Wednesday, January 2, 2019

 


 

 




ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ


Lời giới thiệu: Người lính Biệt Động Quân ấy đã lập một chiến công kể từ khi cuộc chiến chấm dứt vào năm 1975.

Tôi đã từng nghe rằng, thư viện và cả học đường của Hoa Kỳ giảng dạy rất sai về cuộc chiến của Việt Nam. Tôi đã tức tối - tại sao không có những tài liệu đích thực và Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ phải chấp nhận đưa vào chương trình giảng dạy?

Hôm nay đọc bài này, tôi được biết thêm một điều có những môn học, người giáo sư phụ trách được toàn quyền về nội dung.

Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã đối diện với một vị giáo sư Sử ờ Shoreline Community College W. A. Vị giáo sư này đã dạy sai hoàn toàn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Vương Mộng Long đã tranh cải, đã bị điểm thấp. Cuối cùng, không đầu hàng, người lính thuở nào đã bỏ thì giờ tìm tòi tài liệu và… một lần đối diện với vị Giáo Sư Sử, Thiếu Tá Vương Mộng Long nói về cuộc chiến mà ông là một phần của nó, về những gì ông chiến đấu, chứng kiến và về cả những gì ông bị trong 13 năm tù đày bời cái gọi là “trại cải tạo" của Việt cộng.

Ông Giáo sư Sử, người đã bao năm dạy sử Việt Nam sai cho học sinh Hoa Kỳ, đã lắng nghe và thốt lên với người học trò, cựu chiến binh Việt Nam, “Thưa người chiến binh, ông vừa lập được một chiến công”.

Đây là một bài viết trong ngày Tháng Tư Đen mà tôi được đọc theo ý kiến tôi.
Vương Mộng Long vẫn tiếp tục chiến đấu trên vùng đổi mới, và chiến công này của ông đáng được cộng đồng vinh danh. Xin nhận nơi đây niềm biết ơn chân thành nhất của tôi!




“Thưa người chiến binh, ông vừa lập một chiến công!”



VML

Biệt Động Quân Vương Mộng Long, tốt nghiệp Khóa 20/TVBQGVN. Vùng II qua các Tiểu Đoàn BĐQ. TĐ 11, 4 Mike Force, TĐ 81, và TĐ 82. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 82/BĐQ.

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào trường University of Washington (U. W.) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.)

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nỗi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.

Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày ngày, vừa tan sở, tôi vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time (toàn giờ), bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang thì bỗng dưng quẹo vào một khúc quanh chỉ vì vào Khóa Mùa Thu/Fall Semester năm 2000 tôi đã ghi danh lớp History “274 U.S. and Vietnam”.

Tôi lấy lớp Sử ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam, vì sao chúng ta thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả mấy chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ, lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’ Mông và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

VML

Biệt Động Quân Vương Mộng Long

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy, nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu.

Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian của học kỳ đầu Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông Giáo sư Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế Quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai (1964-1975) vì theo lời thầy thì Hồ Chí Minh đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thán phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại chiếm Đông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang làn tràn trên toàn thế giới và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Xuất Quân - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
http://youtu.be/rcmewCwA8mc
Chúng tôi đã được cho xem những đọan phim cũ về trận Điện Biên Phủ, về Hiệp Định Genève, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận cờ âm vang quốc tế như Pleime, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, Long Khánh... Chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng Minh và Việt Nam Công Hòa, trận Mậu Thân chỉ là cảnh nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những tài liệu này đều có thực, nhưng Thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng.

Tôi chưa được nghe từ miệng Thầy một lời nói tốt cho VNCH. Thầy mô tả Quân lực VNCH như một đội quân kém cõi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với Thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách quốc phòng Hoa kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dầy cộm “Book said!”

Biệt Động Quân - QLVNCH ARVN
http://youtu.be/JclUkdE0WOo

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông Thầy 'phản chiến' đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

Thầy hùng hồn thuật lại những lần Thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên nhập ngũ ngày đó đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa kỳ (Mid-term) tôi đều lãnh điểm “F” (fail) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm “0” chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên Universirty of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà cả Tiểu Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm.

THE BATTLE OF IA DRANG VALLEY ©wikimedia

THE BATTLE OF IA DRANG VALLEY
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh đề ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tới càng thấy tức!

Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới Chiến Tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.

Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà VNCH đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân của tôi.

Tôi vui mừng và cẩn thận photocopy/sao lại những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông và về những tài liệu mà ông dùng để trợ huấn.

Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại Thầy sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận.

Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giờ nghỉ ngắn/giải lao, tôi tiến tới bàn ông Giáo sư Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, chúng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ.

- Thưa giáo sư, xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông trong vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở:

- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.

Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:

- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam. Tôi là một cựu sĩ quan của quân đội VNCH. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B52 trên Cao Nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, và mười năm sau trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.

Bài Ca Chiến Thắng
http://youtu.be/u1Z2xmr4XWY
- Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa thầy. nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.

Thầy chưa từng khoát áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nỗi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân VNCH phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mãnh đạn vỡ đầu.

Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ đó tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng cộng sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó.
Nếu chế độ Cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng Minh đánh lầm vào nhà dân mà thầy đã xót xa, cho rằng quân Đồng Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vị trí của tôi, không hiểu thầy nghĩ sao? Ngày 18 tháng tư năm 1974, sau khi tái chiếm căn cứ Hòa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết, bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lê đâm vào bụng và ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt cộng tràn ngập căn cứ trưa ngày 15 tháng tư năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi. Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết… Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa thầy Dan nói nhỏ với tôi.

- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.

Tôi không ngần ngại, tiếp lời:

- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thấy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.

Tôi tâm sự với Thầy Dan rằng: tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước.

Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Pleime, Đức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi:

- “Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”

Tôi cứ tình thực trả lời:

- Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.

THE MAP OF IA DRANG VALLEY
Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm sự người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dakto năm 1968. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhất của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “đường mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng - đó là cả hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt – Miên – Lào, Từ Khảm Đức tới Bo Prang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trận Xuân Lộc, tháng Tư năm 1975. Trận Xuân Lộc ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cả nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vùng nội thành cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì Tổ Quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra tiếng.

- Trời ơi!

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền VNCH ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng từ sau tháng tư năm 1975 khắp đất nước tôi, “Trại cải tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re- Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai dược trá hình.

Những “học viên“ trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt sức. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buồi ngồi đứng học tập, phê bình bầu bán.

Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, làm sao để tìm lại tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi câu chuyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cũng như những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con chờ chồng trong 13 năm bị giam giữ từ đấy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954, tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thấy rõ, sau Hiệp Định Genève năm đó, hai miền Nam Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng cộng sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam, quân đội và người dân VNCH chỉ làm nhiệm vụ tự vệ.

Suốt từ năm 1954 đến 1964 Việt cộng đã đi đường rừng chui đường hầm du kích đánh lính và dân miền nam, ròng rã 10 năm ấy, tình trạng miền nam đã đến lúc nguy ngập thì Quân Mỹ và Đồng Minh mói vào Việt Nam để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc để chặn nạn cộng sản có thể lan tràn xuống Đông Nam Á.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ ngưng viện trợ đạn dược, xăng dầu chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu và vũ khí viện trợ từ khối Cộng len một cách lạ kỳ.

