng với vợ, và có nhiều người lính đứng chung với nhau... họ khóc họ nói với nhau nhưng tôi không dám nhìn vì hai con mắt của tôi đã bắt đầu có nước mắt. Ông Long khóc chỉ làm cho tôi xúc động. Nhưng, những người lính của Sư đoàn 18 Bộ Binh mà phần đông đã cởi bỏ quần áo chỉ mặc mỗi cái quần đùi. Chính cái cảnh đau thương này đã làm cho tôi phải khóc. Những ngày qua ông Giám đốc Long hết lời khen lính Sư đoàn 18 Bộ Binh đã đánh cho bọn cộng phỉ một trận mà ông nói là “nên thân.” Những người lính đó chắc không ngờ cái kết của họ lại bi thảm đến tận cùng như thế này, vào sáng ngày oan nghiệt hôm nay. Xe taxi chạy được đến chợ Bình Tây thì bác tài taxi quay qua nhìn tôi và nói những lời mà sau này tôi nghĩ lại thấy thương hại cho ông, cho những người không hiểu một tí gì về cộng sản nên nghe bọn chúng nói cứ tưởng chế độ của bọn chúng thật sự là thiên đường. Đa số đồng bào miền Nam vì quá đau khổ bởi chiến tranh quá dài mấy mươi năm chỉ đem lại chết chóc và ly tán nên đã bị cộng sản tuyên truyền và lợi dụng. Bọn lãnh đạo các tôn giáo và bọn trí thức bọn sinh viên nghe theo bọn cộng phỉ để phá hoại miền Nam đều là những kẻ đáng bị nguyền rủa muôn đời. Trong bọn họ chắc chắn có nhiều tên khao khát được nhìn thấy vị lãnh tụ mà họ hằng suy tôn. Bọn người mang tiếng trí thức nhưng đối lập với chính phủ để phá hoại và để được nổi tiếng vì hằng ngày bọn họ chỉ làm mỗi một việc duy nhất là kêu gọi đồng bào, nhất là giới trẻ xuống đường. Nhưng, hôm nay cuộc chiến đã kết thúc rồi thì bọn họ sẽ bị thất nghiệp và bị cho về vườn ngay lập tức. Bác tài xế taxi nói: -“Tới từng tuổi này tôi mới được nhìn thấy đất nước thật sự hết chiến tranh. Thật là một sự may mắn vô cùng đối với tôi. Hòa bình rồi thì sẽ không còn cảnh chết chóc nữa. Mỗi người sẽ có công ăn việc làm và sẽ không còn người nào đói nữa.” Tôi nhớ lại ngày hôm kia, ngày 28 tháng tư, ông Giám đốc Long đưa tôi đi ăn ở nhà hàng Thanh Thế. Đang ăn thì trước nhà hàng xảy ra chuyện lộn xộn và có nhiều viên cảnh sát đang chận đường một người mặc áo chùng đen. Đích thị đó là ông Linh mục rồi. Nhưng, tại sao ông lại bị cảnh sát chận không cho đi. Ông Giám đốc Long bỏ tôi ngồi đó rồi ông đi ra ngoài xem chuyện gì. Một lúc lâu sau ông trở vào và nói cho tôi biết: -“Cảnh sát chận đường một ông Linh mục. Tưởng ai hóa ra là Phan Khắc Từ. Ông Linh mục Từ đang kết tội ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng.” Thấy tôi nhìn ông với hai con mắt như của con nai nên ông nói thêm cho tôi rõ: -“Mấy ông Cha này quá nông nỗi nên bị Việt Cộng giật dây hết. Việt Cộng mà chiếm được miền Nam rồi thì mấy Cha sẽ sáng mắt ra hết. Lúc đó có hối cũng không còn kịp. Việt Cộng ghét nhất là đạo Thiên Chúa thì chẳng lẽ tụi nó thương quý mấy Cha lắm sao. Tội nghiệp mấy ông cảnh sát. Mấy ổng không có một hành động nào dám tỏ ra xúc phạm mà chỉ đứng vây quanh ông Linh mục để không cho ông nhập vào với số người của Phật giáo đang biểu tình trước chợ Bến Thành.” Tôi không phải là trí thức nhưng tôi hiểu bọn cộng phỉ còn hơn các ngài nhiều. Giết người lén lút là hành động của kẻ tiểu nhân. Bọn cộng phỉ đã làm việc đó với ba tôi thì làm sao tôi có thể quên cho được. Chỉ khi nào tôi nhắm mắt thì may ra… Tôi xem bọn cộng phỉ là kẻ thù muôn kiếp của tôi, của dân tộc tôi, cho đến khi nào bọn chúng bị đánh đổ mới thôi. Saigon hôm qua có mưa nhưng hôm nay lại có nắng. Saigon mưa đến nhanh mà đi cũng nhanh. Saigon là chốn phồn hoa đô hội với hằng hà sa số những nhà cao tầng và biệt thự; nên ai cũng muốn đến... Bọn cộng phỉ cũng vậy. Chỉ khác một điều là, bọn cộng phỉ đến bằng bạo lực và tàn phá Saigon để toàn nước Việt Nam trở thành quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Bọn cộng phỉ đã biến những nhà lầu và những căn biệt thự của Saigon thành những chuồng nuôi heo nuôi gà, vịt. Có một rạp hát lớn ở khu Ông Tạ (hình như rạp Đại Lợi) vốn là nơi giải trí của người Saigon cũng đã được bọn cộng phỉ biến thành nhà tù gây ra bao kinh hoàng và đau thương cho đồng bào Saigon. 04/05/1975. Ông Giám đốc Long và tôi có mặt tại Ủy Ban Nhân Dân quận bảy đúng chín giờ sáng theo giấy mời. Buổi sáng hôm nay có nắng ấm nhưng sao tôi thấy lạnh và trong lòng ảm đạm quá. Cũng là người Việt Nam đi gặp người Việt Nam nhưng sao trong lòng tôi cứ lo sợ hoài một sự trả thù. Hình ảnh ba tôi bị bắn vào đầu cứ theo ám ảnh tôi mấy ngày nay. Đêm qua tôi không thể nào nhắm mắt, cho đến gần năm giờ sáng mới thiếp đi được một chút, thì cái đồng hồ báo thức gọi dậy. Tôi lo sợ bọn Cộng phỉ sẽ bắt tôi và đầy đọa tôi thì làm sao tôi sống nổi. Những truyện tôi đọc về những trại tù khổ sai khi cộng phỉ vào Hà Nội… tôi tin là cộng phỉ đối xử với tù nhân rất tàn bạo với cái đầu lạnh ngắt; mẹ tôi hết lời van xin bọn Cộng phỉ tha mạng cho ba tôi nhưng bọn chúng vẫn lạnh lùng nã đạn. Ông Giám đốc Long và tôi đi đến trước cổng Ủy ban thì thấy một chiếc xe tăng đậu trước cổng, nòng súng quay ra hướng bờ sông như sợ lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ đổ bộ từ bờ sông lên để chiếm lại Tòa hành chánh quận. Có lẽ ông Giám đốc Long vì quá lo lắng nên ông hút thuốc liên tục. Tôi không biết hút thuốc nên chỉ nhìn ông rồi nhìn xuống chân chứ cũng không biết nói gì. Như vậy là sáng hôm nay tôi sẽ ngồi đối diện và thấy tận mắt những người của cái gọi là Việt Cộng, mà trước kia tôi nghĩ họ có nhiều răng nanh vì quá ác độc giết đồng bào không biết gớm tay. Nhất là hình ảnh của Huế trong Tết Mậu Thân. Khi hai chúng tôi đã an tọa sau một cái bàn, dài khoảng năm thước, bề ngang hai thước, theo sự chỉ dẫn của một anh lính Việt Cộng còn khá trẻ, thì có bốn người từ phòng bên cạnh đi ra trên tay một người, cầm chồng hồ sơ. Người này được giới thiệu là Bí Thư Huyện Ủy. Câu đầu tiên mà tên Bí thư huyện hỏi ông Giám đốc Long có muốn trình bày những yêu cầu gì thì cứ nói ra. Ông Giám đốc Long nói (đại khái): - “Tôi là Giám đốc của sáu trụ sở nuôi dạy trẻ mồ côi sống lang thang ngoài hè phố. Tôi xin cách mạng cho phép tôi được tiếp tục công việc và tôi sẽ tuân theo những điều mà cách mạng cho phép.” - “Tiền ở đâu để ông tiếp tục?” – “Tôi sẽ liên lạc với các cơ quan từ thiện hiện đang ở Thái Lan… giúp đỡ.” Sau câu nói của ông Giám đốc Long thì tên Bí thư huyện liền tuôn ra một tràng những câu mắng chửi thậm tệ. Nào là nhận tiền của đế quốc Mỹ, rồi đưa các em đi Mỹ trong các chuyến bay trước khi mất Saigon để hy vọng sẽ có ngày các em cùng Mỹ trở lại đánh phá cách mạng. Có một câu của tên Bí thư huyện đã làm cho tôi nhớ đến Linh Mục Lương Tấn Hoàng. Hắn nói: - “Tôi nói thật với anh, cho dù hai mươi năm nữa cha của thằng Mỹ cũng không dám vác mặt đến đây đâu. Chúng tôi biết anh là CIA vì thằng Hoàng (LM Hoàng) chính là CIA mà chúng tôi có đầy đủ bằng chứng. Chúng tôi hỏi là để xem anh có hối cải vì đã lầm lỡ tin vào thằng Mỹ không. Nhưng anh vẫn ngoan cố và còn muốn giữ những cơ sở đó để làm nơi liên hệ với thằng Mỹ. Đây, tôi cho anh xem những bằng chứng về thằng Hoàng đây.” Tên Bí thư lấy từ trong cái “xắc cốt” ra mấy tấm hình rồi đưa cho ông Giám đốc Long và tôi xem. Hình chụp Cha Hoàng đang đứng nói chuyện với ông Đại sứ Mỹ Martin nhưng không đề ngày, cùng nhiều tấm hình nữa đã làm cho ông Giám đốc Long hốt hoảng đến mặt mày xanh lét như tàu lá chuối. Tôi ngồi cạnh ông nên tôi cảm nhận được là ông bị mất bình tĩnh đến độ người của ông đang run. Ông run nên tôi cũng sợ quá và rồi tự nhiên tôi cũng run theo, mặc dù trời đang nóng vì đã hơn mười giờ sáng rồi. Tên Bí thư đưa một tờ giấy ra trước mặt ông Giám đốc Long và nói: - “Anh ký vào tờ giấy này xác nhận có mặt buổi họp vào sáng nay.” Ông Giám đốc Long đón tờ giấy, đọc qua thật lâu, thật kỹ, rồi mới ký vào. Tên Bí thư nhận tờ giấy và nói: - “Mấy đồng chí cán bộ đây sẽ đưa anh đi làm bản tự khai và sơ yếu lý lịch.” Ba người cùng đến với tên Bí thư thì hai người đứng lên và dẫn ông Giám đốc Long đi. Từ đó tôi không bao giờ còn gặp lại ông nữa. Tôi không ngờ là từ ngày hôm đó ông bị nhốt luôn cho đến năm 1993 ông mới được một ông Tướng Mỹ qua Việt Nam xin trả tự do cho ông rồi sau đó ông qua Mỹ. Chổ ở tạm của tôi từ trưa ngày hôm qua cho đến bây giờ, hiện cũng đang là buổi trưa; là nhà để xe của Toà hành chánh quận 7 cũ. Sau khi ông Giám đốc Long bị hai người đồng chí của tên Bí thư đưa đi thì người còn lại nói tôi đi theo hắn. Tên Bí thư huyện nói với theo: - “Anh xuống đó ở tạm ít ngày.” Tôi không biết xuống đó là xuống đâu nhưng không dám hỏi. Điều lo sợ của tôi đã thành sự thật. Tôi bị nhốt ở đây như là tù nhân vì có bộ đội gác bên ngoài. Trong phòng giam - nếu gọi đây là phòng giam - không có toilet. Không có giường và cũng không có vật dụng nào cả ngoài một chiếc chiếu và tấm vải cũ dùng làm mền. Nếu khi nào tôi muốn đi vệ sinh thì tôi kêu cửa và sẽ được người bộ đội giữ cửa đưa tôi đi đến nhà vệ sinh cách đó khoảng ba mươi thước. Tôi hoàn toàn thụ động vì sợ quá. Hình ảnh ba tôi bị bắn vào đầu cứ lởn lởn trước mặt tôi hoài. Tôi không dám đòi hỏi bất cứ điều gì. Họ cho tôi mỗi bữa một dĩa cơm đầy với nhiều thức ăn thì còn gì để tôi phải lên tiếng đòi hỏi. Tôi giữ thái độ hết sức đứng đắn… vì quá sợ. Mặc dù không bị bắt buộc nhưng tôi luôn ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu. Mặt trời đã lên cao và sắp đến bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng không có nên tôi đói lắm. Tôi nhớ có lần đọc tờ báo “Đứng Dậy” mà tôi thấy trên bàn của linh Mục Lương Tấn Hoàng. Tờ báo của ông Linh mục Chân Tín, Chủ tịch của cái gọi là, Ủy Ban Cải Tạo Chế Độ Lao Tù. Ông Chân Tín thật sự đã giúp một tay làm rối loạn, làm tan nát cái thành phố Saigon thân yêu và toàn cõi miền Nam này. Tôi nhớ đến ông Chân Tín vì tôi đang bị nhốt, đang bị là tù nhân và đang bị đói. Khoảng hai giờ chiều tôi được gọi ra để viết Bản tự khai và Bản Sơ yếu lý lịch. Viết xong thì cũng chẳng có ai đọc. Cứ để trên bàn, nhưng tôi được tên Bí thư huyện đến thông báo: - “Chúng tôi cho anh về vì anh… Anh cứ ở nhà chờ thông báo rồi đi trình diện.” Tôi đi như chạy vì tôi không ngờ bọn cộng phỉ lại tha tôi. Bến Bình Đông có cây cầu nhưng ở mãi tận phía xa. Tôi vì nôn nóng quá nên sẽ nhờ chiếc ghe nhỏ nào đó chở qua sông cho mau. Tôi không về nhà, là trụ sở “Gia đình hy vọng 5” vì hiện có mấy tên bộ đội ở đó. Một em ở trong đó gặp tôi trên đường và cho biết: – “Mấy ngày nay mấy người bộ đội lục tung hết mọi chỗ. Không biết họ tìm gì nhưng rồi họ ở luôn tại đó. Họ nấu cơm và cho tụi em ăn chung.” – “Còn mấy em ở đó?” – “Bảy đứa. Họ phát súng bắt tụi em mỗi đứa gác một tiếng.” – “Chỉ gác ban ngày thôi phải không em?” – “Đâu có anh, ban đêm cũng gác luôn.” Tội nghiệp các em quá. Tuổi thơ Việt Nam bị đọa đầy bắt cầm súng thay vì cầm viết. Tôi mới về đây chưa được bao ngày nên tôi không làm sao nhớ hết tên sáu mươi ba em được. Em đang đứng nói chuyện với tôi tên gì tôi cũng không nhớ. Gương mặt em nhìn hiền như thiên thần với hai con mắt thật thơ ngây. Thiên thần mà phải bị sống chung với lũ ác quỷ thì sẽ thành ác quỷ. Chỉ với bảy thiên thần thì làm sao cảm hóa được bầy quỷ đang dương dương tự đắc vì bách chiến bách thắng nên xem thiên thần chẳng là cái quái gì cả. Thay vì dạy cho các em học làm toán và viết chính tả. Bọn quỷ dạy các em cầm súng và dạy lòng căm thù. Tôi sinh ra đời trước mấy em nên tôi được may mắn hơn các em. Tôi được sống dưới chính thể tự do và nhân bản nên tôi được học chữ. Sách vở dạy tôi phải sống thành thật và thương yêu mọi người như thương yêu chính bản thân mình. Phải luôn đối xử công bằng với mọi người dù sau này tôi có là ông này ông nọ thì cũng vậy. Tôi nhìn em và tôi biết em đói vì em cứ nhìn gánh xôi mà nuốt nước miếng. Tôi muốn cho em một chút tiền nhưng buổi sáng hôm đi theo giấy mời họp cùng ông Giám đốc Long tôi đã để hết tiền ở nhà. Chắc chắn số tiền đó đã bị lũ quỷ lấy hết khi bọn chúng lục soát. Tôi đưa tay xoa xoa lên đầu em rồi lẳng lặng bước đi thẳng mà lòng đau như cắt. Tôi không dám nhìn lại em vì tôi sợ tôi sẽ khóc. Số phận của các em, và số phận của trẻ thơ miền Nam đã hoàn toàn bị chìm trong bóng tối kể từ hôm ông “Tổng thống cơ hội” Dương Văn Minh lên cầm quyền. Bến đò Bình Đông không biết trước khi tôi được đưa về đây có đông khách không. Nhưng hiện tại thì vắng tanh. Trong túi tôi không còn đến một đồng. Rồi những ngày sắp tới tôi chưa biết phải làm gì để có chén cơm ăn. Tôi quyết định đi bộ đến Tòa Tổng Giám Mục Saigon trên đường Phan Đình Phùng. Ông Phan Khắc Từ, Linh mục Phan Khắc Từ hình như chỉ nể trọng mỗi một người trong Tòa Tổng Giám Mục, đó là Đức Cha Nguyễn Văn Bình. Ngoài ra ông không coi ai trong Tòa Tổng Giám Mục là gì cả. Phan Khắc Từ muốn mở cửa phòng của Linh mục nào là mở chứ chẳng cần giữ phép lịch sự gõ cửa trước. Thời đại đã thay đổi nên mọi hoạt động trong Tòa Tổng cũng không thể rập đúng nhịp cũ. Phòng họp, phòng ăn, nhà nguyện… không còn ánh sáng vì luôn bị cúp điện. Điều làm cho tôi ngạc nhiên là các Cha chẳng ai muốn để ý đến điều phiền toái này. Cúp điện thì… chờ. Khi nào có điện thì sinh hoạt lại bình thường. Cuối cùng thì tôi hiểu là chỉ một mình tôi không hiểu thôi, chứ các Cha ai cũng rành về chuyện này cả rồi. Tôi hỏi Cha Nguyễn Văn Hai, người có dáng bệ vệ của ông Ba Tàu Chợ Lớn nhưng đọc lời giảng thì rất vui vì Cha luôn đệm vào bài giảng những bài tình ca cũ. -“Cúp điện hoài thì làm sao những nhà máy có thể hoạt động được bình thường, Cha thấy có kỳ lạ không Cha?” Cha nói: - “Cho giống với vùng nông thôn vốn nhiều nơi không có điện và giống với những nơi gọi là vùng kinh tế mới. Đúng với đường lối chứ không phải vì thiếu nhiên liệu chạy máy đèn.” Tôi không hiểu Cha Hai ngụ ý gì. Chỉ sau này tôi mới biết bọn cộng phỉ cần đẩy dân ra khỏi thành phố để chiếm nhà cho người miền Bắc vào ở. Một hôm và vào buổi chiều, Cha Hai gọi tôi vào phòng và Ngài nói: -“Cha đã tìm được một gia đình đồng ý giúp con có “hộ khẩu” hợp pháp. Sáng ngày mai sau lễ Cha con mình đến đó. Gia đình đó ở gần chợ Vườn Chuối, cũng gần đây thôi.” Vậy là từ sáng ngày mai, thứ hai 16 tháng 6 năm 1975 tôi sẽ có chỗ ở hợp pháp. Rồi có thể ngay ngày hôm sau tôi sẽ vào đời nhưng với hoàn cảnh không được như ý muốn. Thay vì tôi vào đời bằng chính công việc mình đã chuẩn bị trước, thì nay tôi sẽ phải làm bất cứ công việc gì, miễn là lương thiện, để có tiền sinh sống. Giữ được tính lương thiện trong xã hội của xã hội chủ nghĩa thì khó cũng giống như người ta đi tìm lại… quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã mất vậy. Khó nhưng cố giữ thì được. Mất nhưng cố cùng tranh đấu thì rồi Việt Nam Cộng Hòa sẽ trở lại. Tôi tin như vậy! Nhớ lại hôm tôi từ bến Bình Đông đến Tòa Tổng Giám mục Sàigòn, người tôi gặp đầu tiên là Cha Hai. Cha và tôi chưa gặp mặt nhau qua lần nào, và cũng chưa nghe nói về nhau. Thế mà khi nghe tôi trình bày; có lẽ nhờ ở thái độ và gương mặt lương thiện của tôi nên Cha Hai chịu ngồi nghe tôi nói. Tôi thuật lại tất cả sự thật kể từ buổi Cha Chung người Hồng Kông, trong một buổi tĩnh tâm, Ngài nói về những khổ lụy mà người miền Nam sẽ phải chịu... Cho đến lúc tôi trốn đi từ Bến Bình Đông. Kể xong, tôi cảm nhận liền là Cha Hai rất khó xử, nhưng Ngài cũng không nỡ để tôi phải ra sống ngoài hè phố. Thế rồi Cha nói: -“Con đừng lo lắng nhiều, Cha sẽ tìm xem có cách nào giúp con.” Ngồi một lúc với gương mặt như suy nghĩ, Cha đứng lên và đưa tôi xuống nhà bếp và đồng thời Cha dặn là đừng kể chuyện mà tôi vừa kể cho bất cứ người nào ở đây nghe. Nếu Đức Tổng có hỏi thì phải kể thật. Còn những người khác thì cứ nói đại khái là người nhà của chú Tiến. Chú Tiến là người phụ trách ẩm thực cho Tòa Tổng. Chú tuổi trung niên nhưng rất khỏe mạnh. Tôi ở chung với chú Tiến trong cái nhà bếp cũng khá rộng lớn. Một buổi sáng ngày kia khi tôi đang ngồi nói chuyện với Cha Hai trong văn phòng của Cha thì cánh cửa phòng thình lình bị đẩy bung ra. Một người mặc áo chùng đen Linh mục đứng trước của phòng nhìn vào trong phòng và nhìn khắp như quan sát, nhưng người đó không chào hỏi Cha Hai. Cha Hai ngước mặt lên nhìn nhưng Ngài cũng chẳng nói một tiếng nào. Người đang đứng trước cửa nhìn vào phòng là người trước khi miền Nam bị mất rất nổi tiếng về chống đối chính phủ và xuống đường. Tên ông là Phan Khắc Từ. Tôi nhận ra ông vì hình ảnh của ông trong những lần đi dẫn đầu đám thanh niên xuống đường chống Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được đưa lên trang đầu của nhiều tờ nhật báo. Tôi nhìn ông nhưng liền vội nhìn xuống chân với vẻ lo lắng. Tôi sợ ông hỏi tôi là ai thì Cha Hai sẽ không thể nói khác đi được. Nhưng, may mắn quá. Phan Khắc Từ nhìn quanh phòng một vòng rồi quay người đi qua phòng khác mà không có một lời chào hoặc xin lỗi. Sáng hôm nay tôi mới được giáp mặt Phan Khắc Từ. Tôi luôn nghĩ các vị Linh mục quá rành về chế độ cộng sản, đặc biệt là bọn cộng phỉ miền Bắc, nên bọn phỉ rất ghét đạo Thiên Chúa và thù ghét các Cha. Người dân tầm thường như tôi còn biết bọn cộng phỉ là những tên vô thần luôn muốn tận diệt các tôn giáo, huống hồ là các vị Linh mục. Thành công của bọn cộng phỉ đưa đến ngày 30 tháng tư là nhờ ở sự tuyên truyền dối trá, hành động man rợ như giết người bừa bãi mà chủ ý là làm cho mọi người sợ mà không dám chống lại… với vũ khi của Nga Tàu. Tôi thù Phan Khắc Từ. Tôi ghét Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan… và những ông Cha theo bọn phỉ để phá tôn giáo và phá miền Nam. Bây giờ điều thắc mắc của tôi cũng đã có lời giải rồi. Hôm tôi mới đến Cha Hai cứ dặn đi dặn lại rằng đừng kể với bất cứ ai trong Tòa Tổng về chuyện của mình. Thì ra, trong Tòa Tổng có một - hoặc cũng có nhiều nữa nhưng tôi chưa biết - tên cộng phỉ đội lốt ông Cha để chống lại những con chiên của Chúa. 16/6/1975 Căn nhà mà Cha Hai đưa tôi đến là căn nhà nằm trong hẻm, cách chợ Vườn Chuối khoảng hai trăm thước. Căn nhà có bề ngang bốn thước đúng và bề dài là chín thước hơn; không lầu không gác lửng. Căn nhà được chia ra hai phần, phần phía sau làm chỗ ngủ cho ba người và chỗ nấu ăn cũng như tắm rửa. Phần phía trước làm phòng khách với bộ salon cũ. Sàn nhà lót gạch bông bóng loáng và rất sạch. Người đàn bà tiếp Cha Hai là người Bắc di cư năm 1954. Bà bị chồng bỏ khi tuổi đời mới hai mươi chín. Từ đó bà ở vậy và làm nghề bán phở để nuôi hai người con trai. Xe phở của bà đặt tại góc đường Nguyễn Thông và Tú Xương mà bên kia đường là nhà thương Saint Paul, nhưng đã sang lại trước khi mất Sàigòn. Bà cùng hai người con cũng tính ra đi nhưng người con thứ hai không về kịp nên bà đành phải ở lại. Người con trai lớn của bà sinh năm 1947, và nếu như không bị mất Sàigòn thì khoảng gần cuối năm 1975 anh sẽ ra trường với văn bằng kỹ sư điện. Anh là Trung úy Công Binh phục vụ tại Hội An nhưng được cho về Saigon để học tiếp hai năm cuối tại Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ. Người con trai kế sinh năm 1952, bằng tuổi tôi, là Thiếu úy Chi khu phó ở tỉnh nhỏ nào đó thuộc vùng bốn chiến thuật. Cả hai đã đi trình diện để bị tập trung cải tạo ngày hôm qua Chúa nhật 15/6/1975 là hạn chót. Có lẽ Cha Hai đã có nói trước với người đàn bà về tôi, nên bà lên tiếng, đồng thời bà nhìn tôi với ánh mắt thương yêu của người mẹ hiền: “Lát nữa cháu ra phường khai, cháu là người quen biết với bác. Gia đình cháu ở ngoài đó (Pleiku) đã bị mất hết không còn người nào, kể cả giấy tờ tùy thân … khi chạy di tản. Cháu vào đây gặp bác và xin tá túc ở nhà của bác. Họ nói như thế nào, hoặc quyết định như thế nào thì cho bác biết. Cháu đừng ngại gì cả, bác sẽ giúp cháu.” Thật lòng mà nói thì tôi muốn chạy đến ôm bà quá. Tôi chưa bao giờ để ý đến ánh mắt nhìn của mẹ tôi khi nhìn tôi, ngoại trừ hôm mẹ tôi khóc khi ba tôi bị giết. Nhưng, ánh mắt của bà khi nhìn tôi sao mà giống như những người mẹ hiền nhìn con vậy. Với một người đàn bà xa lạ và nghèo nhưng lại có lòng độ lượng với một người như tôi, lại còn hứa sẽ giúp tôi và khuyên tôi đừng lo lắng thì … Tôi xem bà là người Mẹ Hai của tôi. Từ hôm nay tôi sẽ gọi bà là Mẹ Hai. Cha Hai không có tiền bạc nhiều nhưng Cha cũng đưa cho bà một ít để chi dùng. Bà cám ơn Cha nhưng từ chối nhận tiền. “Con còn xoay xở được mà Cha. Xin Cha cứ yên tâm, con hứa giúp cháu đây thì con sẽ giữ lời.” Tôi thấy Cha Hai nhìn bà với ánh mắt rất trìu mến. Với tôi Cha chỉ nói: “Cố gắng Tắc nhé. Đừng bao giờ làm cho bà đây phải phiền lòng Tắc nhé.” Tôi cảm nhận được là Cha muốn nói muốn dặn dò nhiều điều nữa với tôi, nhưng không hiểu Cha nghĩ sao rồi không nói mà dắt chiếc xe đạp đi thẳng ra ngõ. Cha và tôi gặp nhau hôm nay cũng là lần cuối cùng, vì một thời gian ngắn sau đó Cha đi nhận xứ ở một vùng trong Chợ Lớn mà tôi thì có quá nhiều điều phiền muộn nên không muốn gặp lại Cha. Tôi không muốn Cha bị phiền vì những gì tôi làm. Chiều cùng ngày tôi đến Uỷ ban nhân dân phường 7 quận 3 vào lúc hai giờ. Tôi đến để xin ghi tên tạm trú. Viên bí thư phường tên Tuân đã vặn hỏi tôi đủ điều. Kể cả việc về cái tên Phạm Công Tắc-Kè … kỳ cục của tôi. Tuân là tên cộng sản chuyên đi bắt người vào ban đêm, nhất là những người nói những lời chế giễu về chế độ. Tuân muốn mọi người phải luôn sống trong hồi hộp và lo sợ ; vì vậy đã có rất nhiều người chịu làm điềm chỉ viên cho Tuân. Không hiểu chiều nay tôi may mắn hay là Tuân … dễ dãi mà gần một tiếng đồng hồ sau, Tuân đã ký cho tôi tờ giấy cho phép tạm trú và nói là sẽ điều tra về tôi. Một tháng sau tôi chính thức có tên trong tờ “hộ khẩu”. Một hôm, tôi nhớ rất rõ , đó là những ngày cuối tháng hai năm 1978 nhưng không nhớ ngày. Khi đó tôi mới từ nhà ra chợ trời để mua bán quần áo cũ , thì Mẹ Hai từ nhà đến gặp tôi và cho biết tên cộng phỉ khu vực tên Lịch - Lịch “uống máu chó” - là hỗn danh tôi đặt cho Lịch vì có lần, tôi và nhiều người chứng kiến Lịch cầm cái ca chứa đầy máu tươi của con chó vừa bị cắt cổ và uống với vẻ hí hửng lắm. – “Ông Lịch ghé nhà nói là con phải có mặt tại buổi họp phường vào tối hôm nay lúc bảy giờ.” Mẹ Hai phải ra đây gặp tôi là vì cả ngày tôi sống ở ngoài đường cho đến bảy tám giờ tối tôi mới trở về nhà. Nghe Mẹ Hai nói , tôi liền cảm nhận có một sự không ổn nhưng đoán không ra. Tôi không muốn Mẹ Hai phải lo lắng nên tôi cố làm mặt vui và mời Mẹ ăn tô canh bún. Canh bún của người Bắc nấu với cua rất ngon và có rau rút (dút) ăn kèm. Tôi biết món ăn này nhờ những ngày … đứng đầu đường xó chợ. *** Tôi đến buổi họp đúng giờ. Buổi họp tối hôm nay họp tại Đình Phú Thạnh vì nơi đây rất rộng. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy đông người đến họp quá, và khi hỏi ra thì mới biết đây là buổi họp liên phường gồm phường sáu và phường bảy với mục đích đấu tố những người mà bọn cộng phỉ cho là “có tội ác với đồng bào”. Cán bộ Tuân là người từng lấy lời khai của tôi hôm nào ở phường, nay đã là cán bộ của quận. Tuân đeo khẩu K54 bên hông như để tăng thêm phần sắt máu cho buổi họp , mà theo tôi thì không cần thiết. Ai cũng biết Tuân và rất sợ hắn đến nhà ban đêm gõ cửa. Có tới sáu tên cán bộ ngồi sau một cái bàn dài có trải khăn trắng và hai đầu bàn có hai bình bông như để tăng thêm phần sang trọng. Sau lời chào hỏi của Tuân, Tuân gọi tên một người mà lâu ngày tôi không còn nhớ tên, nhưng nhớ người bị kêu lên đứng trước bà con hai phường để chịu sự đấu tố là ông cựu Phường trưởng của phường này trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông bị bán thân bất toại khi đang bị giam trong tù Chí Hòa nên được tha cho về. Hai người con gái của ông phải dìu ông đi lên đứng trước mặt bà con. Lịch “uống máu chó” bắt đầu nói tràng giang đại hải về những tội của ông để cho bà con đấu tố. Bọn cộng phỉ bắt mọi người phải im lặng ngồi nghe chúng nhục mạ người bị thất thế. Bọn chúng nhục mạ ông cựu Phường trưởng toàn những lời thêu dệt như ông đã hiếp hai mẹ con cô … nhiều lần. Người nào muốn mua hay bán nhà đều phải cần có chữ ký của ông thì phải nộp cho ông một số tiền bằng cả chục cây vàng … vân vân. Lịch “uống máu chó” kêu gọi ai từng là nạn nhân của ông cựu Phường trưởng thì hãy mạnh dạn đứng lên tố. “Cách mạng” hứa trừng trị thật nặng những kẻ nào có hành vi thù oán với người lên tố. Có tất cả năm người đàn bà và hai người đàn ông lần lượt lên đấu tố ông cựu Phường trưởng với những lời lẽ rất ác độc. Trong đó có một người đàn bà, tự nhận bà là em họ của ông cựu Phường trưởng. Trước khi bọn cộng phỉ chiếm được miền Nam tôi đã được đọc nhiều tài liệu nói về những màn đấu tố man rợ đã xảy ra ở miền Bắc Việt Nam, nhưng tôi không tin lắm. Người Việt Nam tin Trời Phật, tức tam giáo đồng nguyên, xem trọng gia đình nên, trong bộ luật Hồng Đức từng có quy định: Cấm con cái tố cáo cha mẹ, vợ tố cáo chồng, anh em tố cáo nhau … Điều cơ bản của luật này là để giữ đạo nghĩa trong gia đình. Thế mà tên phỉ Hồ Chí Minh đã cùng đồng bọn làm đủ mọi cách để người dân sợ sệt mà phải đấu tố lẫn nhau. Dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa tuyệt đối không bao giờ có chuyện khốn nạn như vậy xảy ra. Tình làng nghĩa xóm cũng luôn được đề cao nên có câu: Bán anh em xa mua láng giềng gần. Bây giờ thì người người đấu tố hạ nhục lẫn nhau và dò xét lẫn nhau để lập công. Bọn cộng phỉ luôn miệng ra rả nói về khoan hồng, nói chỉ đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại; nói về nếp sống văn hóa với tinh thần dân tộc nhưng lại cư xử với nhau như kẻ thù. Bọn cộng phỉ cứ mở miệng là nói về phẩm cách con người. Nhưng, bọn chúng thật sự không hiểu con người có phẩm cách là con người biết tôn trọng giá trị của người khác. Người miền Nam mới bị sống với bọn cộng phỉ có ba năm mà một số người chẳng còn giữ được chút tư cách nào trong đối xử tình người. Vì sợ hãi, và cũng vì mưu cầu lợi ích cho bản thân cũng như cho gia đình mà con người đã nhẫn tâm dựng lên đủ thứ mọi tội để sỉ nhục nhau. Nếu chế độ này còn tồn tại lâu thì con người Việt Nam sẽ chẳng còn bản tính người nữa. Con người sẽ dễ dàng giết nhau mà không hề biết gớm tay. Tội ác của bọn cộng phỉ muôn đời không thể gột rửa được. Tội nghiệp cho người bị ngã ngựa cứ phải cúi đầu nhìn xuống đất mà chẳng thốt lên được lời. Cũng may là ông bị bệnh nên giọng nói ngọng nghịu khó nghe vì vậy bọn cộng phỉ cũng mau chóng thông qua cho ông về chỗ ngồi, sau khi tuyên bố là ông và gia đình phải nhận sự giám sát và giáo dục của tất cả bà con liên Phường. Không hiểu sao mỗi lần tôi nhìn lên chỗ sáu tên gọi là cán bộ thì tôi thấy họ cứ nhìn ngay tôi chằm chằm . Tôi định bỏ ra về vì có ngồi thêm nữa thì cũng chỉ để nghe bọn nó chửi mà thôi. Tôi quay đầu nhìn về phía cửa nhưng chưa kịp đứng lên thì, tôi nghe Lịch “uống máu chó” nói rất lớn như thể hắn đã đoán được là tôi sẽ chuồn: - “Mời tất cả bà con ổn định lại chỗ ngồi và im lặng. Xin bà con lưu ý là, hôm nay chúng tôi cũng có mời một người đến đây. Người này chúng tôi đã theo dõi nên biết hắn cố ý chống lại cách mạng, chống lại nhân dân. Người đó phải lên đứng ở đây để trả lời trước bà con cô bác về những âm mưu mà tên đó đã và vẫn đang chống lại nhà nước.” Lịch “uống máu chó” ngưng nói và hướng ánh mắt nhìn ngay tôi làm cho trái tim của tôi đập mạnh đến nỗi muốn văng ra khỏi lồng ngực. - “Chúng tôi mời anh Phạm Công Tắc-Kè…” Cả hội trường đang im phăng phắc bỗng cười ầm lên rồi tất cả đều quay mặt nhìn ngay tôi. Thật ra thì tôi tuy ở trong Phường 7 nhưng chưa giao tiếp với bất cứ người nào, ngoài những tên cộng phỉ của Phường và Quận. Chỉ một điều giản dị là vì tôi không quen ai, và tôi cũng không muốn ai quen tôi vì tôi sợ … Nhưng nhiều người biết tôi. Lịch “uống máu chó” đưa bàn tay phải lên cao để mọi người chú ý rồi nói thật lớn: - “Xin bà con giữ im lặng cho.” Quay nhìn ngay tôi, hắn nói: - “Mời anh Phạm Công Tắc-Kè lên đây.” Gương mặt của tôi bỗng nặng như bị đổ chàm. Lúc này chắc chắn mặt của tôi đang bị đỏ như Quan Công vì tôi cảm nhận cả cái mặt bị nóng như có lửa đốt. Tôi ngượng đến chín cả người khi phải đứng lên mà hai cái chân của tôi thì cứ như bị quíu lại làm cho bước chân đi như xiêu như vẹo. Khi tôi đứng nhìn xuống mọi người thì cả hội trường im lặng như tờ. Tôi thoáng thấy mấy cô gái trẻ trong đội Thanh niên xung phong cũng đang nhìn tôi và cười mỉa mai như thể tôi là tên phản động nguy hiểm. Tôi cảm thấy số phận mình bắt đầu bị nguy rồi. Cuộc đổi đời đã làm thay đổi con người tôi trở thành tên lưu manh. Tôi mua quần áo cũ thì cố mua cho rẻ. Nhưng khi bán thì cố sao bán cho mắc. Gạt được người nào mua lầm hay bán hớ thì tôi cảm thấy “hồ hởi phấn khởi” lắm, vì như vậy tôi sẽ có một ngày ăn ngon hơn và nhiều hơn. