Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh đề ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tới càng thấy tức!
Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới Chiến Tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.
Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà VNCH đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân của tôi.
Tôi vui mừng và cẩn thận photocopy/sao lại những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông và về những tài liệu mà ông dùng để trợ huấn.
Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại Thầy sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận.
Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giờ nghỉ ngắn/giải lao, tôi tiến tới bàn ông Giáo sư Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, chúng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ.
- Thưa giáo sư, xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông trong vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở:
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam. Tôi là một cựu sĩ quan của quân đội VNCH. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B52 trên Cao Nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, và mười năm sau trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.
- Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa thầy. nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.
Thầy chưa từng khoát áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nỗi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân VNCH phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mãnh đạn vỡ đầu.
Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ đó tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng cộng sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó.
Nếu chế độ Cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng Minh đánh lầm vào nhà dân mà thầy đã xót xa, cho rằng quân Đồng Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vị trí của tôi, không hiểu thầy nghĩ sao? Ngày 18 tháng tư năm 1974, sau khi tái chiếm căn cứ Hòa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết, bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lê đâm vào bụng và ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt cộng tràn ngập căn cứ trưa ngày 15 tháng tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi. Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết… Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa thầy Dan nói nhỏ với tôi.
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi không ngần ngại, tiếp lời:
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thấy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.
Tôi tâm sự với Thầy Dan rằng: tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước.
Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Pleime, Đức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi:
- “Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời:
- Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.
THE MAP OF IA DRANG VALLEY
Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm sự người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dakto năm 1968. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhất của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “đường mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng - đó là cả hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt – Miên – Lào, Từ Khảm Đức tới Bo Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trận Xuân Lộc, tháng Tư năm 1975. Trận Xuân Lộc ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cả nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vùng nội thành cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì Tổ Quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra tiếng.
- Trời ơi!
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền VNCH ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng từ sau tháng tư năm 1975 khắp đất nước tôi, “Trại cải tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re- Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai dược trá hình.
Những “học viên“ trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt sức. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buồi ngồi đứng học tập, phê bình bầu bán.
Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, làm sao để tìm lại tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi câu chuyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cũng như những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con chờ chồng trong 13 năm bị giam giữ từ đấy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954, tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thấy rõ, sau Hiệp Định Genève năm đó, hai miền Nam Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng cộng sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam, quân đội và người dân VNCH chỉ làm nhiệm vụ tự vệ.
Suốt từ năm 1954 đến 1964 Việt cộng đã đi đường rừng chui đường hầm du kích đánh lính và dân miền nam, ròng rã 10 năm ấy, tình trạng miền nam đã đến lúc nguy ngập thì Quân Mỹ và Đồng Minh mói vào Việt Nam để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc để chặn nạn cộng sản có thể lan tràn xuống Đông Nam Á.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ ngưng viện trợ đạn dược, xăng dầu chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu và vũ khí viện trợ từ khối Cộng len một cách lạ kỳ.
Ia Drang Infantry disembarking from Helicopter
Thời gian khởi đầu chương trình "Việt Nam Hóa Chiến Tranh" còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng Minh bàn giao lại. Để chứng minh điều này, tôi mở copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân VNCH vượt biên tiến chiếm dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa cạnh trên có ba cọng râu bên trái là con số 2.
- Đây! thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng II chiến thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mekong trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân, tôi đã đánh chiếm thành phố Bakev và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt.
Nhưng những năm sau viện trợ vũ khí cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đơn cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
- Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi; thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm 800 quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C này.
Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974 tiền đồn Pleime do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Pleime cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C. C thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch.
- Để chống lại ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy; tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ?
Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế? Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ VN năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là superisor của Hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy:
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cập bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận.
Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn tự tử, rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai, hãng xưởng nào không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời mẫu giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này, lương hưởng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
|
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam va Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với VNCH và quân đội Đồng Minh, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi.
Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo:
- Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt Nam, đó chính là thằng con út của tôi!
Năm ngoái bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “0” vì nó viết theo quan điểm của một người dân miền Nam. Nhưng những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua, không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ.
- Tôi tin lời Ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mặt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt.
- Thưa người chiến binh, ông vừa lập một chiến công!
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Pleime, tôi đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông Thầy dạy Sử tươi cười giao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.0).
Cuối khóa học Mùa Xuân/Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa các khu giáo sư có tiếng gào lên như tiếng sấm:
“Long, I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắt loa tay hướng về sân khấu: “my soldier, I’m loving you!”
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo lên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo.
Hai năm sau, khi tốt nghiệp B. A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó, cho tới khi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lần lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274.
Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương vẫn còn văng vẳng:
“Thưa người chiến binh, ông vừa lập một chiến công!”
Vương Mộng Long (K20)
Seattle 7-2011
Nguồn: ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ_
No comments:
Post a Comment