Ia Drang Infantry disembarking from Helicopter
Thời gian khởi đầu chương trình "Việt Nam Hóa Chiến Tranh" còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng Minh bàn giao lại. Để chứng minh điều này, tôi mở copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân VNCH vượt biên tiến chiếm dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa cạnh trên có ba cọng râu bên trái là con số 2.

- Đây! thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng II chiến thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mekong trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân, tôi đã đánh chiếm thành phố Bakev và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt.
Nhưng những năm sau viện trợ vũ khí cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đơn cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

- Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi; thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm 800 quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C này.
Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974 tiền đồn Pleime do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Pleime cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C. C thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch.

- Để chống lại ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy; tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ?
Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế? Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ VN năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là superisor của Hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy:

“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cập bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận.

Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn tự tử, rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai, hãng xưởng nào không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời mẫu giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này, lương hưởng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam va Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với VNCH và quân đội Đồng Minh, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi.
Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo:

- Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp sử 274 này không?

- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!

- Cậu bé Việt Nam, đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “0” vì nó viết theo quan điểm của một người dân miền Nam. Nhưng những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua, không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ.

- Tôi tin lời Ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mặt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt.

- Thưa người chiến binh, ông vừa lập một chiến công!

Ông Giáo Sư Dạy Sử
http://youtu.be/FV5qFFuGqQM
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Pleime, tôi đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Đoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông Thầy dạy Sử tươi cười giao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.0).

Cuối khóa học Mùa Xuân/Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa các khu giáo sư có tiếng gào lên như tiếng sấm:

“Long, I’m proud of you!”

Đến lúc bà Hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắt loa tay hướng về sân khấu: “my soldier, I’m loving you!”

Vietnam War Music
http://youtu.be/oDY8raKsdfg
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo lên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo.
Hai năm sau, khi tốt nghiệp B. A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó, cho tới khi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lần lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274.
Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương vẫn còn văng vẳng:

“Thưa người chiến binh, ông vừa lập một chiến công!”

Vương Mộng Long (K20)
Seattle 7-2011
Nguồn: ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ_


 

0000000000000000000000000000000000000

 



VIỄN CẢNH VỀ CHÍNH THỂ CỘNG HÒA CHO VIỆT NAM


Các bạn trẻ quan tâm đến tình trạng đất nước thường phân vân giữa chính thể cộng hòa và thể chế dân chủ. Có bạn còn chưa rõ các quốc gia Đông Âu và Liên Xô đều đã theo chính thể cộng hòa và tương tự Việt Nam sẽ thế.

Cộng hòa - Cộng sản

Cộng hòa nghĩa là mọi công dân đều bình đẳng về chính trị. Có như vậy quyền lực chính trị mới thực sự thuộc về toàn dân. Công dân có quyền và có bổn phận bầu ra người đại diện quốc gia.

Nhờ bình đẳng về chính trị, nền cộng hòa khuyến khích sự phát triển của đa nguyên, đa đảng tạo nền tảng xây dựng xã hội dân chủ.

Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1946-76) và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1976-) là quốc gia theo thể chế cộng sản. Đảng trên cả Tổ Quốc. Ngay trong Đảng Cộng Sản các đảng viên đã bị đối xử bất bình đẳng về chính trị.

Ngoài xã hội người dân đã mất hẳn quyền tự do chính trị. Trong chế độ cộng sản, Hiến Pháp chỉ là hình thức. Phương thức “Đảng cử dân bầu” cũng chỉ là hình thức dân chủ trá hình nên không thể được xem như là một nước cộng hòa.

Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia Cộng Hòa trong thời chiến và đã trải hai qua hai nền Cộng Hòa - Tổng Thống chế.

Đệ Nhất Cộng Hòa (1956-63) do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo qua hai nhiệm kỳ và đã chấm dứt sau cuộc đảo chánh 1-11-1963.

Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-75) trải qua ba đời tổng thống.

1. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đắc cử hai nhiệm kỳ và ông Thiệu đã từ chức ngày 21-4-1975.

2. Tổng Thống Trần Văn Hương chỉ được 7 ngày (21-4 đến 28-4-1975).

3. Tổng Thống Dương Văn Minh chỉ được ba ngày và ngày 30-4-1975 thì đầu hàng quân đội Bắc Việt, chấm dứt nền Đệ Nhị Cộng Hòa. (Tổng Thống Dương Văn Minh được coi là tổng thống vi hiến).

Hai nền Đệ Nhất Cộng Hòa (1956-63) và Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-75) đã đi vào lịch sử. Mỗi nền Cộng Hòa có nhiều điểm khác nhau, việc đánh giá và viết lại trang sử là việc làm của những nhà viết sử.

Trong bài viết này xin đưa ra một số ưu điểm chung của cả hai nền Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam.

Giá Trị Của Nền Cộng Hòa tại Miền Nam

Việt Nam Cộng Hòa là một nước cộng hòa non trẻ trong thời chiến nhưng đã xây dựng dựa trên một nền tảng dân chủ:
(1) Công dân bầu Quốc Hội Lập Hiến
(2) Quốc Hội Lập Hiến soạn Hiếp Pháp
(3) Công dân bầu Quốc Hội Lập Pháp và bầu Tổng Thống.

Quốc Hội Lập Hiến và Lập Pháp đều có sự tham gia của đa đảng chính trị. Các đảng chính trị đóng một vai trò vô cùng quan trong trong việc xây dựng nền dân chủ và pháp trị tại miền Nam. Cả Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đều đã có đối lập chính trị hoạt động trong nghị trường.

So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến Pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bực của Việt Nam. Hiến pháp vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. Hệ thống tam quyền phân lập cũng đã được đưa vào Hiến Pháp 1967.

Cũng so sánh với các quốc gia trong vùng, Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật:

1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;

2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân lập;

3. Xây dựng thành công một nền giáo dục, lấy dân tộc, nhân bản và khai phóng làm căn bản

4. Theo kinh tế thị trường tự do;

5. Nhưng vẫn bảo đảm được vấn đề dân sinh như y tế hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng.

Kinh nghiệm thế giới cho ch úng ta thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn người.

Sau 40 năm, Đảng Cộng Sản đã hủy hoại tất cả những giá trị nền cộng hòa đạt được. Tuy nhiên, giá trị tinh thần cộng hòa vẫn còn đó và sẽ được phục hồi.

Tinh Thần Cộng Hòa vẫn tồn tại

Mặc dù Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại nhưng sinh hoạt và tinh thần cộng hòa đã ăn sâu vào cách suy nghĩ của người miền Nam. Tinh thần này đã được truyền cho thế hệ tiếp nối và lan tỏa khắp nơi. Trong nước tại miền Nam các thế hệ đi trước đã kể cho con em họ về lịch sử của họ và của Việt Nam Cộng Hòa.