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Lời của tổ tiên đã nói thì muôn đời không bao giờ sai. Sống với bọn cộng phỉ mà không lưu manh thì làm sao tồn tại được. Tôi đã biết nói láo một cách nhuần nhuyễn mà không hề bị lương tâm cắn rứt. Gương mặt của Phan Khắc Từ hôm nào lại hiển hiện ra trước mắt tôi. Không biết Từ có được chứng kiến những cảnh đấu tố này chưa. Nếu chưa thì chắc chắn cũng đã có nghe nói rồi. Từ nghĩ gì khi cùng đồng bọn là mấy ông Cha cố tình đánh phá chính quyền miền Nam để rồi rước cái bọn cộng phỉ không bao giờ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Bọn lãnh tụ sinh viên nông nỗi khoái xuống đường để được gọi là anh hùng, để được người đời gọi là “nhà cách mạng” … bây giờ ở đâu hết rồi và có thấy có biết những trò man rợ do bọn cộng phỉ đang làm không? Chỉ có loài thú mới không nhìn ra cái sai trái cái lầm lỡ đã đưa cả một dân tộc xuống bùn đen. Lịch “uống máu chó” cắt ngang dòng suy tư của tôi khi hắn nói đã điều tra về việc làm của tôi trước kia ở bên bến Bình Đông và: “Chúng tôi sẽ cho anh đi cải tạo vĩnh viễn. Chúng tôi khuyên anh nên từ bỏ những ý nghĩ chống lại cách mạng. Bởi, ai chống lại cách mạng thì đều phải bị tiêu diệt.” Sau đó Lịch “uống máu chó” nói là tôi không hề tham gia công tác xã hội chủ nghĩa. Trốn trình diện nghĩa vụ quân sự. Ghi tên tình nguyện đi Thanh niên xung phong rồi bỏ không đi. Tôi thật sự đang bị hoảng loạn và xấu hổ quá. Những điều mà Lịch “uống máu chó” lên án tôi, tôi đã nghĩ cách giải từ lâu rồi nên không lo lắm. Chỉ có chuyện bên bến Bình Đông mới làm cho tôi lo sợ. Lúc đó hội trường vẫn im phăng phắc và mọi con mắt đều đang đổ dồn về tôi , thì một người đàn ông là cò mồi đưa tay xin nói. Tên phỉ Tuân cho phép , ông đứng lên nhìn ngay tôi và nói: - “Tôi yêu cầu anh … hãy trả lời về những gì mà anh Lịch công an khu vực vừa nói. Tại sao anh trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong khi hai đứa con của tôi thì xin mãi mới được cách mạng chấp thuận cho đi. Nếu quả tình anh cố ý chống lại cách mạng thì tôi xin bà con cùng đề nghị cách mạng phải đưa anh đi cải tạo ngay từ bây giờ.” Tôi nhìn ngay mặt ông khi ông nói. Tôi nhớ ông này rồi. Ông là ba của thằng Đực. Ông bị ho lao hay bị suyễn nên mỗi khi nói ông phải lấy hơi , mới nói được. Tôi không biết tên ông nhưng biết thằng con của ông tên Đực. Nó còn nhỏ , mỗi sáng khi tôi đi ra chợ trời thì thường thấy nó đứng ở đầu hẻm. Bà Ba Hòa bán café ở đầu hẻm có lần nói bóng nói gió cho tôi nghe khi tôi đi ngang qua chỗ bà : “ Học hành thì không chịu học, cứ đứng rình xem ai làm gì là méc là trình báo. Đồ cái thứ nịnh hót.” Tôi chưa kịp lên tiếng trình bày thì tên phỉ Tuân lên tiếng trước và hăm dọa tôi đủ điều: - “… Hơn một triệu quân Ngụy và nửa triệu quân Mỹ còn bị đảng và nhân dân ta đánh cho tan tành. Với một nhóm chỉ vài ba tên thì làm được chuyện gì để mà chống đối chứ. Tôi yêu cầu anh nói rõ ra cho các cô bác ở đây biết, vì sao anh vẫn chống đối cách mạng.” Bây giờ là lúc tôi không thể rụt rè được nữa. Sống hay chết, ở lại nhà hay đi tù cải tạo sẽ tùy thuộc vào những gì mà tôi sẽ trình bày vì tôi đã ngừa trước chuyện này rồi. Bọn phỉ muốn hại tôi khi buộc tôi tội chống đối chúng.Tôi hít một hơi thật dài và thật sâu cho không khí vào đầy hai cái lá phổi rồi dõng dạc nói thật chậm thật lớn và thật rõ ràng để mọi người cùng nghe được và hiểu. Tôi đã trình bày về việc tôi bỏ bến Bình Đông để về cư ngụ ở đây là vì, khi ông Bí thư quận cho tôi về thì căn nhà đó có bộ đội đang ở. Họ nhất quyết không chịu cho tôi tá túc dù chỉ là một phút. Họ nói họ đang giữ an ninh. Khi tôi về đây tôi nghĩ vì đó không phải là tôi trốn nên tôi đã không khai. Còn việc nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong là vì tôi bị bệnh nặng, bệnh đau xương từ khi còn nhỏ mà các bác sĩ bệnh viện Bình Dân có chứng cho tôi và Mẹ Hai tôi có trình giấy của các bác sĩ cho ông Phường trưởng nên tôi được hoãn. Viết lại ra đây thì vắn tắt vậy, chứ thật ra tôi đã trình bày cũng hơn nửa tiếng đồng hồ và người tôi ướt đẫm mồ hôi như tắm, phần thì trong hội trường nóng quá, phần thì tôi sợ quá. Tôi sợ sẽ bị đầy ải trong trại tù cải tạo mà bây giờ cả Sàigòn, cả nước Việt Nam và cả thế giới đều biết sự đối xử dã man của kẻ mang danh là “cách mạng”. Cuối cùng mọi người không một ai lên tiếng phản đối tôi vì thấy những lý do của tôi hoàn toàn hợp lý nên, bà con cô bác khi được đám cộng phỉ hỏi, đã yêu cầu cho tôi được miễn đi cải tạo nhưng phải chịu thử thách. Lịch “uống máu chó” căm tôi lắm mà đành phải cười gượng nhưng cũng kèm thêm nhiều câu đe dọa.Tôi không hiểu vì sao sáu tên phỉ không ai thắc mắc gì đến cái tên Phạm Công Tắc mà tôi đã khai tại quận 7, với tên Phạm Công Tắc-Kè trong hiện tại. Chuyện tôi thoát khỏi đi Nghĩa vụ quân sự và Thanh niên xung phong là: Hôm tôi nhận được giấy mời phải trình diện tại Phường để lập hồ sơ đi nghĩa vụ quân sự. Tôi vì lo quá nên đã thức trắng cả đêm. Tôi không thể chấp nhận mình là tên lính cộng phỉ được. Tôi chống bọn cộng phỉ - dù chỉ là đơn thân và âm thầm - nhưng tôi quyết không cầm súng đứng chung hàng ngũ với bọn người mà tôi khinh bỉ và gọi là phỉ. Tôi cầu nguyện rất nhiều và kêu gọi linh hồn của ba tôi về giúp tôi nữa. Gần sáng thì một ý nghĩ đã loé ra trong cái đầu của tôi. Tôi phải trình diện lúc chín giờ sáng để được gọi là: “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.” Thì, tám giờ sáng tôi đã có mặt tại bệnh viện Bình Dân để khai báo là tôi bị té tối hôm qua từ trên mái nhà xuống. Bây giờ xương sống của tôi đau quá mà hai chân … sao cứ tê rần rần hoài. Các bác sĩ của Việt Nam Cộng Hòa bị kẹt lại thì “được” cho làm những công việc lặt vặt không chuyên môn. Còn các tên y tá của bọn cộng phỉ nhưng lại tự xưng là bác sĩ và được cử làm giám đốc bệnh viện cũng như những chức vụ quan trọng mà, thật ra thì các tên đó chẳng biết gì cả nhưng lại muốn ngồi khám bệnh cho ra vẻ ta đây là bác sĩ. Thấy tôi cứ nhăn mặt ra vẻ đau đớn quá mà cái mặt thì cũng xanh lè như tàu lá chuối vì cả đêm không ngủ, nên các “chú sĩ” bèn ghi toa cho tôi đi mua thuốc uống và viết giấy hẹn ngày mai trở lại tái khám. Nếu vẫn còn đau thì sẽ chuyển đến phòng chụp X quang. Phòng này thì lại do các bác sĩ thật của Việt Nam Cộng Hòa phụ trách mà ngày trước thường chỉ do các y tá có bằng chuyên môn đảm nhận. Nhận được tờ giấy hẹn ngày mai của “chú sĩ” là tôi tức tốc đi về nhà nhờ Mẹ Hai cầm đến Phường trình cho tên Phường trưởng. Tên Phường trưởng cũng là tên ngu dốt đến nỗi ký tên còn phải nắn nót thì khi nhìn thấy giấy của bác sĩ với chữ ký cùng cái mộc đỏ chói, hẹn ngày mai trở lại là tên Phường trưởng chấp thuận liền. Cái trò này tôi áp dụng luôn cho kỳ bị bắt buộc ghi tên đi Thanh niên xung phong. Trước khi Thanh niên xung phong của Phường lên đường thì Phường có tổ chức buổi liên hoan và tặng quà. Tôi không đến dự mà đến bệnh viện Bình Dân để diễn lại vở tuồng cũ. Đêm hôm đó Mẹ Hai của tôi lại đến gặp tên Phường trưởng và đưa giấy hẹn của “chú sĩ” đồng thời nói tôi lại bị đau nữa nên chiều ngày mai phải đến bệnh viện khám và … nhập viện. Từ sau những lần đó Phường không thèm nói đến tên tôi nữa. Phường xem tôi như người bệnh hoạn, người bị phế thải không đáng được đứng trong hàng ngũ của “cách mạng”. Tôi được miễn luôn các công việc lặt vặt như quét đường và làm sạch Phường. Công việc thủy lợi cũng miễn luôn. Tôi không ngờ mình mới sống có mấy năm với bọn phỉ mà đã trở thành người khôn vặt và cũng thành người lưu manh từ lúc nào mà không hề hay biết. Sau lần thoát nạn tối hôm họp liên Phường thì gần tháng sau … Tôi trở về nhà sớm lúc bốn giờ chiều. Trên đường về nhà tôi ghé vào Chợ Lớn, khu Tôn Thọ Tường, tôi mua hai ký thịt heo quay rất ngon và rất dòn; cùng hai ổ bánh mì. Tôi biết Mẹ Hai tôi thèm món này lắm nhưng bà không dám mua ăn vì sắp phải đi thăm hai người con đang bị tập trung cải tạo ở Long Khánh. Sở dĩ tôi mua đến hai ký thịt quay là để cho Mẹ Hai kho với trứng vịt đem cho hai người con trong trại tù cải tạo. Khác với mọi hôm là Mẹ Hai thường đón tôi với nụ cười. Nhưng, hôm nay Mẹ Hai tôi có vẻ buồn và lại không nhìn thẳng mặt tôi. Tôi lại linh cảm có chuyện không lành đến với tôi nữa rồi. Đúng như vậy, khi ngồi vào bàn ăn Mẹ Hai tôi không cầm đũa mà chỉ nhìn dĩa thịt quay mà nuốt nước miếng. Thật khó khăn lắm Mẹ Hai mới nói được lên lời: - “Con à, lúc trưa ông Lịch có đến đây gặp mẹ và khuyên mẹ nên tìm cách đuổi con ra khỏi nhà. Ông ấy nói con có lý lịch xấu mà trên quận có lưu hồ sơ vì vậy hai đứa con của mẹ sẽ khó được về sớm mà phải bị học tập rất lâu. Chỉ khi nào con không còn ở đây nữa thì hai đứa mới được cách mạng cứu xét và khoan hồng cho về sớm.” Mẹ Hai mới nói đến đó thì nước mắt đã lưng tròng. Mẹ Hai nhìn tôi thương hại và không nỡ nói thêm. May mà tôi chỉ ngồi nghe chứ chưa ăn. Nếu đang ăn mà nghe chuyện như vậy chắc tôi sẽ bị nghẹn và không chừng phải đi cấp cứu. Tôi biết Mẹ Hai tôi là người ngoan đạo và rất đạo đức. Nhưng, tình mẫu tử vẫn mạnh hơn tình mẹ con nuôi. Bọn cộng phỉ từ cấp lãnh đạo trở xuống đều là bọn tiểu nhân nên bọn chúng cố nghĩ ra trăm mưu ngàn kế để trả thù người miền Nam , mà cách đánh vào tình mẫu tử những người đàn bà là một trong nhiều cách . Tôi không còn cách nào hơn là phải làm cho Mẹ Hai không bị khó xử nên tôi liền đề nghị: - “Từ nay mẹ cứ để cái ghế bố ở ngoài hàng ba và mẹ che cho con miếng vải lớn, dầy, ở hàng rào. Cứ sau mười hai giờ đêm con sẽ vào đó ngủ và bốn giờ sáng con sẽ đi ra khỏi nhà; ngày nào cũng vậy. Mẹ đừng ngại vì con biết mẹ rất tốt với con. Hơn nữa tên Lịch một khi không thấy con, mặc dù ông ấy biết con về khuya và ngủ ở hàng ba rồi sáng đi sớm, thì như vậy là ông ấy cũng mãn nguyện vì đã hại được con rồi. Trong lúc đó con cũng sẽ kiếm một chỗ ở rồi con sẽ rút tên ra khỏi “hộ khẩu.” Mẹ Hai tôi khóc và không chịu ăn. Tôi cũng ăn qua loa hai miếng thịt và một chút bánh mì rồi thôi. Ngay khuya hôm đó tôi liền thực hành đúng như tôi đã nói với Mẹ Hai. Sau đó dù trời khô hay mưa, dù trời bão hay yên bình tôi cũng thức dậy đúng bốn giờ và dọn dẹp khoảng đôi ba phút là tôi đi ngay. Tôi đi ra đường Lê Văn Duyệt rồi đi tới đường Trần Quý Cáp. Tại góc đường Trần Quý Cáp và Bà Huyện Thanh Quan, trước trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền có một sạp báo mở bán sớm. Tôi mua tờ Tin Sáng, tờ báo của tên trí thức ăn cơm quốc gia nhưng lại thờ ma cộng phỉ tên Ngô Công Đức. Tờ báo giá năm cắc tiền cộng phỉ. Tôi cầm tờ báo và đi tiếp đến Vương Cung Thánh Đường Sàigòn, tức nhà thờ Đức Bà … thì cũng gần năm giờ sáng. Tôi dự lễ đầu tiên và chấm dứt lễ lúc sáu giờ. Thấy ngoài trời còn tối nên tôi dự tiếp một lễ nữa. Thường thì tôi ngủ gục trong cái lễ thứ nhì này. Tan lễ nhì là bảy giờ sáng. Tôi ra ngồi trong công viên nhỏ trước nhà thờ có tượng Đức Mẹ và cầu nguyện tiếp. Khoảng bảy giờ mười lăm phút tôi đi bộ đến quán café gần rạp chiếu phim Vĩnh Lợi.Tôi vào quán ngồi uống ly đen nhỏ và đọc báo … cho tới lúc tôi ra chợ trời để tiếp tục công việc mua bán … Mười hai giờ thiếu hai mươi phút đêm, lúc đó thường thì tôi đang ngồi trong công viên Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành và tôi bắt đầu đi bộ về nhà. Chỉ có hơn tháng, khi màn đêm buông xuống là tôi cảm thấy mình bất lực. Bất cứ một tiếng động lớn hay một cái nhìn chằm chằm của những người lạ mà tôi gặp trên đường về nhà, cũng khiến cho tôi cảm thấy như có điều nguy hiểm sắp xảy đến mà không làm sao ngăn lại được. Tôi cố gạt nỗi lo sợ ra khỏi đầu óc, nhưng rồi nó cứ trở lại mà không có cách gì thoát được. Tại sao tôi lại sợ quá đến như vậy? Thì ra tinh thần của tôi đã bị bạc nhược rồi. Thời gian đó tôi còn là thanh niên nên cần ăn nhiều và cần ngủ nhiều. Vì vậy mà chỉ hơn tháng thức khuya dậy sớm và ăn uống thất thường mà con người của tôi đã bị sa sút từ thể xác đến tinh thần thật trầm trọng. Ban ngày hễ ngồi đâu là tôi gục ngay ở đó. Đầu óc tôi cứ mụ mị đến không thể suy nghĩ hay tính toán gì được nữa. Một hôm, sau khi dự lễ thứ nhì xong, tôi ra ngồi trước tượng Đức Mẹ và vì tuyệt vọng quá nên tôi khóc. Tôi cầu xin Đức Mẹ giúp cho tôi thoát khỏi cái đất nước của tận cùng cuộc sống đau thương và hận thù này. Và, lời cầu xin của tôi được Đức Mẹ nhậm lời nên cuộc đời của tôi từ từ đã được thay đổi đến độ tôi phải tin đó là phép mầu, bởi tôi hoàn toàn không có khả năng để làm những chuyện “lớn” như vậy. Người đầu tiên tôi gặp và giúp tôi có cuộc sống thay đổi, đó là một người rất nổi tiếng của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Người miền Nam nào trước kia ai lại không biết, không một lần nghe đến tên danh thủ Tam Lang của đội tuyển túc cầu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Tôi gặp Anh vào khoảng gần cuối tháng 5 năm 1978. Lúc đó giải túc cầu thế giới được tổ chức tại Argentina sắp bắt đầu. Điều đặc biệt là, tôi mê đội tuyển Hòa Lan mà đây lại là lần đầu tôi nhìn thấy hình đội tuyển đăng trên tờ Tin Sáng. Qua những lần giao tiếp với Anh, tôi không hiểu từ nguyên do nào mà tôi lại cứ luôn gọi Anh là, Anh Võ Đại Lang. Anh không hề phản đối khi nghe tôi gọi Anh như vậy. Anh cũng không bao giờ chịu làm những chuyện mà vì đó bọn phỉ có thể xem thường Anh; chẳng hạn như … làm độ bán độ. Anh đang chơi cho đội Cảng Sàigòn. Nhưng, Anh giới thiệu bạn của Anh cho tôi. Có một lần Anh, tôi, ngồi uống café cùng với hai cựu danh thủ nữa là, Anh Nguyễn Văn Ngôn (Ngôn 2) và Anh Võ Thành Sơn. Anh Võ Đại Lang nhìn đoàn người chạy xe xuôi ngược trên đường phố và Anh nói với tôi mà như không phải với tôi. Anh nói … khơi khơi : “Muốn thoát khỏi cái đất nước khốn nạn này thì chính mình phải tự tổ chức lấy. Mình vừa thoát được mà còn giúp được người khác cùng thoát nữa.” Tôi âm thầm ghi nhận lời của Anh và tôi bắt đầu thực hành. Người như Anh mà khi mất đi ngày 02/06/2014 lại bị bọn phỉ hồ đồ gọi là đồng chí thì thật là oan cho Anh quá. Tôi, Phạm Công Tắc, tên sau này là Phạm Công Tắc-Kè. Xin xác định với toàn thể đồng bào miền Nam Việt Nam còn ở trong nước hoặc đã ra sống ở nước ngoài và đã từng thương yêu Anh: Tôi gần gũi và tâm sự với Anh rất thường nên tôi biết Anh Tam Lang - Anh Võ Đại Lang của tôi - hoàn toàn không thích bọn cộng phỉ. Anh là người thật hiền hậu thật đạo đức và là người con rất hiếu thảo. Anh không bao giờ có thể là đồng chí với bọn cộng phỉ vì bọn đó là những đứa đá cá lăn dưa và sẵn sàng tố cả cha lẫn mẹ mình mà tên Trường Chinh đã từng thực hiện. Ngay khuya hôm đó tôi liền thực hành đúng như tôi đã nói với Mẹ Hai. Sau đó dù trời khô hay mưa, dù trời bão hay yên bình tôi cũng thức dậy đúng bốn giờ và dọn dẹp khoảng đôi ba phút là tôi đi ngay. Tôi đi ra đường Lê Văn Duyệt rồi đi tới đường Trần Quý Cáp. Tại góc đường Trần Quý Cáp và Bà Huyện Thanh Quan, trước trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền có một sạp báo mở bán sớm. Tôi mua tờ Tin Sáng, tờ báo của tên trí thức ăn cơm quốc gia nhưng lại thờ ma cộng phỉ tên Ngô Công Đức. Tờ báo giá năm cắc tiền cộng phỉ. Tôi cầm tờ báo và đi tiếp đến Vương Cung Thánh Đường Sàigòn, tức nhà thờ Đức Bà … thì cũng gần năm giờ sáng. Tôi dự lễ đầu tiên và chấm dứt lễ lúc sáu giờ. Thấy ngoài trời còn tối nên tôi dự tiếp một lễ nữa. Thường thì tôi ngủ gục trong cái lễ thứ nhì này. Tan lễ nhì là bảy giờ sáng. Tôi ra ngồi trong công viên nhỏ trước nhà thờ có tượng Đức Mẹ và cầu nguyện tiếp. Khoảng bảy giờ mười lăm phút tôi đi bộ đến quán café gần rạp chiếu phim Vĩnh Lợi.Tôi vào quán ngồi uống ly đen nhỏ và đọc báo … cho tới lúc tôi ra chợ trời để tiếp tục công việc mua bán … Mười hai giờ thiếu hai mươi phút đêm, lúc đó thường thì tôi đang ngồi trong công viên Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành và tôi bắt đầu đi bộ về nhà. Chỉ có hơn tháng, khi màn đêm buông xuống là tôi cảm thấy mình bất lực. Bất cứ một tiếng động lớn hay một cái nhìn chằm chằm của những người lạ mà tôi gặp trên đường về nhà, cũng khiến cho tôi cảm thấy như có điều nguy hiểm sắp xảy đến mà không làm sao ngăn lại được. Tôi cố gạt nỗi lo sợ ra khỏi đầu óc, nhưng rồi nó cứ trở lại mà không có cách gì thoát được. Tại sao tôi lại sợ quá đến như vậy? Thì ra tinh thần của tôi đã bị bạc nhược rồi. Thời gian đó tôi còn là thanh niên nên cần ăn nhiều và cần ngủ nhiều. Vì vậy mà chỉ hơn tháng thức khuya dậy sớm và ăn uống thất thường mà con người của tôi đã bị sa sút từ thể xác đến tinh thần thật trầm trọng. Ban ngày hễ ngồi đâu là tôi gục ngay ở đó. Đầu óc tôi cứ mụ mị đến không thể suy nghĩ hay tính toán gì được nữa. Một hôm, sau khi dự lễ thứ nhì xong, tôi ra ngồi trước tượng Đức Mẹ và vì tuyệt vọng quá nên tôi khóc. Tôi cầu xin Đức Mẹ giúp cho tôi thoát khỏi cái đất nước của tận cùng cuộc sống đau thương và hận thù này. Và, lời cầu xin của tôi được Đức Mẹ nhậm lời nên cuộc đời của tôi từ từ đã được thay đổi đến độ tôi phải tin đó là phép mầu, bởi tôi hoàn toàn không có khả năng để làm những chuyện “lớn” như vậy. Người đầu tiên tôi gặp và giúp tôi có cuộc sống thay đổi, đó là một người rất nổi tiếng của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Người miền Nam nào trước kia ai lại không biết, không một lần nghe đến tên danh thủ Tam Lang của đội tuyển túc cầu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Tôi gặp Anh vào khoảng gần cuối tháng 5 năm 1978. Lúc đó giải túc cầu thế giới được tổ chức tại Argentina sắp bắt đầu. Điều đặc biệt là, tôi mê đội tuyển Hòa Lan mà đây lại là lần đầu tôi nhìn thấy hình đội tuyển đăng trên tờ Tin Sáng. Qua những lần giao tiếp với Anh, tôi không hiểu từ nguyên do nào mà tôi lại cứ luôn gọi Anh là, Anh Võ Đại Lang. Anh không hề phản đối khi nghe tôi gọi Anh như vậy. Anh cũng không bao giờ chịu làm những chuyện mà vì đó bọn phỉ có thể xem thường Anh; chẳng hạn như … làm độ bán độ. Anh đang chơi cho đội Cảng Sàigòn. Nhưng, Anh giới thiệu bạn của Anh cho tôi. Có một lần Anh, tôi, ngồi uống café cùng với hai cựu danh thủ nữa là, Anh Nguyễn Văn Ngôn (Ngôn 2) và Anh Võ Thành Sơn. Anh Võ Đại Lang nhìn đoàn người chạy xe xuôi ngược trên đường phố và Anh nói với tôi mà như không phải với tôi. Anh nói … khơi khơi : “Muốn thoát khỏi cái đất nước khốn nạn này thì chính mình phải tự tổ chức lấy. Mình vừa thoát được mà còn giúp được người khác cùng thoát nữa.” Tôi âm thầm ghi nhận lời của Anh và tôi bắt đầu thực hành. Người như Anh mà khi mất đi ngày 02/06/2014 lại bị bọn phỉ hồ đồ gọi là đồng chí thì thật là oan cho Anh quá. Tôi, Phạm Công Tắc, tên sau này là Phạm Công Tắc-Kè. Xin xác định với toàn thể đồng bào miền Nam Việt Nam còn ở trong nước hoặc đã ra sống ở nước ngoài và đã từng thương yêu Anh: Tôi gần gũi và tâm sự với Anh rất thường nên tôi biết Anh Tam Lang - Anh Võ Đại Lang của tôi - hoàn toàn không thích bọn cộng phỉ. Anh là người thật hiền hậu thật đạo đức và là người con rất hiếu thảo. Anh không bao giờ có thể là đồng chí với bọn cộng phỉ vì bọn đó là những đứa đá cá lăn dưa và sẵn sàng tố cả cha lẫn mẹ mình mà tên Trường Chinh đã từng thực hiện. Mọi việc được khởi đầu từ ngày 22 tháng 2 năm 1980. Buổi sáng hôm nay tôi đến quán café Sing Sing trên đường Phan Đình Phùng, tên mới Nguyễn Đình Chiểu; để gặp viên sĩ quan Việt cộng Đại úy Trưởng ban Quân báo quận 3 thuộc Quân khu 7. Viên sĩ quan có gương mặt tròn, bự và thân hình cũng cao lớn với nước da ngăm đen mà thoạt nhìn, tôi tưởng hắn người Thượng. Người Thượng theo làm Việt cộng rất nhiều vì quân đội miền Nam không thể kiểm soát hết vùng cao nguyên được. Tuổi của tên sĩ quan vào khoảng từ ba mươi hai đến ba mươi lăm. Hai con mắt của hắn lồ lộ nhìn ngay tôi không chớp. Tôi không thích những người có cái nhìn như vậy. Nhưng, hầu hết bọn cộng phỉ đều có cái nhìn giống nhau như vậy chứ chẳng phải mình hắn. Bọn chúng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù bởi vì bọn chúng chuyên gây ra những tội ác man rợ nên tự trong tiềm thức bọn chúng luôn lo sợ; dù đó chỉ là cái bóng của bọn chúng. Mặt của tên Đại úy Quân báo này nhìn ngầu quá. Nhưng, lúc này có lẽ hắn đang cần tiền nên cố làm vẻ mặt hiền khô vậy mà vẫn thấy … ngầu. Những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa đều có gương mặt nhìn rất trí thức và hiền thật sự. Bọn cộng phỉ quen trợn mắt nạt nộ dân mà trong đầu thì chỉ có mỗi một bài học phải thuộc lòng vì người nào hễ mở miệng ra để nói về đất nước và về đảng thì đều nói y một khuôn giống như nhau. Giống hệt con vẹt. Viên sĩ quan Đại úy này được một người thanh niên chuyên nhận biên số đề trong xóm của Mẹ Hai giới thiệu với tôi trước đó. Người biên số đề này từng là đệ tử của viên sĩ quan khi hắn còn mang cấp bậc Trung úy và làm Phường đội trưởng Phường Bàn Cờ. Viên sĩ quan cần tiền nên sẽ môi giới để bán một cái máy ghe nhỏ. Máy Yanmar một lốc. Tôi hẹn viên sĩ quan qua người biên số đề và gặp nhau sáng hôm nay tại quán café này để xem có thể nhờ hắn vào công việc nào khác không, chứ cái máy một lốc thì nhỏ quá. Thời gian gần đây tôi không còn mua bán quần áo cũ nữa mà đổi qua mua bán máy ghe và những vật dụng dành cho người đi biển. Cũng nhờ công việc này mà tôi đã được tham gia vào một tổ chức đưa người vượt biển rất có uy tín do một người từng là Đại úy Công Binh Việt Nam Cộng Hòa đứng đầu. Trong tổ chức này có một người tuy hơi lớn tuổi (51 tuổi) nhưng rất đẹp trai mà lại rất trí thức nữa. Anh tên là Hồng Dương, là nhà báo và cũng là chồng của nữ danh ca mà không một người Việt nào không biết đến tên. Nữ danh ca Lệ Thu. Để tạo cho mình có cái bề ngoài oai phong của người có quyền trong chức vụ Trưởng ban Quân báo, viên sĩ quan diện bộ đồ mới tinh ủi thẳng nếp và đeo cây K54 trước ngực … trông ngầu quá. Hắn mở lời khi tôi chào hắn: - “Tôi biết một cơ quan có cái máy Yanmar một lốc muốn bán. Nếu anh cần thì tôi sẽ giới thiệu. Tôi bảo đảm với anh là không có chuyện gài bẫy.” Tôi muốn bật cười vì câu nói của hắn quá. Chuyện có gài bẫy hay không là do tôi phán đoán, do tôi thẩm định trong khi nói chuyện chứ hắn là tên cộng phỉ thì … có gì để mà bảo đảm chứ. Hắn phải nói là: Tôi xin thề trước vong linh cha mẹ tôi là không có chuyện gài bẫy … chưa chắc tôi đã tin. Tôi không bao giờ quên được câu nói để đời của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. - “Máy đó kêu giá bao nhiêu, và, nếu như tôi mua thì anh sẽ hỏi bao nhiêu phần trăm tiền hoa hồng?” – “Tôi đang cần tiền. Nếu anh mua được cái máy đó thì anh cho tôi bao nhiêu cũng được. Ngoài ra tôi cũng có thể giúp những chuyện khác … như với bên công an từ thành phố đến các quận, huyện. Miễn là đừng dính vào những chuyện phản động có vũ khí.” Tôi gật đầu và vẫn nhìn ngay mắt hắn. Con người hắn tỏ ra thành thật vì hắn cũng nhìn ngay mắt tôi không chớp. Tôi tin những điều hắn nói. Hắn nói tiếp: - “Với tôi anh đừng sợ bị tôi gài. Tôi đang cần tiền. Để chứng minh lời tôi nói với anh là thật, tôi mời anh tối nay đến nhà cho biết . Tôi thứ Sáu tên Giàu.” Tôi lại gật đầu và hắn lại nói tiếp: - “Nhà tôi đối diện chợ Bàn Cờ. Số nhà…. đường Nguyễn Đình Chiểu.” Vậy là mục đích của tôi gặp Sáu Giàu sáng hôm nay xem như đã có kết quả bước đầu. Tôi làm như mình rất bận rộn công việc nên đứng lên bắt tay hắn từ giã: - “Tôi có việc phải đi ngay bây giờ. Tối nay khoảng bảy giờ tôi sẽ đến nhà gặp anh.” Sau khi trả tiền hai ly café, tôi cố ý để lại gói thuốc Samit mới hút mấy điếu và đi nhanh ra cửa. Nhà của Sáu Giàu khá rộng và có sân trước. Xung quanh sân nhà được bao bọc bởi hàng rào bằng ván cây thấp. Trước nhà đặt một cái lu lớn bằng sành để chứa nước mưa. Nếu không phải tôi đang đứng ở khu Bàn Cờ thì tôi tưởng đang đứng trước một căn nhà ở vùng quê nào đó ở miền Tây. Sáu Giàu đón tôi rất niềm nở và giắt xe cho tôi vào sân. Trong phòng khách để đèn neon cỡ trung bình nên ánh sáng phát ra vừa phải không bị làm chói mắt. Tôi không nhìn thấy được phía sau nhà vì tối om. Khi tôi đến thì chỉ có mình Sáu Giàu ở nhà. Nhưng, khi tôi vừa ngồi xuống ghế thì một người đàn bà còn rất trẻ từ ngoài đi vào và được Sáu Giàu giới thiệu là vợ của ông. Chị vừa đi mua một gói thuốc thơm hiệu Samit và ba chai bia lớn. Người đàn bà sau khi để những thứ vừa đem về lên bàn, bà liền mở công tắc điện phía sau nhà và đi ra đó. Thì ra đứa con mới sinh của hai người sắp được một tuổi đang nằm ngủ ở nhà sau. Sáu Giàu vừa rót bia ra ly vừa nói như tâm sự: “Khi tôi vào tiếp thu Tòa Hành Chánh quận ba, chính tôi đã tịch thu được cả một bao cát tiền và vàng, nhưng tôi đã nộp hết cho lãnh đạo. Bây giờ sắp đến ngày sinh nhật của đứa con đầu lòng mà tôi không làm sao có được một số tiền nhỏ để làm cho vợ con vui. Bởi vậy tôi muốn giới thiệu cho anh mua cái máy mà tôi nghĩ anh rất cần.” Sáu Giàu có vẻ xúc động khi nói vì tôi nhìn thấy một bên má của anh giựt nhẹ mấy cái. Viên sĩ quan Việt cộng người miền Nam đang đói meo đói mốc tên là Nguyễn Văn Giàu tự Sáu Giàu, rất cần tiền để làm sinh nhật cho con. Sáu Giàu là người miền Nam nên nói chuyện thẳng thắn vì vậy cũng rất dễ thông cảm. Sáu Giàu và tôi đã có thể thoải mái trò chuyện vì tôi tỏ ra chăm chú nghe hơn là nói. Tôi hỏi Sáu Giàu đã học trường nào và tham gia “cách mạng” được bao lâu mà lên tới Đại úy. Sáu Giàu kể: “Lúc đó tôi được mười một tuổi và đang đi chăn trâu ở Cai Lậy thì được móc nối theo cách mạng. Trải qua nhiều trận đánh cho đến ngày giải phóng thì tôi đã lên Trung úy. Sau đó tôi được điều về đây làm Phường đội trưởng … Tôi quen biết nhiều người. Những cấp chỉ huy cũ của tôi có người đang làm việc trong Thành uỷ Saigon. Nếu anh có chuyện gì với bên công an từ thành phố trở xuống các quận huyện anh cứ nói, tôi sẽ giúp được hết.” Hình ảnh tên phỉ Lịch “uống máu chó” bỗng hiện ra trong đầu tôi. Người mà tôi cần phải “chơi đầu tiên và tới cùng” dù có tốn kém đến đâu thì đó chính là tên Lịch “uống máu chó”. Lịch “uống máu chó” ghét tôi chỉ vì tôi là người duy nhất trong xóm gặp hắn không cúi đầu chào và không bao giờ mời hắn điếu thuốc lá hay ly café. Thật ra thì lúc gặp hắn là lúc tôi mới chập chững bước chân ra đời nên tôi rất ngại làm những hành động không đúng với tư cách của con người … bình thường. Tôi thấy những người trong xóm đáng tuổi cha chú của hắn vậy mà mỗi khi gặp hắn bất cứ ở đâu cũng đều cúi đầu đon đả chào hỏi và mời mọc thứ này thứ nọ … đã làm cho tôi thấy ái ngại vô cùng. Mấy người đó được ngồi uống café với Lịch “uống máu chó” ở quán bà Ba Hòa thì cứ tưởng mình ngon lắm nên mặt cứ vênh vênh váo váo … chẳng còn chi là tư cách con người nữa. Tôi cần cho Sáu Giàu biết là tôi có tiền và chịu chi. Tôi đứng lên và lấy từ trong lưng quần ra một cây vàng : “Cái máy mà anh nói nó quá nhỏ. Nó chỉ dùng vào việc chạy trong sông rạch nên tôi không cần đến. Tuy nhiên, tôi vẫn biếu anh một cây vàng để anh lo công việc cho chị được vui. Nếu đúng như những gì anh đã nói thì anh em mình sẽ hợp tác lâu dài. Bất cứ chuyện gì anh giúp tôi, tôi cũng sẽ trả công cho anh nhiều hơn những người khác vì anh … khác những người đang cộng tác với tôi. Sáng ngày mai anh em mình gặp lại cũng khoảng tám giờ tại quán café hồi sáng. Tôi sẽ nhờ anh một việc … rất quan trọng. Ngày mốt anh nghỉ làm một ngày và anh em mình sẽ đi Bà Rịa. Bây giờ tôi phải đi vì có hẹn.” Tôi làm gì mà có hẹn vào giờ đó. Giờ đó tôi thường đến quán café Từ Dung ngồi với mấy anh trong nhóm và nghe nhạc nên sự có mặt của tôi hay không có tại đó cũng không quan trọng. Tôi phải làm ra vẻ bận rộn với công việc gặp gỡ người này hoặc người kia để làm cho Sáu Giàu tưởng tôi là … Thủ trưởng kho bạc. Sáu Giàu nhận cây vàng và tỏ ra xúc động thật sự vì hắn bắt tay tôi bằng cả hai tay và một bên má lại giựt lên liên tục … cho đến khi tôi chạy xe đi. 23/2/1980 Sáng hôm nay Sáu Giàu vui vẻ và miệng thì cười toe toét. Hắn cố tỏ ra quý mến tôi khi vòng tay ra sau lưng tôi để kéo ghế mời tôi ngồi, mặc dù tôi đang đứng bên chiếc ghế và đứng cạnh hắn. Thông thường tôi ăn sáng với các bạn trong nhóm, nhưng, sáng nay tôi muốn ăn với Sáu Giàu. Tôi kêu hai tô hủ tiếu vì trong thực đơn ghi: Đặc biệt hủ tiếu Sing Sing. Hủ tiếu đặc biệt thật vì tôi thấy nhiều miếng gan, cật, tôm tươi và … rất ngon. Chúng tôi uống café sữa đá. Tôi muốn ngồi lâu với Sáu Giàu vì tôi cần phải thẩm định cho chắc chắn xem Sáu Giàu có thật sự làm được như những gì hắn đã nói không. Qua cái nhìn của tôi, Sáu Giàu muốn tôi tin là hắn làm được việc. Nếu có Sáu Giàu giúp thì công việc đưa người từ Saigon ra xã Phước Hòa Bà Rịa sẽ không còn là vấn đề làm nhức cái đầu nữa. Cái chốt canh ở Long Thành bọn công an luôn đổi người và khám rất gắt gao nên khi đoàn xe tới thì có khi không phải “người của mình.” Việc đưa một đoàn xe bốn năm chiếc qua khỏi cái chốt đó là cả một vấn đề. Nhưng, chuyện tôi muốn biết Sáu Giàu có làm được thật sự như hắn nói không, lại là chuyện khác. Tôi đi thẳng vào vấn đề khi hai tô hủ tiếu vừa đem ra: - “Anh Sáu, tôi cần anh giúp tôi một việc rất quan trọng. Nếu anh giúp không được thì cứ thành thật với nhau vì chuyện này tôi nghĩ cũng khó lắm. Tôi không giấu anh là tôi đang ở trong một tổ chức vượt biển. Chuyện tổ chức thì không phải người nào tôi cũng tin tưởng và cho biết. Nếu anh làm được việc tôi sẽ không tiếc tiền bạc với anh miễn là phải thành thật với tôi trong bất cứ mọi vấn đề chứ không phải chỉ thuần là công việc. Một người công an khu vực chỗ tôi cư ngụ nghi tôi nhưng chưa có bằng chứng nên chưa bắt tôi. Hắn thù ghét tôi ra mặt nên muốn tìm cách hãm hại tôi. Tôi muốn nhờ anh làm sao cho tên này văng khỏi phường 7 là tôi yên tâm lắm.” Tôi nghĩ khi nói ra như vậy Sáu Giàu sẽ khó trả lời tôi ngay, được hay không. Nhưng, thật bất ngờ khi tôi nghe Sáu Giàu nói cách quả quyết: - “Anh cho tôi tên của “thằng” đó đi. Tôi bảo đảm với anh chỉ trong hai tuần là nó sẽ đi khỏi thành phố này chứ không phải đi khỏi phường như anh muốn đâu.” Tôi nói tên của hắn là Lịch còn họ thì tôi không biết. Thái độ của tôi làm như không tin tưởng lắm vì tôi cứ nhìn ngay mặt Sáu Giàu nửa như muốn hỏi nửa như không. Thấy tôi có vẻ hoài nghi, Sáu Giàu buông đũa rồi đưa cả hai bàn tay lên cao xòe ra và nói cách chắc nịch: - “Anh tin tôi đi. Tôi nói tên này phải đi là nó phải đi.” Tôi chồm người về phía trước để vỗ nhè nhẹ lên vai của Sáu Giàu như tôi đã tin tưởng hắn rồi. Trước tiên chỉ cần Sáu Giàu làm việc này xem sao đã. Những việc khác từ từ rồi sẽ cho biết sau. Tôi hẹn Sáu Giàu chiều gặp lại ở một nhà hàng trong Chợ Lớn, rồi chia tay. Trong bữa ăn tối tôi có mời thêm mấy tên công an xã Phước Hòa cùng đến ăn. Mấy tên công an này thường lên Saigon gặp chúng tôi để kiếm ăn và kiếm nhậu. Cho hai bên đụng mặt nhau là rất cần và rất hay. Sáu Giàu cho biết đã hẹn gặp người mà Sáu Giàu cần gặp vào ngày mai nên sẽ không đi Bà Rịa được. 26/2/1980 Buổi sáng Sáu Giàu ghé qua nhà Mẹ Hai nhắn gặp tôi gấp khoảng mười giờ “tại chỗ cũ” tức quán café Sing Sing. Hai ngày qua Sáu Giàu và tôi cũng có gặp nhau. Trước tiên Sáu Giàu “bật mí” cho tôi biết là tên phỉ Lịch “uống máu chó” trong vài