Ở hải ngoại tinh thần được những người tị nạn mang theo và gìn giữ. Biểu hiện rõ ràng nhất là các sinh hoạt cộng đồng tại Hoa Kỳ, Tây Âu và Úc châu vẫn tiếp tục sử dụng Quốc Kỳ, Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa và luôn gắn bó với cuộc đấu tranh giành lại tự do tại Việt Nam.

Ngày nay nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại tinh thần cộng hòa đang từng bước hồi phục tại Việt Nam.

Nhiều người sống ở miền Bắc hay trước đây theo cộng sản dần dần cũng nhận ra những ưu điểm mà thể chế cộng hòa mang lại cho dân, cho nước.

Việc công nhận Việt Nam Cộng Hòa cũng được ghi nhận trên những cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam.

Ngày nay, ở hải ngọai có hằng triệu người thuộc thế hệ tiếp nối Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ học hỏi, sống và làm việc tại các cường quốc trên thế giới họ đã tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm sẽ là nền tảng xây dựng lại Việt Nam. Một yếu tố mà Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa không hề có.

Một khi Việt Nam có tự do, những công dân gốc Việt cũng sẽ dùng lá phiếu, sẽ nỗ lực vận động các cường quốc giúp đỡ xây dựng lại Việt Nam.

Viễn Cảnh Về Nền Đệ Tam Cộng Hòa

Tình hình thế giới đang biến chuyển không ngừng, càng ngày càng nhiều quốc gia trở thành các quốc gia Cộng Hòa. Úc trong 10 năm tới có lẽ cũng sẽ trở thành một quốc gia cộng hòa.

Tình hình Việt Nam cũng thế:
(1) Bên trên Bộ Chính Trị càng ngày càng phân hóa,
(2) Bên trong đảng cộng sản diễn biến hòa bình càng ngày càng khốc liệt,
(3) Bên ngoài xã hội thì đòi hỏi thay đổi chính trị mỗi ngày một tăng thêm.

Các tổ chức tôn giáo, tổ chức đấu tranh chính trị, tổ chức xã hội dân sự đã và đang liên kết tìm một hướng đi mới cho Việt Nam.

Khi chế độ sụp đổ, các quốc gia Đông Âu và Liên Xô đều đã theo chính thể cộng hòa và tương tự Việt Nam sẽ thế.

Muốn có một nền tảng vững chắc cho tương lai, cần hướng đến một Quốc Hội Lập Hiến soạn một hiến pháp mới cho Việt Nam. Tên nước, cờ, thủ đô, mô hình thể chế dân chủ sẽ được tòan dân quyết định.

Cho đến nay lá cờ vàng vẫn là biểu tượng của những người theo khuynh hướng cộng hòa. Vì thế họ luôn tìm mọi cách vinh danh và hợp thức hóa lá cờ.

Quan điểm cho rằng phải bỏ màu cờ để có thể bàn chuyện dân chủ là một quan niệm thiếu dân chủ. Trước đây ở miền Nam và sau này ở Hải Ngoại cũng đã từng tranh luận công khai về việc thay đổi màu cờ.

Quan điểm dân chủ sẵn sàng chấp nhận phương cách đấu tranh dân chủ qua một cuộc trưng cầu dân ý để có một màu cờ chung cho tòan dân tộc.

Kết Luận

Việt Nam đã từ bỏ chế độ Quân Chủ, đang từ bỏ chế độ độc tài cộng sản, chính chế cộng hòa sẽ là thể chế tương lai Việt Nam. Các quyền tự do cơ bản và giá trị cộng hòa sẽ được phục hồi.

Nền Đệ Tam Cộng Hòa sẽ tiếp tục sứ mệnh xây dựng, giữ gìn đất nước và đưa đất nước đi lên hội nhập vào thế giới văn minh.

Các bạn trẻ dấn thân đấu tranh cho dân chủ khi nắm được điều đơn giản bên trên sẽ định được hướng đấu tranh một cách rõ ràng hơn.
Xây dựng lại đất nước là một việc rất khó, cần biết rõ phải làm gì để có thể làm nhanh hơn với kết quả tốt hơn.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
17-10-2014




 

Nguyên Soái và Thống Chế 

Các quốc gia Đông Á, chức vụ Nguyên Soái (元帥) với ý nghĩa thống soái tối cao của quân đội do hoàng đế bổ nhiệm có tính thời vụ trong những chiến dịch lớn và quan trọng. Trong khi đó, chức vụ Thống Chế (統制) lại mang một chức vụ quan võ, chức quan cao cấp trong triều đình.

Hai danh xưng này không tương xứng nhưng cũng có thể thấy danh hiệu Nguyên Soái cao hơn danh hiệu Thống Chế.

===========================================


LAO TÙ và VƯỢT BIỂN

Mũ Xanh Trần Văn Khỏe

Sài Gòn những năm cuối thập niên 70, nhà nhà vượt biển, người người tìm đường vượt biên. Dân Sài Gòn những năm đó có câu “Cây cột đèn có chân nó cũng đã đi rồi.” Đường biển thì đi bằng tàu, đường bộ thì vượt biên giới qua Cămbốt, Lào để đến Thái Lan. Những câu chuyện vượt biên vượt biển được truyền nhau bí mật, truyền cho nhau kinh nghiệm trong chỗ bạn bè, thân nhân ruột thịt. Nhưng cũng có những câu chuyện thương tâm bị cướp biển Thái Lan hãm hiếp, bắt về bán cho các động mãi dâm ở Thái. Năm 1979 có những chuyến đi “bán chánh thức”, người Hoa bị xua đuổi về Tàu. Người ta đóng ghe công khai, có những nguời dắt mối, mỗi đầu người 9 cây…những từ ngữ trở thành quen thuộc “Yanma Đầu Bạc” “ba lốc, bốn lốc” (block). Rạch Chanh ở Long An là một trong nhiều chỗ đóng ghe đi bán chánh thức. Có người bị gạt, cũng có người đi được, cũng có những chuyến bị “bán” và bể khi ra khỏi cửa sông làm mồi cho cá. Một dạo, có một chuyến đi bán chánh thức từ BiênHòa, đến khi vào sông Lòng Tảo bị bể tàu và người chết, xác nổi lên tấp vào bến phà Cát Lái, Nhơn Trạch, người ta đi vớt xác cũng có, mà người ta đi vớt của cũng không thiếu. SàiGòn vượt biên…những câu chuyện vượt biên không kém phần hấp dẫn như tiểu thuyết.

*

Trốn tù ra trong những ngày cuối tháng sáu 1979. Đã hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài, tinh thần tôi khủng hoảng và sợ sệt, tôi về tịnh dưỡng dưới quê nhà anh rể tôi vùng Rạch Kiến. Được vài tháng quen cách sống bình dân, tôi trở lên lại Saigon liên lạc được một số bạn bè cũ, biết được Phan văn Đuông thằng bạn cùng khóa chung TD5/TQLC, cũng lỳ đòn trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng vào nhau, có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.

Len lỏi sống qua ngày, Đuông thi bơm hộp quẹt ga chợ Sai Gòn, tôi vá bánh xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng, kiếm ăn, đồng thời nghe ngóng tin tức để tìm đường vượt biển.

Vài tháng sau, gặp được Nguyễn văn Phải cũng khóa 4/71 bên Binh Chủng Nhảy Dù được VC thả về trước ba năm, bà mẹ già về quê để lại căn nhà nhỏ bên hông trường “Đại Học Sư Phạm”, thấy bạn bè không nơi nương tựa, Phải kéo một đám về cho tá túc hằng đêm, sau này có thêm Sơn, Lâm BĐQ tất cả độ khoảng trên dưới năm bảy thằng toàn là SQ trong 3 binh chủng TQLC,ND,BQĐ.

Ban ngày tủa ra đường kiếm ăn, đêm thì ghé lưng được vài ba tiếng, chúng tôi thường giành nhau chỗ ngủ trên gác gần máng xối, để khi đêm về có động tỉnh thì hồn ai nấy giữ, trổ máng xối chui ra mà chạy. Tháng ngày trôi qua, ngoài cái đói và phập phòng lo sợ hàng đêm, những thằng trốn tù như tôi và Đuông phải nổ lực ráo riết tìm đường vượt biển. Nghe Phải nói về tổ chức vượt biên của anh Sáu (Khoái Th/tá ND). Đuông và tôi thì trên răng dưới vế tìm đâu ra một, hai cây vàng mà đi? Nhưng tôi cũng bậm gan nhờ Phải hỏi dùm “đi trước trả sau” may ra thì anh Sáu đồng ý. Vài tuần sau, nghe được trả lời, còn một chỗ cho tôi đi trong chuyến “Chín Thu” Tôi không biết mặt anh Sáu nhưng tôi thằm phục môt vị đàn anh, cảm thông và giúp đỡ đàn em trong cảnh khốn cùng, như một tia sáng vươn lên hòa lẫn trong niềm hy vong. Vài hôm sau, ngày đổ bãi đã đến, tôi được anh Hai Nhất tới dẫn đi về Vĩnh Long. Trên xe đò, tôi tò mò hỏi: - “Hai Nhất có phải tên thật của anh không? Và “Chín Thu” là ai? Mấy anh gọi nhau bằng ám danh tôi không hiểu ra tên ai hết”. - Tôi là HSQ đàn em của anh Sáu, tôi thường hay đi trước nên mệnh danh Hai Nhất. Tôi hỏi tiếp, như vậy còn Chín Thu, anh hai Nhất trả lời: - Chín Thu là anh Th/tá Mai B.T, chồng cũ ca sĩ K. L, hiện anh đang giữ con “cá Lớn”, là bạn thân của anh Sáu, yên chí đi. Tôi thầm nghỉ số tôi quá ư là may mắn, tên Mai B.T vang bóng một thời nổi tiếng dân chơi của Biệt Đoàn…, nay được anh tới đón là điều không thể tưởng. Tới Vĩnh Long đã chiều, anh Hai Nhất và tôi ăn vội dĩa cơm lót dạ, rồi đón xe lôi chạy thẳng về điểm hẹn... Tôi không còn nhớ rõ nơi nào, một căn nhà nhỏ độ vài mươi mét vuông, cạnh bờ rạch nhỏ , vào bên trong nhà, tôi ngã lưng trên chiếc võng sau nhà. Anh hai Nhất đi tìm người liên lac. Giờ phút đến theo dự trù khoảng độ 10 giờ đêm, tôi hồi họp chờ đợi, rồi 11 giờ tôi thấy anh hai Nhất lầm lũi trở về trong bực tức anh chửi thề “ ĐM.. thằng Chín Thu chỉ rướt đám Ca sĩ Ngọc M.., bỏ lại bên cánh mình “ Lòng buồn vô hạn, nhưng cũng an ủi ,vì đâu đã mất tiền, có lẽ đây là cách chơi của bậc đàn anh... Trong khoảng gần cuối năm 1979, chuyến vượt biên đầu coi như hoàn toàn thất bại, tôi lểu thểu trở lại Saigon. Thời điểm bấy giờ, vượt biên, vượt biển là đề tài chính. Lường gạc, lừa đảo lẫn nhau là chuyện bình thường. Vợ tôi khi tới Úc cũng cực khổ, cố gắng làm gởi tiên về gia đình nhưng chỉ đủ cho thằng em trai tuổi nghĩa vụ đóng tiền vượt biển. Đầu năm 1980, tôi tình cờ gặp anh Phan Thành Nam trước kia anh là Đ/úy trưởng phòng truyền tin Phủ Tổng Thống ở chung trại tù lúc còn ở Trảng Lớn, anh bây giờ đồng cảnh ngộ như tôi, nhưng anh may mắn hơn có được Chị Thu người vợ rất lanh lẹ và quán xuyến công việc mọi đàng. Anh Nam cho biết đã đóng tiền một chỗ đi rất tin tưởng,chiếc ghe đang kéo lên ụ tàu Cầu Rạch Ong sửa chữa, sẽ được xuống nước trong thời gian ngắn. Làm cách nào tôi đào ra 2 cây vàng để đưa cho chủ ghe để được có phần trong chuyến đi cùng anh Nam sắm tới. Tôi liên lạc với má vợ tôi thường xuyên, bà rất thương tôi, chạy lòng vòng vài chỗ hỏi mượn cho tôi đến khi vợ tôi gởi tiền về thì hoàn trã lại, cũng may có người bạn cùng xóm của vợ tôi cho mượn. Được 2 cây vàng lòng mừng không diễn tả được, nhưng bấy giờ lại sợ bị mất tiền. Tôi đòi hỏi thấy chiếc tàu đồng thời được làm thủy thủ. Người chủ tàu đồng ý lời tôi. Khi đưa xong vàng, đi sâu vào nội bộ thì biết ra có 2 phe cánh đang giành giựt nhau làm chủ, một bên chủ máy và một nửa của chủ vỏ ghe. Cuối cùng bên bỏ tiền mua máy tàu làm chủ, vì chủ vỏ ghe đã lấy quá nhiếu vàng. Tôi và anh Nam cũng may được hai bên đồng ý cho làm thủy thủ đoàn vì họ đang cần người chăm sóc chiếc ghe. Với tôi thêm một chỗ ngủ mới cho tôi thay đổi, trong thời gian di động. Tôi thường phụ thợ máy mỗi khi làm hộp số. Khi rảnh rổi thì tới nhà Diệp Phi Hùng tìm anh Sơn để học hỏi lý thuyết về cách lái ghe, khi gặp sóng biển lớn, và những ký hiệu phao nỗi ngoài cửa biển. Anh Sơn chỉ vẽ rất tân tình vì trước kia anh là dân lái gian thuyền PCF, anh Sơn luôn căn dặn: - Nhớ lúc nào cũng đi sóng 6/4 hay 7/3, không bao giờ chẽ sóng 5/5 Những danh từ thường dùng cho dân HQ, tôi chưa bao giờ nghe, rồi anh giải thích. - Sóng 6/4 là mũi ghe và sóng biển với góc 60 độ và 40 độ, 7/3 là 70 và 30 độ, còn 5/5 là Sóng biển và mũi ghe góc vuông 90 độ, phải nên tránh trường hợp này. Tôi cẩn thân ghi chép từng đoạn, vẽ hình từng loại phao đặt ngoài cửa biển. Trước đây khi còn trong tù, tôi cũng học hỏi sơ qua của mấy thằng bạn Hải Quân chung trại nhưng có bao giờ nghĩ tới có dịp thực hiện bao giờ. Khoảng tháng 3 năm 1980 chiếc ghe hạ thủy, với 14m dài, gần 3 m chiều ngang, vỏ nghe đi sông biến thành ghe biển. Lúc đang chờ hợp đồng tôi và anh Nam lấy ghe chạy thử, lái thì dễ nhưng cập bến là vấn đề khó khăn, hơn nữa tôi nghỉ đâu phải là trách nhiệm của tôi. Vài tuần sau, khi có giấy phép hợp đồng chở cát về xã Lý Nhơn thuộc Quận Nhà Bè, cũng là dịp để thử chiếc ghe, thì đám tài công chính xuất hiện, một Th/Sĩ HQ làm tài công chính, một Ch /úy và hai người khác tôi không nhớ rõ, tất cả đều là phe ta Quân đội cũ, có lẽ ngoài tài công ra, đoàn thủy thủ này toàn bộ Amateur như tôi và anh Nam. Sau ba chuyến đi hợp đồng coi như suông sẻ, qua sông Nhà Bè rồi tới xã Lý nhơn. Kế hoach bàn thảo sẽ đổ quân vào chuyến thứ tư với hợp đồng nước đá Huyện Cần Giờ, nhưng khi ra cửa sông lớn lái gần bên phải bốc quân bên Vàm Láng. Vào cuối tháng Tư, theo dự trù sẽ tất cả chờ trên cá nhỏ (ghe nhỏ), sẳn sàng ngoài cửa sông Vàm Láng, chờ khi trời sụp tối cá lớn (ghe lớn) đến bốc rồi thẳng ra cửa biển trong đêm. Mỗi nhóm một phận sự trên bờ ông chủ ghe điều động bốc người, phần chúng tôi là làm thế nào để đưa ghe lớn “cá lớn” tới điểm hẹn an toàn và bốc người đầy đủ. Ghe rời ụ xuất phát khoảng lúc 8 giờ sáng, chạy sang cầu chử Y rước bà chủ ghe, lúc