ngày nữa sẽ nhận công tác tận bên Campuchia. Việc thứ nhì là, Sáu Giàu sẽ nhận công việc cầm hải bàn và dẫn đầu đoàn xe đưa người từ Saigon ra xã Phước Hòa. “Tôi chỉ cần biết trước một ngày thì sẽ không có vấn đề gì với cái chốt ở Long Thành cả.” Sáu Giàu đã nói chắc chắn như vậy nên chúng tôi đối xử với anh như người tin tưởng trong nhóm. Tôi đến quán trước năm phút. Nhưng Sáu Giàu đến quán trễ mười phút vì, “tự nhiên cái xe nó dở chứng.” – “Chuyện nhỏ.” Tôi nói vậy chứ trong lòng không vui vì lo sợ công việc có trục trặc. Chuyện làm cho tôi không vui trôi qua mau khi Sáu Giàu cho tôi một món quà quý, rất quý. “Tôi nghĩ phải làm cho anh tấm thẻ này thì không có chuyện rắc rối nào xảy đến với anh nữa.” Sáu Giàu lấy từ trong túi áo ra đưa cho tôi một tấm thẻ không bọc nhựa: “ Thẻ Chứng Nhận: Phạm Công Tắc-Kè tự Ba Hùng, là đặc tình Quân báo Quận 3 thuộc Quân khu 7.” Sáu Giàu quả là tên Việt cộng không nổ sảng mà là người đã hứa thì làm được việc. Những ngày Lịch “uống máu chó” sắp lên đường qua công tác bên Campuchia, hắn không dám nhìn ngay tôi khi giáp mặt nhau tại quán café bà Ba Hòa. Vừa thấy tôi từ xa là hắn cúi mặt nhìn xuống đất. Tôi vui … quá xá là vui! Không vui sao được khi một tên cộng phỉ gian ác lại sợ một thằng dân “Ngụy” tầm thường là tôi. Trước mặt Lịch “uống máu chó” tôi oang oang tuyên bố: “Ai muốn đi vượt biển thì đến gặp tôi.” Tôi không ngờ vì câu nói vô ý thức và ngông cuồng trong một lúc vui đắc thắng mà tôi phải trả giá đắt sau này. Mà, người bị đầu tiên là Mẹ Hai. Ngày 23/4/1980 tôi đưa hai người con của Mẹ Hai đi vượt biển và thành công chỉ sau một tuần hai người được thả ra khỏi trại tù cải tạo. …………… …………… …………… …………… 16/2/1991. Tôi có mặt tại Saigon trưa ngày 16/2/1991, sau mười một năm rời khỏi Việt Nam. Tôi về khi được tin của một người khá thân tín cho biết, Mẹ Hai nhập viện khẩn cấp. Khi tôi đến bệnh viện Bình Dân cũng ngày 16/2/1991, lúc đó đã hơn bốn giờ chiều. Một nhân viên phụ trách hồ sơ bệnh nhân của bệnh viện đã tận tình giúp tôi sau khi tôi “bồi dưỡng” hậu hỷ, đã cho biết, Mẹ Hai tôi, bà Vũ Thị Sửu mất ngày 13/2/1991. Nghĩa là Mẹ Hai đã mất được ba ngày rồi. Vì Mẹ không còn thân nhân ở Việt Nam nên bà con lối xóm đã lo hỏa táng cho Mẹ. Tôi hoàn toàn không thắc mắc vì sao hai người con của Mẹ không về. Chắc chắn các anh phải có lý do chính đáng. Tôi nghĩ hai anh buồn tôi nhiều lắm nên, mặc dù tôi có liên lạc nhiều lần nhưng hai anh không hồi âm. Chẳng qua là, khi tôi đi rồi Mẹ Hai bị khám nhà và bị giữ trên quận một thời gian. Tôi ân hận vì đã làm cho Mẹ buồn và khổ. Tôi đã khóc, khóc thật nhiều trước mặt mấy người nhân viên trong bệnh viện. Lòng tôi quá đau đớn ê chề. Tôi đã phạm một lỗi lầm to lớn khi để cho người ơn của mình phải bị đau khổ. Mẹ giận tôi nên không hồi âm những lá thư của tôi gởi về, hay Mẹ sợ ? Việc Mẹ không hồi âm thư cho tôi như đã phủ lên đời tôi một màu đen bi thảm không bao giờ tẩy sạch được. Nơi quê hương thứ hai tôi luôn nhớ đến Mẹ. Nhớ để mà hối hận để mà tự trách sao mình lại làm liên lụy đến người từng cứu mình từ vũng bùn hôi hám lên và cho mình tắm rửa sạch sẽ để trở thành con người đúng nghĩa là con người. “Cố gắng Tắc nhé. Đừng bao giờ làm cho bà đây phải phiền lòng Tắc nhé.” Lời của Cha Hai hôm nào là những mũi tên ghim sâu vào tim mỗi khi tôi hồi tưởng lại những ngày sống êm đềm bên Mẹ Hai. Vĩnh biệt Mẹ. Xin Mẹ thứ lỗi cho con. Đứa con ngu dại đã làm cho Mẹ phải phiền lòng. Tôi đi như người bệnh vì những bước chân quá nặng nề … ra tới cổng bệnh viện thì lúc đó đã năm giờ bốn mươi phút. Nhìn qua bên kia đường tôi thấy một người thanh niên đội nón lưỡi trai màu đen ngồi trên chiếc xe Honda hai bánh và hai chân thì chống xuống đường; đang nhìn qua bệnh viện. Vừa nhìn thấy tôi anh thanh niên vội vàng quay nhìn hướng khác. Hành động như vậy thì tỏ ra còn yếu kém về nghiệp vụ theo dõi lắm. Người thanh niên này tôi đã nhìn thấy khi tôi ra khỏi khách sạn để đến đây. Muốn kiểm tra cho chắc chắn xem mình có bị theo dõi không, tôi đi tản bộ dọc theo đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) để ra đường Lê Văn Duyệt (Cách Mạng Tháng Tám) chứ không đón xe. Đang đi đột nhiên tôi quẹo vào một con hẻm. Hẻm này rộng mà tôi thì quá rành nên biết, nếu cứ đi thẳng thì sẽ ra đến khu chợ Vườn Chuối. Tôi đứng quay mặt nhìn vào bức tường làm như thể đang đứng tiểu. Và, ngay lúc đó chiếc xe Honda hai bánh có người thanh niên đội nón lưỡi trai màu đen lao vụt qua làm cho tôi gần nín thở. Tôi sợ đến run cả người. Như vậy là tôi đã và đang bị theo dõi thật. Cảm giác run cả người lần này cũng giống y như hôm tôi quyết định ở lại chiếc ghe lớn để ra đi. Lúc đó có hai tên công an xã Phước Hòa thuộc tỉnh Bà Rịa cùng có mặt trên ghe gọi là để kiểm phiếu của khách. Nhưng, đồng thời cũng là để ngăn không cho tôi đi. Hai tên công an xã không ngờ hôm đó tôi có giữ trong mình cây súng K54, và tôi lấy cây súng ra cầm trong tay. Cây súng là của Sáu Giàu mà tôi hỏi mượn với mục đích nhưng không nhờ anh chỉ tôi cách sử dụng. Hai tên công an cố thuyết phục tôi ở lại làm vài chuyến nữa, nhưng tôi nhất quyết ra đi … trước khi quá trễ. Tôi cũng dụ hai tên này đi theo nhưng hai đứa đã nhảy xuống nước , bơi vào bờ. Tên thanh niên lái chiếc Honda thấy đã lỡ trớn nên đành phải chạy thẳng. Tôi quay trở ra đường Phan Thanh Giản với những bước chân đi thật vội vã và liền đón xe ôm về lại khách sạn. Tôi ở khách sạn mini Hoa Cẩm Chướng trong Gia Định. Tôi được mấy người bạn giới thiệu khách sạn này. Khách sạn có ba tầng, mỗi tầng có hai phòng ngủ. Một phòng lớn phía trước một phòng nhỏ phía sau. Tôi ở tầng cao nhất và ở phòng lớn vì có sân rộng mà đứng ở đây tôi có thể nhìn xuống đường và cũng nhìn thấy chợ Bà Chiểu. Ông bà chủ là người tử tế nhưng làm ăn không thành công vì địa điểm khách sạn không thuận lợi. Những người như ông bà chủ này vì cần có khách nên nếu tôi chịu ở xa Saigon thì những ngày ở đây sẽ giống như đang sống với gia đình. Khi về đến khách sạn thì trời cũng đã tối nên tôi nhờ bà chủ khách sạn mua cho tôi tô mì nước thay cho bữa ăn tối. Bia và nước ngọt thì đã có sẵn trong tủ lạnh đặt trong phòng ngủ. Ông bà chủ muốn mời tôi ăn cơm nhưng tôi nói đang mệt và tôi thích ăn mì vì lâu rồi tôi chưa được thưởng thức lại hương vị mì Ba Tàu mà chỉ ở Saigon này mới có và ngon. - “Thật sự thì đã có điều không bình thường đến với mình rồi.” Trong đầu tôi cứ vang lên câu đó. Tôi cần phải bình tĩnh, cần phải sáng suốt. Nếu tôi không thể kiểm soát được tâm thức của chính mình thì sẽ dễ bị rối loạn. Tôi lại nghĩ đến khẩu súng K54 và tên thanh niên với cái nón lưỡi trai màu đen. Suy nghĩ mệt nên tôi nằm ngửa trên giường ngắm căn phòng tôi đang ở. Căn phòng rộng rãi được sơn hai màu vàng lợt và vàng thẫm. Máy lạnh là loại cũ nhưng chạy đều đặn nên nhiệt độ trong phòng luôn mát lạnh. Trên trần được trang trí cái đèn có sợi dây xích thòng xuống khoảng nửa thước và có bốn nhánh chỉa lên trần mà mỗi nhánh có gắn cái bóng đèn tỏa ánh sáng vàng lợt rất dịu mắt. Cách phòng tắm nửa thước cũng có một cây đèn nhỏ gắn lên tường. Trên chíếc bàn nhỏ bằng cây màu nâu sẫm ở đầu giường có cây đèn ngủ mà tôi chưa sử dụng qua. Tôi quyết định sẽ rời Việt nam trong một hai ngày nữa, nếu đổi được vé máy bay. 18/2/1991. Cả ngày hôm qua tôi ở luôn trong phòng không một phút trườn mặt ra ngoài. Ông bà chủ khách sạn nấu ăn cho tôi thay vì tôi sẽ đi ăn ở tiệm cơm bình dân gần đó mà ông bà đã giới thiệu khi tôi mới đến mướn phòng. Hai ông bà cũng ngạc nhiên khi nghe tôi nhờ đi đổi vé máy bay để trở về sớm hơn, mặc dù khi mới đến tôi nói sẽ đi Đalat ít ngày. Thời gian này người Việt sinh sống ở nước ngoài về đây và muốn đến Đalat - chỉ Đalat thôi - thì phải xin giấy phép đi đường. Ông chủ đã cho tôi biết như vậy. Tôi hiểu rằng, từ giờ trở đi tôi phải hết sức cẩn thận. Tôi linh cảm là mình sẽ gặp nguy hiểm. Tôi quả quyết chỉ tại tôi lấy cây súng K54 khi bỏ đi vượt biển nên mới xảy ra cớ sự này. Từ hơn mười năm qua thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ đến Sáu Giàu và cây súng mà tôi đã bỏ lại dưới biển Vũng Tàu khi chiếc ghe bị mắc cạn. Tôi nghĩ Sáu Giàu không bị trắc trở khi mất cây súng vì phe cánh của anh có uy thế thật sự. Nhưng tại sao … Bọn phỉ có thể sẽ bắt tôi để tôi phải lòi tiền ra chứ không thể dễ dàng đi ra khỏi nước Việt Nam được. Bọn phỉ đang đói meo đói mốc sau bao nhiêu năm bị cấm vận, bây giờ thấy người Việt trở về thì như thấy cả kho tiền nên sẽ tìm đủ mọi cách để moi. Làm gì có luật pháp với bọn phỉ bao giờ. Tôi không muốn chê sự nghèo nàn của đất nước mà tôi từng được sinh ra và sống những tháng ngày tuyệt đẹp. Nhưng, quả thật là hơn mười lăm năm chiếm đóng miền Nam, bọn phỉ đã chẳng làm được gì cho đất nước và con người ngoài những tàn phá và tàn phá. Đã tàn phá đất nước đến nghèo mạt, họ còn tàn phá luôn cả con người. Những người thanh niên trai tráng tôi gặp trên đường đa số là những con người có bề ngoài thật bệ rạc. Quần áo thì luộm thuộm , dơ dáy. Người gì mà nhỏ thó và ốm tong ốm teo như con mắm. Thanh niên gì mà không có một chút hào khí nào cả khi đi , khi đứng. Những người phụ nữ phải bương bả ngoài đường để kiếm sống thì đa số cũng ốm nhách ốm nhom nhìn thật xấu xí dù họ còn rất trẻ. Ngoài đường thì toàn xe đạp với các loại xe không động cơ. Họa hoằn lắm tôi mới thấy chiếc xe du lịch thật cũ kỹ chạy trên đường. Một thứ mà ai khi đến thành phố này đều phải chú ý đến, đó là các tấm biểu ngữ bằng vải hay bằng thiếc được trương lên ở khắp mọi nơi khắp mọi ngã tư đường với những hàng chữ thật lớn, được trang trí hai màu, vàng và đỏ … có thể nhìn thấy rõ từ xa với những lời rỗng tuếch viết ca tụng cái đảng cộng sản khốn nạn cùng những điều cấm và những bổn phận người dân phải làm. Nếu không vì ân nghĩa với người mẹ đã hết lòng giúp tôi trong cơn hoạn nạn năm xưa thì không bao giờ tôi muốn đặt chân trở lại mảnh đất này. Tình cảm gia đình rất thiêng liêng và gắn bó của người Việt miền Nam thật sâu đậm và cao quý nên đã bị bọn phỉ lợi dụng tối đa. Đang đứng ngoài hành lang nhìn về phía chợ Bà Chiểu nơi có cái khám đường nổi tiếng của Pháp xây, tôi giựt thót tim khi nhìn thấy một người chạy xe Honda cũng đội nón lưỡi trai màu đen đang quẹo vào khách sạn. Trái tim tôi đập mạnh như muốn bay ra khỏi lồng ngực. Chẳng lẽ thằng an ninh đội nón lưỡi trai màu đen ngày hôm kia theo được tôi về đến đây nên bây giờ nó đến bắt tôi chăng? Lo sợ quá nên tôi bị ngu mà không hay. Tờ khai ở phòng xuất nhập cảnh tôi đã ghi địa chỉ khách sạn mini Hoa Cẩm Chướng … thì tên an ninh đội nón lưỡi trai màu đen cần gì phải theo xem tôi ở đâu. Nó theo là để xem tôi đi gặp những người nào và ở những nơi nào. Sự lo nghĩ của tôi được chấm dứt khi có tiếng gõ cửa rồi tiếng nói của ông chủ khách sạn vang lên: “ Anh ơi. Anh có thư.” - Tôi có thư? Quá đỗi ngạc nhiên nên tôi bước thật nhanh đến cửa. Ông chủ khách sạn tươi cười trao cho tôi cái thư mời … của phòng xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Du. Nội dung là mời tôi sáng thứ năm ngày 21/2/1991 đem passport lên cho họ kiểm tra lại. Tôi thở ra một hơi thật dài như trút được cả gánh nặng lo âu. 21/2/1991. Đích thân viên Đại úy Trưởng phòng xuất nhập cảnh tiếp tôi. Hắn còn trẻ , tôi đoán chừng chưa qua tuổi ba mươi. Hai con mắt của hắn cứ nhìn láo liên khi hỏi passport của tôi đâu. Ngay khi tôi đưa passport ra thì vừa đúng lúc một tên công an từ ngoài đi vào. Tên này tự giới thiệu là người của Phòng An Ninh Điều Tra thành phố đến nhận passport của tôi, đồng thời mời tôi về số 3C đường Tôn Đức Thắng (Bến Bạch Đằng cũ) vì, “có một vài vấn đề liên quan đến anh cần làm rõ.” Tôi vẫn đinh ninh chuyện cây súng K54 là nguyên nhân chính mà bên an ninh “cần làm rõ”. Trong căn phòng nhỏ được soi sáng bởi ánh mặt trời chiếu qua khung cửa sổ. Tên công an đến Phòng xuất nhập cảnh gặp tôi, cũng là người sẽ “làm việc” với tôi. Hắn là Thiếu úy tên Mai Quốc Anh. Hắn lịch sự mời tôi ngồi và mời tôi điếu thuốc … không thơm. “Cám ơn anh, tôi có thuốc đây.” Tôi lấy gói thuốc ba số 5 ra khỏi túi áo và mời lại hắn. Hắn đón điếu thuốc và đặt lên môi. Một tên công an khác đi vào phòng và chào tôi rồi tự giới thiệu tên là Phạm Cang nhưng không nói cấp bậc. Phạm Cang mở đầu buổi “làm việc”: – “Chúng tôi mời anh về đây là vì, khi anh tổ chức vượt biển anh đã lấy tiền vàng của nhiều người nhưng anh không đưa người ta đi. Nay anh trở về người ta làm đơn thưa anh …” Tôi vẫn nghĩ đến cây súng K54 nên nói: – “Tôi nghĩ … các anh muốn nói chuyện với tôi về chuyện khác. Khi tôi ra đi tôi đã giải quyết mọi công việc với khách và không một ai bị thiệt hại để hôm nay họ phải làm đơn thưa tôi.” Phạm Cang tuy không cho biết cấp bậc, nhưng tôi nghĩ hắn là cấp chỉ huy của Mai Quốc Anh. Phạm Cang nói tiếp trong khi Mai Quốc Anh vẫn ngồi lặng thinh hút thuốc liên tục. Khói thuốc ba số 5 hôm nay tôi không thấy ngon , không thấy thơm mà đắng và hôi quá. Khói thuốc làm cho cổ họng tôi khô rát và đắng nghét. Mặc dù đắng và bị khô cổ nhưng tôi vẫn hút. Tôi hút để che giấu nỗi sợ hãi. - “Chúng tôi có đơn thưa nên chúng tôi mới mời anh về đây, chứ biết bao nhiêu người trước kia cũng tổ chức mà khi về đây chúng tôi có làm như vậy với họ đâu.” – “Anh có thể cho tôi biết tên người thưa tôi được không?” - “Dĩ nhiên chúng tôi sẽ nói cho anh biết tên người thưa anh. Người thưa anh là bà Nguyễn Thị Xuyến. Ngoài ra chúng tôi cũng có lệnh truy nã toàn quốc đối với anh khi anh bỏ đi.” Nói rồi Phạm Cang mím môi lại và gật gật cái đầu tỏ vẻ đắc ý lắm. Thì ra nỗi lo lắng về cây súng K54 là không phải, mà là bà Xuyến đứng đơn thưa tôi. Tôi suy nghĩ thật nhanh để ráp nối lại các dữ kiện đã xảy ra là tôi đã hiểu nguyên nhân vì sao bà Xuyến lại làm vậy … Một hôm tôi trở về nhà lúc đó cũng gần mười hai giờ đêm, bà Xuyến vẫn đang ngồi chờ ở quán café bà Ba Hòa để gặp tôi. Bà Xuyến là chị của tên chuyên biên số đề trong xóm đã giới thiệu Sáu Giàu cho tôi hôm nào để bán cái máy ghe nhỏ. Bà Xuyến nói muốn đưa khách cho tôi nên muốn biết điều kiện của tôi ra sao. “Mỗi người khách của chị tôi sẽ lấy hai cây rưỡi vàng. Chị Xuyến muốn lấy của khách bao nhiêu tôi không cần biết. Tôi sẽ đưa khách ra tới hải phận quốc tế an toàn. Nếu vì lý do nào đó mà khách chưa đi được qua khỏi hải phận quốc tế thì sẽ được đi lần kế tiếp … cho đến khi đi được thì thôi mà không phải trả thêm tiền.” Lần đầu bà Xuyến đưa cho tôi hai người khách. Lần sau tăng lên năm người. Từ đó và những lần kế tiếp bà Xuyến đều có khách cho tôi. Cứ trước chuyến đi khoảng một tuần tôi nhận những người khách cuối cùng là của bà Xuyến. Người vợ của tên chuyên biên số đề, tức là em dâu của bà Xuyến, vốn là người bán cá ở chợ Vườn Chuối, lại là người đã viết thư qua cho tôi nhưng không kể rõ chi tiết mà chỉ nói đại khái: “Anh đối tốt với gia đình chị Xuyến, vậy mà chị ấy lại làm cho nhiều người oán hận anh.” Trong nhiều năm qua tôi cứ thắc mắc tại sao lại có nhiều người oán hận tôi ? Tôi đâu có tiếp xúc trực tiếp với ai đâu? Chuyến tôi đi, dù không báo cho ai biết, ngoại trừ Mẹ Hai, nhưng số khách của bà Xuyến tôi đã giải quyết xong hoàn toàn rồi. Nghĩ vậy nhưng tôi lại không nghi ngờ gì bà Xuyến. Khi tôi quyết định về thăm Mẹ Hai, tôi còn thông báo trước cho gia đình bà Xuyến biết ngày tôi về và tôi sẽ ghé lại nhà bà để giải quyết những gì còn vướng mắc. Bây giờ tôi được biết chính bà Xuyến đứng đơn thưa tôi thì, tôi đoán: Khi tôi đã đi rồi nhưng bà Xuyến vẫn tiếp tục nhận tiền, vàng, của khách. Nhận đến bao lâu thì tôi không rõ… Cho đến một ngày nào đó bà Xuyến hô lên với khách là tôi đã bỏ đi và lấy hết vàng đem theo rồi. Sau đó có bao nhiêu người khách đã “can đảm” thưa bà Xuyến? Lúc đó bà Xuyến chỉ cần hoàn lại nửa cây vàng là tiền hoa hồng của mỗi người khách, phần hai cây rưởi vàng bà hưởng trọn, và, đóng tiền phạt là được tha về. Bà được tha về vì công an cũng nghĩ bà Xuyến đã bị tôi gạt nên liền phát lệnh truy nã toàn quốc đối với tôi. Tôi ra đi ngày 16/10/1980, vậy thì, chỉ cần biết bà Xuyến bị bắt ngày nào và năm nào, cũng như lệnh truy nã tôi phát đi từ ngày nào và năm nào, thì sẽ rõ bà Xuyến lấy tiền của khách đến bao lâu. Những người không đi được cũng nghĩ tôi gạt bà Xuyến nên mọi oán hận đều đổ dồn cho tôi; theo như trong thư của vợ người biên số đề gởi qua cho tôi; mà nay tôi mới hiểu ra. Bà Xuyến được tôi báo tin sẽ trở về và sẽ đến nhà bà để nói chuyện nên bà sợ sẽ có người nhìn thấy tôi thì mọi sự việc sẽ bị phanh phui chăng? Có lẽ bà đã nghĩ như vậy thật nên bà đã đi trước một bước là gặp những người còn kẹt lại và xúi họ ký tên vào đơn cho bà đại diện họ thưa tôi hầu chứng minh sự vô tội của bà. Tôi đã tường trình như trên và đồng thời ký tên trong biên bản lời khai. Hai tên phỉ Phạm Cang và Mai Quốc Anh lộ vẻ “hồ hởi phấn khởi” khi cầm tờ biên bản lời khai này. Tôi hiểu ngay vì sao hai tên phỉ lại vui mừng quá như vậy . Phạm Cang cầm tờ biên bản lời khai đứng lên và đi ra khỏi phòng. Một lúc sau một tên phỉ công an khác đi vào và được giới thiệu là, Đại úy Phan Anh Minh Phó Thủ trưởng phòng An ninh điều tra công an thành phố. Phan Anh Minh vào phòng nhìn mặt tôi như cho biết rồi đi ra ngay. (Từ mấy năm qua và cho đến năm nay là 2016, Phan Anh Minh hiện là Thiếu tướng Phó Giám đốc công an thành phố Sài Gòn bị tạm thời đổi tên H.C.Minh.) Một lúc lâu sau, Phạm Cang trở lại phòng và đưa hai tờ giấy cho Mai Quốc Anh đọc. Đó là hai tờ “Lệnh bắt khẩn cấp” và “Quyết Định Khởi Tố Bị Can” do Trung tá Nguyễn Hải Phận Thủ trưởng phòng an ninh điều tra ký khởi tố tôi về tội: – “Móc nối người khác trốn đi nước ngoài, đã thu tiền vàng, quy định tại điều 88 bộ luật hình sự và, căn cứ điều 103 bộ luật tố tụng...” Tôi nghĩ như vậy là đã bị bắt giam nhưng vẫn cố nói cứng với hai tên phỉ công an may ra có chuyển hướng được gì không: – “Kể từ giờ tôi sẽ tuyệt thực. Tôi phản đối nhà nước đã dụ tôi về đây để bắt tôi về những việc làm trước kia mà tôi nghĩ đó là việc làm bình thường.” Phạm Cang mỉm cười vẻ giễu cợt: – “Anh tổ chức và lấy tiền vàng của người ta mà anh nói là bình thường à?” – “Rất bình thường, vì khi đó chính ông Mười Tốt là Trưởng công an Bà Rịa cùng Trưởng công an xã Phước Hòa là Sáu Sạn, tức là nhà nước đã bán bến bãi cho tôi và tôi đã trả bằng vàng. Những chuyến ra đi là công khai và có công an kiểm soát. Trước đó cũng chính nhà nước tổ chức cho người Hoa ra đi để lấy tiền vàng … thì đó không là việc làm bình thường sao?” Phạm Cang nghiêm nét mặt: – “Nhà nước làm là có chính sách. Còn anh làm là … phạm luật.” – “Đó là anh nói chứ tôi vẫn nghĩ là chuyện bình thường. Nhà nước không cho người thu tiền bến bãi công khai , thì làm sao tôi dám làm chuyện đó.” Phạm Cang không nói nữa mà nhìn vào tờ quyết định khởi tố như đang chăm chú đọc. Tôi nhận thấy ngay , tên Phạm Cang đang bị bối rối nên giả bộ nhìn chăm chăm vào tờ quyết định khỏi tố chứ những gì viết trong đó hắn đã biết như thế nào rồi. Chắc chắn từ nay bọn này sẽ tránh không còn nói đến việc tổ chức vượt biên với tôi nữa. Tôi biết chắc bọn này đang muốn tôi lòi tiền ra chứ khởi tố tôi thì ăn cái giải gì khi mà tôi quả quyết việc tôi đã làm là công an, tức nhà nước đồng ý. Không thể im lặng lâu, Phạm Cang từ tốn nói với tôi bằng lời lẽ rất nhẹ nhàng nhưng đã chuyển sang đề tài khác là kể công: - “Lãnh đạo đã chiếu cố cho anh nên không đưa anh về chỗ ở để khám xét vì còn muốn anh có dịp quay lại Việt Nam. Thôi, anh cứ ở tạm đây ít lâu để lãnh đạo giải quyết những người thưa kiện anh cho yên, rồi anh về. Bây giờ mà anh về thì chúng tôi nghĩ những người đó sẽ giết anh mất. Họ đang tức giận anh lắm.” Lại cũng những câu nói buộc người trong thế kẹt phải chấp nhận. Ngày trước bọn phỉ này cũng nói với những sĩ quan miền Nam bị tập trung cải tạo: “Nhân dân đang thù oán các anh nên chúng tôi phải giữ các anh ở đây. Khi nào các anh học tập tốt và nhân dân không còn thù oán các anh nữa thì … các anh về thôi.” Biết bọn phỉ ăn nói đểu cáng nhưng đành phải chịu chứ không thể làm gì khác hơn được. Tôi nhất quyết phải tìm cách ra khỏi đây thật sớm. Mặt trời đã lên cao trên đỉnh đầu. Tôi đang đi bên cạnh Mai Quốc Anh đến phòng giam. Căn buồng giam trước đó không biết giam tối đa bao nhiêu người, nhưng bây giờ chỉ có một mình tôi. Phòng giam bề ngang rộng ba thước và bề sâu bốn thước rưỡi. Từ ngoài cửa nhìn vào sẽ thấy một bục xi măng cao khoảng nửa thước xây thoai thoải dùng làm chỗ cho tù nằm ngủ. Bên phải ngay cửa ra vào là cái toilet cùng hồ nước nhỏ mà bên trên hồ có cái vòi nước; trên thành hồ có một cái thùng nhỏ bằng nhựa rất dơ dùng để múc nước tắm và dội cầu. Chung quanh phòng là tường xi măng nên không có cửa sổ mà chỉ có cửa ra vào là có ô cửa nhỏ với hàng song sắt. Mai Quốc Anh nói như ra điều lãnh đạo của hắn đã ra ơn cho tôi: - “Lãnh đạo ưu tiên cho anh một mình một phòng vì anh là Việt kiều. Chung đụng với mấy người khác anh sẽ bực mình lắm. Anh cũng hiểu là tôi và lãnh đạo chỉ muốn giúp anh thôi chứ nếu chuyện này mà làm cho to ra thì… phiền phức và còn lâu lắm anh mới về được.” Thấy tôi không nói mà chỉ nhin khắp phòng giam như quan sát, Mai Quốc Anh bồi thêm: - “Anh cũng nên bồi dưỡng cho lãnh đạo và tôi hai … ba cây vì chúng tôi đối với anh như trong tình anh em vậy. Khi nào anh được về thì anh đem ba cây đến cho tôi. Tôi sẽ cho anh biết địa điểm sau. Chiều nay sẽ là lần đầu mình làm việc với nhau.” – “Tôi đâu có mang vàng về mà đưa vàng cho anh.” – “Thì… tính ra tiền cũng được vậy. Một lượng vàng bây giờ là… ba triệu ba trăm ngàn.” – “Anh nói lãnh đạo là ai?” - ‘Là Đại úy Phan Anh Minh, người mà anh đã gặp lúc nãy đấy. Thôi anh nghỉ… cho khỏe nhé.” Cánh cửa phòng giam được đóng lại sau lưng tôi. Tôi chính thức bị giam như tên tội phạm hình sự. Tôi vẫn đứng quay lưng lại cánh cửa và nhìn căn phòng giam mà đau đớn trong lòng quá. Ý nghĩ vượt biển lại vừa hiện ra trong đầu tôi. Nếu tôi được ra khỏi nơi này mà passport vẫn bị giữ thì tôi sẽ kiếm cách vượt biển qua Hồng Kông. Nhưng, trước mắt là tôi phải làm sao ra khỏi chỗ này càng sớm càng tốt chứ không thì bọn này sẽ “rỉa” tôi đến không còn cái quần lành lặn để mặc mà về bên kia. Tôi nghĩ Mai Quốc Anh muốn kiếm tiền cho Phan Anh Minh vì nội vụ có ba người, mà Phan Anh Minh thì không thể lên tiếng xin tôi. Tôi phỏng đoán là Mai Quốc Anh sẽ chi cho Minh một cây còn hắn hưởng hai cây. Hắn muốn qua mặt lãnh đạo nên lúc đầu nói hai rồi tăng lên ba khi thấy tôi không có phản ứng. Chắc chắn rồi sẽ đến lượt Phạm Cang cũng hỏi xin tôi một cây. Dù sao thì việc đầu tiên là phải tìm cách ra khỏi chỗ này rồi mới tính tiếp được. Bây giờ bọn cộng phỉ đang cần Mỹ bỏ cấm vận, và cần những người Việt đã bỏ nước ra đi và đang thành công trong các công việc khác nhau sẽ trở về để chúng được tiếng là đã hòa giải và hòa hợp được với những người từng chống chúng. Nếu tôi kiên trì tuyệt thực một thời gian thì tôi sẽ thắng. Nhịn đói khoảng một hay hai tuần thì không có vấn đề gì cả. Tôi vẫn đứng như trời trồng nhìn căn phòng giam. Bỗng, ngay khi đó chuyện năm xưa vụt hiện ra trong đầu tôi. Phải rồi. Tôi đã thoát không đi nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong là nhờ mình đóng kịch giỏi. Tại sao mình không làm theo bài bản cũ chứ? Đó là vở kịch hay và hoàn hảo mà không phải ai cũng nhập vai được. Phải làm mọi cách thì mình sẽ không phải bị nằm trong cái chỗ dơ dáy này lâu. Bác sĩ Việt cộng là những người ngu dốt. Hơn nữa trong bao nhiêu năm qua nhà nước này bị thế giới cấm vận thì … học của Liên Xô và các nước công sản … có cũng như không. Nghĩ thế là tôi liền thực hành. Tôi cởi giầy rồi leo lên bục xi măng nằm khi nghe tiếng chân người đang đi đến. Tôi nghĩ Mai Quốc Anh trở lại vì chuyện gì đó. Nhưng không phải. Tiếng chân là của người đàn bà mang cơm trưa cho tôi. Có tiếng lách cách mở cửa phòng giam. Một khuôn mặt xuất hiện ở ô cửa nhỏ của cánh cửa phòng giam đang nhìn vào bên trong. Vì không còn đồng hồ nên tôi không biết bây giờ là mấy giờ, nhưng phải vào khoảng hai ba giờ chiều. Tôi vẫn nằm nhìn người vừa mở cửa. Có lẽ hắn là cán bộ trông coi phòng giam. Hắn đứng bên ngoài cửa nhìn tôi và tôi nhìn hắn nhưng không ai lên tiếng. Hắn nhìn xuống cái khay đựng phần cơm trưa vẫn còn nguyên vẹn mà tôi đã đặt ngay cửa ra vào. Phần cơm tù năm 1991 có lẽ khá hơn xưa. Một tô cơm trắng - loại lớn hơn cái chén ăn cơm thông thường - Một tô canh và một dĩa đồ xào. Tôi không biết trong tô canh và dĩa đồ xào có thịt cá gì không vì tôi không muốn nhìn vào trong đó. - “Anh chuẩn bị đi làm việc ngay bây giờ.” Tên công an lên tiếng. - “Tôi không thể đi được vì tôi đang bị đau.” – “Anh bị đau gì?” – “Tôi muốn gặp bác sĩ.” Tên công an thấy tôi không trả lời thẳng vào câu hỏi của hắn, hắn liền đóng cửa lại cái rầm và bỏ đi sau khi không quên khóa cửa lại. Mười phút sau thì Mai Quốc Anh cùng viên công an vừa rồi đến. - “Anh bị đau gì vậy? Cố gắng đi ra làm việc với tôi rồi … sẽ giải quyết sớm cho anh về.” Mai Quốc Anh đến gần bên tôi và nói như vậy. – “Tôi không thể bước đi được vì căn bệnh cũ lại tái phát rồi.” – “Bệnh cũ là bệnh gì?” – “Tôi bị từ lúc… sắp đi nghĩa vụ quân sự nhưng rồi được miễn. Tôi cần thuốc giảm đau nhức gấp.” Mai Quốc Anh đứng tần ngần nhìn ngay tôi xem tôi đang đóng kịch hay là đau thật. Thấy mặt tôi nhăn nhó ra vẻ đau đớn nên hắn quay lưng đi. Cửa phòng giam được khóa lại vì tôi nghe tiếng lách cách của chìa khóa từ phía ngoài. Nằm nhìn lên trần nhà mà lòng buồn vô hạn. Đang vui sướng tự do ở bên kia thì lại đút đầu về, để rồi chui vào đây nằm. Công việc đang bề bộn thì phải bỏ về đây vì sợ không gặp mặt người ơn lần cuối. Vậy mà cũng có gặp được đâu. Ngày mai là thứ sáu, là ngày làm việc cuối tuần rồi… Tôi không ngờ mình lại bị ở tù. Bây giờ tôi mới để ý đến mùi hôi của nước tiểu cộng với thứ mùi hôi gì mà tôi không biết chính xác là mùi gì. Bốn bức tường chung quanh đã bị tróc vôi nhiều. Chung quanh bức tường có rất nhiều những dòng chữ được khắc nguệch ngoạc bởi những người đã đến đây, ghi lại những tội trạng và ngày bị bắt. Tôi ngồi lên tìm xem có người nào là “Việt kiều” đã ở đây chưa. Có lẽ tôi là người đầu tiên vì không tìm thấy dòng chữ mà tôi muốn thấy. Tôi cũng muốn viết lên tường mấy chữ nhưng tôi lại nằm xuống. Phòng giam chỉ có mình tôi nên cảm thấy thoải mái và nghĩ mình cũng sẽ qua được những ngày ở đây. Bữa cơm chiều cũng có hai món, món canh và món xào, cùng một tô cơm. Người đàn bà có lẽ cũng nghe nói tôi bị đau nhức nên bà nói với vẻ mặt có chút thiện cảm: - “Anh cố gắng ăn một chút chứ nhịn thì … đói sao chịu được. Nếu anh muốn ăn cháo thì cho tôi biết ngày mai tôi sẽ nấu cháo cho anh.” - “Cám ơn chị, tôi không đói nên không cần ăn cơm hay ăn cháo gì cả. Tôi đang bị đau quá. Tôi cần thuốc đau nhức.” Người đàn bà nhìn khay cơm đang đặt trên bục xi măng vẻ lưỡng lự như muốn đem đi nhưng rồi lại thôi. Cánh cửa được đóng lại như cũ. Đèn điện vừa lên. Tôi đoán bây giờ là khoảng năm sáu giờ chiều. Tôi buồn quá. Buồn đến phát khóc được. Phải chi lúc này có ly café thì … Tôi đang thèm café chứ không thèm ăn. Thuốc lá nếu có thì hút không thì thôi chứ tôi không ghiền. Gói thuốc ba số 5 của tôi hồi sáng mấy tên phỉ bu lại hút nên giờ không còn. Nhớ lại những ngày cuối tuần trước đây bên quê hương thứ hai luôn vui chơi cùng bạn bè đến thâu đêm suốt sáng … mà buồn cho hiện tại. Nếu ở ngoài thì giờ này tôi cũng đi ăn , đi uống café hay đến những chỗ vui khác. Tôi không biết thành phố này có vũ trường không vì tôi chưa kịp đi đâu hết thì đã vào đây rồi. Lần đầu tiên ở tù mà lại tù về tội lường gạt thì nhục quá. Trong tờ quyết định khỏi tố bị can, khởi tố tôi tội, “Móc nối người khác trốn đi nước ngoài thu tiền vàng…” Tức là tội lường gạt nên mới bị người ta thưa. Tôi suy nghĩ lại thật kỹ thì, trong những người khách của bà Xuyến, chắc chắn một trăm phần trăm tôi không tiếp xúc với ai cả. Một lẽ giản dị chỉ vì họ là những người sống gần khu nhà Mẹ Hai nên tôi không muốn họ đến nhà. Tôi cũng kiểm lại mình thật kỹ xem có nhận tiền, vàng, của người nào rồi bỏ sót lại không. Nghĩ thật kỹ tôi biết mình hoàn toàn không quên một người nào cả. Tôi cảm thấy lương tâm mình rất thanh thản. Chẳng qua người ta tham nên mới làm đơn thưa tôi, chứ nào tôi có tránh mặt đâu. Vì đang cố nhớ lại những người khách, nên, tôi cũng vừa nhớ đến ba gia đình khách đi vượt biển đã gạt tôi. Người đầu tiên là anh Trung úy Không quân của Việt Nam Cộng Hòa. Anh là bạn của người con trai lớn tên Khoa của Mẹ Hai. Khi anh Khoa đi thoát anh viết thư về cho tôi: – “Tắc cố gắng giúp cho bạn tôi….” Sau đó tôi tìm đến nhà anh Không quân này. Nhà anh tọa lạc ngay góc đường Nguyễn Hoàng với đường gì mà tôi quên tên rồi. Nhà anh đối diện với cửa chính của hãng thuốc lá Melia Bastos. Hôm tôi đến nhà gặp anh và có gặp luôn vợ anh. Sau khi nói chuyện, anh nhìn chị như ra dấu và chị đứng lên đi ra nhà sau. Một lúc sau chị cầm ba (3) lượng vàng đưa cho tôi và nói: – “Tụi tôi tin anh hoàn toàn nên đưa hết cho anh một lần. Chứ những tổ chức khác thì tụi tôi không bao giờ tin ngay.” Tôi nhận ba lượng vàng có chữ ký của chị và ra về. Hai tuần sau tôi trở lại và cho anh biết ngày mai đi. – “Ngày mai khoảng hai giờ chiều anh phải có mặt trước rạp hát Thành Chung, rạp chuyên chiếu phim Ấn Độ đó. Rạp gần khu Bình Khang nổi tiếng những năm xa xưa có tên đường là Vĩnh Viễn.” Anh vui mừng và nói anh biết rạp hát đó vì cũng gần khu nhà anh. Anh nói anh đã chuẩn bị từ cả tuần nay để có tin là đi ngay. Và, anh sẽ có mặt trước hai giờ chiều ngày mai. Rủi thay, chuyến đi đó có trục trặc mà tôi thì không thể nào quay lại ngay để báo tin cho anh biết. Hai ngày sau tôi cầm ba lượng vàng đến nhà anh. – “Tôi xin lỗi đã