chờ đợi tôi lội xuống kiểm soát chân vịt lần cuối. Ghe bắt đầu rời bến, lúc đi hợp đồng thì không gì lo sợ, không hiểu lúc này sao lại run chân, chạy ra khỏi vùng sông Saigon, rồi khu vực Nhà Bè xuyên qua những con rạch nhỏ, lúc này tôi không còn đinh hướng được vì qua các khúc rạch quằn quèo. Tôi vào cabin nhìn qua tấm hải đồ định hướng. Anh Th/sĩ tài công chỉ vào Hải đồ tôi thấy đã hơn nửa đoạn đường, chúng tôi cho ghe chậm lại lúc đó độ hơn 1 giờ trưa, lòn lách trong những con rạch nhỏ solo một mình. Tôi không hiếu tại sao anh tài công lại đi đường tắc này rất dễ dàng lộ diện. Nếu là tôi lái thì sẽ đi con đường chính diện, cũng may là không ai phát giác, tà tà chạy tới, con sông bắt đầu rộng dần, rồi tới rộng lớn mênh mong anh tài công lái ra chính giữa, nhìn qua hai bên bờ quá xa, cả đoàn thủy thủ trên ghe mừng hớn hở, hy vọng đã vươn cao, gần tới chỗ bốc người, trời cũng xế chiều. Bỗng nhiên hàng loạt AK50 bắn ròn rã vào hướng ghe chúng tôi đang chạy. Biết bị lộ, trên ghe cả đám mất tinh thần, lúc này tôi như ra lệnh cứ tiếp tục chạy như không nghe biết gì, anh Th/Sĩ cũng nghe theo chạy thẳng qua hướng về Vàm Láng. Tiếng AK50 nổ dòn và giữ dội hơn kèm theo M79, nổ ầm ầm trước sau con tàu. Bà chủ ghe quá sợ, kêu gọi chúng tôi quay vào, còn lây quây suy nghỉ thì 2,3 trái M79 nổ ầm, ầm sát bên ghe. Anh tài công hốt hoảng quay mũi tàu hướng về phía Công An. Rồi nghe tiếng AK bắt đầu bớt lại, khi thấy ghe chúng tôi hướng thẳng vào bờ. Cửa biển quá rộng mà tôi lại lội không rành, làm sao tôi dám nhảy sông, nghĩ bụng đợt này mình chết chắc, bao nhiêu lần may đều thoát nạn giờ thì đã hết vận may. Có thể trong đoàn thủy thủ tôi là người tội nặng nhất, trốn tù, giấy tờ giả, thêm tội vượt biên. Cả đoàn thủy thủ mỗi người ngồi một góc, có thể họ cũng đang tìm lời đối đáp với bọn công an. Chiếc ghe từ từ lũi vào chỗ cạn, một đám công an lội sình cầm súng nhảy lên ghe, trói tay tất cả, bắt lội sình vào trong xã, rồi quỳ một hàng như những tội phạm đang đợi giờ xử bắn. Bà chủ ghe cũng bi đưa vào trong đó hỏi cung, và trình giấy hợp đồng bà đang giử. Tên công an xã quát lên: - Hợp đồng buôn nước đá này là giả, hợp đồng vượt biên thì đúng hơn. Bà chủ ghe cũng cãi lại: - Trên ghe không bằng chứng vượt biên Tên công an cười mĩm rồi nói tiếp: - Bà có biết ai tên là Nguyễn Thị Quí không? chủ máy của chiếc ghe này, chính bà ấy lên tận sở công an thành phố thưa bà đó. Công văn, công điện chúng tôi nhận được từ lúc 12 giờ trưa hôm nay, và bà ấy đã cho biết bà Lê thị Hồng cướp ghe vượt biển. Ghe này có phải mang số: SS0167 không? Nói xong tên công an quăng ra bản công điện nhận từ Sở công an Thành Phố, trên đó có ghi rỏ tên chủ ghe, chủ máy, và những lời tố cáo hợp đồng giả mạo để vượt biên, nên bà chủ ghe cứng họng. Chờ trời vừa sụp tối, chúng tôi được lệnh giải giao về huyện Cần Giờ đoạn đường này phải mất cả đêm. Tôi không còn nhớ tên xã là gì nhưng biết là xã cuối cùng của huyện. Sáu tên công an áp tải với 3 khẩu AK47, 2 khẩu M16 và 1 cây M79. Nhìn những khẩu súng trên tay 6 tên công an đang giữ, trong số các loại này tôi chỉ sợ khẩu M79. Chúng tôi được mở trói lúc đẩy trở lại ghe, và tất cả bị đẩy xuống hầm tàu chỉ chừa lại một tài công điều khiển. Ghe chạy được một đoạn ngắn, anh tài công buồn chán nản, cho gọi tôi lên điều khiển con tàu. Tôi nhảy lên phòng lái, nhanh mắt quan sát, thấy cách công an bố trí, rồi thoáng nghĩ chắc đời mình hết chạy, một tên công an ngồi trên mũi ghe, một sau lái, một trên nóc, 2 bên hong và một ngồi cạnh bên tài công để hướng dẫn đường. Như con chim bị nhốt trong lòng, cố tìm lỗ trống bay ra, cầm tay lái nhưng đầu tôi luôn suy nghĩ. Hơn 8 giờ đêm, trên trời mặt trăng lưỡi liềm lơ lững, ánh sáng chiếu trắng bon tàu. Bỗng tên công an ngồi canh tôi lên tiếng hỏi. - Trên ghe các anh có gì ăn không? Tôi suy nghĩ một chút và trả lời: - Trên ghe có gạo, muối, khô sặc, khô đuối, nếu các anh đói bụng thì tôi đi nấu cơm. Không đợi tên CA trả lời, tôi cúi đầu xuống hầm tàu gọi thằng đàn em lên cầm lái thế tôi. - Cứ giữ tay lái thế này, bẻ qua, bẻ lại như lái xe hơi; cố giữ cho chiếc ghe đi thẳng. Tôi đi bắt nồi cơm. Khi bước ra sau ghe gặp tên công an sau lái hỏi. - Anh làm gì đi ra đàng sau này? Tôi trả lời. - Đi nấu cơm, anh ngồi trong phòng lái bảo tôi đi nấu cho tất các anh ăn. Tên công an này yên lặng, thì ra tên công an trong phòng lái với tôi là trưởng toán. Nấu cơm xong tôi nướng cá khô sặc kèm theo khô cá đuối. Mùi cá khô làm thơm phức cả tàu, tôi thấy cả mấy tên đói bụng đang chờ ăn. Tôi vừa nấu cơm, nướng khô, nhưng đầu óc quay cuồng tìm cách thoát. Nấu cơm, nướng cá khô xong đã hơn 9 giờ đêm, tôi dọn ra phía trước mũi giữa bon tàu, rồi mời tất cả vào ăn một lượt. Sáu tên công an tụm lại ngồi ăn. Bầu trời mờ mờ ánh trăng, mặt sông loang loáng ánh sáng. Tôi không thể xác định được điểm đứng, đây là nơi nào… Hai bên bờ mờ mờ trong sương đêm, nhưng đây là dịp ngàn năm một thuở, bằng mọi giá tôi phải thoát khỏi con tàu này. Trở vào phòng lái dặn dò thằng đàn em Ch/úy, nói vắn tắt cho anh ta hiểu hoàn cảnh hiện tại của tôi. Và tôi dặn anh ta cố gắng giữ cho con tàu ép về bên phải. - Tao phải đi, bằng mọi giá phải đi. Thấu hiểu được hoàn cảnh của tôi, nên anh đã làm như lời tôi dặn. Con sông rộng độ chừng 100m, tôi thì quờ quạng không lội xa. Ghe bắt đầu lạng dần về bên phải, tôi ra sau lái, thấy Đ/úy Nam trưởng phòng truyền tin PTT nằm ngoài cạnh bon tàu. Tôi nói nhỏ vào lỗ tai anh ấy. - Trốn không? Đã tới lúc. Anh trả lời với giọng buồn thiu: - Bạn đi đi, giấy tờ tôi đầy đủ, hơn nữa giờ này vợ con tôi không biết ra sao ngoài cửa biển, good luck...!! Biết anh không đi, tôi vội vàng lòn qua khung cửa sổ bên hông tàu, chùi mình qua cửa, rôì thả nhẹ đôi chân, mình trầm xuống nước. Nước lạnh, có gió, tôi rùng mình, tự nhủ thầm “Nhứt chin nhì bù”. Tôi nhoài mình cố gắng lặn ra xa; cánh quạt chân vịt phía sau tàu giúp đẩy thẳng tôi ra một đoạn, cố nín thở, lặn sâu xuống nước, nhưng không hiểu sao lúc này đầu cứ lại trồi lên. Tôi hụp xuống và lặn ra xa cách chiếc ghe độ chừng 10 mét, tiếng máy ghe cứ nổ đều đều, không một chút nghi ngờ, trên ghe vẫn yên tỉnh. Thật cám ơn thằng Ch/uy đàn em. Tôi nín thở cắm đầu lặn tiếp, lặn