không quay lại kịp để báo cho anh biết. Tôi đưa lại anh ba lượng vàng. Khi nào đi thoát và anh đánh điện về thì tôi mới đến lấy. Xem như đó là sự tạ lỗi của tôi.” Chuyến đi của anh sau đó thật đặc biệt mà tôi thì không thể nào ngờ. Người tài công là sĩ quan Bộ binh nhưng anh cố gắng học về hàng hải sau khi đi tù về. Chiếc ghe anh lái chở hơn tám mươi người và chạy đúng bon trên đoạn đường mà những chiếc tàu hàng ngoại quốc chạy qua lại. Chiếc ghe đã gặp tất cả tám mươi (80) chiếc tàu ngoại quốc, mỗi chiếc tàu đều cho thợ máy qua kiểm soát và đều xác nhận máy và ghe an toàn. Họ cho thực phẩm đến “ăn không hết”. Những người khách đi trong chuyến ghe này đã viết thư về như vậy. Các tàu hàng đã chỉ hướng cho anh tài công chạy đến Indonesia. Sau khi tất cả người trên chiếc ghe đó đánh điện về. Một hôm tôi… hí ha hí hửng đến nhà anh để nhận vàng. Chị vừa nhìn thấy tôi là tôi cảm nhận ngay đã có chuyện không vui. Sau khi mời tôi ngồi, chị cầm tờ điện tín và nói: – “Anh Tắc ơi, em luôn chuẩn bị sẵn ba cây vàng để khi anh đến là em giao cho anh ngay. Anh hãy đọc tờ điện tín mà anh (quên tên) đã gởi về cho em để anh hiểu là em không thể giao vàng cho anh được.” Tôi đón tờ điện tín và bình tĩnh đọc những chữ trong tờ điện tín mà không tin ở con mắt của mình. Những dòng chữ viết: - “Em đừng trả T cho Tắc. Em cũng đừng đi đâu hết mà chờ anh sẽ B. L em.” Tôi nhìn tờ điện tín thật lâu mà vẫn không tin ở con mắt của mình. Một người khách như anh mà hành xử như thế này thì… tôi không hiểu gì cả. Theo đúng như những gì giao ước từ lúc đầu thì chị sẽ đi chuyến kế tiếp. Nhưng vì bức điện tín ghi chờ B. L. tức là chờ bảo lãnh... Tôi đưa lại chị bức điện tín rồi đứng lên và ra về liền mà không nói một câu nào. Nói điều gì bây giờ chứ. Chị phải tin những chữ trong bức điện tín vì chính chồng của chị đánh về mà. Vĩnh viễn tôi sẽ không bao giờ biết được lý do vì sao. Có lẽ cho đến ngày tôi từ giã cõi đời này tôi cũng sẽ không biết được. Anh chị và tôi cũng sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau được. Mà, nếu như có gặp lại nhau cũng không làm sao còn nhớ mặt nhau. Người khách thứ hai thì nhớ mặt nhau và tạm hiểu vì sao. Một hôm Mẹ Hai tôi nói tôi lên Thủ Đức gặp một ông khách “quen rất thân với mẹ.” Ông đã có tuổi nhưng cấp bậc cuối cùng của ông lại chỉ là Trung úy. Ông bị tù cải tạo chỉ hai năm. Về nhà ông chạy xe Lam ba bánh chở khách tuyến đường Thủ Đức - Sài Gòn. Ông muốn cho đứa con trai hơn hai mươi tuổi đi. Vì ông là người quen của Mẹ Hai nên tôi lấy hữu nghị chỉ hai (2) lượng vàng thôi. Nhưng, cũng phải đưa trước một (1) lượng và khi nào có điện tín về tôi đến lấy tiếp. Một hôm ông nói ông muốn giới thiệu một người quen của ông vốn là Thượng sĩ cán bộ trường Sĩ quan Thủ Đức. Ông Thượng sĩ này sẽ đi với đứa con trai mười tuổi. “Cháu lấy hai cha con ông ấy ba (3) cây vàng nhưng cháu cho lại bác nửa cây. Ông ấy cũng phải đưa trước cho cháu một cây. Một cây rưỡi còn lại cháu sẽ lấy khi có điện tín.” Chuyến đi này mất bốn ngày thì được một chiếc tàu hàng vớt và đưa vào Singapore. Hơn hai tuần sau tôi ghé nhà “bác” để nhận tiền. Tôi ghé nhà khoảng mười một giờ sáng. “Bác” làm như bận rộn công việc nên cứ nói tôi ngồi chờ. Đến giờ cơm “bác” ép tôi ăn một chén. Ăn xong “bác” nói: “Anh cứ đến nhà bà ấy lầy tiền trước đi rồi quay lại đây.” Không một chút thắc mắc, tôi đến nhà ông Thượng sĩ. Bà vợ ông Thượng sĩ gặp tôi thì tỏ vẻ niềm nở lắm. Bà hỏi: – “Bác Cận đưa tiền cho anh chưa?” – “Dạ chưa, “bác” ấy nói cháu đến đây lấy trước rồi trở lại đó “bác” ấy sẽ đưa.” Bà vợ ông Thượng sĩ đưa cho tôi một cây rưỡi vàng và nói: - “Tôi thì tôi phải trả cho anh vì anh đã giúp nhà tôi và cháu đến nơi bình an. Bác Cận dặn tôi là, một cây rưởi đưa trước là đủ rồi. Không việc gì mà phải đưa thêm. Tôi thì tôi không thể làm trái lương tâm như vậy được.” Tôi cám ơn người đàn bà tốt bụng và quay trở lại thì “bác” đón tôi và hỏi dồn dập: – “Bà ấy có đưa vàng cho anh không?” – “Dạ có.” – “Vàng đâu, đưa cho tôi xem.” Tôi lấy dưới yên xe ra một cây rưỡi vàng có ký tên. Lúc đó ông Trung úy (già) mới đi vào nhà lấy một cây vàng đưa cho tôi. Ông muốn lấy của tôi một cây mà không được. Gia đình người khách thứ ba thì rất nổi tiếng với đồng bào miền Nam. Một hôm tôi được Anh Thanh Tâm chủ tiệm uốn tóc nổi tiếng Thanh Tâm trên đường Bùi Thị Xuân đối diện với trường Nguyễn Bá Tòng Saigon. Tiệm uốn tóc của Anh Thanh Tâm thường được các nữ nghệ sĩ tên tuổi của miền Nam, của Saigon đến làm tóc. Anh Thanh Tâm hẹn tôi tại quán cafeteria Mini Rex Saigon để gặp một người là kịch sĩ rất nổi tiếng. Người kịch sĩ đó là Anh Ngọc Đức, ông xã của nữ nghệ sĩ Phương Hồng Ngọc. Ngọc Đức nói: “Thằng con trai lớn của tôi sắp bị gọi đi nghĩa vụ quân sự nhưng tôi không muốn nó đi. Tôi thì chỉ có một cây vàng thôi, nếu anh lo được cho nó miễn đi nghĩa vụ quân sự thì tôi xin trả anh một cây vàng.” Kịch sĩ Ngọc Đức thì người dân miền Nam ai còn lạ gì tiếng tăm của anh. Thấy anh nói vậy nên tôi đề nghị: “Thay vì lo cho nó khỏi đi nghĩa vụ quân sự thì tôi sẽ … cho đi vượt biển. Vì là anh nên tôi chỉ lấy tượng trưng một (1) cây vàng và khi nào có điện tín về thì anh mới đưa cho tôi. Riêng anh, khi nào anh muốn đi thì tôi sẽ đưa anh đi ngay tại bến Bạch Đằng vì … mặt của anh ai cũng biết.” Từ hôm đó cho đến hơn hai tháng sau, ngày con của anh đánh điện về tôi vẫn tiếp vợ chồng anh mỗi ngày. Nhưng, khi điện tín của mọi người đã gởi về thì tôi không ngờ vợ chồng anh lại tránh mặt tôi. Tôi đến tận nhà tìm anh chị mấy lần nhưng đều không thành công. Tôi không tin vợ chồng anh lại làm như vậy nên tôi vẫn đến tìm … cho đến một lần kia tôi đến vào buổi tối và khi nhìn thấy tôi thì cánh cửa nhà liền được khép lại. Và, tôi không bao giờ còn đến tìm hai vợ chồng nữa. Mấy năm sau tôi qua Paris và trong một đêm kia tôi đến vũ trường tại quận 13 thì nhìn thấy anh đang ngồi với mấy người bạn của anh. Tôi đã định bỏ đi về, nhưng rồi không hiểu sao tôi lại đến gặp anh. Anh có vẻ sợ bị quê với mấy người bạn nên nói năng lắp bắp. Tôi chỉ hỏi thăm anh: Chị Ngọc đâu? Anh cho biết đang hát trong vũ trường. Tôi chào anh và … đi về khách sạn chứ không vô vũ trường. *** Tôi cố lắm nhưng không thể nào nhắm mắt được. Tôi cứ hết nghiêng mình qua bên này rồi lại nghiêng qua bên kia mà không làm sao ngủ được. Không biết ở đây có muỗi không? Nếu có thì chắc chắn đêm nay đám muỗi sẽ có một bữa no nê, vì dù sao thì có lúc tôi cũng phải ngủ. Tôi nghe có nhiều tiếng nói tiếng cười từ mấy phòng giam gần đó vọng lại. Tôi đoán giờ này có lẽ chỉ tám chín giờ thôi. Tôi nhìn khay cơm mà tôi đã đặt gần cửa. Không hiểu sao giờ này người ta chưa dọn khay cơm. Có lẽ họ nghĩ tôi sẽ đói và sẽ có lúc phải ăn. Tôi tự nhủ, một là mình sẽ rời khỏi đây sớm, hai là chết chứ không bao giờ đụng đến khay cơm. Tôi sẽ không bao giờ tỏ ra yếu hèn. Ngày mà tôi còn sống ở vùng đất nhiều hoa và nhiều thông ở vùng cao nguyên, tôi được tiếng là người học giỏi và hạnh kiểm tốt. Mỗi cuối tháng tôi luôn luôn đứng hạng nhất. Họa hoằn lắm thì cũng có khi tôi đứng hạng nhì; chứ chưa bao giờ đứng hạng ba. Vậy mà nay tôi đã thành tên vô lại và bị giam cầm như là tên tội phạm nguy hiểm vì có “Lệnh bắt khẩn cấp”. Tôi nhớ đến những người thân yêu của tôi và lại muốn khóc, nhưng cố kềm lại. “Mày không được tỏ ra hèn yếu. Nếu mày quyết tâm thì mày sẽ thắng.” Tôi nhủ thầm như vậy và cố tươi tỉnh lại nét mặt. Có tiếng lách cách mở cửa. Một tên phỉ công an mà tôi chưa thấy mặt , qua mở cánh cửa phòng giam rồi bưng khay cơm đặt ra ngoài. Hắn cầm bộ đồ tù màu xanh lợt và cái mùng đưa cho tôi: - “Anh thay bộ này và giăng mùng lên. Tôi sẽ trở lại lấy bộ đồ anh đang mặc.” Tôi nhìn tên phỉ và bỗng cơn giận nổi lên. Tôi nói thật lớn tiếng như hét: - “Anh nói lãnh đạo của anh phải cho tôi thuốc đau nhức gấp ngay bây giờ. Đó là quyền đòi hỏi chính đáng mà lãnh đạo của anh phải đáp ứng. Nếu không thì các anh phải chịu trách nhiệm … tất cả.” Tên phỉ công an mặt cũng đanh lại nhìn ngay tôi nhưng không nói một tiếng nào cả rồi lẳng lặng đóng cửa lại. Khoảng … cũng ba mươi phút sau, tên phỉ vừa rồi và thêm một tên phỉ nữa đến. Tên mới đến cầm ca nước và một viên thuốc đưa cho tôi : - “Anh uống ngay đi.” Tôi không cần hỏi đó là viên thuốc gì vì tôi có định uống nó đâu. Tôi bỏ viên thuốc vào miệng và lấy lưỡi đưa thật nhanh lên chỗ giữa hàm răng trên và cái môi. Tôi cầm ca nước và uống. Tên phỉ rất hài lòng cầm lại cái ca và đi ra. Tôi nói với tên còn đứng lại vì tôi biết hắn đang chờ gì: - “Tôi chưa thay đồ được vì đang bị đau quá.” Hắn không nói gì cả mà đi ra và khóa cửa lại. Tôi liền lấy viên thuốc ra khỏi miệng và ngồi lên đi xúc miệng ở cái vòi nước. Tôi bỏ viên thuốc vào trong bồn cầu rồi tiểu lên đó và múc nước trong cái hồ nhỏ dội cho sạnh. Tôi đoán viên thuốc vừa rồi là viên thuốc ngủ nên tên phỉ kia phải nhìn tận mắt xem tôi có uống không. Tôi ôm cái mùng , nằm ngiêng rồi cố dỗ giấc ngủ. Đến đêm giấc ngủ cũng đến với tôi nhưng với nhiều mộng mị. Thỉnh thoảng tôi nghe bọn phỉ đi đến phòng giam và dừng lại. Có lẽ chúng đang nhìn vào trong qua cái ô cửa nhỏ. Chúng có vẻ yên tâm khi nhìn thấy tôi nằm yên không kêu la vì đau đớn. 25/2/1991 Bọn phỉ Phòng an ninh điều tra thành phố thấy sau mấy ngày mà tôi vẫn nằm chứ không ngồi lên ăn miếng cơm nào nên bọn chúng quyết định phải thả tôi ra. Sau đêm đầu tiên, mỗi lần khi đèn vừa lên là người đàn bà thường đem cơm cho tôi cầm cái ca nước và viên thuốc đến cho tôi. Chị nói: “Uống đi sẽ không bị hành đau.” Viên thuốc đó dĩ nhiên đã bị tôi bỏ vào trong toilet. Qua ngày thứ nhì, Mai Quốc Anh vào phòng giam chỉ hỏi tôi một câu: “Anh đi vượt biển ngày nào và năm nào?” Tôi trả lời: “Ngày 16 tháng 10 năm 1980.” Mai Quốc Anh hỏi chỉ một câu rồi bỏ đi làm cho tôi phải suy nghĩ nhiều.Tôi đoán, có lẽ bọn phỉ Phan Anh Minh đã đối chiếu ngày bà Xuyến bị bắt với ngày tôi đi và đang dọa nạt để bắt bà Xuyến phải lòi tiền ra. Phỉ Phan Anh Minh đã tạo ra một kịch bản để những người ký tên thưa tôi không những phải bãi nại, mà bà Xuyến cũng phải nhả tiền ra cho chúng. Bà Xuyến đã ký giấy thế chấp căn nhà lầu ở chợ Vườn Chuối gọi là tiền đóng phạt; vào quỹ của nhà nước. Trước tiên Phan Anh Minh cho mời những người đã ký tên thưa tôi cùng với bà Xuyến đến tụ tập trước sân Phòng an ninh điều tra vào khoảng ba giờ chiều. Tôi đang nằm trong phòng giam thì cửa mở và có hai tên công an vác băng ca vào phòng giam đặt tôi nằm lên rồi khiêng ra chiếc xe “đặc chủng” loại nhỏ, loại có cái thùng dài phía sau xe; nói là để chở tôi đến bệnh viện Nguyễn Văn Học Gia Định khám bệnh. Khi đặt cái băng ca có tôi nằm trên vào sau xe, tôi nhìn thấy rất rõ đám người ký tên cùng bà Xuyến đang đứng nhìn tôi với vẻ mặt ngạc nhiên xen lẫn vẻ ái ngại. Lúc đó tôi chưa hiểu vì sao mấy người đó lại đến đúng lúc tôi đi bệnh viện. Sau này tôi mới hiểu. Muốn những người ký tên thưa phải bãi nại. Muốn bà Xuyến lòi tiền gọi là đóng phạt thì, công an không thể khơi khơi thả người có đơn thưa mà cần tạo ra một lý do cho có vẻ chính danh. Người khám bệnh cho tôi tại bệnh viện Nguyễn Văn Học Gia Định là nữ bác sĩ người miền Nam, chưa đến bốn mươi tuổi, nhìn thật trí thức và đẹp. Vị nữ bác sĩ thấy tôi nằm trên băng ca mặt mày phờ phạc vì hơn hai ngày không ăn không cạo râu và không tắm rửa nên bà tưởng tôi là tên tội phạm ăn cắp ăn trộm hay hiếp dâm giết người … thuộc loại cặn bã và nguy hiểm. Vì vậy bà quay người qua hỏi tôi với vẻ không một chút có cảm tình: – “Anh bị đau gì? Nói đi!” Tôi nhìn thẳng ngay mắt của bà và từ tốn thưa: - “Kính thưa bác sĩ tôi bị đau xương sống hơn mười năm rồi. Tôi đang sống ở nước ngoài , vì hưởng ứng lời kêu gọi của nhà nước nên tôi trở về đây. Tôi không ngờ nhà nước này gạt tôi nên khi tôi trở về liền bắt tôi về những chuyện tôi đã làm trước kia mà tôi nghĩ đó là những việc làm bình thường. Xin bác sĩ vui lòng cho tôi mấy viên thuốc đau nhức vì cứ đêm đến là tôi bị hành đến không chịu được. Tôi bị đau đến không thể ăn cơm được.” Vị nữ bác sĩ nghe tôi từ nước ngoài trở về rồi bị nhà nước bắt chứ không phải là tên tội phạm nguy hiểm, không phải là cặn bã của xã hội nên bà quay qua nói với hai tên phỉ với vẻ mặt bất mãn: - “Tôi yêu cầu các anh phải để anh này nằm lại đây. Chúng tôi có đầy đủ máy móc và phương tiện để khám và chữa bệnh cho anh này.” Một tên có lẽ là trưởng nhóm liền lên tiếng: - “Để tôi đem anh này về rồi trình lãnh đạo quyết định chứ chúng tôi cũng chỉ được lệnh chở anh đến đây thôi.” – “Các anh phải làm ngay chứ không thể để trễ hơn được nữa.” Bà bác sĩ quay qua tôi rồi đặt một bàn tay của bà lên tay tôi. Bà trao cho tôi một cái nhìn như cảm thông với tình trạng của tôi. Tôi vui quá ! Tôi biết chắc là chỉ trong nay mai bọn phỉ phải thả tôi ra. 26/2/1991 Buổi sáng sớm hôm nay Mai Quốc Anh vào phòng giam hỏi tôi: - “Nếu anh được cho tại ngoại thì anh có thể tự mình đến bệnh viện khám được chứ?” Tôi mừng trong lòng quá. Như vậy là tôi sẽ ra khỏi đây trong ngày hôm nay: - “Tôi sẽ tự đi khám bệnh được khi tôi ra khỏi đây.” – “Anh cũng biết đó là … lãnh đạo và tôi … đặc biệt riêng cho anh như tôi đã nói với anh hôm nọ. Lát nữa đây anh sẽ được tại ngoại và tối ngày mai anh đem ba cây … anh đem chín triệu chín trăm ngàn đồng đến quán café ….. anh biết quán đó chứ?” Tôi khờ khạo nghĩ là chỉ tốn có ba cây vàng cho mấy tên phỉ này là xong thì … thí mẹ nó cho rồi. Còn biết bao công việc dở dang bên kia đang rất cần sự có mặt của mình. Tôi gật đầu xác nhận là biết quán café đó. Mai Quốc Anh đi ra nhưng lần này thì cửa phòng giam không khóa lại. Khoảng mười phút sau thì có hai tên công an vào giúp tôi thay bộ đồ tù và dìu tôi ra phòng ngoài gặp Phạm Cang. Phạm Cang đưa cho tôi tờ: “Quyết Định Thay Đổi Biện Pháp Ngăn Chặn” đồng thời cũng nói như hứa hẹn mọi sự sẽ tốt đẹp: - “Chúng tôi cho anh tại ngoại nhưng cần tờ giấy của bác sĩ xác nhận bệnh trạng của anh. Khi nào anh có anh đem đến đây để chúng tôi làm lệnh trả giấy tờ lại cho anh về.” Tôi đinh ninh như vậy là mấy tên cộng phỉ này đã giải quyết cho tôi rồi. Khi Phạm Cang nhìn thấy chiếc xích lô đang đẩy vào trong sân thì hắn nói thật nhỏ vừa đủ cho tôi nghe: - “Anh cũng hiểu là tôi đã giúp anh rất nhiều trong việc đề nghị không khám xét nơi anh tạm trú và đề nghị cho anh được tại ngoại. Khi nào anh cầm giấy chứng của bác sĩ đến, anh cho tôi xin một cây vàng.” Phạm Cang nhìn ngay tôi xem phản ứng. Tôi nghĩ nếu cho tên này một cây vàng thì … cũng được thôi. Mỗi tên một cây vàng. Chỉ có “thằng nhóc láu cá” Mai Quốc Anh là muốn hơn. Tôi gật đầu ưng thuận và Phạm Cang cùng một tên phỉ khác vừa đi đến dìu nách tôi ra xe xích lô. Trời Sàigòn buổi sáng hôm nay thật đẹp. Ngồi trên chiếc xích lô tôi hít thật mạnh cho không khí vào đầy hai lá phổi. Đây là lần thứ hai tôi có cảm giác được hít thở cái không khí mà tôi cho là tự do. Lần thứ nhất là khi chiếc ghe vượt biển thoát khỏi bãi cạn ở Vũng Tàu. Vì đường Bạch Đằng (Tôn Đức Thắng) vắng người nên chiếc xe xích lô chạy bon bon về hướng có tượng Đức Trần Hưng Đạo.Tôi quay đầu lại nói với anh xích lô cho tôi đến quán Brodard trên đường Tự Do. Có lẽ vì mới được tự do sau mấy ngày không thấy gì ngoài bốn bức tường, nên, tôi thấy Saigon xưa của tôi đẹp quá. Saigon vốn là thủ đô của miền Nam Việt Nam và rất đẹp nên từng được ngợi khen là Hòn Ngọc Viễn Đông. Chỉ từ khi bọn phỉ vào chiếm thì Saigon mới bị xác xơ nghèo nàn bệ rạc như hiện nay. Thời tiết sáng hôm nay cũng rất đẹp và mát mẻ. Tôi không cảm thấy một chút mặc cảm khi ngoại hình của tôi quá xá tệ. Râu mọc tua tủa và mặt mày thì xanh lè xanh lét như người ghiền nghiện thuốc phiện lâu ngày. Anh phu xích lô có lẽ nhìn thấy bộ đồ tôi đang mặc vẫn sạch sẽ và có phần sang trọng nên anh nghĩ tôi không phải là thứ cặn bã của xã hội mới được ra tù, nên khi tôi hỏi anh câu nào là anh đều dạ dạ rất lễ phép. Chỉ mới có mấy ngày ngắn ngủi sống trong tù, vậy mà tôi cứ tưởng mình như ngày mới được đến định cư nơi quê hương thứ hai. Cái gì nhìn cũng lạ và cũng thấy thật … dễ thương. Anh xích lô ngừng xe trước Brodard và vội vàng đi đến bên tôi định đỡ tôi vào quán. Tôi khoát tay ra dấu cho anh biết là tôi bước đi một mình được. - “Anh có muốn em chờ ở đây không? Chừng nào anh ăn xong em sẽ đưa anh về.” Tôi lắc đầu và trả tiền thật hậu hỷ. Những người chạy xích lô cũng có thể là những tên an ninh giả dạng. Không nên dây dưa lâu với họ. Tôi đi vào quán mà không quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng, tôi đoán anh xích lô … đang há hốc miệng và kinh ngạc nhìn theo tôi. Mới hồi nãy phải hai người dìu mà bây giờ thì … như người bình thường. Quán café Brodard nổi tiếng sang trọng ngày trước, thì hiện tại đang bay mùi chiên xào và mùi hành phi nữa. Tôi hít căng cả lồng ngực vì thèm ăn quá. Mấy ngày liền … tuyệt thực nên ngửi được mùi chiên xào là thèm ngay. Cũng may cho tôi là đã làm eo vào thời điểm này, chứ vào thời của cái gọi là mới “giải phóng” thì bọn phỉ này sẽ cho tôi chết đói và chết khát luôn. Ông nhà văn Nguyễn Mạnh Côn khi tuyên bố tuyệt thực liền bị bọn cai tù cho chết đói và chết khát đến chôn luôn. Không được uống một giọt nước cho đến chết … Tôi không thể hình dung ra được nỗi chịu đựng và đau đớn của nạn nhân sẽ thê thảm đến như thế nào. Đừng ai trách tôi sao lại thù bọn cộng phỉ dai và thù đến tận cùng xương tủy đến như vậy. Bọn cộng phỉ là loài ác thú chứ không phải con người. Ác thú thì phải bị tận diệt bằng đủ mọi cách. Tôi kêu ly café đá và tô hủ tiếu. Trong khi thưởng thức tô hủ tiếu và sự tự do, tôi cảm thấy đây là bữa ăn ngon tuyệt vời … thứ nhì trên đời. Lần thứ nhất là sau bảy ngày lênh đênh đói khát trên biển, rồi được một tàu cá của Thái Lan cho gạo và thức ăn sau khi bị chúng cướp đến te tua. 27/2/1991 Buổi sáng hôm nay tôi đến bệnh viện Chợ Rẫy. Tôi không đến bệnh viện Nguyễn Văn Học Gia Định vì tôi rất kính trọng vị nữ bác sĩ mà tôi đã được gặp gỡ trong đôi ba phút. Tôi sẽ không bao giờ quên được ánh mắt của bà khi nhìn tôi cũng như bàn tay mềm mại và những ngón tay tuyệt đẹp của bà đã đặt lên bàn tay của tôi như muốn truyền cho tôi sự thông cảm. Hình ảnh của bà sẽ mãi mãi ngự trong tim tôi. Tờ giấy chứng nhận bệnh trạng thì quá dễ rồi. Người phải bị sống trong nước Việt Nam cộng phỉ nếu ai có tiền thì mua tiên cũng còn được huống hồ chi ba cái giấy lẻ tẻ này. Tôi đã hậu hỉ cho vị bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy hai trăm ngàn (200.0000) trong khi giá tiền khám bệnh chỉ năm ngàn (5.000) và, bác sĩ liền ký giấy ngay cho tôi. Từ phòng khám bệnh đi ra cổng, tôi cứ nghĩ đến ngày tôi rời khỏi cái đất nước khổ nạn này mà trong lòng vui sướng quá. Ngày mai thứ năm, buổi sáng tôi sẽ đi gặp mấy tên phỉ để nhận lại giấy tờ rồi sau đó tôi sẽ đến ngay phòng vé máy bay. Hy vọng tôi sẽ có chuyến bay cùng ngày, nếu trễ thì ngày hôm sau cũng được. Và, thứ hai tuần tới tôi đã có thể tiếp tục những công việc đang chờ đợi tôi. Tôi đưa tay ngoắc chiếc xích lô đạp đang chạy tới. “Cho tôi về chợ Bà Chiểu.” Tôi đứng bên này đường, con đường ngày trước tên Chi Lăng nay đã bị thay tên Phan Đăng Lưu là ai mà tôi không hề biết. Tên Lưu này dĩ nhiên phải là tên cộng phỉ và phải có công trạng lớn lắm; phải giết hoặc ra lệnh giết thật nhiều đồng bào vô tội nên mới được chọn đặt cho con đường trước chợ Bà Chiểu. Đây là lần đầu tiên tôi đến chợ Bà Chiểu. Tôi đến đây vì muốn nhìn thấy nhà lao Gia Định xem nó ra làm sao, có rùng rợn lắm không. Mặt trước nhà lao cũng giống như các cơ quan của nhà cầm quyền. Nghĩa là cũng có lính gác cổng trang nghiêm chứ không có vẻ gì rùng rợn cả. Nhưng, qua các sách báo đã phổ biến thì bên trong vô cùng rùng rợn … sau ngày mất Sàigòn. Việt Nam sau ngày bị bọn phỉ chiếm đóng thì nhà tù mọc lên khắp nơi. Bọn cộng phỉ đã từng kịch liệt lên án nhà lao này lúc còn người Pháp cai trị; là tàn ác là dã man. Qua những người từng ở đây và đã tường thuật lại, tôi hiểu được được sự tàn bạo của bọn phỉ đối với đồng bào miền Nam gấp ngàn lần những gì mà bọn phỉ từng lên án. Nội việc nhà cầm quyền cộng phỉ gạt những người sĩ quan miền Nam đã chịu buông súng, nói là đi học tập muời ngày, một tháng, nhưng rồi bắt giam hết mà có nhiều người phải bị giam cả trên hai chục năm trời. Xem như những người tù đó bị mất toi một phần ba cuộc đời; nếu tính trung bình đời người Việt Nam thọ sáu mươi năm. Trong khi bị giam họ lại bị bắt buộc làm việc thật nặng nề trên núi cao hoặc trong rừng sâu nhiều hiểm nguy, nhưng lại không cho mặc đủ ấm và cho ăn thật ít lại luôn luôn khủng bố tinh thần. Đối xử với người cùng màu da và tiếng nói hết sức tàn ác, hết sức dã man, hết sức man rợ … bọn cộng phỉ Bắc Việt hơn hẳn các quốc gia trong khối cộng sản. Tôi đi bộ từ chợ Bà Chiểu theo hướng Lăng Ông cho đến khi nhìn thấy khách sạn tôi ở xuất hiện từ xa. Tôi đứng lại nhìn về khách sạn mà cho đến hôm nay cũng chỉ có tôi là người khách độc nhất. Nhớ lại hôm tôi ra khỏi trại tạm giam, anh Khương - tên người chủ khách sạn- cùng vợ đang ngồi nơi phòng khách thì thấy tôi từ ngoài đi vào với thân hình ốm nhom và râu ria mọc lởm chởm trên cái mặt xanh lè; đã làm cho cà hai anh chị nhảy dựng lên như dưới chỗ ngồi của hai người có gắn lò xo: - “Anh bị sao vậy? Anh đi đâu mấy ngày nay làm chúng tôi lo quá.” Tôi vừa thở như cố lấy hơi vừa trả lời vì đang làm ra vẻ còn mệt lắm: - “Tôi đến phòng xuất nhập cảnh thì tình cờ gặp lại mấy người bạn rồi đi chơi với họ. Không ngờ tôi bị tiêu chảy đến không làm sao cầm lại được. Nhưng hôm nay thì… khá rồi.” – “Anh cần bác sĩ đến khám không?” – “Không. Cám ơn anh chị nhiều. Chiều nay nhờ chị mua cho tôi tô cháo lòng với mấy cái bánh giò chéo quẩy, nha chị.” – “Mới bị … ăn như vậy sợ không tốt đâu. Để tôi nấu cháo thịt với nhiều hành ,tiêu và gừng ăn cho ấm bụng.” Tôi gật đầu và mỉm cười với người đàn bà thật hiền và thật dễ thương, rồi đi thẳng lên lầu. Tôi cần ngủ một giấc rồi sau đó tắm rửa và cạo râu. Ngày mai tôi sẽ đến bệnh viện xin giấy chứng bệnh rồi đi đổi tiền để tối đến đi gặp tên phỉ Mai Quốc Anh. 28/2/1991 Sáng hôm nay thứ năm, tôi cầm tờ chứng nhận của bác sĩ và hí ha hí hửng đi gặp tên Phạm Cang. Sau khi tôi đưa cho hắn tờ giấy chứng nhận của bác sĩ và ba triệu ba trăm ngàn đồng tiền Hồ thổ tả (3.300.000), thì được nghe Cang nói mà tôi thì cứ như người trong chuyện phim của Liên Xô thời mới mất miền Nam: “Năm người từ trên trời rơi xuống.” Tôi cũng như người từ trên trời rơi xuống khi nghe Cang từ tốn nói: - “Chúng tôi sẽ nộp ngay giấy này cho bên Viện kiểm sát trong buổi sáng hôm nay. Hy vọng họ sẽ giải quyết thật sớm cho anh” Tôi giật mình đến hoảng hốt và hỏi lại: - “Nghĩa là tôi vẫn chưa được nhận lại passport sao anh?” – “Chưa. Anh mới được tại ngoại thôi, còn phải chờ xem Viện kiểm sát quyết định là anh phải đóng phạt hay ra tòa thì khi đó anh mới được nhận lại passport.” Tôi muốn la lên thật lớn cho hả tức. Mới hai ngày trước “thằng khốn nạn” này còn quả quyết là tôi sẽ nhận lại giấy tờ, thế mà bây giờ … Bọn phỉ đã quay tôi giống như cái chong chóng. Tối hôm qua tôi đã … lỡ đưa cho tên Mai Quốc Anh gần mười triệu đồng vì tưởng là xong. Tôi nói với Phạm Cang giọng nói thật thiểu não: - “Tôi hết tiền rồi. Tôi đâu ngờ phải bị tốn kém nhiều vậy thì làm sao có tiền để đóng phạt.” Gương mặt của “thằng khốn nạn” vẫn trơ trơ và còn làm ra vẻ ban ơn cho tôi : - “Tôi sẽ giúp anh bằng cách ngay bây giờ chính tôi sẽ qua bên Viện kiểm sát nộp giấy này đồng thời tôi đề nghị cho anh được về sớm vì công việc bên kia đang cần anh. Khoảng … thứ hai đầu tuần anh đến gặp tôi, tôi sẽ cho anh biết kết quả.” Phạm Cang quay người đi nên tôi cũng lẳng lặng đi thẳng ra cổng và cũng không quay đầu nhìn lại phía sau. Trái tim tôi đau quặn thắt nên tôi thấy bầu trời như xám xịt lại. Lời nói của Phạm Cang tuy nhẹ nhàng nhưng như những mũi kim ghim vào trái tim làm bùng lên những cơn u uất và hận thù. Nỗi hận thù rồi như tâm bệnh sẽ theo tôi đến tận cùng cuộc đời. Làm sao tôi có thể tha thứ cho bọn người không bao giờ biết nói sự thật và chỉ muốn hãm hại người khác. Ba ngày cuối tuần tôi phải làm gì cho mau qua , để thứ hai tới tôi sẽ có mặt ở chỗ mà tôi ghê tởm này. Tôi chợt nhớ đến phòng tạm giam với những song sắt nhưng không một chút sợ hãi. Nếu mai này tôi thoát ra được nơi này, tôi sẽ tìm một tổ chức chống bọn phỉ và sẽ tham gia. Tôi sẽ cùng đồng bào đấu tranh với bọn cộng phỉ cho đến ngày toàn thắng. Từ 3C bến Bạch Đằng tôi định đi bộ về khách sạn, nhưng mới đi đến Thảo Cầm Viên thì chịu không nổi vì mồ hôi tuôn ra nhiều quá. Nếu không bị những chuyện buồn phiền thì tôi sẽ vào Thảo Cầm Viên xem các chuồng thú của Việt Nam ra sao. Tôi nghĩ các con thú ốm lắm vì người còn không đủ ăn thì làm sao chúng no được. Không chừng các con thú đã bị ăn thịt hết rồi cũng nên. Tôi lưỡng lự muốn vào xem nhưng trong lòng không thấy hứng thú nên ngoắc chiếc xích lô đạp đang đậu bên kia đường. Tôi không tin mình sẽ nhận lại được giấy tờ sớm. Lọt vào tay bọn người chuyên ăn dơ này thì chúng sẽ lột đến cái quần lót của mình để ăn rồi mới tha. Tôi sẽ đi đâu và làm gì trong ba ngày cuối tuần cho mau qua. Một tên bộ đội có gương mặt đầy thịt vừa đi ngang qua mặt tôi làm cho tôi nhớ đến tên Trưởng ban Quân báo Sáu Giàu . Phải rồi, sao mình không ghé qua chỗ nhà Sáu Giàu xem hắn bây giờ ra sao. Ghé ngang qua thôi chứ đừng gặp mặt. Cây súng K54 mà hắn đã đưa cho tôi cũng có thể là cái cớ … Biết đâu chừng. Tôi quyết định sáng ngày mai sẽ đi xem người sĩ quan Trưởng ban Quân Báo Quận 3 năm xưa bây giờ ra sao. Nếu thứ hai mà tôi vẫn chưa nhận lại được giấy tờ thì tôi phải nói cho anh Khương chủ khách sạn biết hết sự thật. Anh cần passport của tôi để trình cho Phường làm gia hạn tạm trú nên tôi không thể im lặng được nữa. Tôi bước nhanh lên lầu. Cô bé giúp việc cho vợ chồng anh Khương thoáng nhìn thấy tôi liền chạy lại tủ điện mở công tắc cho máy lạnh trong phòng tôi chuyển động. 1/3/1991 Ngồi trong quán café nhìn ra chỗ giữ xe đạp trong chợ Bàn Cờ, tôi thấy một người đàn ông già ăn mặc thật luộm thuộm; chân mang đôi giầy bata cũ mèm và rách. Thân hình ông thì ốm nhom nhưng miệng của ông luôn nở nụ cười khi thấy khách đến gởi xe. Người gởi xe sẽ được ông già trao cho tấm thẻ bằng nhôm hình trái xoan có đóng số nổi và được sơn màu đỏ, sau đó ông ghi số trên tấm thẻ mà ông vừa trao cho khách lên cái yên xe và dựng vào chỗ trống. Vì là buổi chợ sớm mai nên có đông người đi chợ vì vậy ông già rất bận rộn với công việc. Ông già giữ xe đạp đó chính là Sáu Giàu, là Trưởng ban Quân Báo oai phong và hùng dũng năm xưa mà ông và tôi đã có những ngày tuyệt vời bên nhau. Đó là thời gian sống đẹp nhất và vui nhất của tôi sau ngày mất miền Nam. Tôi khó quên được hình ảnh người bộ đội mập mạp ngày gặp tôi vốn thuộc giai cấp bần cố nông, xuất thân từ thằng bé chăn trâu rồi đi theo Việt Cộng lúc mười một tuổi. Với cái tuổi còn quá nhỏ mà lại không được đến trường, nên ông bị dụ dỗ cầm súng để giết hại đồng bào của ông. Vậy mà … mười một năm đã trôi qua rồi. Từng là tên sĩ quan có quyền hành, đồng thời cũng là người dẫn đầu đoàn xe chở người đi vượt biển. Và, bây giờ đây là ông già giữ xe đạp để kiếm từng đồng từng cắc cho vợ con có chén cơm ăn. Dù tôi có nhiều kỷ niệm cũng như cảm tình với ông, nhưng, tôi thừa hiểu chỉ nên thương hại ông thôi chứ không nên gặp lại ông. Bản chất gian xảo và lừa thầy phản bạn của bọn phỉ không bao giờ thay đổi. Ông người Tàu chủ quán “lẩu tay cầm” - là lẩu thập cẩm hầm với thuốc bắc được để trong cái nồi bằng đất nhỏ có tay cầm và được giữ nóng trên lò than nhỏ - không thể nhớ ra tôi, nhưng, tôi nói tôi là bạn của Sáu Giàu và ngày trước thường đến đây ăn “lẩu tay cầm”. Ông người Tàu vốn thực tế nên khi nghe tôi từng là thực khách quen thuộc và khen món lẩu rất ngon liền nói cho tôi nghe, đại khái là, “Đầu năm 1981 có một thời gian ông Sáu bị tù khoảng một năm. Sau khi được tự do thì bị sa thải khỏi quân đội. Một thời gian ngắn sau đó thì được cho giữ xe đạp ở chợ Bàn Cờ để kiếm sống.” Cuộc đời của Sáu Giàu xem ra buồn thảm quá. Có lẽ sẽ buồn thảm cho đến ngày ông từ giã cõi đời này, ngoại trừ bọn cộng phỉ bị đánh đổ lúc ông còn thở thì may ra cuộc sống của ông mới khá hơn được. Những gì tôi chứng kiến sáng hôm nay về Sáu Giàu, tôi hoàn toàn không mảy may xúc động. Nói cho cùng, ông có ăn thì phải có chịu. Lẽ công bằng là vậy. 4/3/1991 Đúng tám giờ ba mươi sáng hôm nay thứ hai, tôi đến gặp Phạm Cang như cuộc hẹn. Bây giờ tôi phải chấp nhận những gì mà bọn phỉ này muốn nơi tôi. Dù không chấp nhận cũng không được. Tôi đang sống sung sướng và tự do bên trời Âu thì phải trở về đây để rồi bị vùi dập bởi bọn người mà mình từng kinh tởm và khinh bỉ. Cuộc đời của tôi còn dài thì tôi vẫn còn cơ hội để trả lại những gì mà bọn phỉ đã hành xử tệ hại với tôi. Tôi có thể trốn thoát khỏi nơi đây bằng một lần vượt biển nữa vì Mỹ vẫn còn cấm vận bọn này. Nhưng, tôi thấy chưa cần thiết vì tôi vẫn còn điều kiện để tiếp tục ở lại đây. Một điều mà tôi chắc chắn là, bọn phỉ không bao giờ dám giam cầm tôi. Không bị giam cầm thì tôi vẫn có thể vượt biển qua Hồng Kông một khi bị dồn đến con đường cùng. Phạm Cang đi cùng một tên phỉ đến gặp tôi và giới thiệu: - “Anh đây là Thiếu úy bên Phòng phản gián. Anh Thiếu úy muốn gặp anh để trao đổi một vài tin tức về những người Việt ở Hà Lan.” Tên Thiếu úy bắt tay tôi: - “Chào anh … mình qua bên trụ sở … cũng gần đây nói chuyện cho được thoải mái anh … nhé.” Mấy tên phỉ mà tôi tiếp xúc cho đến nay, không ai muốn gọi tên tôi mà chỉ gọi anh rồi thôi. Khi mới đến mướn phòng khách sạn tôi cũng chỉ nói tên Tắc với anh chị chủ khách sạn; chứ làm sao mà nói tên Tắc-Kè cho được. Chỉ khi anh