mấy hơi, trồi lên thở mà vẫn thấy chiếc ghe còn rất gần. Tôi than thầm trong bụng; không còn đầu óc để tính toán, suy luận. Trong đầu chỉ còn một ý niệm “thoát hay là chết”. Lấy hơi, vừa lặn tôi vừa bơi về bên phải để vào bờ. Lúc này, tôi sợ nhất là khẩu M79, khi chúng phát giác có người trốn chúng sẽ dùng khẩu đó để bắn chụp xuống sông, chắc tôi sẽ bỏ xác vì tức nước, AK47 và M16 thì tôi đã biết rõ tầm tác hại, xui lắm tôi mới dính đạn này. Cám ơn Thủy Quân Lục Chiến. Cám ơn Quảng Trị chiến trường. Kinh nghiệm đó tôi lấy làm căn bản. Để đối phó cùng thực tế đêm nay. Tôi vẫn cố sức sãi vào bờ, ghe vẫn chạy đều đều trong đêm trăng sáng, khi tôi bám được bờ thì tiếng máy đã xa dần. Nhảy lên bờ, việc đầu tiên là tìm chỗ ẩn núp, phòng khi phát giác, bọn chúng sẽ cho ghe trở lại tìm kiếm. Nằm yên lặng trong mấy gốc tràm hơn nửa tiếng với quần xà lỏn áo thun, bây giờ tôi mới thấy đói và lạnh. Tôi cố tìm một khoảng trống bằng mặt để nghỉ lưng, nhưng tìm mãi vẫn không sao có được, cuối cùng phải đành nằm trên đống rễ tràm lồi lõm. B52 (muỗi) bắt đầu quần thảo khi đã đánh hơi, chịu không nổi với đám muỗi rừng quần thảo, tôi trầm mình xuống nước để giải vây, vừa đứng yên tay chân không quậy nước, một đàn tàu ngầm (cá lòng tong) bay vào phập tới tấp vào chân tôi. Chưa bao giờ tôi nghĩ cá cắn đau như vậy. Tôi sợ một hồi nó phập luôn “thằng nhỏ” nên nhảy phóng lên bờ chịu đựng B52. Không chiu nổi B52 thì cho tàu lặn cắn. Tôi loay hoay đối phó với bọn “địch” không chợp mắt chút nào từ 10 giờ đêm tới 4,5 giờ sáng. Ánh sáng mờ mờ từ hướng đông, chung quanh thật yên tĩnh. Lạnh và đói, tôi chợt thèm ly rượu đế ấm lòng. Tôi bâng khuâng nhớ lại những đêm lạnh nước ngập trung đội đi tiền đồn ở thôn Gia Đẳng, nhớ lại đêm trốn trại ở Bù Gia Phúc năm rồi trong rừng Phước Long. Nhưng rừng cao nguyên khác xa rừng tràm ngập mặn của vùng Rừng Sát. Những ngày đó, tôi còn đồng đội, còn anh em. Bây giờ đứng đây, một mình, “tứ đầu thọ địch”. Tôi đứng lên định hướng, bỗng tôi nghe đàng xa trong bờ rừng bên phải từng hồi kẻng vang lên, loại kẻng này với tôi không lạ. Tôi di chuyển về hướng ngược lại, đi dần về hướng tây. Một hồi kẻng khác lại vang lên. Tránh đầu này thì nghe kẻng đầu kia. Biết mình bị lọt vào khu vực trại cải tạo nữa rồi, nhưng tôi không biết được nó là ở nơi nào. Tôi xác định, điều trước hết là phải lội qua bên kia sông rồi tính tiếp. Nhìn ra sông, con sông ngày hôm qua chiếc ghe tôi đi qua. Sông rất rộng, tôi đi tới đi lui một hồi tìm không ra khúc sông hẹp, đang tìm kiếm thì trời mờ sáng, cảnh vật rõ dần, tôi áng chừng khúc sông nầy rộng gần 100m. Nhìn dọc theo mé song, từ đàng xa tôi thấy một ông già ngồi trên chiếc xuồng nhỏ, phản ứng tự nhiên, tôi thụp đầu xuống núp vào một lùm cây. Làm gì bây giờ? Ông ta là ai? Gấn đây có xóm nhà? Hay là cán bộ trong trại vừa đánh kẻng? Rối mù với hàng trăm câu hỏi. Tôi định thần nhìn thật kỹ, ông già đang ngồi trên chếc xuống nhỏ, chung quanh đó là đàn vịt đang bì bỏm lặn hụp tìm mồi. A! Ông già chăn vịt. Tôi quyết định đi về phía ông lão. Khi thấy tôi ổng liền hỏi. - Cậu làm gì ở đây? Tôi phải đành nói thật: - “Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới đây rồi nhảy trốn”. - À thì ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối. Tôi vội hỏi thăm dò tiếng kẻng. Ông trả lời - Đây là “Đặc Khu Rừng Sát” chung quanh đây toàn trại cải tạo “Phục hồi nhân phẩm của người xì ke ma túy”. - Vậy bên kia sông có trại cải tạo nào không Bác. - Không, chỉ bên này thôi.” - Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không, vì cháu lội không rành. - Không được, không được, cậu có thấy một đàn vịt gần 2000 con tôi đang chăn, đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu mà tìm. Thôi cậu ráng mà lội qua đi.” Lòng buồn thất vọng, nhưng cũng hiểu cho ông vì đàn vịt đó là sự sống của ông hằng ngày. Tôi đi tới, đi lui vài lần dọc theo bờ sông, sình, bùn, cỏ lác trộn lẫn những gốc tràm và nước ngập tới gối, tôi cố tìm chổ nào hẹp nhất để lội qua, nhưng dường như không khác chổ nào. Dòng sông nước chảy xiết rộng chừng gần 100 mét. Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ, giờ đụng phải con sông quá rộng, lúc này tôi ước gì lội được như thằng Sinh, thằng Mỹ hai đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi chiều. Suy nghỉ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn, đã tới lúc tôi phải quyết định lội qua, bằng mọi giá phải rời xa khu cải tạo. Nhớ lời thằng Sinh nói, điều quan trọng nhất là khi mệt phải thả ngữa,chân đạp nhe nhàn, đừng để vộp bẽ, khi đở mệt thì trở người qua lội tiếp. Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho mình để vượt qua con sông này. Lấy hết bình tĩnh, tôi bắt đầu lội, lúc đầu còn khỏe, thì lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét, nước sông chảy xiết, quá mệt tôi thả ngửa mặc cho dòng nước đẩy, hơi đỡ mệt tới phần lội nhái, cứ sải, ngửa, rồi nhái tới được giữa sông, thả ngửa nghỉ mệt. Nghỉ tới vợ và đứa con gái còn chưa thấy mặt, nhưng dẩu sao vợ con tôi đã đến được bên bờ tự do, có biết tôi đang sắp chết đuối để đi tìm. Tiềm thức cũ, cứ lần lược tung ra trong lúc đó, có lẽ là dấu hiệu của những người sắp vĩnh viễn ra đi. Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện “Anh Phải Sống” của Khái Hưng hai vợ chồng chèo xuồng ra giữa sông vớt củi, trời mưa, sóng lớn, rồi bị lật xuồng. Vợ chịu chết đuối, cho chồng sống nuôi 3 con “Thằng Bò, cái Bé, cái Lớn” “Anh Phải Sống” không lẽ tôi bị chết chìm như người vợ trong câu truyện này. Ý chí tôi trở nên mạnh hơn “Tôi phải sống để tìm Tự Do”. Trở người lại, tôi sải thêm một đoạn, rồi nhái, ngửa, liên tục hai ba lần thi sắp tới bờ bên kia… Thả ngửa, nghỉ mệt lần cuối rồi lội thẳng vào bờ. Gần tới bờ tôi quá mệt, với nắm được cành tre nằm thòng đưa ra ngoài mé, mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ. Cành tre không chụi nổi sức nặng thân tôi, gãy kêu rôm rốp. Nghe tiếng động, tôi chợt thấy 3 dáng người chạy thẳng vào hướng tôi. Vội vàng, tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn, rồi ngóc đầu quan sát. Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội, tôi mất hồn định lặn trốn xa, thì tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám. - Đã thấy anh rồi, đừng sợ, tui em trốn nghĩa vu, không phải bộ đội. - Nghe tiếng nói của người miền Nam, khi nhìn thấy tụi nó trẻ, chắc là nói thật. Tôi liều mạng lội ra bò lên bờ. Ba thanh niên dẫn tôi tới căn chòi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn. - Anh làm gì ở đây? - Đi vượt biên ghe anh bị bắt ngoài cửa biển, bị công an giải giao về huyện Cần Giờ, khi chạy tới đây anh nhảy trốn. - Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua nhưng không nghĩ là ghe bị bắt. Thanh niên ngồi đối diện tôi nói: - Anh này gan thiệt, anh có biết đây là “Đặc Khu Rừng Sát” nổi tiếng cá sấu trên con sông này không? Tuần vừa rồi có đàn trâu lội ngang sông, có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một giò. Tôi trố mắt hỏi lại “thiệt hôn” vậy mà từ tối qua tới giờ anh cứ lên xuống nước liền liền, có biết đâu mà sợ. Quả thật là số tôi vẫn còn may mắn đúng là điếc không sợ súng, nghĩ lại rùng mình. Hồi lúc nhỏ khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về “Đặc Khu Rừng Sát” này, nhưng không nghĩ đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này, rất lý tưởng cho VC dễ dàng bị phục kích. Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột, tôi quá đói không mắc cở để mở lời. - Cho anh xin nửa chén cơm được hôn. - Được, người ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một chén cơm nguội. Tôi đớp ngon lành, cắn hột muối mà tưởng như cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt, cảm giác này chưa có trong đời. Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện, tụi em ở đây từ bao lâu rồi? - Hơn sáu tháng - Có về thành phố chơi không? Nhà ở đâu? Tôi hỏi - Thỉnh thoảng nhớ nhà, ra cửa sông lớn có giang ghe vê nhà bè, trốn về chơi vài ngày rồi trở lại. - Anh muốn về cầu Rạch Ong thì làm sao đi? Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói. - Cách đây không xa lắm, tui em biết có một bà nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu, nhưng lâu lâu bà ấy mới về. Tụi em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ, may ra bà ấy về sớm. Nói chuyện với ba đứa thanh niên trẻ, tôi tìm hiểu để rõ thêm khu vực này. Gần mười giờ sáng, ba đứa dẫn tôi đi, qua những đoạn rừng tràm, lên đê, xuống ruộng, rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số, tôi nhìn thấy xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ, và căn chòi nhỏ mập mờ. Tôi hỏi có phải căn chòi đó không? - Đúng rồi, tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về. - Cám ơn mấy em nhiều lắm. Nếu không gặp tụi em thì anh biết ai mà nhờ, làm sao anh biết được khu vực này. Tới khúc đê quẹo vào trong chòi, 2 đứa đứng lại còn một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi. - Dì Tư, có anh nầy muốn quá giang về cầu Rạch Ong khi nào Dì về giúp dùm. Tôi trình bày sơ qua cây chuyện vượt biên của tôi cho Dì Tư rõ. Rồi thanh niên quay lại chào tôi “Thôi em về”. Sau khi mấy thanh niên vừa khuất cua quẹo căn chòi.. Dì Tư nhìn tôi rồi nói với giọng hốt hoảng. - Thôi chết tôi rồi cậu ơi, ba đứa đó là điềm chỉ viên của công an thôn này. Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi, rồi đi báo công an để bắt luôn tôi. Thôi cậu đi tìm chỗ khác đi, tôi sợ lắm. Biết đâu mà đi bây giờ, cả khu vực này chỉ thấy có căn chòi một, tôi tiếp tục năn nỉ dì. Thấy tôi năn nỉ quá, dì tư xiêu lòng. - Thôi được, tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa, và bây giờ thì cậu không được ở trong chòi mà phải ra bờ rừng mà ở khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu và cũng an toàn cho tôi. Rồi Dì Tư chỉ hứơng trước mặt chòi là khu rừng chàm dầy đặt cách đó độ vài trăm thước, tôi nghe dì nói cũng có lý nên nghe theo; hơn nữa cũng không còn cách khác. Có người nhận giúp lúc này là vô cùng ơn phước lớn. Tôi vội vàng cám ơn Dì Tư rồi đi tiến về rừng. Đi gần tới đám rừng chàm tôi nghe tiếng động rào rào dưới mặt đất phía trước mặt, đưa mắt nhìn xuống tôi thấy hàng ngàn con còng đỏ chạy chui vào hang lẫn trốn khi nghe tiếng động của chân tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô. Vào bờ rừng chừng năm ba thước, tôi lựa chổ mát nhất trong đám tràm khô, nằm kê đầu vào nhánh rể lớn. Mệt lã, tôi nằm yên thiêm thiếp, tưởng là xác chết, một đám còng bò ùa ra cấu xé tay chân tôi. Tôi vùng dậy đám còng văng ra tứ phía, tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không là xác chết. Khi thiếp đi thì chúng nó lại xông vào cắn tiếp, chẳng ngủ yên được với đám còng đỏ này. Cả đêm ngâm nước, giờ thì trời nắng chang chang trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt, lạnh run cầm cập giữa buổi trưa, nhắm mắt nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh. Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ, tôi mở mắt nhìn lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn mình bò xuống. Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhích, để mặc con rắn cắn hay mổ gì cũng được. Con rắn lớn bò qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác. Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng, tôi nghĩ lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa. Chịu hết nổi cơn sốt tôi đi liều trở vào chòi. Dì Tư thấy tôi vào vội hỏi: - Cậu vào đây làm gì? Đã nói cậu phải ở ngoài rừng. - Cháu bị sốt lạnh, ngoài đó nắng quá chịu không nổi, rồi tôi tiếp tục năn nỉ dì tư. Suy nghĩ một hồi rồi Dì Tư nói: - Tôi có thể giúp, đưa cậu tới xã Lý Nhơn, rồi từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5, 7 cây số, qua phà, rồi đón xe về câu Rạch Ong, nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng. - Cháu trong mình còn vỏn vẹn 80 đồng, vừa nói tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa dì hết 80 đồng. Dì tư cầm lấy nhưng không hài lòng lắm, thấy mắt nhìn chiếc nhẫn cưới vàng 18K tôi đang đeo trên ngón tay áp út, hiểu ý Dì Tư tôi tuột nhẫn ra đưa. Ngay sau đó, thái độ dì đổi khác. - Thôi được, để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe đưa cậu về xã Lý Nhơn. Nhưng nè nghe tôi dặn. Khi tới xã, đi xuyên qua rồi cập trên đê mà đi qua phà chỉ tốn 3 đồng, đón xe về Rạch Ong 5 đồng là tám. Đây tôi cho lại cậu. Dì Tư cho tôi lại đúng 8 đồng, tôi vội vàng cám ơn Dì.