chị nhìn vào passport thì mới biết tên đầy đủ của tôi là Phạm Công Tắc-Kè. Tên Thiếu úy đi trước làm tôi phải đi theo mà không thể hỏi Phạm Cang công việc bên Viện kiểm sát tiến hay lùi đến đâu rồi. Nếu muốn hỏi thì cũng không biết hắn đâu nữa. Có lẽ hắn đã lánh mặt để khỏi phải trả lời tôi về những gì hắn đã hứa. Tên Thiếu úy đi xe Honda nên mời tôi lên ngồi phía sau. Xe chạy đến một tòa nhà lớn trên đường Trần Hưng Đạo thì quẹo vào. Như những cơ quan khác của nhà cầm quyền này, nơi đây canh gác cũng rất nghiêm ngặt với ba tên vệ binh trang bị vũ khí đầy mình. Đây là trụ sở phản gián của thành phố. Khi tôi vừa ngồi xuống ghế thì từ ngõ ngách nào đó xuất hiện một tên và, không cần hỏi han gì cả, hắn bấm máy chụp hình tôi lia lịa đủ mọi góc cạnh. Tôi định phản ứng thì bỗng như có tiếng nói bên tai tôi vang lên: “Cứ ngồi yên tại chỗ Tắc à. Mày phải biết là bọn chúng sẽ phản ứng ra sao để đánh giá về mày đấy.” Tôi ngồi im và còn ngẩng mặt lên nhìn ngay ống kính chứ không tránh né. Chụp xong thì có một tên khác đem đến cho tôi ly café đá. Trong khi tên Thiếu uý đi cùng tôi bắt đầu hỏi thì bốn năm tên khác đứng ngồi chung quanh nhìn tôi đồng thời chúng đặt máy thâu âm trước mặt tôi. Mở đầu, tên Thiếu úy nói: - “Chúng tôi rất vui mừng chào đón anh về thăm quê hương. Mặc dù anh đang có vấn đề với bên Phòng an ninh điểu tra, nhưng chuyện đó rồi cũng sẽ được giải quyết cho anh sớm thôi. Chúng tôi được Đại úy Phan Anh Minh giới thiệu, anh là người thông minh và hiểu biết, nên chúng tôi mời anh đến đây, xin anh cho chúng tôi biết về những đảng phái và những người đứng đầu các đảng phái đó; cũng như nguyện vọng và tâm tư của bà con mình bên đó. Đại loại như bà con mình nghĩ gì về sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa bên các nước Đông Âu. Chúng tôi rất mong anh cho biết sự thật. Việc anh được về sớm hay muộn là tùy thuộc vào những điều mà anh sẽ cho chúng tôi biết. Chúng tôi hứa sẽ tạo điều kiện để anh được giải quyết sớm với bên Phòng an ninh điều tra.” Vẫn là những luận điệu vừa vuốt ve vừa dọa nạt. Vừa cho kẹo vừa chưởi. Nếu bây giờ tôi … dựng chuyện ra để nói thì sẽ bị sơ hở ngay. Nếu tôi nói tôi không biết không nghe gì cả thì tôi sợ bọn hèn hạ này trả thù. Tôi đã có cách. Tôi nói : - “Chuyện này rất dài dòng nên cần phải có thời gian. Một hai ngày nữa khi tôi khỏe tôi sẽ viết rõ ràng ra trên giấy trắng mực đen để các anh tường tận. Hiện tại tôi không thể ngồi lâu được. Có lẽ các anh cũng biết là tôi đang bị bệnh, hơn nữa đầu óc của tôi đang quá căng thẳng về chuyện rắc rối với bên Phòng an ninh điều tra. Tôi không thể nói điều gì ra đây ngay bây giờ với các anh được.” Tên Thiếu uý có thừa khôn ngoan và kinh nghiệm nên hắn làm vẻ mặt thật vui và cười thật tươi: - “Được anh hứa giúp như vậy thì anh em chúng tôi yên tâm lắm. Từ nay chúng ta sẽ thường xuyên liên lạc gặp gỡ để trao đổi với nhau. Bây giờ anh mệt thì anh cứ về nghỉ. Khi nào anh viết xong thì xin anh đem đến đây và anh em mình sẽ gặp lại nhau. Anh … có cần chúng tôi đưa về không vì sẵn có xe đây ...” – “Cám ơn anh. Tôi muốn đi xích lô. Tôi muốn ngắm cảnh … nhiều nơi nữa.” – “Anh uống café đá cho mát chút đã.” Tôi nhìn ly café đá và đứng lên chứ không uống. Tên Thiếu úy đi với tôi ra cổng và đón xe cho tôi. Ai mà ngờ được, biên bản lời khai hôm nào tôi viết … Sau đó Phan Anh Minh đi vào phòng nhìn tôi rồi đi ra mà tôi tưởng hắn chỉ muốn nhìn xem con mồi là tôi như thế nào. Bây giờ tôi biết tôi sẽ còn ở lại đây ít ra cũng phải đôi ba tuần lễ hay cả tháng nữa không chừng. Tôi sợ bị bọn phỉ làm tiền mà không biết kiếm ở đâu ra. Tôi đem về đây cũng khá nhiều tiền mà mục đích là để chữa trị bệnh cho Mẹ Hai. Nếu như sau đó Mẹ Hai mất thì tôi sẽ lo đám táng thật chu toàn. Tôi đã từng nghĩ sẽ xây cho Mẹ Hai cái mộ thật lớn và thật đẹp. Tiền tuy nhiều nhưng cứ ngồi không ăn hoài thì đến núi còn phải lở; đằng này còn phải chung chi cho bọn phỉ mà chưa biết là bao nhiêu mới vừa mới đủ. Tôi quyết định về khách sạn ngay bây giờ thay vì đi ngồi quán. Về đến khách sạn tôi gặp anh Khương đang đứng tưới nước mấy chậu kiểng: - “Anh Khương ơi, anh lên phòng cho tôi nói chuyện một chút nha.” Anh Khương có lẽ nhìn thấy cái mặt của tôi … không giống ai, nên anh hỏi trong khi cái vòi nước bị chệch sang bên và chĩa vào cái máy phát điện: - “Có chuyện gì gấp không anh?” Tôi gật đầu và bước đi thẳng lên lầu. Anh Khương đi đến khóa vòi nước , bước thật nhanh theo tôi. Vừa vào đến trong phòng anh đã hỏi tôi dồn dập vì có lẽ anh cũng đã cảm nhận được là tôi đang gặp chuyện không vui. Tôi kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Tôi phải kể cho anh nghe để anh giúp tôi trong vấn đề tạm trú mà tôi thì đang trong tình trạng được tại ngoại nên passport vẫn còn bị giữ. Anh Khương ngạc nhiên quá nên cứ hả cái miệng ra khi tôi đang nói. Có lẽ anh không ngờ mấy ngày qua tôi lại bị tạm giam. Anh hỏi: - “Theo anh thì … anh định tính như thế nào?” – “Tôi sẽ viết tờ trình cho phòng phản gián ngay hôm nay. Ngày mai tôi đến đó nộp cho họ rồi ghé qua Phòng an ninh điều tra gặp Phạm Cang xem sự thể ra sao.” - “Anh cứ làm như vậy đi. Còn việc công an khu vực ở đây … để tôi lo. Chuyện này anh đừng ngại. Một hai chầu nhậu là xong ngay. À, anh đừng nói cho vợ tôi biết chuyện này nghe. Đàn bà … không kín đáo như tụi mình.” Tôi như người đang bị trôi trên biển lâu ngày. Bỗng thấy một cái thùng bằng nhựa cũng đang trôi trên biển và trong thùng lại có chứa nước ngọt nữa. Cái thùng có nước đó đã làm cho tôi tạm quên những gì đã và đang xảy ra. Tôi tạm quên Phạm Cang. Tôi tạm quên Mai Quốc Anh. Tôi tạm quên tên Thiếu úy bên Phòng phản gián. Tôi nằm ngửa ra giường , nhắm mắt lại. Tôi muốn ngủ một chút cho tinh thần tỉnh táo lại vì cái đầu của tôi bị căng quá làm cho nhức. Anh Khương đóng nhẹ cửa lại và bước đi xuống lầu. 5/3/1991 Tôi đã viết xong “Bản tường trình” về các đảng phái cùng “tâm tư” của bà con “Việt kiều” bên Vương Quốc Hòa Lan mà tôi đang sinh sống. Đây là bản tường trình bá láp mà người đọc nó sẽ… chửi ầm lên, hoặc chửi thầm. Tên của mỗi vị chủ tịch đảng tôi đều lấy tên của mỗi quốc gia mà đặt cho để dễ nhớ. Thí dụ ông Lê Văn Mỹ là Chủ tịch đảng Dân Chủ. Ông Trần Văn Pháp là Chủ tịch đảng Vì Dân. Ông Nguyễn Văn Nga… vân vân. Còn “tâm tư” của bà con là: Vì bà con thiếu thông tin nên chưa hiểu rõ mà vì vậy đã tỏ ra rất vui mừng về sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu … “Bản tường trình” này tôi viết khá dài và đã học thuộc lòng nên dù có phải bị yêu cầu viết lại nhiều lần tôi cũng sẽ viết đúng đến chín mươi chín phẩy chín mươi chín phần một trăm. Cũng vì nôn nóng cho mau thoát khỏi địa ngục Việt Nam nên tôi phải viết để làm vừa lòng họ. Cũng may là tôi còn khôn ngoan để không phải bị hổ thẹn với lương tâm. Tôi đến cổng Phòng phản gián và nhờ mấy người lính gác cửa cầm “Bản tường trình” vào cho tên Thiếu úy. Tôi không muốn gặp mặt hắn vì tôi đã hình dung ra khuôn mặt của hắn khi đọc “Bản tường trình.” Tôi đi qua Phòng an ninh điều tra thành phố xin gặp Phạm Cang. Trong hoàn cảnh thê lương này, tôi chỉ mong Phạm Cang có một lần thành thật , cho tôi biết về tình trạng của tôi, là đủ. Chỉ cần biết đúng sự thật là tôi sẽ tính được tôi sẽ làm gì. Tiếc thay, đã là phỉ thì phải hành xử đúng như phỉ. Nếu hành xử khác đi thì chính tên phỉ đó sẽ bị đồng bọn thanh trừng. Tôi đang nhớ căn nhà và cái vườn của tôi quá. Nhớ quá nên tôi cũng có nói với anh Khương là tôi muốn vượt biển vì bọn phỉ chưa được các nước cho bang giao. Anh Khương khuyên tôi: -“Kiếm một chiếc ghe thì không khó nếu mình có tiền. Nhưng, tôi khuyên anh Tắc hãy kiên nhẫn vì bọn này chỉ muốn tiền thôi nhưng còn ngại nói ra. Tôi tin là chỉ trong thời gian ngắn bọn này sẽ nói ra số tiền và rồi anh sẽ được nhận lại giấy tờ.” Phạm Cang để tôi chờ cũng cả tiếng đồng hồ mói ló mặt đến. Hắn làm như đến để báo tin vui cho tôi nên miệng cứ cười tươi như hoa nở: - “Rồi. Lãnh đạo quyết định là, thứ hai ngày 18 tháng 3 lúc tám giờ sáng anh đem tiền nộp phạt là, mười ba triệu hai trăm tám chục ngàn đồng (13.280.000). Số tiền này tương đương với bốn cây vàng…” - “Sao lâu quá vậy? Còn đến… hai tuần nữa…” Phỉ Phạm Cang mỉm nụ cười đầy vẻ đểu cáng. Hắn nói: - “Thì hôm nọ anh nói là anh không đem nhiều tiền về nên lãnh đạo để anh thư thả lo chạy vay mượn… người nào đó mà anh quen.” Giọng Phạm Cang vang vang như tôi chẳng có gì phải lo lắng trên cõi đời này. Tôi luôn chú ý và lắng nghe từng lời hắn nói để không bị dính bẫy. Hắn vừa nói người nào đó mà tôi quen; đó cũng là cái bẫy chứ không phải là câu nói tình cờ. Số tiền hơn mười ba triệu thì tôi đang có sẵn. Nhưng, lại phải đóng kịch chứ không thể nói đang có sẵn tiền. 18/3/1991 Tôi ôm bọc tiền trước ngực. Bọc tiền hơn mười ba triệu đồng được tôi cột dây thun và để trong bao nylon. Tôi đi đến Phòng an ninh điều tra thành phố cũng bằng xe xích lô. Khoảng mười ngày qua tôi thấy có mấy người lạ mặt đến đứng bên kia đường nhìn qua khách sạn. Thoạt tiên tôi đơn thuần nghĩ những người đứng đó chỉ là tình cờ, nhưng khi thấy họ đứng đó lâu hằng mấy tiếng đồng hồ thì tôi nghĩ đó là những nhân viên của Phòng phản gián muốn xem tôi đi những đâu và gặp những ai. Tôi phải xuất hiện để cho họ yên tâm là tôi không liên lạc với ai cả. Tôi ra khỏi khách sạn và đi bộ đến chợ Bà Chiểu. Mấy người đó đi theo tôi và khi nhìn thấy tôi vào trong quán café bên cạnh rạp hát Cao Đồng Hưng thì họ cũng đi vào. Từ đó tôi vẫn thỉnh thoảng nhìn thấy những người lạ đứng bên kia đường nhìn qua khách sạn. Tên Thiếu úy Phòng Phản Gián cũng không liên lạc với tôi. Đọc “Bản tường trình” của tôi viết rồi thì gặp tôi cũng chỉ sẽ nhận được những bản tường trình bá láp tiếp theo thôi. Tôi đánh giá cao công việc và trình độ của viên Thíếu úy vì vậy tôi trở nên lỳ lợm và cảm thấy không sợ. Chỉ vì muốn sớm ra khỏi nước Việt Nam nên tôi hay sợ điều này điều nọ. Dáng vẻ bên ngoài của tôi nhìn cũng sáng sủa, cũng có vẻ trí thức và hiền. Nhưng, thế giới nội tại của tôi đang nổi lên sự chống đối mạnh mẽ hơn bất kỳ lúc nào. Tôi tưởng tượng tôi đang là chiến sĩ phục quốc mà chẳng may nên phải trải qua những khổ nạn của hiện tại vì là người được lựa chọn để thi hành một công việc quan trọng đang chờ mà cho đến nay tôi chưa được biết rõ; hay chưa có thể hình dung ra được. Từ những ngày đầu tiên mất nước tôi không hề có ý nghĩ chống lại bọn người này, nhưng những con người của chế độ này cứ đẩy tôi đi đến con đường phải chống đối chúng. Tôi đang đứng trước cổng Phòng an ninh điều tra và xin gặp Phạm Cang. Phạm Cang hôm nay lại vui cười nhiều và điều đó làm cho tôi lo lắng thêm. Tiếp xúc với hắn nhiều lần tôi đã biết nhìn thái độ của hắn mà đoán được việc sắp đến. - “Đây là số tiền mười ba triệu hai trăm tám chục ngàn. Anh kiểm lại đi.” Phạm Cang vẫn vui vẫn cười khi đón bọc tiền và liền đếm ngay tại bàn. Tôi ngồi gác chân trái lên chân phải nhìn hắn đếm tiền. Từ hôm đầu tiên bị đưa vào đây tôi vẫn có cách ngồi như vậy. Tôi vẫn giữ cung cách này. Đó là cung cách đầy kiêu hãnh và thách thức của tôi. Có đôi lần tôi nhìn thấy ánh mắt của mấy tên này nhìn vào chân tôi khi thấy tôi ngồi kiểu như không một chút tỏ ra nể nang hay sợ sệt. Khi tôi ngồi “làm việc” với bọn phỉ này thì tôi luôn ngồi sát cạnh bàn chứ không như những người khác phải ngồi cách xa cái bàn khoảng đôi ba thước. Phạm Cang đứng lên và cầm bọc tiền đi ra khỏi phòng khi đã đếm xong. Tôi vẫn ngồi tại chỗ. Dăm ba phút sau Cang trở lại nói tôi ký vào tờ: -“Biên bản thu giữ đồ vật, tài sản.” Nội dung biên bản viết tay: “Về những đồ vật, tài sản đem nộp là vì: Theo yêu cầu của cơ quan điều tra, tôi xin nộp lại số tiền đã được hưởng trong việc tổ chức người khác trốn ra nước ngoài.” Sau khi tôi đã ký tên, Phạm Cang nói: - “Bây giờ anh đi ngay qua bên Viện kiểm sát thành phố và đưa cho họ tờ biên bản này. Anh đi ngay đi.” Tôi nhìn vào đồng hồ tay. Bây giờ là mười giờ năm phút. Tôi đi nhanh ra cổng đón xe. Hai mươi phút sau tôi đã có mặt tại văn phòng Viện kiểm sát thành phố, tức Pháp Đình Saigon khi trước.Trong khi ngồi chờ người đến tiếp tôi, tôi đọc lại tờ biên bản mà trong lòng có chút lo âu. Tôi không tin bọn phỉ này nên tôi cứ nghi ngờ. Có điều gì khác thường trong tờ biên bản này không? Tôi cố tìm nhưng không thể biết được. Lời lẽ xem ra chẳng có gì bí ẩn. Tôi nghĩ, không dễ dàng được nhận lại giấy tờ ngày hôm nay. Mỗi lần tên phỉ Phạm Cang “ra đòn” là mỗi lần hắn làm vẻ mặt vui tươi như… chuyện không có gì mà ầm ĩ. Tôi linh cảm là mình lại bị gạt, nhưng, gạt như thế nào thì tôi đành chịu vì không thể đoán biết được. Tấm màn mỏng treo nơi cửa sổ phòng bỗng lay động mạnh nhưng không phải vì gió. Căn phòng nằm trong dãy nhà có những căn phòng khác bao quanh và nếu có gió thì những tấm màn kia phải lay động trước khi tấm màn phòng chỗ tôi ngồi lay động. Không một ngọn gió nào thổi tới đây được, ngoại trừ nếu mở quạt máy trên trần nhà. Nhưng, hiện các cánh quạt vẫn bất động. Đây là sự chuyển động không phải vì gió, tôi chắc chắn như vậy. Tôi nghĩ mình bị căng thẳng quá nên thấy vậy chứ làm gì có chuyện “lạ” xảy ra giữa ban ngày. Tôi định đứng lên đi tìm cho ra lẽ điều mình nghi ngờ thì một người đàn ông đi vào phòng và gật đầu chào tôi. - “Thưa ông tôi vừa từ bên cơ quan điều tra 3C Tôn Đức Thắng đến đây. Bên đó nói tôi đến trình tờ biên bản này cho Viện kiểm sát thành phố.” Người đàn ông tuổi trung niên đón nhận tờ giấy và chăm chú đọc. Một lúc thật lâu sau, ông ngẩng mặt lên nhìn tôi và nói: - “Được rồi, tôi sẽ chuyển lên cho lãnh đạơ rồi sẽ thông báo đến anh sau.” – “Xin ông vui lòng cho tôi biết khi nào thì tôi nhận lại được giấy tờ?” – “Chúng tôi không giữ bất cứ giấy tờ nào của anh cả. Chúng tôi chờ nhận kết luận điều tra bên 3C Tôn Đức Thắng rồi mới quyết định ngày xử.” Nghe ông này nói mà tôi cứ tưởng mình như người … từ trên trời rơi xuống. Bước chân đi ra cổng mà tôi cứ như người say rượu nên bước chân đi không vững. Tôi không biết bây giờ mình phải gặp ai hay gặp cơ quan nào. Tôi như trái banh nên cứ bị đá qua đá lại mà chưa “được” lọt lưới. Vừa về đến khách sạn, tôi liền gọi phôn cho Phạm Cang. Tôi phải gọi cho Phạm Cang vì hắn là Trung úy Đội trưởng đội xét hỏi. Còn Mai Quốc Anh là Thiếu úy cán bộ xét hỏi. Tôi kể lại chuyện tôi đến Viện kiểm sát. Nghe xong Phạm Cang nói như vui lắm: - “Như vậy là hay lắm. Chúng tôi sẽ gởi bản đề nghị miễn truy tố anh qua bên đó vì anh đã giao nộp một phần tiền bên này rồi. Khi nào có tin thì tôi sẽ gởi giấy báo đến chỗ anh tạm trú. Hoặc, lâu lâu anh gọi phôn lại đây hỏi kết quả nhé.” Phạm Cang gác điện thoại mà không cho tôi hỏi thêm câu nào. Phải chờ thôi chứ không biết phải làm gì hơn được. Tôi nằm ngửa ra giường và nhắm mắt lại. Tôi vừa nhắm mắt thì như thấy tấm màn trong phòng Viện kiểm sát lay động. Cái màn rung rinh gợn nếp không phải vì gió mà vì… sóng gió vẫn còn đến với tôi vì đó là điềm báo đặc biệt chỉ cho tôi biết. Tư tưởng của tôi trở nên hỗn loạn. Nếu muốn ghi lại hình ảnh chính xác của cái màn thì trước tiên phải là màu. Cái màn màu đỏ được treo trong Viện kiểm sát là ngụ ý những ai không chấp nhận xã hội chủ nghĩa thì chính nơi đây sẽ trừng phạt bằng những bản án tù đầy và chết chóc. Những người chiến sĩ quả cảm của miền Nam đã trở về phục quốc và đã bị tù và bị xử tử hình… bởi chính những con người từ nơi này. 8/4/1991 Sáng hôm nay thứ hai đầu tuần, lúc chín giờ sáng tôi có mặt tại Phòng điều tra gặp Phạm Cang theo lời mời từ chiều thứ sáu tuần rồi. Gặp Phạm Cang sáng hôm nay tôi cảm thấy sờ sợ nhưng tôi không biết tôi sợ gì. Tôi đang trực diện với tình cảnh quá tối đen nên tôi sợ. Vào lúc ấy hình ảnh tôi ngày nào sáng sáng phải đi bộ đến Vương Cung Thành Đường khi mặt trời chưa lên … Tôi liền chợt tỉnh và cầu nguyện. Tôi cầu nguyện vì tôi biết rõ là tôi đang bị hại nên cần đấng tối cao giúp thêm sức chịu đựng. Cầu nguyện xong thì lòng tôi tràn ngập vui sướng. Niềm vui đó đã cho tôi một sức mạnh vì tôi vô tội và đây chỉ là sự thử thách. Mặc khác, nếu tôi là người xấu xa thì tôi đã không còn ngồi đây, vào sáng hôm nay. Phạm Cang cũng với gương mặt làm như đang có chuyện vui cho tôi. “Lại có chuyện nữa rồi.” Tôi thầm nhủ vậy nhưng tôi đã khéo léo làm ra vẻ đang sống trong một trạng thái rất bình an và rất vui. Nếu tôi có làm ra vẻ sầu khổ thì bọn này, nếu muốn giết tôi thì chúng vẫn sẵn sàng giết chứ không bao giờ biết động lòng thương xót. Hai chữ từ bi hoàn toàn không có trong tự điển của bọn phỉ. Tôi phải giả vờ với chính mình vì, thật ra tôi vô tội mà. Phạm Cang rõ ràng đã khó khăn khi phải nói ra một điều trong khi thấy thái độ của tôi... bình thường: - “Lãnh đạo đã quyết định phải giải quyết cho anh. Đây là quyết định cuối cùng để anh được về bên kia làm ăn chứ không thể kéo dài mãi được. Anh phải đóng phạt một số tiền là, mười chín triệu tám trăm ngàn (19.800.0000) số tiền này tương đương với sáu lạng vàng. Thôi, anh cố gắng một lần cuối … cho xong.” – “Khi nào thì tôi phải đóng số tiền đó?” – “Trong tuần này hay đầu tuần tới … tùy anh.” – “Tôi sẽ cố gắng và tôi sẽ phôn gặp anh nếu tôi kiếm đủ tiền.” Tôi chào Phạm Cang và ra về. Tôi không có điều gì phải nói thêm nữa. Tôi tin lần này là lần cuối và bọn chúng sẽ không còn có cớ nào để bắt tôi phải đóng thêm được nữa. Sau lần này mà tôi vẫn còn bị làm tiền thì chính anh Khương sẽ giúp tôi. Anh có người bạn có chiếc ghe chở hàng từ Saigon ra Vũng Tàu. Thứ hai ngày 15/4/1991 tôi đến gặp Phạm cang và nộp đủ mười chín triệu tám trăm ngàn đồng. Phạm Cang nói sẽ gọi phôn đến khách sạn cho tôi biết ngày nào thì đến nhận lại giấy tờ. 23/4/1991 Anh Khương nhìn thấy mặt mũi của tôi bơ phờ nên anh liền đi theo lên phòng mà không hỏi han gì cả. Tôi vừa đi gọi phôn cho Phạm Cang về. Sau khi anh và tôi vào hẳn trong phòng, tôi nói: - “Tám ngày trôi qua rồi kể từ khi tôi nộp tiền lần cuối. Họ hứa sẽ giải quyết cho tôi trước ngày nghỉ lễ 30 tháng tư. Bây giờ họ nói phải qua lễ chứ không thể sớm hơn được vì chỉ còn một tuần nữa nên các cơ quan đều bận rộn trong việc chuẩn bị. Anh Khương có nghĩ là họ cố tình kéo dài để làm tiền tôi thêm một lần nữa không? Thật sự thì tôi cũng còn tiền nhưng nếu đưa ra nữa thì sẽ vẫn bị làm tiền tiếp.” - “Người bạn có chiếc ghe chở hàng chưa về lại Saigon. Từ nay anh đừng lòi ra cho bọn chúng một đồng nào nữa. Trong khi chờ đợi thì tôi phải nhờ … người bạn khác của tôi may ra người này có thể giúp ý kiến cho anh. Người này hiện làm Phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. Anh ấy ngày trước có thời gian cùng học luật với tôi. Anh ấy là nhà báo thì may ra anh ấy có thể có ý kiến hay giúp được anh. Anh ấy tên là Huỳnh Sơn Phước. Tôi sẽ điện thoại cho anh ấy ngay bây giờ. Nếu anh ấy chịu tiếp anh thì tôi hẹn cho anh gặp tối nay tại nhà hàng Vy trên đường Ký Con. Anh cũng cần gặp qua anh ấy trước khi cho ảnh đến đây.” Anh Khương đi ra đến cửa phòng thì đứng lại rồi tiết lộ cho tôi biết chủ nhân của nhà hàng Vy mà tôi sẽ gặp nhà báo Huỳnh Sơn Phước. - “Chủ nhà hàng Vy là con trai ông Huỳnh Văn Trọng, người điệp viên trong vai cố vấn trong Phủ Đầu Rồng… Anh Tắc có biết về chuyện đó không?” – “Có anh. Tôi có đọc… sơ qua từ lâu lắm rồi.” Anh Khương mở cửa và đi ra. Anh sốt sắng lo cho tôi như người anh ruột lo cho em vậy. Anh Khương đi rồi tôi liền nằm ngửa ra giường mà đầu óc cứ quay cuồng với những ý nghĩ không đầu không đuôi. Phan Anh Minh - Phạm Cang - Mai Quốc Anh, tôi sẽ không bao giờ quên ba người này trong cuộc đời. Tay chân tôi run rẩy và trán tôi ướt đẫm mồ hôi mặc dù máy lạnh đang mở số mạnh nhất. Tôi chắp tay cầu nguyện: -“Cho đến hôm nay con chịu đựng hết nỗi rồi. Xin Đức Mẹ hãy che chở và cho con thêm sức mạnh để chịu đựng chờ khi qua khỏi.” Tim tôi bỗng chốc đã đập lại như bình thường và, cuối cùng thì sự lo lắng cũng tan biến dần đi. Có tiếng anh Khương gõ cửa. Tôi ngồi bật lên và đi nhanh đến mở cửa phòng. <br><br> - “Rồi, tôi hẹn cho anh tối nay sáu giờ. Tôi nói tôi có người bạn là Việt kiều muốn gặp anh. Tôi hy vọng, tôi tin là anh ấy sẽ giúp được cho anh.” <br><br> – “Anh Phước có đặc điểm gì đặc biệt để nhận biết không anh Khương?” – “Dáng người mập và không cao lắm. Anh ấy là dân Hội An nên nói có hơi … nặng chút chút thôi.” – “Anh Khương cho tôi xin ly cam vắt không đường và ly café đá nha anh.” – “Bà xã tôi có nấu canh chua cá bông lau ăn với bún ngon lắm. Khi nào anh muốn ăn thì cho tôi biết nha.” Đường Ký Con là con đường đẹp giữa trung tâm thành phố Sàigòn, có nhiều dãy nhà người Hoa. Con đường này từng có khu ăn chơi nổi tiếng tên Kim Chung. Khi tôi đến đây lần đầu năm 1978 để mua bán quần áo cũ, thì người dân gọi là Khu Dân Sinh. Nhưng, nhà nước phỉ thì gọi, Chợ Dân Sinh. Cho đến ngày hôm nay, năm 1991 khi tôi trở lại tôi vẫn nghe người dân gọi Khu Dân Sinh; cũng như vẫn gọi Saigon chứ có ai gọi tên kẻ tội đồ dâm tặc Hồ Chí Minh đâu. <br><br> Nhà hàng Vy tọa lạc trên đường Ký Con cách đại lộ Trần Hưng Đạo khoảng năm chục thước, nên được xem như là địa điểm… đắc địa. Tuy nhà hàng tọa lạc ở địa điểm thuận lợi nhưng nhà hàng lại không có vẻ sang trọng. Nhà hàng có hai tầng, bề ngang rộng khoảng năm thước. Cách sắp đặt bàn ghế và trang trí không có gì gọi là bắt mắt cả. <br><br> Những cái bàn bằng cây hình chữ nhật và cao, khăn trải bàn màu xanh và hai bên tường có treo mấy cái đèn kiểu nhưng sáng quá nên chẳng có một chút nào gọi là tình tứ gọi là lãng mạn nếu như đi ăn với người đẹp. Anh Khương có đưa cho tôi tờ báo Tuổi Trẻ đăng nhà hàng này trong trang quảng cáo đại khái như “Nhà hàng chuyên bán các món ăn Việt Nam “đặc sản” nổi tiếng và chỗ ngồi thật hữu tình.” Hiện tôi nhìn thấy có bốn người khách ngồi uống nước và đang nói chuyện như chờ thức ăn sẽ được đem ra. <br><br> Ông chủ nhà hàng còn trẻ và dáng người cao lớn, cộng với bộ râu mép đẹp… trông như tài tử xi nê. Nhìn ông tôi nhớ đến các tài tử Hồng Kông đóng phim trong các sòng bài mà tôi đã xem qua. Qua anh Khương, tôi được biết thời gian gần đây ông đã trả lại thẻ đảng. Tại sao trả lại thẻ đảng thì anh Khương không biết. Ông Vy (tôi tạm gọi vậy) có “âm mưu” gì không mà trả lại thẻ đảng trong khi đảng của ông vẫn còn là đảng khủng bố độc nhất và đang hy vọng được Mỹ bỏ cấm vận? Đảng phỉ là trùm mưu mô quỷ quyệt và gian xảo nên mọi hành động của các đảng viên, tôi đều phải luôn đặt dấu hỏi. <br><br> Lỡ hẹn anh Phước đến đây chứ không thì tôi đã đi nơi khác. <br><br> - “Tôi ngồi đây chờ một người bạn sẽ đến trong giây lát.” <br><br> Tôi chỉ vào cái bàn ngoài cùng và nói với ông chủ nhà hàng khi ông ra tận cửa đón tôi. Nghe tôi nói chờ bạn nên ông đi trở lại vào sau quầy rượu. Ba mươi giây sau ông cầm một ly rượu mạnh đến mời tôi. Tôi gật đầu tỏ ý cám ơn chứ không lên tiếng. Bỗng ông hỏi: <br><br> - “Anh ở nước ngoài về thăm nhà?” <br><br> Tôi thoáng giật mình, nhưng ông đã nói tiếp: <br><br> - “Người trong nước không ai mặc áo mà cài nút đến sát cổ như anh, ngoại trừ có thắt cà vạt.” <br><br> Ông chủ nhà hàng mỉm cười có vẻ đắc ý với câu nhận xét mà ông cho là tinh tế? Tôi chỉ nhìn ông chứ không nói. Tôi nghĩ, “Cha nội này biết mình ở nước ngoài về nên muốn làm quen… để tìm hiểu rồi báo cáo? Mình không nên trò chuyện nhiều. Chẳng có lợi gì cả mà chỉ có hại thêm thôi. Tất cả bọn phỉ không chừa một ai, bản tính ti tiện nên sẽ “méc” một khi nghe mình hay người nào đó sơ ý chửi lãnh đạo và chửi chế độ.” <br><br> Ông chủ nhà hàng Vy thấy tôi không mấy hứng thú chuyện trò nên ông nói trước khi ông đi đến ngồi sau quầy rượu: <br><br> - “Khi nào bạn anh đến thì mời anh và bạn anh lên lầu. Trên ấy có vườn hoa và rất mát.” <br><br> Một người đàn ông “mập và không cao lắm” đến bằng xe hai bánh màu đỏ hiệu Honda. Anh nhìn tôi và tôi nhìn anh là cả hai nhận ra ngay người mình đang chờ và người mình sẽ gặp. Chúng tôi bắt tay nhau rồi cùng đi theo sau một người phục vụ trẻ hướng dẫn đi lên lầu. Chúng tôi chọn cái bàn đặt sát ban công và trong góc. Sân vườn đẹp và khung cảnh thật hữu tình như đã quảng cáo. Tiếp người mới quen và có chức vị tại đây rất đúng ý tôi. Bà chủ nhà hàng Vy còn trẻ lắm và rất đẹp. <br><br> Bà có tướng sang trọng của mệnh phụ phu nhân trong chiếc áo đầm trắng có điểm những chấm đen lớn. Bà đến bàn của chúng tôi với nụ cười chào thật tươi. <br><br> - “Chị… cho những món nào mà chị thấy cần giới thiệu vì tôi mới đến lần đầu.” <br><br> Tôi không nói chúng tôi vì tôi không biết anh Phước đã đến đây lần nào chưa. <br><br> - “Em dọn trước cho hai anh món gỏi đặc biệt chỉ nhà hàng em mới có, để hai uống… Hai anh uống gì?” <br><br> Tôi quay nhìn anh Phước. Tôi muốn anh chọn thức uống. <br><br> - “Bia Ken đi.” <br><br> Anh Phước nói tắt như vậy với chị chủ nhà hàng thay vì nói Heineken. Chị mỉm cười thật tươi rồi quay lưng đi sau khi dạ thật nhẹ. <br><br> Còn lại hai người, tôi bắt đầu kể… Từ hôm tôi bị theo dõi từ khách sạn đến bệnh viện Bình Dân và cho đến tận hôm nay. Vừa nói vừa uống vừa ăn vừa quan sát người đối diện, tôi hoàn toàn hài lòng. Anh Huỳnh Sơn Phước là sinh viên miền Nam. Anh học trường luật nhưng đã tốt nghiệp hay chưa thì tôi không nghe anh Khương nói. Cũng như bao thanh niên trí thức miền Nam… khù khờ và háo danh háo thắng thời trước nên đã bị bọn cộng phỉ lừa gạt. <br><br> Vợ anh Phước cũng là sinh viên luật và cũng khù khờ nhưng may mắn là chị đã kịp nhìn thấy cái thiên đường bánh vẽ, vẽ thì đẹp nhưng chỉ để nhìn thôi nên chị sợ đói, vì vậy chị đã chia tay anh và vượt biển. Hiện tại anh sống độc thân vì hai người chưa có con. <br><br> Nhìn anh Phước, tôi nhớ đến hình ảnh của những kẻ ăn cơm quốc gia nhưng lại phá quốc gia đến tan tành để rước bọn phỉ vào… được đăng trên các tờ nhật báo lớn phát hành trước ngày 30 tháng Tư. Những hình ảnh của Huỳnh Tấn Mẫm, của Lý Quí Chung, của Lý Chánh Trung, của Kiều Mộng Thu, của Dương Quỳnh Hoa… là những hình ảnh và tên tuổi tiêu biểu trong rất nhiều cái tên cho sự việc đó. <br><br> Khi chiếm được miền Nam, bọn cộng phỉ đã nói một câu mà tôi nghĩ đó là câu đểu cáng đầy vẻ mỉa mai dành cho một số người mà bọn phỉ đã có kế hoạch loại trừ ra khỏi guồng máy thống trị: “Nhờ cách mạng thành công mà tôi đã được sáng mắt sáng lòng.” Đây là câu nói rõ ràng ám chỉ cho đám người của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và thành phần thứ ba; cũng như những người có cảm tình với bọn cộng phỉ. Người dân thì đa số đều đã sáng mắt từ lâu rồi, nhất là từ trận tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 mà bọn cộng phỉ được mấy ông sư Thích Cộng Phỉ; cũng như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… vân vân, lập tòa án để cùng bọn phỉ giết chết hơn năm ngàn đồng bào vô tội tại Huế. Bọn cộng phỉ thường xuyên pháo kích vào khu đông dân cư cũng như đặt mìn ở những nơi đông người, cũng như thủ tiêu người để khủng bố đe dọa… Lòng dân rất sáng nên bọn cộng phỉ đi đến đâu là đồng bào liền bỏ chạy về nơi có lính quốc gia, nên không bao giờ bọn chúng có dân, ngoại trừ những nơi mà đồng bào chạy không kịp. Bọn Mặt Trận Giải Phóng bọn phản chiến và bọn thân cộng mới là những người tối mắt tối lòng nên cố tình không muốn nghe, không muốn thấy mà nuôi hy vọng vững lòng tin vào ngày “cách mạng” thành công sẽ được chia chác quyền hành. Và, bây giờ đã “sáng mắt sáng lòng” nên tất cả đều ngậm miệng và cúi đầu chịu nhục chứ đố “thằng nào con nào” dám hó hé đưa cái mặt ra để đòi hỏi điều này, yêu sách điều nọ… như bọn họ đã từng làm. Chỉ có những người đui mù mới không nhìn thấy những trò trả thù man rợ của bọn phỉ mang danh “cách mạng” đối với đồng bào miền Nam. Một vài tên vẫn còn chịu nhục , chịu đấm ăn xôi để được làm “đại biểu quốc hội” như tên Mẫm và làm nghề viết tin thể thao kiếm sống, như tên Dân Biểu Bộ Trưởng Bộ Thông Tin Lý Quí Chung. Chung nhờ cơ hội may mắn gặp được Bộ Trưởng Võ Long Triều giúp đỡ nên mới có cơ hội quậy phá miền Nam gần như mỗi ngày với các cuộc xuống đường. Chung không nhờ ông Võ Long Triều giúp đỡ thì Chung mãi mãi vẫn là tên vô danh tiểu tốt thôi. Anh Huỳnh Sơn Phước chỉ nghe tôi nói chứ anh không nói. Tuy nhiên, có một lúc anh đã thố lộ tâm tư của anh mà tôi cho như là một sự hối hận đã lầm lỡ tin vào lời bọn phỉ. Anh nói: -“Không ngờ đất nước mình bây giờ nghèo quá. Nghèo gần như nhất thế giới. Tôi mong Mỹ mau bỏ cấm vận và Mỹ sẽ trở lại thì đất nước mình sẽ … như xưa.” Nghe anh nói mà đau thắt lòng. Gây ra biết bao oan khiên cho đất nước cho đồng bào để rồi chỉ mong được trở lại như xưa. Sớm hay muộn thì bọn cộng phỉ cũng sẽ được người Mỹ bỏ cấm vận rồi quay lại bố thí cho chút bơ thừa sữa cặn thì mới thấy hết cái sự khốn nạn, trong khi nếu khôn ngoan biết hòa giải dân tộc ngay khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa chịu buông súng thì đâu đến nỗi. Đằng này lại tráo trở, lừa lọc, hèn hạ trả thù dã man bằng cách đem lên vùng rừng thiêng nước độc giam cầm rồi bỏ đói bỏ khát nhưng lại bắt phải lao động thật nặng… có người đến vài chục năm trời. Bọn lãnh đạo khi còn ở trong rừng đã cho bọn Mặt Trận Giải Phóng ăn một cái bánh vẽ thật lớn bằng những lời hứa làm cho bọn Mặt Trận tưởng phen này sẽ được làm cha làm mẹ, được ngồi trên đầu trên cổ người dân và sẽ được tung hoành suốt cả đời. Nào ngờ khi thắng rồi bọn cộng phỉ liền trở mặt cho cán bộ miền Bắc vô, thẳng tay thanh trừng những “thằng nào con nào” không đồng tình với đảng và đồng thời cướp sạch những gì của đồng bào miền Nam đem về Bắc. Đồng bào miền Nam nào mà không kinh hoàng khi nghe tên cộng phỉ Nguyễn Hộ hô hào: “Nhà của Ngụy chúng ta ở. Vợ của Ngụy chúng ta lấy. Con của Ngụy chúng ta xài.” Cho bọn cán bộ Bắc Việt cướp thì nó sẽ bảo vệ quyền lực lãnh đạo đảng và các lãnh đạo đảng sẽ cướp mạnh tay hơn. Bọn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không học được câu: "Giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh" - Khi con thỏ đã bị con chó săn cắn chết rồi, thì con chó săn cũng bị phanh thây luôn. Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Cuộc sống dù giàu sang hay hèn hạ, thành thật hay giả dối, man rợ hay thánh thiện… rồi cũng phải đến ngày tan. Buổi gặp gỡ tối nay rồi cũng phải chia tay. Chúng tôi phải chia tay nhau thôi vì đã hơn mười một giờ rưỡi khuya rồi. Đến lúc này anh Huỳnh Sơn Phước mới lên tiếng về cách thức mà anh nghĩ là hay nhất để giúp tôi. Anh nói: - “Tôi thật sự rất bất ngờ khi nghe chuyện của anh. Chưa bao giờ tôi nghĩ sẽ có chuyện như vậy xảy ra. Tòa báo có một vị luật sư chuyên lo về pháp luật mà phe cánh của vị này rất mạnh. Việc hối lộ bây giờ là công khai nên anh đừng ngại khi phải nhờ một ai đó giúp cho chuyện gì. Vị luật sư mà tôi muốn giới thiệu với anh tên là Đào Hoàng Mỹ. Bà là vợ của ông Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam… đã bỏ trốn qua Pháp. Sáng ngày mai tôi sẽ liên lạc với bà Mỹ. Nếu bà ấy đồng ý nhận giải quyết cho anh thì tôi sẽ phôn lại khách sạn báo cho anh biết.” Anh Phước và tôi là hai người khách sau cùng ra về. Khách đêm nay đông đến không còn bàn trống. Đúng như quảng cáo, món ăn ngon và chỗ ngồi thật hữu tình. Tôi bắt tay chào từ biệt ông bà chủ và khen: - “Các món ăn ngon quá. Đặc biệt là món gỏi. Món tôm nhúng trong trái dừa cuốn với bánh tráng chấm nước mắm nêm cũng ngon quá. Có một loại rau thơm mà tối nay là lần đầu tiên tôi được ăn, đó là rau cần nước… thật thơm và thật ngon.” - “Hôm nào anh muốn ăn thịt bò bít tết thì cho tôi biết trước khoảng ba tiếng tôi sẽ trổ tài… chỉ đặc biệt với anh thôi nha. Bảo đảm ngon hơn của Tây nhiều.” Ông chủ nhà hàng Vy nói với tôi vẻ rất tự tin. Tôi hứa sẽ trở lại và sẽ gọi phôn trước cho ông để đặt món thịt bò. Ra khỏi nhà hàng, tôi bắt tay và cám ơn anh Phước. Anh giắt xe đi theo tôi một đoạn ra đến đường Trần Hưng Đạo thì mới thật sự chia tay. Về khuya Saigon vắng vẻ quá. Tôi muốn đi bộ một đoạn nhưng cảm thấy không yên tâm khi những người chạy xe hai bánh cứ nhìn tôi chằm chằm. Những người đó… nào ai biết được họ thuộc thành phần nào. Cướp? Du đãng? An ninh? Nhà cầm quyền này hãnh diện tuyên bố, Việt Nam không có các nhóm phản động nào có thể hoạt động được. Họ mạnh mẽ tuyên bố như vậy chỉ vì họ nuôi dưỡng thành phần chịu phục tùng chế độ nhiều bằng một phần tám dân số. Anh Huỳnh Sơn Phước đã nói như vậy với tôi. Tôi nghĩ bọn phỉ ở Phòng phản gián làm gì lại không cho người theo tôi nên tôi phải đón xe đi về khách sạn thôi. Ngồi trên xe về khách sạn tôi nghĩ đến anh Phước. Ngày trước có lẽ anh cũng từng có lúc xuống đường và ngoác cái mồm ra thật lớn chửi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và đòi Mỹ phải cút khỏi Việt Nam. Bây giờ anh thấy đất nước nghèo quá, nghèo gần như nhất thế giới thế mà có dám làm điều gì hay yêu sách việc gì đâu. Với bọn phỉ thì thủ tiêu là chính sách phải được thi hành tuyệt đối. Tôi cũng vừa nhớ đến cái tên Trương Như Tảng mà anh Phước đã nói đến. Tôi có đọc báo và biết tin Tảng tỵ nạn tại Pháp và ra sách nhưng tôi không mua sách. Tảng là một trong những cán bộ cao cấp của Mặt Trận Giải Phóng đã được bọn cộng phỉ Bắc Việt cho “sáng mắt sáng lòng” nên căm hận nhưng phải câm miệng rồi tìm đường thoát thân đến phải bỏ vợ lại. Nếu việc làm đó là của chính quyền miền Nam thì Tảng và đồng bọn cũng sẽ xuống đường rồi ngoác cái mõm ra như mõm chó rồi sủa ầm lên là: Bọn tay sai của Mỹ đã xí gạt tôi. Tôi thề sẽ… biểu tình dài dài… Tội nghiệp anh Khương chủ khách sạn quá. Anh ngồi uống bia chờ tôi về nên khi nhìn thấy tôi anh liền đi nhanh ra mở cổng. Câu đầu tiên anh hỏi: - “Có vui không?” – “Vui. Vui lắm anh.” Rồi tôi mời anh lên phòng tôi và thuật lại cho anh nghe. Anh thật lòng vui chung niềm vui của tôi. Anh muốn mời tôi uống bia để mừng cho tôi. Và, hai anh em ngồi uống bia nói chuyện đến gần ba giờ sáng. Tôi say quá nên anh Khương rời phòng lúc nào tôi không hay biết. 25/4/1991. Trời Sàigòn tháng tư nóng quá. Nóng đến độ tôi có cảm tưởng như mình đang đứng gần cái lò lửa. Nóng quá đã làm cho tôi nhớ đến phòng tạm giam. Nếu giờ này mà còn ở trong đó thì quả là một hình phạt khủng khiếp. Tội nghiệp cho những người vì công việc chung mà phải bị giam cầm và chịu biết bao cực hình. Chiều hôm nay tôi sẽ được đối diện với bà vợ của ông bộ trưởng được bọn phỉ cho sáng mắt sáng lòng. Văn phòng và cũng là tư gia của Luật sư Đào Hoàng Mỹ tại số 15 đường Võ Thị Sáu, tức đường Hiền Vương thân yêu ngày trước. Lúc sáng khoảng mười giờ anh Phước gọi điện thoại lại khách sạn báo cho tôi biết, bà Luật sư đồng ý tiếp tôi vào lúc ba giờ chiều. Đúng boong ba giờ tôi có mặt trước cửa nhà của bà. Bà luật sư vào khoảng bốn mươi tuổi, người có tướng sang trọng với khuôn mặt đẹp và sáng quắc. Tôi chắc chắn khi còn trẻ bà phải là hoa khôi của trường luật mà bà đang theo học. Bà có một điểm giống tôi, hay ngược lại, là khi nói chuyện với người lạ lần đầu luôn nhìn ngay mắt người đối điện và gần như không chớp mắt. Tôi thuật lại mọi chuyện, đồng thời tôi cũng đưa cho bà xem các chứng từ. Bà đón hồ sơ từ tay tôi và nói: - “Tôi giữ những giấy tờ này và sẽ xem trong chốc lát. Ngày mai cũng ba giờ chiều anh đến đây gặp tôi. Sáng ngày mai tôi sẽ đi xem hồ sơ của anh và khi gặp lại anh, tôi sẽ nói cho anh biết, anh sẽ tốn bao nhiều tiền và khi nào anh nhận lại giấy tờ.” Ngay lúc đó có một người đàn ông tuổi trung niên ăn mặc kiểu cán bộ giắt chiếc vespa từ ngoài cổng đi vào. Tôi đoán ông là người chồng sau của bà Mỹ. Tôi đứng lên chào ông, và chào bà Mỹ để ra về. Bà Mỹ bắt tay tôi và nói thêm: - “Anh yên tâm. Gặp tôi rồi thì mọi chuyện sẽ được tôi lo chu đáo và rất nhanh. Hẹn gặp anh chiều ngày mai nhé.” Trên các con đường trong thành phố, nhà cầm quyền đã cho treo các banner với những khẩu hiệu tuyên truyền ca ngợi ngày “đại thắng mùa xuân năm 1975.” Chiến tranh đã kết thúc trong sầu thảm nên, mười sáu năm qua quê hương miền Nam thân yêu đã phải sống trong thảm sầu vì nghèo đói. Ba mươi tháng tư năm nay bọn phỉ đang hy vọng, bọn phỉ tin tưởng người Mỹ sẽ trở lại sau khi đã bỏ cấm vận. Chính bọn phỉ khi chiếm được miền Nam không lâu thì cũng được… sáng mắt sáng lòng, vì đã lỡ dại đối đầu với Mỹ thay cho Nga Tàu; để rồi bị đói khát và bây giờ phải khấu đầu quỳ gối lạy lục van xin người Mỹ trở lại. Những ngày này của mười sáu năm trước tôi cũng sống trong hồi hộp và lo âu để rồi cuối cùng thì phải chấp nhận cuộc sống nhiễu nhương dưới sự cai trị của bọn phỉ. Tôi chợt nhớ đến ông Giám đốc Đỗ Ngọc Long và Linh mục Lương Tấn Hoàng. Tôi xa hai người chủ đầu tiên khi tôi mới bước chân vào đời… cho đến nay đã mười sáu năm không gặp lại. Tôi biết Cha Hoàng đang ở Pháp. Nhờ một Linh mục tỵ nạn mà tôi có được địa chỉ của Cha. Tôi viết trước sau hai lá thư thăm Cha và kể rõ chuyện tên Bí Thư Quận 7 đưa hình của Cha đứng nói chuyện với ông Đại sứ Mỹ. Và, tên Bí thư đã kết tội Cha là CIA. Có lẽ tôi đã sai lầm khi kể chuyện đó với Cha nên Cha đã không hồi âm cho tôi? Tôi không thích nhìn người đàn ông khóc. Nhưng, hoàn cảnh hiện tại của tôi quá hồi hộp và âu lo như mười sáu năm trước trong nỗi cô đơn khi chung quanh mình toàn kẻ thù mà mình đã trốn chạy… làm tôi đau đớn như đứt từng khúc ruột, làm tôi xúc động đến nước mắt muốn chảy ra nhưng tôi phải cố kềm lại. Một người phụ nữ trẻ và có nét mặt thật buồn ngồi bên gánh khoai lang khoai mì còn đầy ắp làm cho tôi nhớ đến người phụ nữ năm xưa. Người phụ nữ năm xưa còn trẻ đẹp và là vợ của người sĩ quan miền Nam bị dụ đi trình diện rồi bị đưa đi trại tập trung cải tạo. Tôi gặp chị ôm mấy quyển sách khoa học và cứ đi tới đi lui hoài vì không ai mua. Mấy quyển sách quý này vào thời đó người ta chỉ dùng vào hai việc là, gói đồ hoặc, khi đi vệ sinh. Tôi đã mua mấy quyển sách của chị và trả tiền rất hậu hỷ như là cách để giúp chị. Làm sao tôi có thể quên được gương mặt thật xúc động của chị khi chị cầm số tiền tôi đưa. Bước chân đã tự động đưa tôi đến trước gánh khoai lang khoai mì của người phụ nữ có gương mặt buồn. Tôi không thể ăn khoai lang khoai mì trong cái thời tiết oi ả nóng nực của tháng tư. Nhưng, tôi đã mua thật nhiều khoai lang và khoai mì để rồi sau đó tôi tặng lại anh xích lô chở tôi. Cả buổi chiều và tối hôm đó tôi vui lắm. Một việc làm nhỏ và tầm thường nhưng tôi đã làm cho ít ra là hai người được vui… trong giây lát. 26/4/1991. Cũng như chiều ngày hôm qua, chiều nay khi tôi bấm chuông cửa thì chị Mỹ liền quay đầu nhìn lên cái đồng hồ treo trên tường, bên lối đi lên lầu. Khi tôi được người phụ nữ giúp việc nhà mời vào phòng khách thì chị Mỹ liền đứng lên và đưa tay ra cho tôi bắt. Chị đã sẵn sàng từ trước để đón tôi. Chị nói: - “Thật là tuyệt vời! Anh là người khách đầu tiên rất đúng giờ. Người ở đây đến trễ khoảng nửa tiếng là chuyện bình thường anh à. Thật tuyệt vời khi làm việc với người khách như anh.” Chị đợi tôi ngồi xuống ghế rồi chị mới nói tiếp: - “Tôi đã xem qua hồ sơ của anh rồi. Nếu anh không gặp tôi thì số tiền vàng mà anh đóng cho bên Phòng điều tra có thể cũng sẽ bị tiêu tán hết mà chưa biết ngày nào họ mới giải quyết cho anh. Bây giờ đã có tôi tham gia vào thì chỉ trong một vài ngày là xong.” Chị nhìn ngay mắt tôi như muốn đón chờ một sự hài lòng biểu lộ trên gương mặt tôi. Nhưng, tôi vì đang lo lắng về số tiền mà tôi sẽ phải chi ra cho chị không biết sẽ là bao nhiêu nên tôi chỉ mỉm cười nhẹ để cho chị vui. Chị nói tiếp: - “Số tiền thù lao của tôi là ba cây. Tôi cần nói để anh rõ là, tôi rất thông cảm cho anh nên trong số ba cây đó thì phần của tôi chẳng là bao nhiêu đâu. Phải chi anh gặp tôi trước thì anh không bị tốn nhiều như vậy.” Cái đầu của tôi bây giờ mới thật là nhẹ nhỏm. Ba cây vàng là số mà tôi không hề nghĩ đến. Tôi nghĩ ít ra thì cũng phải từ bảy cây đến chục cây. - “Chị muốn khi nào tôi đưa tiền?” – “Tôi nghĩ… ba ngày nữa, tức ngày 29 tháng tư thì Viện kiểm sát sẽ ký quyết định đình chỉ điều tra và ngày hôm sau anh cầm tiền đến đây rồi anh và tôi đến đó nhận quyết định. Sau đó anh và tôi sẽ đi qua Phòng điều tra để nhận lại passport.” Tôi nghe chị Mỹ nói rất rõ nhưng tôi lại nghi ngờ nên hỏi lại cho chắc chắn: - “Nghĩa là… mình không bị kẹt ngày nghỉ lễ?” – “Không! Không kẹt gì cả.” Người giúp việc của chị Mỹ đem cho tôi chai nước ngọt và ly đá. Tôi vui quá nên định cáo từ ra về vì anh Huỳnh Sơn Phước đang chờ nghe kết quả. Chị Mỹ lên tiếng: - “Mời anh uống nước cho mát.” Tôi miễn cưỡng ngồi lại cho chị vui. Cũng nhờ ngồi lại mà chị và tôi đã có những thông cảm về nhau hơn. Chị tưởng tôi từng là sĩ quan “Ngụy”. Tôi nói tôi được hoãn đi lính vì tôi muốn trở thành tu sĩ. Cũng vì nói chuyện về tôn giáo nên tôi mới được biết chị từng là “con cưng” của Cha Lương Tấn Hoàng từ những ngày chị còn ở bậc trung học. - “Anh Tảng bỏ đi rồi tôi cũng gặp nhiều rắc rối lắm. Tôi bị giam lỏng mất năm năm cho đến khi tôi gặp… ông bây giờ.” Chị chỉ vào chiếc xe gắn máy mới toanh dựng sát vách tường rồi nói tiếp: - “Xe của anh Tảng mới gởi về cho tôi đấy.” Tôi nhìn chiếc xe thật lâu như thầm khen xe đẹp mà, thật ra thì tôi đang nghĩ: “Anh Tảng – “anh” Trương Như Tảng của chị cùng đồng bọn trong cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã thật sự được “sáng mắt sáng lòng” nên phải chọn cảnh sống lưu vong chứ làm sao “anh” có dũng khí để chống lại hoặc tự xử. “Anh” Tảng có biết không, bà vợ xinh đẹp của “anh” đã được tên cán bộ của cái đảng khốn nạn đã cho “anh” được “sáng mắt sáng lòng” để “anh” thấy đường mà chạy cùng đồng bào mà “anh” từng chống lại. Đêm đêm tên cán bộ đó vẫn ôm ấp người mà “anh” thương yêu và gởi xe về. Tôi cảm thấy đau cho “anh” lắm. Nếu đã hoạt động chính trị nhưng sai lầm để cho mấy thế hệ phải đau khổ thì, “anh” phải có dũng khí để tự xử chứ đừng cố sống chỉ thêm nhục nhã mà thôi. <br><br> Tôi khinh Dương Văn Minh khi ông cầm lá phiếu đi bầu đưa lên trước các ống kính và còn tỏ ra “hồ hởi phấn khởi.” Trái lại tôi luôn kính trọng ông Tổng Thống Trần Văn Hương khi ông thẳng thừng từ chối nhận quyền công dân của bọn phỉ. Khi phách của người làm lãnh đạo cần phải có chứ đừng sống như con chó hoang để đêm đêm nhìn trăng rồi sủa ầm lên… sẽ bị người đời khinh bỉ thêm.” Có ai trong đời sống mà không - hay ít nhất một lần - phải mang ơn người nào đó. Trong tình cảnh của tôi, tôi mang ơn anh Phó Tổng biên tập Huỳnh Sơn Phước. Anh chính là người ơn của tôi. Ra khỏi nhà chị Mỹ, tôi ngồi xích lô đến chợ Tân Định và vào một tiệm bán tạp hóa xin gọi phôn cho anh và mời anh tối nay gặp lại nhau tại nhà hàng Vy. Anh Phước vui lắm. Anh vui cùng niềm vui của tôi và mong gặp lại tôi để nghe kể chi tiết. Tôi cũng phôn lại nhà hàng Vy gặp ông chủ và đặt hai phần thịt bò bít tết với khoai tây chiên cùng món tôm nhúng trong trái dừa đặc biệt của nhà hàng. “Nhớ cho tôi nhiều nhiều rau cần nước anh nhé.” <br><br> 30/4/1991. <br><br> Tám giờ rưỡi sáng tôi có mặt tại nhà chị Mỹ. Cũng ngày này mười sáu năm về trước tôi ngồi uống café ở nhà ông Giám đốc Đỗ Ngọc Long. Và, khoảng hơn hai tiếng đồng hồ nữa thì chúng tôi bàng hoàng khi nghe Hàng Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh quốc gia. Chị Mỹ mặc áo đầm trông thật xinh và thật giống… bà đầm. Tuy chị “có da có thịt” nhưng không sồ sề mà rất gọn ghẽ. “Chị Mỹ đẹp quá.” Tôi khen chị thật lòng khi chị đẩy chiếc xe gắn máy mà anh Tảng gởi về cho chị, ra cổng. <br><br> Chị Mỹ chở tôi chạy trên con đường Duy Tân có cây dài bóng mát đã đi vào văn thơ miền Nam. Tôi nhìn hai hàng cây cao chạy dài hun hút về phía trước và tưởng tượng cảnh sống của giới trẻ miền Nam ngày trước thật lãng mạn như trong nhạc phẩm của ông nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi tưởng tượng là vì tôi không có cái diễm phúc được sống qua quãng thời gian đó ở thành phố Saigon trong tuổi đang xuân. <br><br> Hôm qua sau khi tôi phôn hẹn anh Phước, tôi đi bộ từ Tân Định đến Phú Nhuận vì quãng đường đó có gió mát. Tình cờ tôi nhìn thấy lại rạp xi-nê Văn Cầm gần chợ Phú Nhuận. Đứng nhìn cái rạp hát bây giờ phải đóng cửa im ỉm mà lòng tôi vô cùng xót xa. Đây là rạp hát tôi được mẹ cho đi xem phim lần đầu trong đời khi tôi mới lên năm tuổi. Thuở ấy nhà của ba mẹ tôi phía sau rạp Văn Cầm. Ngôi trường tiểu học Võ Tánh nằm bên cạnh “nhà làng” Phú Nhuận là ngôi trường tôi học năm đầu tiên trong đời. “Nhà làng” Phú Nhuận bề ngoài thì vẫn như xưa. <br><br> Tại “nhà làng” này ba tôi từng đến mỗi tối để dạy lớp “Bình dân học vụ” cho những người lớn tuổi trong chương trình xóa nạn mù chữ do Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát động. Có lần “nhà làng” tổ chức cho những thiếu nhi từ năm tuổi lên đến mười một tuổi đi rước đèn đêm Trung Thu. Đèn Trung thu thì được chính phủ phát. Sau khi nhận đèn xong thì các thiếu nhi xếp hàng năm và đi rước đèn qua các con đường trong xã Phú Nhuận. Hồi đó đường vắng tanh nên chúng tôi đi giữa đường theo người hướng dẫn và vừa đi vừa hát. Hát bài gì thì dĩ nhiên tôi không còn nhớ. <br><br> Tôi chỉ nhớ rõ đêm đó trời mưa lớn lắm nhưng chúng tôi vẫn vừa đi vừa hát rất vui mà không hề thấy lạnh. Rước đèn xong, “nhà làng” phát cho mỗi đứa nửa cái bánh Trung Thu ruột đen sì. Mẹ tôi nói đó là nhân đậu đen ăn ngon và bổ lắm. Nghĩ lại thời thơ ấu của tôi sao đẹp và thơ mộng quá. Bây giờ các em nhi đồng trong nước làm gì được nhà nước này phát đèn phát bánh. Bánh thì có nhiều nhưng là… bánh vẽ thôi. Tôi nhớ chắc chắn là tôi đã đọc trên tờ báo Tin Sáng lời của tên Tổng Bí thư… ếch ngồi đáy giếng Lê Duẫn khi hắn tuyên bố: <br><br>-“Đất nước của chúng ta vừa trải qua cuộc chiến tranh do Mỹ Ngụy gây ra nên còn nhiều khó khăn. Tôi kêu gọi tất cả hãy cùng nhau phấn đấu vì chỉ trong hai ba cái kế hoạch năm năm thôi là đất nước của chúng ta sẽ tiến bằng, hoặc hơn nước Nhật…” Không có cái bánh vẻ nào lớn và ngon bằng của tên bẻ ghi xe lửa được làm cha thiên hạ. <br><br> Một thời gian sau gia đình tôi phải từ biệt thành phố thân yêu Saigon và từ biệt xã Phú Nhuận để đến thành phố Pleiku vì ba tôi phải đến đó làm việc, và ba tôi bị Việt cộng giết. Những kỷ niệm bùi ngùi đã theo tôi mỗi năm vào mỗi khi xuân về, nhớ lại mùa xuân năm đầu tiên ở thành phố cao nguyên đó, tôi đã được nghe tiếng ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm chúc Tết đồng bào hai miền Nam Bắc. Sau lời chúc Tết là đến chương trình Tao Đàn. Và, tôi đã chìm vào giấc ngủ ngon. Tôi không ngờ những kỷ niệm đó cứ theo tôi cho đến tận ngày hôm nay. <br><br> Chị Mỹ giảm tốc độ làm tôi trở về với hiện tại để kịp nhận ra chỗ đến là, Viện kiểm sát thành phố, mà hôm nào tôi đã đến và chứng kiến tấm màn màu đỏ bay phất phới nhưng không thấy gió. Tôi đứng giữ xe để chị Mỹ đi vào Viện. Khoảng 9giờ20 Chị Mỹ từ trong phòng làm việc của Viện đi ra. Tôi nhìn chị từ xa nhưng không thể đoán biết được vì chị có vẻ mặt bình thản quá. Đi đến bên tôi chị nói: <br><br> - “Xong rồi. Đây là Quyết định đình chỉ điều tra bị can. Bây giờ anh và tôi qua bên Phòng điều tra lấy passport.” Tôi nghe chị nói rõ… năm trên năm, vậy mà tôi vẫn nghi ngờ nên phải hỏi lại và chị đã xác nhận chuyện của tôi đã được giải quyết xong. <br><br> Ôi! Chị là người đàn bà tuyệt vời! Chị là đóa sen thơm lừng giữa đám bùn đen thúi hoắc. Tôi sẽ không bao giờ quên chị. <br><br> Chín giờ bốn mươi tám phút sáng ngày 30 tháng tư năm 1991, Chị Mỹ và tôi có mặt tại số 3C đường Tôn Đức Thắng (bến Bạch Đằng). Người tiếp chị Mỹ và tôi là Phạm Cang. Tôi nhận thấy rất rõ là Phạm Cang lộ vẻ sửng sốt khi gặp chị Mỹ đi với tôi. Không đợi Phạm Cang hỏi, chị Mỹ lên tiếng trước và đồng thời chỉ tay qua tôi: <br><br> - “Chúng tôi đến lấy passport của anh này.” Nói xong chị đưa cho Phạm Cang xem tờ “Quyết định đình chỉ điều tra bị can.” Rõ ràng Phạm Cang nể và sợ chị Mỹ ra mặt. Phạm Cang tiếp nhận tờ quyết định bằng cả hai tay. Khi Phạm Cang đi vào trong để lấy giấy tờ của tôi, chị nói: <br><br> - “Ông Phạm Cang này từng điều tra tôi khi anh Tảng bỏ đi, nên hắn biết rõ về tôi. Anh mà gặp tôi trước thì mấy tên ở Phòng điều tra này không dám kéo dài để làm tiền anh. Hầu như tuần nào tôi cũng đi ăn với Giám đốc công an thành phố.” <br><br> Đúng mười giờ mười tám phút, Phạm Cang cầm passport và một tờ giấy đến yêu cầu tôi ký tên nhận giấy tờ. Nhìn thấy quyển sổ passport mà lòng tôi mừng quá đỗi. Tội nghiệp cái passport quá, vì tôi mà nó đã bị giữ ở đây đến hôm nay mới được tự do để theo tôi về nhà. Phạm Cang hết nhìn lén chị Mỹ rồi nhìn tôi như muốn nói điều gì với tôi. Ngay lúc đó tên phỉ Mai Quốc Anh bỗng xuất hiện từ lối đi vào phòng giam. Có lẽ hắn mới hỏi cung người tù xong và đưa trả về phòng giam. Tôi nghĩ đến những người bị tạm giam trong mấy phòng trong với thời tiết của buổi trưa cuối tháng tư nóng như thiêu như đốt mà tội nghiệp cho họ. Một chút nữa thôi là tôi sẽ rời khỏi nơi đây, nhưng những người đó thì vẫn phải ở lại. Họ đã phạm những tội gì? Ăn cướp hay hiếp dâm hay giết người? Có người nào can tội phục quốc không? Tôi chợt nhớ hôm nay là ngày Quốc Hận. <br><br> Ngày 30 tháng tư năm 1991. Ngày này mười sáu năm trước tôi đã cùng đồng bào miền Nam không may mắn phải chứng kiến biết bao kinh hoàng biết bao đau thương và biết bao uất hận tang tóc. Trong hằng triệu triệu đồng bào miền Nam đau khổ thì, chắc chắn tôi không phải là người đau khổ nhất. Tôi đã cố gắng sống cho đúng là con người trong một thể chế chỉ biết hận thù để cảm tạ Thượng Đế đã cho tôi tình thương và sự che chở. <br><br> Mai Quốc Anh kéo tôi trở về với thực tại khi hắn nói: <br><br> - “Anh vào trong này một phút vì lãnh đạo muốn gặp anh.” <br><br> Phạm Cang tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn Mai Quốc Anh. Tôi nhìn chị Mỹ như hỏi ý nhưng thấy chị không có phản ứng gì nên tôi đi theo Mai Quốc Anh. Vào trong một phòng trống – phòng hỏi cung – Mai Quốc Anh nói: <br><br> - “Lãnh đạo biết anh hôm nay đến nhận giấy tờ nên… anh bồi dưỡng cho chúng tôi ba cây. Tối nay khoảng bảy giờ tôi ngồi đợi anh ở quán café cũ… nhé.” <br><br> Tôi biết thằng ranh con này nói xạo. Nó muốn làm tiền tôi thì tôi sẽ nhờ chị Mỹ cho nó được… sáng mắt sáng lòng. Tôi quyết định như vậy nên khẽ gật đầu rồi lặng lẽ đi trở ra với chị Mỹ. Mai Quốc Anh cố nhắc lại: <br><br> - “Bảy giờ tối nay, anh nhớ nhé.” <br><br> Tôi bắt tay cám ơn và từ giã chị Mỹ ngay khi ra khỏi cổng cơ quan điều tra. Nều đang ở bên Hòa Lan thì tôi sẽ ôm hôn chị. Tôi biết tôi sẽ xa chị nhưng tôi không nói, mặc dù chị nói chị sẽ phôn lại khách sạn để hẹn tôi nói chuyện. Tôi đón xe đi thẳng đến văn phòng đại diện của hãng hàng không đặt tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Trước đây mấy tháng hãng hàng không này đặt văn phòng trong khách sạn nổi năm sao của Úc tại bến Bạch Đằng. Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy hai cái lá phổi. Buổi chiều cuối tháng tư năm 1991, phi trường Tân Sơn Nhứt vắng hoe, mọi vật cũ rích và dơ dáy nên nhìn có vẻ buồn… Hay tại tôi đang buồn. Tôi muốn thoát khỏi nơi đây cũng giống như đồng bào miền Nam cố thoát khỏi nơi đây vào ngày này năm xưa. Ngày xưa đó tôi không có mặt ở đây nên không biết đồng bào đến đây đông như thế nào. Tôi không hiểu sao khuôn mặt sợ hãi của người phụ nữ đăng trên các báo trong những ngày sau cùng khi người phụ nữ đó có mặt tại Tòa Đại sứ Mỹ cứ hiển hiện ra mỗi khi tôi nhớ lại những hình ảnh kinh hoàng của ngày tháng đó. <br><br> Văn phòng đại diện hãng hàng không trang trí như ở bên Tây và có máy lạnh làm tôi có cảm tưởng mình đang ở xứ Tự Do, chứ không phải người đang tìm đường thoát. Tôi đưa tất cả giấy tờ cho cô nhân viên để cô vào trình lại với viên đại diện. Tôi không biết chuyến bay còn chỗ trống không. Và, nếu như không được chấp thuận thì tôi mua vé, miễn là còn chỗ. Và, nếu như phải chờ đợi đôi ba ngày thì cũng không có gì làm tôi phải lo lắng. Tôi hoàn toàn tin chị Mỹ có thế lực mạnh đứng phía sau chị. Tôi sẽ nói cho chị biết về sự đòi hỏi quá đáng của “thằng ranh con” Mai Quốc Anh. Mai Quốc Anh không biết chị Mỹ là ai nên muốn làm tiền tôi lần cuối. “Thằng ranh con” Mai Quốc Anh rồi sẽ bị lãnh đạo của nó thanh trừng. <br><br> Bỗng cánh cửa phòng mở ra và viên đại diện hãng hàng không xuất hiện đứng nhìn tôi và gật đầu chào. Ông đã thông cảm nên chấp thuận cấp cho tôi một chỗ trong chuyến bay vào khuya nay. Chuyến bay sẽ khởi hành lúc mười giờ tối và sẽ quá cảnh ở Bangkok. Trong khi cô thư ký đang làm thủ tục thì có người điện thoại đến. Tôi nghe cô nói: <br><br> - “Xin lỗi anh, hãng của chúng tôi không được phép tiết lộ tên của khách hàng.” <br><br> Trả lời xong, cô lại tiếp tục làm việc. Thấy vậy tôi hỏi: <br><br> - “Có phải họ tìm tôi không?” <br><br> Cô không nhìn tôi nhưng gật đầu xác nhận. Tôi liền nghĩ ngay đến “thằng ranh con” Mai Quốc Anh đã cho người theo tôi. Hắn cho người theo xem tôi đi những đâu và gặp những ai chứ hắn và lãnh đạo ở 3C Tôn Đức Thắng không có quyền ngăn cản tôi xuất cảnh. <br><br> Hai mươi hai giờ hai mươi tám phút tối ngày 30 tháng tư năm1991 chiếc phi cơ của hãng hàng không Lufthansa của Đức quốc rời khỏi phi đạo đưa tôi xa khỏi Saigon, thoát khỏi nước Việt Nam thân yêu. Rời khỏi quê hương lần thứ hai này không biết ngày nào tôi mới quay trở lại. Nhìn xuống thành phố Saigon thân yêu còn quá nghèo và cũng không có nhiều ánh sáng làm lòng tôi tê tái. Saigon là nơi tôi được sinh ra nhưng lại sống ở đây không lâu. Saigon là nơi tôi đã làm việc nhưng cũng không lâu. Những con đường Saigon mà tôi biết và đã đi qua thì, con đường mang tên Phan Đình Phùng là nơi tôi sống qua những tháng ngày phải tranh đấu bằng trí óc để sống còn; cũng như đã có những ngày thật hạnh phúc dưới mái nhà của một người đàn bà hoàn toàn xa lạ nhưng đầy lòng nhân ái. Chợ Vườn Chuối tuy gần nhà nhưng tôi chỉ có một lần phải vô đó đi chợ mà kỷ niệm thì cũng khó quên. <br><br> Một hôm Mẹ Hai bị bệnh nên nhờ tôi đi chợ mua một con cá lóc nặng khoảng ba bốn trăm gram. Mẹ Hai dặn đi dặn lại ít ra là ba lần: “Nhớ nói với người bán cá để cái ruột lại nghe con.” Tôi nghĩ, ruột cá thì… chắc Mẹ Hai không ăn nhưng, để ruột lại làm gì thì tôi không hỏi. Tuy nhiên tôi cũng dặn bà bán cá khi bà đang làm con cá cho tôi, để cái ruột lại bà nhé. Bà dạ dạ luôn miệng nên tôi yên tâm… quay đầu nhìn khắp khu chợ xem người ta bán những gì. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi đi chợ Vườn Chuối. Mẹ Hai tôi nhìn con cá rồi cười. <br><br> - “Mẹ biết con sẽ bị người ta lấy mất cái ruột mà.” <br><br> Vậy mà đến những năm 2000 – 2001, lần đầu tiên trong đời tôi mới được ăn ruột cá lóc nên mới biết nó ngon… hết sẩy. Hèn chi Mẹ Hai cứ dặn đi dặn lại đến ba lần mà tôi thì chẳng hiểu gì cả. <br><br> Saigon mà tôi có mặt để bắt đầu cuộc sống là Saigon yêu kiều, diễm lệ với ánh đèn đủ màu sắc về đêm; người và xe cộ dập dìu qua lại trên đường phố đông đúc cho đến tận khuya. Trai thanh gái lịch chiều chiều tản bộ qua các phố phường rất sung túc và luôn tươi cười vui vẻ… mặc dù đất nước đang bị bọn cộng phỉ gây chiến tranh và khủng bố … <br><br> Nhưng không được bao lâu thì tôi phải chứng kiến thủ đô Saigon tăm tối và u ám vì không có điện. Nhà nhà tối tăm và người người bị đói vì tên Tổng bí thư ngu xuẩn và hận thù người miền Nam tên Lê Duẫn ra lệnh ngăn sông cấm chợ. Saigon yêu kiều và diễm lệ bỗng một ngày trở nên nhếch nhác dơ dáy và hôi hám vì bọn cộng phỉ nuôi heo, gà, vịt trong những căn biệt thự chúng chiếm được. <br><br> Đúng là bọn rừng rú đi “giải phóng” người văn minh. Bọn cộng phỉ chủ trương phải chiếm nhà mặt tiền và các căn biệt thự để chia chác cho nhau nên người dân đã ca cho nhau nghe dựa theo bài ca của bọn phỉ: “Tiến về Saigon ta chiếm nhà mặt tiền…” <br><br> Làm sao tôi quên được con đường Bà Huyện Thanh Quan có sạp bán báo mà mỗi sáng sớm tôi ghé mua, và rồi đi tiếp đến đường Hồng Thập Tự đến nhà thờ Đức Bà dự lễ nhất vào lúc năm giờ… Tất cả nay đang ở xa phía dưới... mà tôi nghĩ đây là lần cuối cùng tôi thấy lại thủ đô của miền Nam Việt Nam. <br><br> Tôi cố nhắm mắt để ngủ nhưng gương mặt của Phạm Cang lúc sáng cứ hiển hiện trước mặt tôi. Có lẽ Phạm Cang không ngờ tôi đã gặp chị Mỹ nên hắn tỏ vẻ mặt lo lắng. Nhớ lại một hôm trong lúc hỏi cung, Phạm Cang đã nói: <br><br> - “Chúng tôi bắt anh là đúng luật. Mặc dù anh có quốc tịch Hà Lan nhưng anh cũng có quốc tịch Việt Nam”. <br><br> Không hiểu sao lúc đó tôi không một chút sợ hãi nên tôi đã nói: <br><br> - “Tôi không có một thứ giấy tờ nào của chế độ này cấp cho tôi. Tôi phải bỏ nơi đây ra đi vì tôi bị đủ thứ người khủng bố tinh thần. Nếu nói tôi có quốc tịch Việt Nam thì tôi có căn cước của chế độ cũ, tức là tôi có quốc tịch của Việt Nam Cộng Hòa thôi.” <br><br> Bốn gương mặt thân thương của những người biết chuyện và đã hết lòng giúp đỡ tôi cứ hiển hiện ra trước mặt. Vào giờ phút chia tay, tôi đã không gặp mặt cả bốn người, để có một lời nào gọi là cảm ơn. <br>Ôi! buồn làm sao. Buồn tràn đầy con tim làm cho mắt tôi cay sè. Anh Chị Khương thường ngày vẫn ở nhà, thế mà hôm nay cả anh và chị lại đi Lái Thiêu nên khi tôi trở về lấy va-ly thì không gặp được anh chị. Cũng may là tôi luôn gởi tiền trước rồi trừ lại sau nên tiền phòng tiền ăn cũng còn dư chút ít chứ không bị thiếu. Chị Đào Hoàng Mỹ và Anh Huỳnh Sơn Phước, tôi sẽ viết thư cho mỗi người khi tôi về đến nhà. <br><br> Vĩnh biệt bốn người mà tôi chỉ gặp trong thời gian ngắn nhưng đã để lại trong tim tôi biết bao hình ảnh đẹp và những điều khó quên. <br><br>18/3/1999 <br><br> Tôi đang ngồi làm việc trong phòng thì chuông điện thoại vang lên. Tôi nhìn đồng hồ , thiếu mười hai phút là sáu giờ chiều. Thường thì vào giờ này và vào ngày này anh bạn ToPa phôn đến để hẹn trước cho chiều ngày mai sẽ gặp nhau ở đâu cho hết buổi tối thứ sáu.<br>Anh ToPa là người mà năm xưa tôi đã gặp ở chợ trời và đã bán cho anh một cái quần với giá tượng trưng. Vì anh là người tôn trọng chữ Tín và dễ thông cảm nên sau đó tôi cũng đã giúp anh thoát khỏi bọn cộng phỉ và đã được chiếc tàu Smitlloyd 104 của Hòa Lan vớt đúng lúc vào sáng sớm ngày 20/8/1980 sau bốn ngày trên biển khi mà chẳng còn bao lâu nữa thì cơn bão lớn sẽ ập đến. <br><br> Nếu anh ToPa không phôn trước thì thường ngày thứ bảy tôi ít khi ra khỏi nhà vì ngày Chúa Nhật tôi phải đi xem lễ sớm. Tôi cầm phôn lên. <br><br> - “Alô…” <br><br> Tôi chỉ mới alô thì từ đầu giây bên kia một giọng nói tiếng Việt của người miền Bắc khẽ hỏi: <br><br> - “Xin lỗi cho tôi gặp anh Tắc-Kè?” Tôi hơi ngập ngừng vì từ lâu lắm rồi không còn ai gọi tên tôi mà thêm chữ Kè vô nữa. Tuy nhiên tôi cũng trả lời: <br><br> - “Tôi đây, xin lỗi tôi đang nói chuyện với ai?” <br><br> – “Thưa anh tôi tên Trường, là nhân viên Tòa Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan. Tôi phôn đến anh để mời anh cuối tuần này hay cuối tuần sau ghé qua Tòa Đại sứ uống ly rượu nhân dịp ông Đại sứ mới đến đây nhận nhiệm vụ.” <br><br> Lúc đó tôi nghĩ đây là trò chọc ghẹo của mấy người bạn vì ai cũng biết tôi ghét và thù bọn cộng phỉ thì đời nào lại có chuyện … kinh dị như vậy xảy ra với tôi. Bạn của tôi thuộc đủ mọi thành phần, nhưng hầu như tất cả đều thích nói vui để chọc ghẹo nhau và không bao giờ giận nhau; tuy đôi lúc cũng bực mình nhau. Có lẽ người ở đầu giây bên kia thấy tôi im lặng lâu nên alô... alô hai tiếng vì vậy tôi phải trả lời như đó là lời mời thật, đồng thời tôi cũng chuẩn bị sẵn câu để nếu đây là trò đùa thì tôi sẽ không bị quê: <br><br> - “Trước hết tôi cám ơn lời mời của sứ quán. Xin anh vui lòng cho tôi biết anh mời tôi là … cá nhân anh hay anh đại diện ai?” <br><br> – “Dạ, nhân dịp ông Đại sứ mới , đến đây làm việc và ông muốn mời anh đấy ạ.” <br><br> Khoảng hai ba tháng trước tôi đã nghe anh ToPa cho biết sẽ có một người đại diện cho nhà cầm quyền Việt Nam đến nhận chức Đại sứ … lần đầu sau cuộc chiến tranh Việt Nam. Sao biết ? Anh nói chủ của anh cho anh biết. (Chủ của anh là người Hòa Lan có gặp tôi và muốn cùng tôi mở công ty hợp doanh. Ông kinh doanh các loại máy computer, còn tôi thì quần áo trẻ em.) Tôi nghe vậy nhưng không quan tâm người đến người đi là ai. Bây giờ thì … tôi thắc mắc sao ông này mới đến và đã biết tôi như thế nào mà mời. <br><br> Thật ra thì tôi chẳng có một chút tiếng tăm gì cả. Cơ sở cũng mới mở còn chờ chủ của anh Topa gia nhập thì mới khai trương; thì làm sao ông ta biết tôi. Dù sao thì tôi cũng cần biết đây là lời mời thật hay là trò đùa của ai đó. <br>Tôi trả lời anh Trường: <br><br> - “Xin anh Trường nói lại với ông Đại sứ là, tôi muốn mời ông Đại sứ cuối tuần tới đến một nơi nào đó để gặp nhau trước. Rồi tuần sau nữa … hay ngày nào đó tôi sẽ ghé sứ quán thăm ông Đại sứ sau.” <br><br> – “Xin anh Tắc-Kè chờ tôi một tí nhé.” <br><br> Tôi nghĩ anh Trường đang chuyển lời của tôi đến ông Đại sứ, nếu như vừa rồi là những lời đối đáp nghiêm chỉnh. Tôi vẫn hoài nghi ai đó muốn chọc phá tôi thôi. Một lúc sau anh Trường hỏi: <br><br> - “Anh Tắc-Kè ơi, nếu gặp nhau thì gặp ở đâu, và khi nào… anh?” <br><br> – “Anh cho tôi khoảng … mười phút. Tôi sẽ phôn lại anh, anh Trường nhé.” <br><br> Nói dứt câu là tôi cúp máy ngay. Tôi không ngờ lại có chuyện lạ đến như vậy, nếu đây là chuyện thật. Về địa điểm thì không đâu hay bằng những thành phố lớn và có nhiều du khách, vì vừa vui lại đẹp nữa. Tôi đang nghĩ đến nhà hàng Tàu ở gần khu đèn đỏ Amsterdam thì bỗng đâu hình ảnh của một doanh nhân người Việt gốc Tàu nổi tiếng tại Hòa Lan hiện ra trong đầu tôi. <br>Vị doanh nhân này đang bị nhà cầm quyền thổ phỉ Việt Nam làm đủ trò hề để mong cướp đoạt tài sản. Anh bị xử tù mười ba năm nhưng tôi không biết anh bị giam ở đâu. Doanh nhân gốc Tàu này có người em ruột thường giao hàng cho một nhà hàng Nhật trong thành phố có nhiều du khách và sòng bài có tiếng. Nhà hàng này nổi tiếng với món ăn Nhật và sang trọng.Tôi quyết định chọn nhà hàng này cho buổi gặp gỡ lần đầu tiên. <br><br> Không khó khăn gì để tìm ra số phôn của sứ quán Việt Nam và địa chỉ nhà hàng Nhật. Tôi phôn lại sứ quán: <br><br> - “Tôi là Tắc đây. Xin cho gặp anh Trường.” Từ đầu giây bên kia tiếng anh Trường thật vui: <br><br> - “Dạ, tôi đây anh.” <br><br> – “Nhờ anh Trường nói lại với ông Đại sứ là cuối tuần sau, thứ bảy ngày 27 khoảng sáu giờ chiều tại nhà hàng Sakura. Địa chỉ Gever Deynootplein số 155 thành phố Scheveningen.” <br><br> Như vậy đúng là ông Đại sứ muốn mời gặp riêng tôi vì trước đó Trường có nói: “Mời anh cuối tuần này hay cuối tuần tới ghé qua …” Tôi không thể tiếp tục làm việc được nữa vì trong đầu đang có những câu hỏi cứ xuất hiện liên tục. Một người “vô danh tiểu tốt” như tôi thì một tên Đại sứ lại tìm đến để làm gì? Ai đã giới thiệu tôi với hắn? Hắn gặp tôi với mục đích gì? <br><br> Vừa suy nghĩ tôi vừa nhìn quanh văn phòng. Tòa nhà này có hai tầng. Tầng trên là văn phòng và có phòng ngủ riêng, lớn và rộng rãi. Cũng có nhà bếp rộng và phòng ăn cùng nhà tắm ... đầy đủ tiện nghi. Tôi chưa từng tiếp người nào tại đây - ngoại trừ anh bạn ToPa và người chủ của anh - Tôi chỉ tiếp khách ở tầng dưới là phòng trưng bày sản phẩm quần áo trẻ em từ ba tuổi đến mười lăm tuổi. Tôi định hôm nào khai trương tôi sẽ mời một số khách đặc biệt lên đây và, ai mệt thì cứ… tự nhiên.<br>Bên ngoài trời đầy tuyết làm trắng xóa cả một vùng rộng lớn. Những căn nhà chung quanh - là những văn phòng và những công ty của người bản xứ - hầu hết mọi người đã ra về vì tôi không nhìn thấy một chiếc xe nào còn ở đây. Tôi thấy chỉ còn mỗi chiếc xe của tôi ở đây thôi. Tôi không thê hiểu vì lý do nào mà tôi lại “hân hạnh” được sứ quán Việt Nam gọi phôn mời đến uống ly rượu mừng nhân dịp người đại diện của một quốc gia mà tôi luôn xem những người cầm quyền là bọn phỉ.<br>Tôi đã quá quen rồi với những trò hèn hạ của bọn cộng phỉ thì đây phải là cố ý có chủ đích, hoặc đã có sự lầm lẫn qua giới thiệu nên một người không tên tuổi như tôi mới được chiếu cố từ một người đại diện của một quốc gia bị khinh rẻ nhất trên trái đất này. <br><br> Tôi nhớ lại khi tôi rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 30 tháng tư năm 1991 trong nỗi uất nghẹn chất ngất nên, ngày 11/8/1991 tôi đã gởi thư bảo đảm cho nhà cầm quyền Việt Nam ở Ba Đình, và một thư riêng, cũng bảo đảm, cho Phan Anh Minh. <br>Mục đích viết thư chỉ là để cho bọn người ở Ba Đình biết Phòng điều tra thành phố Sàigòn đã lấy tiền của tôi nhưng chưa chắc đã xung vào công quỹ mà đã chia nhau ăn xài hết rồi.<br>Tôi ghi rõ người nhận tiền là Phạm Cang, Đội trưởng đội xét hỏi. Và, Mai Quốc Anh, cán bộ xét hỏi đã vòi tôi tổng cộng là bao nhiêu để chung cho Phan Anh Minh. Tôi muốn tên Mai Quốc Anh phải bị thanh trừng ra khỏi ngành an ninh vì đã qua mặt lãnh đạo để ăn tiền riêng. Tôi có thể thu lại tất cả những gì tôi bị bọn ba người ở 3C Tôn Đức Thắng đã lấy. Nhưng, tôi muốn bọn chúng xâu xé nhau vì ăn chia không đồng đều. Và, như vậy là nhà cầm quyền Việt Nam và ngành an ninh Việt Nam ở Hà Nội đều đã biết về tôi. <br><br> Sự việc một người trong ngành ngoại giao đại diện cho bọn lãnh đạo trong nước lại muốn mời gặp riêng tôi thì … Tôi không hiểu tại sao nên việc phải cảnh giác là chuyện đương nhiên. Tôi hoàn toàn không vui mừng và hãnh diện mà trái lại đã làm cho tôi phải đề phòng nhiều hơn. Tôi không bao giờ quên câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi quyết định rủ anh bạn ToPa đi theo để anh có ý kiến và cũng để nhận xét giúp tôi về ông Đại sứ. <br><br> (Tôi là ToPa, là người được Anh Tắc trao lại quyển nhật ký khi Anh lâm trọng bệnh. Tôi muốn phổ biến bức thư mà Anh đã nhận từ Bà Đào Hoàng Mỹ, sau đó Anh mới gởi thư cho bọn người ở Ba Đình để quý độc giả hiểu tại sao Anh nói Anh có thể thu lại tất cả những gì đã bị bọn ba người ở 3C Tôn Đức Thắng lấy, nhưng anh đã không làm.<br>Khi Anh còn đương thời, tôi có hỏi Anh: “Số ba cây vàng Anh đưa cho bà Mỹ mà anh nói không nghĩ là quá rẻ như vậy. Nhưng, tại sao khi viết thư cho bà Mỹ anh lại nói bà “chém hơi nặng”.” <br><br> Anh nói: <br>Bà Mỹ có trước sau hai người chồng đều là phỉ cả. Cộng với việc bản thân bà sống lâu năm và làm việc với nhà cầm quyền cộng phỉ thì ít nhiều gì bà cũng phải bị nhiễm chút ít tính phỉ trong người. Tôi luôn quý trọng và kính nể bà. Nhưng, tôi cũng muốn bà phải trả lời thư tôi và tỏ thật những cảm nghĩ của con người từng được sinh sống yên lành và được ăn học đến nơi đến chốn dưới chế độ nhân bản Việt Nam Cộng Hòa. Người tên Minh trong thư là em nuôi của tôi). <br><br> (Tôi là ToPa, là người được Anh Tắc trao lại quyển nhật ký khi Anh lâm trọng bệnh. Tôi muốn phổ biến bức thư mà Anh đã nhận từ Bà Đào Hoàng Mỹ, sau đó Anh mới gởi thư cho bọn người ở Ba Đình để quý độc giả hiểu tại sao Anh nói Anh có thể thu lại tất cả những gì đã bị bọn ba người ở 3C Tôn Đức Thắng lấy, nhưng anh đã không làm. <br><br> Khi Anh còn đương thời, tôi có hỏi Anh: “Số ba cây vàng Anh đưa cho bà Mỹ mà anh nói không nghĩ là quá rẻ như vậy. Nhưng, tại sao khi viết thư cho bà Mỹ anh lại nói bà “chém hơi nặng”.” Anh nói: Bà Mỹ có trước sau hai người chồng đều là phỉ cả. Cộng với việc bản thân bà sống lâu năm và làm việc với nhà cầm quyền cộng phỉ thì ít nhiều gì bà cũng phải bị nhiễm chút ít tính phỉ trong người. Tôi luôn quý trọng và kính nể bà. Nhưng, tôi cũng muốn bà phải trả lời thư tôi và tỏ thật những cảm nghĩ của con người từng được sinh sống yên lành và được ăn học đến nơi đến chốn dưới chế độ nhân bản Việt Nam Cộng Hòa.Người tên Minh trong thư là em nuôi của tôi.) <br><br> ⦁ Trang thơ 1: <br><br> 15 Võ t. Sáu P Đakao Q 1<br>TP. Hồ Chí Minh 6/6 /91 <br>Anh T. kính mến,<br> Rất ngạc nhiên và rất vui khi nhận được thư Anh... Sáng 1/5 tôi có gọi điện cho Anh, ở khách sạn tưởng lầm tôi là "bồ nhí" của Anh, nên họ ngập ngừng mãi, rồi mới "chia buồn" với tôi, là Anh đã đi từ chiều hôm trước... Vài bữa sau Anh Minh có đến xin lỗi việc ra đi "không chào hỏi" của anh... Nghĩ lại khôi hài quá anh nhỉ! Tôi đã giao lại cho Anh Minh, tất cả các giấy tờ của Anh, chắc Anh đã nhận được rồi... Tôi rất hãnh diện và cảm động, về lòng ngưỡng mộ "phục tài" tôi, mà Anh dành để cho tôi; tuy nhiên tôi cũng rất buồn phiền vì Anh bảo tôi "chém" hơi nặng!! Thú thực tôi chỉ là người giúp việc và hoàn toàn bị động, kẻ chủ động định đoạt là người khác... Nếu Anh cho tôi thời gian rộng rãi độ năm ba tuần lễ thì chi phí sẽ giảm rất nhiều... Đằng này Anh "ra lệnh", trong một tuần lễ phải xong, <br><br> ⦁ Trang thơ 2: <br><br> mà tôi chỉ làm trong vòng 24 tiếng đồng hồ đã giải quyết dứt điểm... Lẽ ra Anh phải thương tôi, quí tôi nhiều hơn nữa, thay vì trách tôi... Tôi nói vậy có đúng không, hở Anh? Nếu đúng Anh phải tạ lỗi với tôi nhé! Anh T. kính mến, đến hôm nay tôi hy vọng Anh được bình phục khỏe mạnh... Phần tôi cũng đang nằm dưỡng bệnh hơn ba tuần lễ mà vết thương vẫn còn rỉ máu, chưa đi làm việc bình thường được! Cách đây khoảng 10 ngày Anh Sơn Phước có đến thăm tôi cho biết có nhận được thư Anh, và hỏi thăm tôi về Anh, về cách cư xử của Anh đối với tôi (vì Anh Phước biết rõ tôi và rất mến phục tôi). Tôi đã hết lời khen ngợi Anh, nên Anh Phước rất hài lòng về sự giới thiệu của mình. Tuy nhiên, cách đây ba hôm nhận được thư Anh, tôi giận Anh lắm! Nên hôm nay, dù còn rất mệt nhưng cũng cố gắng viết thư hồi âm cho Anh... (phụ nữ lòng dạ hẹp hòi, hay hờn giận và lại giận dai nữa, mong Anh thông cảm). <br><br> ⦁ Trang thơ 3: <br><br> Về vấn đề các Anh Công an, nếu Anh đã nhờ người khác thì thôi , còn nếu vì sợ rắc rối gì đó mà Anh sợ hãi bỏ qua thì tôi khuyên Anh đừng sợ, tôi bảo đảm có đủ khả năng và thế lực để giải quyết cho Anh... Thôi thì tùy Anh suy nghĩ và quyết định nhé! Tôi chỉ là người giúp việc và phục vụ lẽ công bằng, có công thì thưởng có tội phải phạt... <br><br> Về vấn đề Cha Lương tấn Hoằng là tôi quen với cha cách đây 20 năm về trước... quen từ thuở còn là một cô Sinh viên mảnh mai với mái tóc thề xõa vai, chứ không phải là một mệnh phụ phu nhân già nua như hôm nay. Do đó Anh bảo tôi viết thư cho cha, nghĩ lại thì cũng ngại ngùng... Có lẽ Anh cho Cha địa chỉ của tôi, nếu Cha còn ghi lại trong tâm tư hình ảnh xinh đẹp của tôi thưở trước, vì ngày xưa Cha rất "cưng" tôi, một cô bé thông minh nghịch ngợm nhưng lại là... niềm vui của cha... thì Cha hãy viết thư cho tôi trước, tôi hứa <br><br> ⦁ Trang thơ 4: <br><br>sẽ hồi âm Cha ngay... còn nếu vì thời gian xa cách quá lâu mà Anh cho tôi địa chỉ của cha, viết thư cho Cha trước, mà cha không nhớ tôi, không biết tôi là ai, không hồi âm thư thì tôi "quê" lắm! Vậy nếu Anh có lòng muốn giúp tôi, thì Anh liên lạc với Cha, cho cha địa chỉ của tôi nhé! Xin cám ơn Anh nhiều... <br><br> Anh T kính mến, người ta thường nói đàn bà "nhiều chuyện" cũng đúng nhỉ! Chứng cớ là tôi nói nhiều quá, Anh nhỉ! Có lẽ đang nằm dưỡng bệnh nên buồn và tương đối rảnh rang. Sau này chắc không có nhiều thì giờ viết thư dài như hôm nay. Anh đọc thư dài đừng phiền tôi nhé! Trước khi dừng bút, tôi chân thành gửi đến Anh những lời chúc tốt đẹp nhất, chúc Anh và gia quyến luôn vui khỏe, thịnh vượng, bình an... Mong có dịp tái ngộ với Anh trong ngày gần đây... Kính mến. <br><br>(Ký tên) <br><br> Hoàng Mỹ <br><br> Ngồi chỗ kín đáo trong nhà hàng Nhật Sakura nhìn ra đường, tôi để ý đến một người thanh niên Á Châu đi ngang qua nhà hàng và nhìn vô, rồi khoảng ba bốn phút sau anh quay lại và cũng nhìn vô. Anh làm như vậy ba lần. Tôi chắc chắn anh phải là người Việt Nam ở miền Bắc vì cách ăn mặc và gương mặt của anh tôi không thể nhầm lẫn được. <br><br> Quá giờ hẹn mười phút rồi mà ông Đại sứ Việt Nam vẫn chưa đến. Tôi bỗng chợt nhớ ra là người cộng sản thường hay sợ sệt mỗi khi đến nơi lạ vì họ có quá nhiều người thù ghét. <br>Tôi nghĩ anh thanh niên mà tôi thấy đi qua đi lại trước nhà hàng là an ninh của sứ quán; đến trước để quan sát địa điểm và tình hình. Nghĩ vậy nên tôi yên trí và không còn mong ngóng nữa. Ông Đại sứ sợ nên đã cho người đến trước dò xét và khi biết an toàn ông mới đến. <br><br> Ông đến trễ mười bảy phút. Người tài xế của ông Đại sứ chính là người đã phôn cho tôi hôm nào, tên Trường. Nhưng, trong buổi gặp gỡ lần đầu giữa ông Đại sứ và tôi, thế mà người tài xế lại được phép ngồi chung bàn và ngang hàng với ông Đại sứ đã cho tôi ý thức rằng, hắn không phải là tên tài xế bình thường mà là người phải có chức vụ. <br><br> Viên Đại sứ Việt Nam và tôi bắt tay nhau. Tôi giới thiệu anh ToPa là người thân và đang cùng làm việc với tôi. <br><br> - “Tôi tên Thắng. Đinh Hoàng Thắng. Rất hân hạnh được gặp anh Tắc-Kè buổi tối nay.” <br><br> Ông Đại sứ người hơi thấp chỉ khoảng một thước sáu mươi tư sáu mươi lăm. <br><br> Ông là người Bắc Kỳ xấu trai với nước da ngâm đen làm cho gương mặt của ông có vẻ tối tăm. Tuổi của ông vào khoảng bốn mươi chín đến năm mươi mốt. Nếu đúng như tôi đoán thì ông lớn hơn tôi vài tuổi. Ông luôn tươi cười để tạo cho gương mặt được rạng rỡ. <br><br> - “Anh Thắng cứ gọi tên tôi là Tắc. Chữ Kè tôi thêm vô khi miền Nam Việt Nam bị mất vì lúc đó tôi gặp nhiều khó khăn.” <br><br> Ông nghe tôi nói thì gật đầu chứ không hỏi. Trong những câu nói đầu tiên, ông nói nhiều về những khó khăn của đất nước mà những điều đó không làm cho tôi bận tâm lắm. Theo tôi, nước Việt Nam càng nghèo bao nhiêu, người dân càng khổ bao nhiêu… thì tức khắc sẽ có một cuộc cánh mạng thật sự bùng lên. <br><br> Ý nghĩ này khi nói ra tôi đã bị nhiều người lên án vì người Việt Nam ở ngoài này đa số vẫn còn thân nhân ở trong nước. Mà, tình thương và tương trợ trong mỗi gia đình Việt Nam là rất quan trọng. Có lần anh ToPa nói: <br><br> -“Có lẽ anh sống xa gia đình và không có người thân thích ruột thịt nên anh nghĩ vậy. Khi nào anh có vợ con rồi thì anh sẽ nghĩ khác đi.” <br><br> Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ có được người đàn bà nào chịu chung sống với tôi đến lúc bạc đầu. Một điều mà nhiều người không hiểu được đó là, những vị tu sĩ công giáo và những người sống lâu năm trong nhà dòng đều có bản tính độc tài do cách truyền dạy để đào tạo vị tu sĩ. Có nhiều vị Linh mục xin trở về đời sống bình thường và lấy vợ nhưng đều không chung sống được lâu. Các bà xác nhận là các ông “độc tài quá.” <br><br> Viên Đại sứ cắt ngang dòng suy tư của tôi: <br><br> - “Tôi nhân danh chính phủ kêu gọi anh Tắc hãy bỏ qua mọi chuyện xưa cũ mà trở về góp sức góp của xây dựng lại đất nước. Sứ quán sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng để anh đóng góp công sức cho nước nhà…” <br><br> Tôi gật đầu và cười như hài lòng lắm nhưng không phải vui vì lời kêu gọi của ông, mà chỉ vì ông đã không thêm chữ ‘được’ vào câu nói. Mới gặp nhau chỉ mấy phút mà tôi thấy ông có vẻ là người có học thức thật sự. <br>Tôi nói ‘có vẻ’ là vì tôi luôn nghĩ những tên Việt cộng ngu dốt. Nhưng, tại sao ông lại nói tôi bỏ qua mọi chuyện xưa cũ? Chẳng lẽ ông cũng đã biết chuyện xảy ra hồi 1991 của tôi? Hay đây là câu nói chung chung vì người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đa số là những người từng bị trù dập đến phải bỏ nước ra đi xin tỵ nạn? <br><br> Nếu nói chính sách của nhà cầm quyền cộng phỉ đang kêu gọi những doanh nghiệp hải ngoại về nước, thì tôi quả là con số không to tướng so với những người Việt Nam có tài sản ở đây. Tôi mới lập công ty và mới buôn bán qua lại với chỉ ba công ty của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chưa khai trương cơ sở chỉ vì vấn đề tài chánh còn hạn chế.<br>Hiện tại tôi chỉ đủ trả tiền cho một người bản xứ phụ giúp công việc ngoại giao và tiếp xúc với khách hàng nội địa. Ngoài ra thì mọi công việc trong công ty, tôi đều đảm trách hết. Tôi vừa là thư ký, vừa là kế toán, vừa là dọn dẹp, vừa là người đi giao hàng… Tôi đang chờ người chủ của anh ToPa hợp tác thì sau ngày khai trương may ra tôi mới có cơ hội khá hơn. <br><br> - “Trước khi trở thành nhà ngoại giao, tôi đã là nhà báo. Tôi từng viết báo và làm thơ cho nhiều tờ báo.” Thắng nói với vẻ mặt hãnh diện vì xã hội nào cũng trọng người “có chữ”. <br><br> - “Về thơ phú thì tôi dốt đặc anh Thắng à. Viết một cái thư bình thường thì tôi có thừa khả năng chứ hơn nữa thì đành chịu. Có lẽ tôi sinh ra đời chỉ để làm những công việc lặt vặt kiếm chút tiền lẻ thôi.” <br><br> Anh ToPa nhìn tôi như có ý muốn nói là: <br><br> -“Tại sao anh lại hạ mình như vậy với hắn. Coi chừng hắn sẽ lên mặt ngay đó. Bọn chúng ngu nên cứ tưởng mình là đỉnh cao trí tuệ.” <br><br> – "Tôi có nghe về công việc làm của anh hiện tại. Tôi biết công ty của anh là qua Phòng Thương Mại. Tôi có ý muốn giới thiệu với anh vài ba công ty may mặc của nhà nước cũng như của tư nhân. Việt Nam cần những người như anh để giới thiệu các sản phẩm.” <br><br> Về điều ông vừa nói tôi cũng đã biết từ lâu rồi. Nhà cầm quyền trong nước từ bao lâu nay bị thế giới ruồng bỏ, nay muốn góp mặt nên cần những người trung gian là những kiều bào đang sinh sống ở các nước mà nhà cầm quyền muốn đưa các sản phẩm sản xuất trong nước đến. Nhưng, tôi nghĩ mục đích thật sự của ông không phải như vậy. <br> Trong một buổi gặp gỡ chỉ đôi ba tiếng đồng hồ thì không dễ dàng cho tôi biết được mục đích thật với những con người nhiều mưu mô lừa lọc… như ông. Dù sao thì tôi cũng phải có đôi lời để tỏ là mình cũng rất “hồ hởi phấn khởi”. Tôi nói: <br><br> - “Tôi cám ơn những điều anh Thắng nói với tôi tối hôm nay. Để thông cảm và hiểu nhau nhiều hơn, tôi mời anh Thắng đến chỗ tôi làm việc rồi khi nào thuận tiện tôi sẽ đến sứ quán thăm anh và mọi người.” <br><br> – “Tôi rất vui được đến thăm công ty của anh. Anh xem ngày nào… thì cho tôi biết tôi sẽ sắp xếp.” Tối nay tôi muốn uống rượu chừng mực thôi để cái đầu còn tỉnh táo. Ngặt nỗi Thắng uống cạn ly thì chờ tôi chứ Thắng không chịu cho anh ToPa rót rượu vào ly của Thắng. Tôi không có việc gì mà phải vội vã. Hãy nói về những chuyện vô thưởng vô phạt rồi từ từ thì điều tôi muốn biết cũng sẽ biết. Thắng còn đến ba năm làm việc ở đây. Nghĩ vậy nên tôi uống với Thắng thoải mái vì lát nữa anh bạn ToPa sẽ lái xe. <br><br> Chúng tôi có hẹn trước với nhau như vậy rồi. Bốn phần ăn mắc tiền nhất trong thực đơn tôi đặt cho bốn người, nhưng không ai ăn nhiều mà uống thì rất nhiều. Bốn người uống hết chai Hennesy XO nhưng vẫn chưa đủ, nên sau đó tôi kêu từng ly cho mỗi người chứ không kêu nguyên chai như lúc đầu. Những thực khách người bản xứ ngồi gần bàn của chúng tôi lộ ánh mắt ngạc nhiên nhìn bốn phần ăn còn gần như nguyên vẹn. <br><br> Chúng tôi vừa nói vừa uống, nhưng luôn là những câu nói để đẹp lòng nhau. Tôi tấm tắc khen Thắng khi Thắng khoe có bằng Tiến sĩ tốt nghiệp tại Hung Ga Ry: <br><br> - “Được quen anh Thắng là điều vinh hạnh. Tôi sẽ trở về lại Việt Nam khi thời điểm cho phép. Lúc đó chắc chắn tôi sẽ nhờ đến anh nhiều.” <br><br> Tôi chưa đến sứ quán Việt Nam lần nào, nhưng các bạn tôi kể là, người Việt mình khi đến sứ quán Việt Nam tại Bỉ hoặc Pháp để xin visa – vì lúc đó Hòa Lan chưa có sứ quán – thì luôn luôn khúm núm tỏ vẻ sợ sệt, và khi nhân viên sứ quán nói điều gì thì dạ dạ luôn miệng. Tôi nghĩ, có lẽ người Việt sống ở nước ngoài sợ bọn người trong các sứ quán, vốn có tính tiểu nhân sẽ hoạnh họe để làm tiền chứ không phải khúm núm vì sợ không cấp visa. Cầu mà được cấp visa cho kiều bào vì vừa được tiền vừa được tiếng. <br><br> Mười một giờ hơn, chúng tôi mỗi người uống ly café cho tỉnh táo và rồi mười một giờ năm mươi phút chúng tôi cùng đứng lên ra về. Trường đi trước ra cửa để đi lấy xe. Thắng và tôi cùng đi ra cửa. Anh bạn ToPa đi phía sau. Trước khi Thắng bước vào trong xe, Thắng đã ôm tôi như những tên cộng phỉ thường ôm nhau khi gặp nhau như tỏ tình thắm thiết lắm: <br><br> - “Cám ơn anh về bữa ăn tối nay. Ngon và vui quá. Hẹn gặp lại anh thật sớm. Hãy liên lạc với tôi qua email anh nhé.” <br><br> E-mail của Thắng; thang.dshl@wxs.nl <br><br> Thắng đi rồi anh bạn ToPa và tôi đi bộ đến quán café gần đó để nói chuyện về buổi tối nay.<br>Mấy ngày trước tuyết còn nhiều. Hôm nay tuyết tan nên đường sá lầy lội vì vậy anh ToPa lái xe rất chậm. Con đường xa lộ hun hút trong bóng đêm có sương mù dầy đặc mà khoảng cách còn tám mươi cây số nữa mới về đến nhà. Anh ToPa mở sưởi trong xe chỉ vừa đủ cho khỏi mờ kiếng vì anh sợ mở ấm quá sẽ dễ ngủ gục. <br><br> - “Dù cuộc đời có bao nhiêu biến động và bao nhiêu cuộc thay đổi tiếp nữa thì anh cũng đừng bao giờ quên những gì đã xảy ra với anh năm 1991.” Lời của anh bạn ToPa làm cho tôi bỗng nhớ lại những đêm trong phòng tạm giam ở 3C bến Bạch Đằng. <br><br> Có lẽ khi đó tôi cũng bị… lạnh lẽo và cô đơn nên cứ bị ám ảnh hoài. Dù sao thì đó cũng là kỷ niệm, tuy buồn nhưng rất đáng nhớ. Trụ sở điều tra thành phố ở 3C bến Bạch Đằng hiện nay đã được bọn Đài Loan đến đầu tư làm cái gì thì tôi không biết. Những người tù sẽ bị đem đi giam nơi nào? Chí Hòa hay nhà lao Gia Định Phan Đăng Lưu? Thân phận người tù thì đi đâu cũng ở trong phòng kín thôi. Nếu bị tù vì tội ăn cướp ăn trộm… thì còn hiểu được. Sống dưới chế độ mà bất cứ thứ gì có giá trị đều bị nhà cầm quyền tìm cách cướp đoạt thì cuộc sống của con người sẽ thê thảm đến như thế nào. Nhưng, nếu bị tù vì tội giết người hoặc hiếp dâm thì không thể chấp nhận được. Tội này cần trừng trị thật nặng. Qua báo chí tôi được biết năm 1992 có một ông Tướng Mỹ qua Việt Nam xin nhà cầm quyền trả tự do cho ông Giám Đốc Đỗ Ngọc Long. Tôi thật không ngờ lúc mình bị tạm giam thì ông cũng đang bị giam tại đó mà tôi không biết. Ông bị bọn cộng phỉ giam cầm lâu quá. Cuộc sống của con người tạm xem như có sáu mươi năm. Sáu mươi năm không dài cho một đời người… như ông, nhưng lại bị bọn cộng phỉ làm cho trở thành vô tích sự mất gần hai mươi năm.<br>Thế rồi bây giờ bọn chúng lại kêu gọi những người bị chúng hành hạ, bị chúng bỏ đói… chẳng hạn như những viên sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, như với ông Đỗ Ngọc Long và như với tôi; là hãy quên đi chuyện bị giam cầm và hành hạ để cùng chúng chung sống dưới sự cai trị của bọn chúng. Không bao giờ! Đối với tôi không bao giờ có chuyện quên quá khứ một cách khơi khơi và dễ dàng như vậy được. Thật sự thì, nếu tôi có muốn quên cũng không bao giờ quên được. Tôi nhìn sang anh bạn ToPa. Có lần anh và tôi nói về sự hòa giải hòa hợp mà bọn cộng phỉ đang ra rả kêu gọi trên các báo mạng. Anh ToPa đã hỏi tôi: <br><br> - “Chẳng lẽ mình cứ thù bọn chúng mãi sao? Cũng phải cho bọn chúng một cơ hội chứ?” <br><br> – “Lúc đầu tôi nghĩ, chỉ khi nào bọn cộng phỉ chịu cúi đầu xin lỗi đồng bào miền Nam về những tội ác trả thù mà bọn chúng đã gây ra sau khi chiếm được miền Nam, thì khi đó hận thù mới xem như được xóa bỏ. Nhưng, anh ToPa cứ chờ đợi rồi sẽ thấy rõ là, bọn phỉ nếu có làm như vậy cũng chỉ là giả dối để qua ải mà thôi. Bọn chúng muốn cầm quyền và muốn không có người chống đối. Khi nào bọn chúng còn nắm quyền lực thì vẫn sẽ gây những bất công và cướp của của đồng bào chỉ vì bọn chúng là phỉ mà. Việt Nam phải thay đổi thể chế thì khi đó người người mới có được hạnh phúc thật sự.” <br><br> Tôi cũng vừa nhớ đến chị Luật sư Đào Hoàng Mỹ. Trong bốn người mà tôi luôn nhớ đến, chị Luật sư Đào Hoàng Mỹ là người tôi nhớ nhiều hơn cả, vì chị đã hồi âm thư cho tôi. <br>Năm 1991 phe nhóm của chị Mỹ mạnh, thế mà vào khoảng năm 1997 – 1998 tôi đọc báo trên mạng và biết chị bị nhà cầm quyền cấm hành nghề Luật sư. Phe nhóm của chị đã không còn như ngày nào nữa. <br>Hoặc, cũng có thể tên cán bộ, là chồng thứ hai của chị đã chia tay chị nên chị bị mất thế chăng? Nếu tôi trở lại Việt Nam thì người đầu tiên tôi liên lạc không phải là chị mà là anh chị Khương. <br><br> - “Mọi chuyện đều có thể bắt đầu làm lại nếu như cái đầu của tôi còn minh mẫn. Tôi còn sáng suốt quá phải không anh ToPa? Nếu chẳng may tôi bị thất bại thì anh sẽ tiếp tục… anh đồng ý không?” Anh ToPa quay đầu qua nhìn tôi và hỏi: <br><br> - “Chuyện gì mà quan trọng vậy?” <br><br> - “Tôi sẽ làm cho tên Đại sứ Đinh Hoàng Thắng phải tha hóa, phải ăn hối lộ, phải nhận tiền của tôi. Và, phải ân hận vì tôi!” <br><br> 03/04/1999 <br><br> Anh ToPa phải thốt lên câu nói khi nhìn thấy sứ quán Việt Nam: -“Một đảng cầm quyền và sứ quán Việt Nam nằm trên con đường một chiều. Điều nhỏ nhặt như vậy cũng làm cho tôi phải suy nghĩ.” <br><br> Hôm qua Thắng phôn mời tôi chiều hôm nay đến thăm sứ quán. Có lẽ từ hôm gặp nhau ở nhà hàng Sakura cho đến nay Thắng không thấy tôi liên lạc nên phôn mời đến sứ quán. <br><br> Khi xe chạy gần đến sứ quán tôi phôn cho Thắng nên Thắng đón tôi và chỉ cho anh ToPa đậu xe ngay trước cửa sứ quán. Sứ quán là căn nhà cùng một dãy nhà thuộc loại xưa cũ nhưng được sơn phết lại nên nhìn cũng… tạm được. Trước cửa sứ quán có treo lá cờ máu thật lớn. Trong sứ quán mọi thứ đều được sắp xếp gọn ghẽ và sạch bóng. <br>Trong phòng tiếp khách đến xin visa hay giấy tờ gì đó có treo mấy bức tranh phong cảnh của ba miền đất nước Việt Nam. Tôi đặc biệt chú ý đến bức tranh có mấy người Thượng mấy con voi và thác nước mà tôi đoán là phong cảnh ở Pleiku vì không thấy ghi địa danh nào. Những tấm tranh treo tường làm gợi nhớ lại thời Đệ nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam quá. Thời gian đó nếu người nào đi thăm thắng cảnh mới thật sự thấy thơ mộng và hữu tình. <br><br> Nhìn tấm tranh làm sao tôi có thể quên được quốc lộ số bảy năm tôi còn là cậu bé con và thường đi trong chiếc xe đò hiệu Sanh Hòa trên con đường này. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm quê hương miền Nam đã có nhiều tháng năm thật thanh bình. Xe đò ngày đó chạy cả ngày lẫn đêm. Một thời gian sau khi bọn cộng phỉ gây chiến tranh xâm lược thì quốc lộ này đành phải bỏ hoang. <br><br> Thế rồi… tháng ba năm 1975 quốc lộ này đã chứng kiến những đau đớn tủi hờn của dân tộc đang dần bị nhuộm đỏ bởi bon cộng phỉ dã man… Thắng đưa tôi vào phòng khách nhưng không đóng cửa. Vì có chủ đích nên tôi chờ cho anh ToPa vào tôi mới tự tay khép nhẹ cánh cửa rồi lấy từ trong túi áo vest ra một cái bao thư không dán: <br><br> - “Đây là quà tôi mừng anh. Tôi mong sứ quán tạo điều kiện để tôi có dịp giúp lại sứ quán và quê hương.” Thắng hơi bất ngờ và ngại khi thấy anh ToPa đang nhìn Thắng và tôi nên chưa chịu cầm. Tôi bồi thêm: <br><br> - “Một ngàn đô la Mỹ thì không nhiều lắm. Anh giữ lấy vì tôi đang làm ăn cũng được. Rồi thì chính anh lại sẽ giới thiệu các công ty trong nước cho tôi… coi như có qua có lại. Nếu tôi có chén cơm, tôi cũng muốn anh phải được chén cháo.” <br><br> Tôi gài cho Thắng từ nay phải nhận tiền của tôi. Tôi chưa từng thấy ai chê tiền bao giờ. Thật sự thì tôi chưa từng nhìn thấy điều đó xảy ra. Thắng định từ chối lấy lệ nhưng vì tôi nói, đây là quà mừng anh, rồi chính anh sẽ giới thiệu các công ty cho tôi, nên Thắng liền cho ngay bao thư vào túi áo vest và quay người về phía sau lấy chai rượu chát đỏ của Pháp và tự tay khui ra mời tôi và anh ToPa. <br><br> Thắng chịu nhận tiền của tôi ngày hôm nay thì rồi sẽ “được” nhận dài dài. <br><br> - “Mời hai anh ngồi đây.” <br><br> Thẳng chỉ tay vào ghế. <br><br> Tôi nhìn quanh căn phòng. Phòng khách nhỏ vì là loại nhà xưa nhưng có đến bốn khung cửa sổ với những tấm rèm trang nhã. Căn phòng có mùi thơm của một loại dầu được tỏa ra nhờ có điện tác động. Khắp phòng có đến ba cái bàn nhỏ mặt bàn bằng kiếng và một cái bàn lớn chung với bộ salon Tôi không biết những cái bàn nhỏ đó dùng làm gì mà nhiều vậy. Tôi ngồi quay lưng lại phía cửa. Phía trên đầu tôi có treo tấm hình “bác” ngồi làm việc ngoài vườn. <br>Suốt buổi tối hôm nay tôi không gặp mặt Trường nhưng gặp hai người đàn bà. Một được Thắng giới thiệu là bà xã tên Mai. Người kia là Bí thư thứ nhất tên Nguyễn Thị Bình. Tên của bà cũng làm cho tôi nhớ đến người đàn bà trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Chắc chắc bà Bình kia cũng được… sáng mắt sáng lòng nhưng không có can đảm phản kháng lại nên muối mặt chịu nhục trong những chức vụ hữu danh vô thực. <br><br> Bà Bình Bí thư thứ nhất của sứ quán ốm như con mắm nhưng ăn nói thật nhỏ nhẹ và lịch sự. Ngồi một lúc bà Bình đi ra và khi trở vào bà cầm theo dĩa mồi nhậu có nhiều loại xúc xích và dĩa củ kiệu. <br><br> - “Cảm ơn chị Bình.” <br><br> Tôi nói khi bà mời tôi, tôi lấy nỉa ghim miếng xúc xích. <br><br> - “Bà xã của tôi có đi du học bên Úc bốn năm. Sau đó về nước làm tiếp viên hàng không Air Việt Nam rồi gặp tôi.” <br><br> Bà Mai – Bà Đại sứ là người đàn bà đẹp và lịch sự. Thắng có được người vợ như bà để giao tiếp với người của Bộ Ngoại Giao bản xứ thì hay quá. Bà có tướng cao và sang. Cao hơn Thắng nhưng… có lẽ còn nghèo. Tôi nhìn thấy bà cũng có đeo nữ trang nhưng toàn loại nhỏ xíu và rẻ tiền. Chiếc nhẫn vàng nhỏ xíu và mỏng mà tôi đoán chỉ cỡ vài phân thôi. Tôi quyết định sẽ tặng bà chiếc nhẫn hột xoàn trong lần gặp tới. Nhẫn nhỏ thôi nhưng là loại thật tốt. <br><br> - “Anh có định khi nào về thăm lại Việt Nam không?” Bà Mai hỏi. <br><br> - “Khi nào anh Thắng thấy cần giới thiệu các công ty may mặc trong nước thì tôi sẽ về. Phải về trước một lần để xem sao rồi mới tính được” <br><br> Thắng vui vẻ nói: <br><br> - “Ngoài Bắc thì có May10 của ông Quang, cũng là chỗ bạn bè với tôi. Trong Nam có Texgamex. Tôi sẽ viết thư giới thiệu cho anh cả hai nơi. Hai nơi này sẽ đưa anh đi giới thiệu với các công ty của cả nước. Ngoài ra tôi cũng viết thư giới thiệu cho anh hãng giầy dép Bitis… cũng là chỗ quen biết cả.” <br><br> – “Nếu vậy tôi sẽ về Sài Gòn trước và sẽ đến Texgamex và Bitis xem sao. Lần khác tôi sẽ ghé Hà Nội.” <br><br> Bà xã của Thắng hỏi: <br><br> - “Anh đến Hà Nội lần nào chưa?” <br><br> – “Chưa chị.” <br><br> Buổi gặp gỡ vui nên đến chín giờ tối tôi mới từ giã ra về. Một món quà mà Thắng “trả lễ” lại cho tôi hôm nay khi Thắng nói như ra lệnh cho bà Bí thư thứ nhất: <br><br> - “Chị Bình à, từ nay anh Tắc được miễn lệ phí visa vì là người sẽ về giúp quê hương đấy.” <br><br>01/06/1999 <br><br> Sáng hôm nay thứ ba, ngày 1 tháng 6 năm 1999 là ngày khai trương công ty xuất nhập cảng quần áo trẻ em và máy computer; sau hai tháng tôi qua lại Việt Nam theo thư giới thiệu của Đinh Hoàng Thắng. <br>Cuối cùng thì Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam do Lê Quốc Ân làm Chủ Tịch đã ký Quyết Định số: 391/ QĐ/ TC-HC ngày 27/5/1999 thừa nhận Texgamex – Europe sẽ là nơi giới thiệu và phân phối các sản phẩm của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam đến toàn Âu Châu. Texgamex Saigon Việt Nam do Nguyễn Mạnh Hùng làm Giám đốc đã đề nghị tôi đặt tên cho công ty của tôi là Texgamex-Europe. Nếu không có phía Việt nam tham dự thì công ty hợp doanh Texgamex – Europe vẫn sẽ khai trương nhưng với tên khác và vẫn sẽ có hai Giám đốc. <br><br> Một Việt Nam là tôi và một Hòa Lan là anh J.F. van de Poll. Anh Poll nhỏ hơn tôi hai tuổi, là người có bằng Cử nhân về kinh doanh. Anh Poll và tôi sẽ chịu mọi chi phí ngày khai trương. Nguyễn Mạnh Hùng kết hợp sự việc chính phủ Hòa Lan mời viên Thứ Trưởng Bộ Công Nghiệp Việt Nam qua để ký nhận kinh phí tài trợ trong chương trình trợ giúp giải quyết (xử lý) nước thải. Nguyễn Mạnh Hùng sẽ chịu chi phí quà cáp cho các người bên phía Việt Nam. Buổi khai trương Texgamex-Europe sẽ bắt đầu vào lúc mười giờ với sự hiện diện: <br><br> - Lê Huy Côn, Thứ trưởng thường trực Bộ Công Nghiệp Việt Nam.<br>- Lê Quốc Ân, Chủ Tịch Hội đồng quản trị Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam.<br>- Đinh Hoàng Thắng, Đại sứ Việt Nam tại Hòa Lan.<br>- Nguyễn Mạnh Hùng, Giám đốc Sàigòn Texgamex.<br>Và, tám Giám đốc các Công Ty may mặc trực thuộc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. <br><br> Buổi lễ khai trương tôi có mời rất nhiều người Việt Nam đến tham dự. Đặc biệt sẽ có mười hai (12) người đẹp Việt Nam sinh sống tại Hòa Lan sẽ mặc áo dài đứng hai bên đón quan khách và tặng hoa. Tôi không bất ngờ khi những người Việt mà tôi mời chỉ hiện diện có hai người. Tôi chỉ bất ngờ khi mười hai người đẹp mà tối hôm trước ngày khai trương đều hứa chắc sẽ đến nhưng, đến giờ khai trương vẫn không thấy bóng dáng người đẹp nào cả. <br><br> Trước buổi lễ khai trương mấy ngày anh bạn ToPa đã “tiên đoán”: <br><br> - “Những người Việt mà mình mời có thể sẽ không đến nhiều… Người Việt ở Hòa Lan chống cộng có tiếng ở Âu Châu. Họ quý mến mình nhưng rất thù ghét bọn cộng phỉ.” <br><br> Quả thật tôi cũng có hơi lo về phần mười hai cô gái Việt sẽ không đến. Tôi lo là vì trước ngày khai trương Nguyễn Mạnh Hùng cứ nói đi nói lại: <br><br> - “Ông Lê Huy Côn thích được đón tiếp long trọng. Buổi lễ khai trương mà tốt đẹp thì tôi sẽ được ông ấy cấp cô-ta (quota) không giới hạn. Anh cố gắng cho buổi lễ xôm vui là mọi chuyện sẽ vui lắm.” <br><br> Có tất cả bốn người Việt đến tham dự. Một cặp vợ chồng có cửa tiệm bán quà lưu niệm ở ngay trung tâm Amsterdam. Anh Dược sĩ N.H. Và anh B.N.P, người có tiệm bán thực phẩm và bán vé máy bay. Khách người bản xứ tham dự khá đông đủ. <br><br> Buổi khai trương cũng có rượu, có bia, có thức ăn nhẹ, có hoa và có quà kỷ niệm… rồi cũng trôi qua. Anh bạn ToPa đã giúp tôi thật nhiều trong việc giải thích những thắc mắc của những người đến từ Việt Nam. Đinh Hoàng Thắng cũng nói với tôi: <br><br> -“Cứ lờ đi xem như những người Việt không đến được vì… rất nhiều lý do.” <br><br> Sau phần khai mạc thì đến phần Thắng đọc diễn văn bằng tiếng Việt khá dài và rất hùng hồn. Bà Mai, vợ của Thắng đứng bên cạnh chồng thông dịch qua tiếng Anh. Cuối cùng buổi lễ đã kết thúc vào khoảng gần trưa. <br><br>Anh bạn ToPa và tôi cùng vợ chồng Thắng đến Amsterdam ăn cơm Tàu. Tôi nói anh J.K. van de Poll đừng đi theo. <br><br> - “Tôi muốn anh đứng ngoài việc làm của tôi với những người này. Đây chỉ là trò chơi giữa tôi và những người ở Việt Nam. Tôi chẳng làm ăn gì với họ đâu”. <br><br> Anh Poll thừa thông minh để hiểu ý của tôi. Tôi từng tâm sự với anh về những gì mà tôi đã bị nhà cầm quyền cộng phỉ đối xử sau ngày sau 30 tháng tư năm 1975. <br>Trong bữa ăn trưa anh bạn ToPa và tôi cố tạo không khí vui và hứa hẹn những việc sẽ làm trong tương lai. Tại buổi ăn này tôi đã trao cho Thắng một bao thư không dán. <br><br> Sự hiện diện của Thắng và vợ được anh Poll và tôi tặng một ngàn tám trăm (1.800) đô la Mỹ. Một tuần sau, ngày 07/06/1999 nữ Đặc phái viên tờ báo Kinh Tế Saigon tên Mai Hương gởi tin về buổi lễ khai trương và đăng trên tờ báo này. Mai Hương là vợ của Đinh Hoàng Thắng. <br><br> Trong hai tháng tôi đi Việt Nam vừa qua chỉ là đi chơi và… hứa hẹn cuội cho vui thôi. Những người của đảng cộng phỉ mà tôi gặp gỡ để gọi là “bàn công việc hợp tác” thì nhiều lắm. Người có chức vụ cao nhất chỉ là Thứ Trưởng Bộ Công Nghiệp. Những người tôi gặp gỡ đều muốn hợp tác với tôi vì qua đó sẽ được đi “công vụ bên Hà Lan”. Không một người nào là không “rút ruột” của công ty bằng đủ cách vì là xí nghiệp quốc doanh. Làm ăn thua hay lỗ cũng chẳng có là vấn đề. Có những bữa ăn và chơi do chính tôi đài thọ nhưng bọn họ lại xin hóa đơn. <br><br> Trong hai tháng đó tôi cũng đã gởi bốn cái thư tại bưu điện Saigon, trong đó có ba cái là thư bảo đảm cho chị Đào Hoàng Mỹ nhưng chị không trả lời. Anh chị Khương đã cho bọn Đài Loan mướn khách sạn mini Hoa Cẩm Chướng dài hạn để làm văn phòng. Anh chị về Lái Thiêu sinh sống nhưng không một người nào ở quanh khu khách sạn biết địa chỉ của anh chị. <br><br> Tôi có gặp lại anh Huỳnh Sơn Phước và cùng đi ăn tối ở nhà hàng Tự Do. Nhà hàng Vy đã mở thêm chi nhánh thứ hai trên đường Pasteur và, do làm ăn phát đạt nên ông chủ con của tên gián điệp đội lốt cố vấn cũng… sang trọng hơn, vì vậy ông đã đổi vợ khác cho đúng với câu: <br><br> - “…Sang đổi vợ.” <br><br> Anh Phước và tôi cũng có đến ăn uống một lần ở địa chỉ mới nhưng không còn thấy vui như ngày nào nữa. “Thằng Thiếu úy ranh con” Mai Quốc Anh đã bị những tên gọi là lãnh đạo sa thải khỏi ngành công an. Phạm Cang bị đổi đi nơi khác. <br><br> Riêng Phan Anh Minh thì trái lại là con diều đang gặp gió nên được thăng quan tiến chức. (Minh có người anh ruột tên Phan Anh Tuấn là Giám đốc sân bay Tân Sơn Nhứt nhưng vì ăn hối lộ và buôn lậu nên bị xử phạt rất nặng.) <br><br> ToPa (Hòa Lan) <br><br> ================================================ <br><br>Khi Mao Trạch Đông và phe Đảng thực hiện cuộc Vạn Lý Trường Chinh từ Hoa Nam kéo về Diên An chính là lúc Đảng Cộng Sản Trung Hoa bắt đầu đổi Chiến Lược dưới sự lãnh đạo của Mao. <br><br> Thực hiện Chiến Pháp Chiến Tranh Cách Mạng của Mao thâu đạt thắng lợi cho phe Cộng Sản tại Trung Hoa bắt đầu từ đó. Cũng từ thắng lợi này, các Đảng Cộng Sản trong các nước chậm tiến châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh noi gương, học hỏi Mao và Hồng Quân, cố gắng du nhập và thực hiện chiến pháp, chiến tranh Cách mạng cho vùng của mình nhằm phát động đấu tranh nhuộm đỏ thế giới. <br><br> Việt Nam sát biên giới phía bắc với Trung Hoa. Cộng sản Việt Nam lập An Toàn Khu ở Thái Nguyên, nhờ Trung Cộng viện trợ, huấn luyện, và chỉ đạo, nên đảng cộng sản Việt Nam đã chiến thắng thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ. <br><br> Sau Hiệp Định Genève 1954, Việt Nam bị chia đôi và nhất là Miền Nam đã thực hiện cuộc Cách Mạng Nhân Vị, thành lập chế độ Cộng Hòa thì tình hình đã thay đổi. Âm mưu và tham vọng của Cộng sản Quốc tế cũng như Việt Cộng vẫn là dùng chế độ Mác Lê thâu tóm VN và Đông Dương. Tiếp tục bài bản của đàn anh Trung Cộng và nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của quan thày Nga - Hoa. <br><br> Dưới chiêu bài chiêu bài đánh Mỹ cứu nước theo lời dạy của Mao, tạo chiến tranh giải phóng với sự ra đời của tổ chức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập vào tháng 12 năm 1960, làm bức bình phong, Việt cộng miền bắc toa rập Việt cộng nằm vùng trong nam lén lút đưa quân xâm nhập từ Miền Bắc vào Miến Nam qua ngả Lào và Cao Miên trên cái gọi là đường mòn Hồ Chí Minh, lập các Mật Khu (căn cứ địa) tại vùng biên giới, rừng núi hiểm trở cạnh dãy Trường Sơn ngoài Miền Trung hay các chiến khu D, Châu Pha, Hát Dịch, U Minh… tại Miền Nam. <br><br>Việt Cộng đã cố gắng phục hoạt lại các cơ sở nằm vùng, khởi động bằng khủng bố, ám sát các viên chức xã ấp, giáo chức, công chức của Miền Nam, gây áp lục, đe dọa sinh mạng và tài sản của người dân trong những vùng xa xôi hẻo ánh. <br><br>Khi đưa ra chiêu bài Mặt Trận Giải Phóng, Việt Cộng đồng thời cũng đưa ra Phương Châm Chiến Lược Ba Mũi Giáp Công, đó là sự kết hợp ba mũi dùi Chính Trị, Quân Sự và Binh Vận để thực hiện chiêu bài đó. <br><br>Đời sống của nhân dân Miền Nam dưới chính thể Cộng Hòa đang được an vui bỗng trở nên xáo trộn vì bọn Việt Cộng nằm vùng nổi lên bằng khủng bố, bắt cóc, ám sát. Chiến tranh du kích bắt đầu và mỗi ngày một gia tăng. Trước tình thế đó, các vị lãnh đạo quốc gia nhận thấy rằng không thể thực hiện một vài Chiến Dịch hành quân như khi đối phó với các giáo phái là xong mà phải có một sách lược quy mô nhằm đối phó với một âm mưu xâm lược của Việt Cộng có hậu thuẫn mạnh mẽ của Cộng sản Quốc Tế. Do đó, Quốc Sách Ấp Chiến Lược được nghiên cứu và ra đời. <br><br>(Chú thích ảnh – Madam Ngô Đình Nhu đang kiểm tra một đồn lũy tự vệ khi đến thăm một ấp chiến lược vào tháng 7/1962) <br><br>Nghe nói tới Ấp Chiến Lược, người ta chỉ nghĩ hoặc hình dung đó là việc gom dân lập ấp. Cộng sản và những phần tử tay sai hoặc bất mãn thì cố tình xuyên tạc, tuyên truyền thổi phồng lên là những trại tập trung dân chúng như trại tù. Tất nhiên, luận điệu đó chỉ có tác dụng đối với số nhỏ. Phần lớn dân chúng đều hiểu biết về chủ trương đường lối của Chính Phủ Quốc Gia. Vậy Quốc Sách Ấp Chiến Lược là gì? Thưa đó là Sách Lược diệt Cộng cứu nước của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sách Lược đó bao gồm ba điểm chính sau đây: <br><br>– Thứ nhất là Chiến Lược “Tát nước bắt cá” tức là gom dân lập ấp để bảo vệ an ninh cho dân chúng chống lại âm mưu xâm nhập của Cộng sản với chủ trương “Dân quân như cá với nước”. <br><br>– Thứ hai là Chủ nghĩa Nhân Vị Cộng Đồng – Đồng Tiến Xã Hội chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. <br><br>– Thứ ba là phục hưng và phát huy Truyền thống xã thôn Việt Nam. <br><br>Gọi là ba điểm chính nổi bật cho dễ hiểu chớ thực ra Quốc Sách Ấp Chiến Lược là một Cuộc Cách Mạng bao gồm nhiều lãnh vực: <br><br>chính trị, quân sự, kinh tế, <br><br>Xã hội nhằm diệt ba thứ giặc: Chia rẽ, Chậm tiến và Cộng sản. <br><br>Ba thứ giặc này luôn cấu kết với nhau đưa dân nước đi xuống. Giặc chia rẽ làm cho dân không đoàn kết, không tập trung được sức mạnh để mở mang, phát triển khiến nước mình chậm tiến. Giặc chậm tiến làm mồi cho vi trùng Cộng sản. Và khi Cộng sản đã len lỏi vào phá hoại thì chúng sẽ gây chia rẽ. Và cứ như vậy, nước mình sẽ đi vào cái vòng luẩn quẩn không sao ngóc đầu lên được. <br><br> Nghị định ngày 12-03-19 63 của Tổng Thống VNCH về việc tổ chức Ấp Chiến Lược. Chiến lược gồm hai phần: <br>(1) Thứ nhất nói về việc gom dân lập ấp. <br>(2) Thứ hai là nói về việc đoàn ngũ hóa và vũ trang nhân dân. Lồng vào đó là tinh thần Dân Chủ Pháp Trị từ Chủ Nghĩa Nhân Vị. <br><br> Ấp có hai loại: Ấp Chiến Lược và Ấp Chiến Đấu. Hầu hết là Ấp Chiến Lược. Ấp Chiến Lược được võ trang thì gọi là Ấp Chiến Đấu. Ấp, Xã thì ở nông thôn; còn Khóm, Phường thì ở thành thị. <br><br>Trong khi thực hiện công tác Ấp Chiến Lược, chính phủ đã cố gắng rút kinh nghiệm công cuộc chống Cộng tại Mã Lai và Phi Luật Tân vì cùng là những quốc gia chậm tiến tại Á Châu bị Cộng sản phá hoại. <br><br>Mã Lai là thuộc địa của Đế Quốc Anh, được trả độc lập và chính quyền Anh đã hết mình giúp Mã Lai tiêu diệt Cộng sản với chương trình huấn luyện Cảnh Sát. Người chịu trách nhiệm là Sr. Robert Thomson, chuyên gia chiến lược du kích, sau đã qua giúp Việt Nam với vai trò Cố Vấn về Quốc Sách Ấp Chiến Lược. <br><br>Công cuộc chống Cộng tại Phillipines dưới thời Tổng Thống Ramon Magsaysay dẹp tan Cộng sản Huk cũng được chính phủ để tâm nghiên cứu. <br><br>Hy Lạp là quốc gia Tây phương duy nhất đã thành công trong việc diệt Cộng thay vì bị Staline cho quân tràn qua chiếm giữ như các quốc gia Đông Âu. <br><br>Những người lính Quốc gia bắt giải mấy tên Việt cộng xuống chiếc ghe ở sông MeKong, 1962 Mỗi quốc gia có một vị trí địa lý và sắc thái văn hóa, chính trị riêng. Vị trí địa lý rất quan trọng. Mã Lai như một bán đảo. <br><br>Phi luật tân là một đảo quốc gồm hàng trăm hòn đảo ở Thái Bình Dương trong vùng Đông Nam Á. Hy lạp thì thuộc phía Nam Âu Châu trong vùng Balkan. Riêng Việt Nam thuộc Đông Dương giáp Lào, Miên, Trung Hoa và từ thời xa xưa, luôn là miếng mồi ngon cho kẻ thù phương Bắc nhòm ngó. Đã bao lần nước ta bị thôn tính, nhưng cha ông ta đã vùng lên đánh đuổi giặc phương Bắc để giành lại độc lập. <br><br>Chỉ vì sự ngu muội, bảo thủ mà triều Nguyễn đã không có chánh sách ngoại giao khôn ngoan, không biết lo canh tân xứ sở để đủ sức chống chọi, kết cục cả nước bị đưa vào vòng thuộc địa. <br><br>Rồi từ đó, vi trùng Cộng Sản có cơ hoạt nổi lên nắm chính quyền gây tang tóc cho dân tộc. <br><br>Kinh nghiệm lớn nhất có lẽ là chế độ Làng Tề ở Miền Bắc trước năm 1954 (từ chiến dịch Navarre về đồng bằng). Thời đó, công cuộc chống Cộng đã có những nỗ lực đáng kể tại Khu Tự Trị Bùi Chu – Phát Diệm. Những khu khác do Quân Đội Quốc Gia Việt Nam kiểm soát thì các làng theo chế độ “hội tề” trong chương trình bình định, được vận động tham gia chống Việt Minh Cộng sản. <br><br>Dân chúng trong làng (chủ lực là thanh niên) được vũ trang (nhận súng đạn), đào hào đắp lũy quanh làng để tự vệ. Việc lập các làng tề như thế trong chiến dịch bình định chính là để mở rộng vòng đai an ninh cho Quân Đội Quốc Gia. </font> Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC của Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại tiểu bang South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài mới nhất của tác giả viết nhân Ngày Lễ Mẹ năm nay. * * * Mùa xuân đã sang khá lâu nhưng vẫn còn lạnh, sáng nay nhiệt độ bên ngoài xuống thấp tới 34 độ F. Qua khung cửa sổ, tôi thấy con đường đối diện đang sáng dầnở cuối chân trời. Bóng tối loãng tan, ánh dương quang rực rỡ. Bình minh đang hé nụ hồng! Tôi bật computer. Ngồi lơ đảng trước màn hình, “rà con chuột” lướt qua các tin tức. Bất chợt, kìa, loạt bài nhân Mothers Day của website MSN. “Moms Genes, 40 snapshots of famous mothers and daughters.” Đó là hình ảnh của những bà mẹ và con gái danh tiếng. “Meryl Streep và Mamie Gummer, Demi Moore với Rumer Willis, Tippi Hedren và Melanie Griffith, Susan Sarandon và Eva Amurri…” Đọc bản tin người Mỹ vinh danh các bà mẹ nổi tiếng và con gái của họ thì tự hào về những người mẹ của họ, tôi chợt băn khoăn, lòng tự hỏi “thế còn những bà mẹ Việt Nam sau 10 giờ sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975 của chúng ta thì sao?” Câu hỏi như một khúc phim quay ngược đưa tôi về với hình ảnh các người phụ nữ Việt Nam; những bà mẹ dũng cảm, hy sinh tất cả cho chồng con sau ngày tang thương của dân tộc năm nào. … Bỏ những vật dụng cá nhân cần thiết vào cái túi nhỏ để mang theo xong, anh chở chị trên chiếc Honda Dame 50 phân khối tới trường Taberd theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon-Gia Định yêu cầu các sĩ quan của che độ Việt Nam Cộng Hòa trình diện, để được “học tập” mười ngày tới một tháng tùy theo đối tượng. Chia tay anh chạy trở về, lòng chị luôn bị ám ảnh bởi ánh mắt âu yếm xen lẫn lo âu khi anh từ biệt. Nhìn đứa con trai với hai cô con gái nhỏ đang vô tư chơi đùa trước sân nhà chị chợt bâng khuâng. Dựng xe, trước nhà, chị đi vô, đi ra rồi ngồi thừ trên ghế với đầu óc trống rỗng không biết làm gì? Ngó dáo dác xung quanh, tường vách lạnh tanh, bàn im lặng bên ghế ngồi, mọi vật như chết tạo cho chị một cảm giác cô đơn, ghê rợn. Chị bỗng bật khóc vì một nỗi lo sợ vô hình xa xăm ùa tới. Năm ngày chờ đợi, bảy ngày móng ngông, mười ngày nôn nao, mưới lăm ngày lo lắng, hai mươi ngày thất vọng, ba mươi ngày sợ hãi vì anh…vẫn chưa về! Chị lần tìm những người đồng cảnh ngộ, các bà vợ cũng có chồng đi “học tập” giống như chị, một bầu không khíảm đạm buồn lo ập xuống khi gặp nhau. Bởi tất cả đều hoang mang chẳng biết bây giờ chồng họ đang ở đâu?điều gì đã xảy ra cho họ? họ còn sống hay đã chết? bao giờ về? Chẳng ai biết, nhưng tất cả đều có chung một suy nghĩ “mình đã bị lừa!”Từ cảm giác đó ai ai cũng lo sợ cho đến chính số phận của mình “vợ và con những người sĩ quan này sẽ ra sao trong những ngày tới?” Nào ai biết được, nhưng cáđã vào rọ rồi.Đành phó mặc số phận cho trời đất vậy! Gạo hết, tiền không còn.Chị Năm bắt đầu bán từ cái cassette Sony đến bàn máy may Singer để nuôi con. Quần tây, áo dài cũng lần lượt ra đi vì chúng không còn được dùng bởi chị không dám mặc trong lúc này nữa. Bây giờ thì chỉ còn áo bà ba với quần lãnh đen và dép nhựa thôi, nên giày cao gót hay giày bít chị cũng bán luôn.Rồi cả chén kiểu, bát cổ cũng bị bán dần.Quần áo đồđạc không còn nên mấy cái tủ trống trơn và trở thành vô dụng. Để mấy cái tủ không, chẳng có gì đựng chỉ thêm choán chỗ trong khi chịđang cần tiền. Nghĩ vậy nên chị đem bán chúng luôn. Bộ bàn ghế bằng gỏđỏ nơi phòng khách rồi cũng nối đuôi ra đi. Đó là mấy tháng ngày cuối của năm 1976. Thời kỳ này chợ trời mọc lên như nấm; nào là chợ quần áo cũ ở trước cổng Lăng Ông Bà Chiểu, chợtrời Huỳnh Thúc Kháng luôn luôn nhộn nhịp mua bán radio cassette nổi tiếng, khu vực chuyên mua bán bàn ghế gỏ, đồ gổ cổ xưa ở trên đường Võ Văn Tần (Trần Quý Cáp cũ) thuộc Quận 3…là các hình ảnh sinh họat của đời sống mới, một bộ mặt khác của Sàigòn hoa lệ ngày xưa. Rồi một chiều ngồi nhìn ngôi nhà đã trống huơ trống hoắc chị bỗng giật mình vì sẽ không còn gì để bán nữa trong mấy ngày tới mà tin anh vẫn biệt tăm chẳng biết bao giờ mới được thả về thì chị và các con chị sẽ sống thế nào đây trong tương lai? Cuối cùng một ý nghĩ chợt lóe lên, chị sẽ bắt chước chị Xuân ở trong xóm ra chợ buôn bán thôi. Chồng chị Xuân là trung uý cũng đi “tù” như ông xã chị và gần cả năm nay chị Xuân đã bước ra mua bán trái cây ngoài chợ Cây Thị gần nhà cũng lây lất lo được cho bầy con năm đứa sống qua ngày. Cuộc sống của chúng không đầy đủ nhưng hẳn cũng khá hơn đám con chị từ mấy tháng nay ngày nào cũng cơm độn với bo bo hay khoai mì hoặc khoai lang! Ngày chị bán sợi dây chuyền va đôi bông tai bằng vàng 18K để làm vốn, chị đã khóc hết nước mắt vì đó là quà mà gia đình anh tặng chị hôm đám cưới khi xưa. Từ đó, bà thiếu tá ngày nào nay đã thành chị Năm bán gạo ở một ngôi chợ nhỏ. Sáng sớm mỗi ngày chị bưng một đống thau, giỏ, xô đựng bao giấy bao nylon, cân xách tay và các thứ lỉnh kỉnh khác ra để ngoài sạp chợ rồi mới trở về mang mấy bao gạo ra. Ở đây chị vừa bán và vừa mua lại gạo phường mà có những người vì nghèo quá phải bán đi để lấy tiền mua khoai hay các thứ cần thiết khác. Cứ thế mà chị bươn chải từ sáng tới trưa. Có những chiều chị đị tới nhà mấy người sống xung quanh để mua gạo tổ, gạo phường mang về mai bán kiếm lời hay đôi khi có ai đó mang được một ít gạo từ quê lên cũng kêu chị tới mua. Cuộc sống lam lũ, cơ cực ấy kéo dài theo năm tháng mà chẳng mấy chốc chịđã thay anh nuôi con hơn năm năm trời. Đôi khi chị lại còn phải tiện tặn, dè sẻn mọi thứ để có tiền mua quà gửi ra Bắc cho anh khi nhận được phiếu thăm nuôi anh gửi về. Nhiều khi nhìn gương mặt hốc hác, hai gò má nhô cao xạm nắng, dáng cao gầy của chị đi liêu xiêu, bóng đổ dài trên mặt đường trong buổi trưa hè, tay ôm tay xách đồ đạc từ chợ về tôi không khỏi chạnh lòng xót xa. Trong số bạn hàng của chị Năm, tôi biết thêm có chị Châu, vợ của một đại úy VNCH. Vốn là một tiểu thư con nhà giàu có nên lúc chồng đi tù rồi chị không biết làm gì. Khi ba mẹ chị bị “đánh tư sản mại bản” thì chị rơi vào túng quẩn triền miên, mất chỗ nương tựa. Nhờ nhà có sân rộng chị quay ra nuôi gà, nuôi vịt kiếm trứng ăn và thỉnh thoảng bán kiếm thêm tiền chợ. . Rồi chị chuyển sang nuôi vịt xiêm khi phong trào chăn nuôi tăng cao. Nhưng thời buổi ấy người ta còn không đủ ăn thì làm sao có thực phẩm cho gia cầm nên chị thường phải đạp xe cọc cạch vào các làng xóm quanh vùng kiếm những nhà nào có trồng chuối thì xin thân cây sau khi chủ đã hái xong buồng chuối chín để mang về thái ra, băm nhỏ và trộn với cám cho vịt ăn. Nhiều bữa chị phải è lưng, cong người đẩy chiếc xe đạp với nguyên thân cây chuối hột thật to về nhà mà tay chân muốn rụng rời. Vịt là loài gia cầm ăn rất nhiều, sau một thời gian chăn nuôi thấy cũng chẳng thu lợi là bao chị đành chuyển nghề ra chợ mua bán. Thế là chị Năm bớt lẻ loi vì có nhiều “đồng minh,” bởi chợ bấy giờ lại có thêm dăm ba người là “vợ sĩ quan ngụy” gia nhập buôn bán kiếm sống nữa. Chị Châu thì bán cải chua, chị Chín có chồng là trung uý “pilot” thì bán rau muống chẻ! Ngoài việc bươn chải nuôi chồng nuôi con, các chị còn phải lén lút tụ họp bàn thảo tìm phương cách chống lại đủ loại áp lực, lừa phỉnh của phường khóm mỗi lần chúng “vận động gia đình họ hồi hương hay đi vùng kinh tế mới” để chồng các chị sớm được thả về. Trước cuộc đổi đời oan nghiệt đó, các chị đành cam tâm, cắn răng chịu đựng cho qua cơn bỉ cực với hy vọng monh manh làchồng họ “học tập tốt” để sớm được nhà nước khoan hồng cho trở về nhà. Và chẳng biết tự bao giờ các chị đã trở thành những trụ cột của gia đình như nhà thơ Tú Xương đã từng khen vợ: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ, âu đành phận Năm nắng mười mưa, dám quản công” Những bà Mẹ Việt Nam thời cộng sản, nuôi chồng trong tù, thay chồng làm cha, thức khuya dậy sớm, tần tảo bán buôn để nuôi đàn con thơ dại. Bên cạnh đó, còn thêm chuyện những bà mẹ phải đứt ruột khi quyết định ném con ra biển tìm tự do. Những năm phong trào vượt biên nở rộ, qua nhiều lần đi tới đi lui không thành mà gia đình tôi lại có dịp quen biết với cô Tư đang ở quận 10. Cô Tư này ngày xưa có chồng là Thẩm Sát Viên trong nghành cảnh sát. Ngày 30 tháng 04 năm 1975 trong khi một số người lính trở về với gia đình thì chồng cô không biết do sợ hãi hoặc không chấp nhận sống với cộng sản hay sao đó mà lại tự sát chết bỏ lại cô lúc ấy mới có hai mươi tám tuổi với hai đứa con trai nhỏ; một đứa mới lên ba và đứa kia mới hơn một tuổi. Bơ vơ với tuổi đời còn quá trẻ và hai đứa con dại giữa chốn thành đô, cô không biết làm gì để sinh sống nên cuối cùng đành dắt díu hai con về tá túc tại nhà cha mẹ ruột. Một thời gian sau cô ra bán ở chợ trời Tạ Thu Thâu khi người dân trong nước bắt đầu nhận quà tiếp tế của thân nhân ở hải ngoại gửi về. Nhờ đó mà cô khá lên, có của ăn và của để do đó cô đã tính đến chuyện cho con cô vượt biển. Nhiều đêm cô nằm trăn trở, nghĩ ngợi mãi để cuối cùng đi đến một quyết định vạn phần khó khăn. “Quăng con ra biển!” Đó là một điều vô cùng khủng khiếp mà cô đành phải lựa chọn bởi không còn con đường nào khác hơn. Dứt núm ruột mình mang nặng đẻ đau để cho con ra đi tìm tự do hầu thoát khỏi gông cùm cộng sản mà trong đó chín phần chết chỉ có một phần sống là nỗi lo sợ ghê gớm mỗi lần cô nghĩ tới nhưng buộc phải chấp nhận vì đó là cách tốt nhất lúc bấy giờ. Ấy là cái duyên mà tôi vàthằng Tòng con của cô đã gặp nhau! Vượt biên có số, định cư có phần. Đi chung với nhau vài lần không lọt, sau này vì hoàn cảnh mỗi gia đình tự tìm lấy đường đi riêng. Năm 1985, tôi ở tù về thì một buổi chiều, Cô Tư tất ta tất tưởi vào nhà tôi. Thoáng thấy chúng tôi, cô đã nhìn ba tôi nói hối hả không kịp thở trong nỗi mừng vui khôn xiết: - Thằng Tòng được tàu Mỹ vớt rồi anh ơi! Vừa nói cô vừa chìa bức điện tín đánh từ Mỹ về của nó cho ba tôi xem. Tôi nhất thời đứng chết trân không biết nói gì vì tin đó khiến tôi mừng cho nó đồng thời cũng nghe cay đắng cho phận mình! Lần ấy là lần cuối cùng nó ra khơi ở cửa biển Gành Hào giữa hai tỉnh Bạc Liêu với Cà Mau. Còn mẹ tôi? Lại một cảnh đời nghiệt ngã khác của các bà mẹ nuôi con ở tù khi tôi vượt biên bị bắt. Mẹ tôi cũng vất vả sớm trưa, chắt chiu từng đồng để dành tiền mua thực phẩm, nấu nướng quần quật suốt ngày để có thức ăn mang đi nuôi tôi. Có những ngày mẹ đã mò mẫm trong đêm ra bến xe đò trong khuya khoắt ngồi ngủ gục lên gục xuống đợi các chuyến xe đưa mẹ lên “trại cải tạo” ở núi rừng Đồng Phú, chẳng quản thân gầy trèo non lội suối giữa tiếng chim kêu vượn hú, tay xách nách mang nặng nhọc lo cho đứa con đi tù vì tìm đường vượt biển. Hoặc mấy bận mẹ xuống miền Tây xa xôi, ngồi trên những chiếc xe lôi tay níu chặt thành xe, tay giữ chặt các giỏ đệm đựng thức ăn của tôi mà mẹ đã dày công nấu nướng cho chúng khỏi văng xuống đất khi xe chạy qua các con đường đầy ổ gà rồi lại khó khăn leo lên các chiếc “tắc ráng” nho bé chạy dập dềnh lên xuống trên sóng nước mênh mông để vào tận trại lao động nằm chơ vơ ngoài cửa biển hay ở các “doi đất”cuối miền của đất nước để gặp đứa con trai thân yêu đang lâm cảnh tù đày! Thế cho nên Tháng Ba vừa qua khi hay tin mẹ đau nặng, nằm cấp cứu ở Bệnh Viện Hoàn Mỹ, Quận Phú Nhuận, là tôi đã vất bỏ tất cả công ăn việc làm, mua vé cấp tốc về Việt Nam ngay bởi tôi sợ sẽ không được gặp mẹ trong lần sau cùng đó! Vì mua gấp nên tôi đã phải ngủ lại ở phi trường Detroit suốt đêm đợi chuyến bay sớm để đi Incheon-Seoul sáng hôm sau. Nằm dật dờ ngoài phi trường tôi miên man nghĩ về mẹ, hình ảnh của bà mẹ già luôn ám ảnh trong tâm trí tôi khiến tôi da diết nhớ lại những ngày còn nhỏ được sống trong vòng tay âu yếm của mẹ hiền. Chao ôi! nhắc tới nỗi cơ cực của những bà mẹ hiền Việt Nam sau năm 1975 thì làm sao chúng ta có thể kể hết sự đau khổ, tủi nhục, tính nhẫn nhục chịu đựng để lo cho chồng con lúc đó của họ? Thời gian cuốn trôi tất cả, phủ mờ mọi thứ nhưng sự tận tụy hy sinh của những bà mẹ Việt Nam thìvô cùng tuyệt vời, ngời sáng theo tháng năm. Hôm nay nhân ngày “Mothers Day” trở lại trên đất Mỹ, tôi có ít dòng gửi tới mọi người như một cách để chúng ta tri ân Mẹ, tôn vinh ca ngợi Mẹ bởi vì Mẹ là một cõi trời riêng với tình mẫu tử bao la, bởi vì Mẹ là cơn sóng biển mà ngàn đời sóng mãi ru con trong tiếng ru êm đềm mỗi khi nghĩ về. Mẹ là tất cả của đời con! Ohio, Mothers Day 2017 Triều Phong (TPN) https://vvnm.vietbao.com/p246459a246570/22/nhung-ba-me-sau-30-thang-tu https://nguyenvanguyen.blogspot.com/2019/01/quyen-nhat-ky-cua-tac-ke-topatac-ke-ten_9.htmlnoreply@blogger.com (Thanh)0 tag:blogger.com,1999:blog-484459571859985074.post-4447121165731337595Tue, 08 Jan 2019 22:58:00 +00002019-01-20T23:26:06.070-08:00 <p >** Audio Book: <a href="http://viteuu.blogspot.com/2012/11/thien-hoi-ky-trai-kien-giam-cua-nguyen.html#more" target="_blank"> THIÊN HỒI KÝ TRẠI KIÊN GIAM CỦA NGUYỄN CHÍ THIỆP </a></p> <p >** Audio Book: <a href="http://viteuu.blogspot.com/2012/11/thien-hoi-ky-thep-en-ang-chi-binh.html" target="_blank"> THIÊN HỒI KÝ THÉP ĐEN CỦA ĐẶNG CHÍ BÌNH </a></p> <p >&nbsp; HỒI KÝ TÔI ĐI TÌM TỰ DO CỦA NGUYỄN HỮU CHÍ: </p><p ><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-phan-1.html" target="_blank">KỲ 1 ĐẾN KỲ 20</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-ky-21-en.html" target="_blank">KỲ 21 ĐẾN KỲ 40</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-ky-41-en.html" target="_blank">KỲ 41 ĐẾN KỲ 60</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-ky-61-en.html" target="_blank">KỲ 61 ĐẾN KỲ 80</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-ky-81-en.html" target="_blank">KỲ 81 ĐẾN KỲ 95</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/03/toi-i-tim-tu-do-nguyen-huu-chi-ky-96-en.html" target="_blank">KỲ 96 ĐẾN HẾT</a></p> <p> KÝ SỰ TRONG TÙ CỦA ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA </p> <p ><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky.html" target="_blank">Phần1</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_16.html" target="_blank">Phần2</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_5830.html" target="_blank">Phần3</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_5439.html" target="_blank">Phần4</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_8822.html" target="_blank">Phần5</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_9999.html" target="_blank">Phần6</a><br/><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_4821.html" target="_blank">Phần7</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/04/ky-su-trong-tu-cua-ai-ta-pham-ba-hoa-ky_7461.html" target="_blank">Phần8</a></p><p >&nbsp;</p> <p> *** HỒI KÝ GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ CỦA NHÃ CA </p> <p ><a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/05/giai-khan-so-cho-hue.html" target="_blank">Phần1</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/05/hoi-ky-giai-khan-so-cho-hue-cua-nha-ca.html" target="_blank">Phần2</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/05/hoi-ky-giai-khan-so-cho-hue-cua-nha-ca_4.html" target="_blank">Phần3</a><br/> <a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/05/hoi-ky-giai-khan-so-cho-hue-cua-nha-ca_5185.html" target="_blank">Phần4&nbsp;</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;<a href="http://viteuu.blogspot.com/2013/05/hoi-ky-giai-khan-so-cho-hue-cua-nha-ca_5264.html" target="_blank">Phần5</a>&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;</p> <p>&nbsp;</p>

No comments:

Post a Comment