Hai thằng con tuổi chạc 13, 15 đã chuẩn bi xuồng xong, rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ. Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá, cùng đống lá chuối bên cạnh xuồng. Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng, thì hai đứa nhỏ nói:

- Anh nằm xuống đi, để tụi em phủ lên người lớp lá chuối, để ra ngoai kia công an không để ý, tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối.

Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ, rồi nó phủ lên người mình mười mấy tấm lá chuối tươi. Thằng anh chèo mũi, đứa em chèo lái. Chiếc xuồng nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác, hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh nhỏ trong khu rừng sát. Khi ra tới cửa con sông lớn, chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp sóng đi chậm dần, thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp, giá tôi còn tiền cũng đưa hết cho hai em. Thỉnh thoảng tôi ngóc đầu lên nhìn xem còn bao lâu nữa.

Thằng em sau mũi nói: - “ đã hơn nửa đường, còn gần một tiếng nữa mới tới xã Lý Nhơn”

- Tụi em có thường chèo ra khu vực này không? tôi hỏi chuyện

- Thỉnh thoảng qua đây bán cá tiện đường về thành phố mua nhưng món đồ cần thiết.

- Tụi em chèo xuồng có mệt không?

- Quen rồi ngày nào mà không chèo, giăng câu, đi chợ, chèo về nhà mỗi tuần còn xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi. Trò chuyện với hai đứa nhỏ một hồi thì xuồng đã tới xã Lý Nhơn. Hai đứa nhỏ nói:

- Anh ngồi dậy đi tới nơi rồi đó.

Tôi chỉ nó cho tôi xuống chỗ tôi đỗ Cát hai tuần trước đó. Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi. Trước khi xuống hai em căn dặn:

- Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5, 7 cây số sẽ gặp bến phà, qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi.

- Cám ơn hai đứa em nhiều lắm, thôi hai đứa trở về nhà đi.

Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, trong túi được Dì Tư cho lại 8 đồng, cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe. Bước đi trên đê có một mình đơn độc, về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi, quần sọt, áo thun, đi chân không như người làm ruộng, phóng đi thật lẹ, được vài cây số vẫn không thấy bóng người. Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi, được vài cây số nữa thì từ xa tôi nhìn thấy được một dãy nhà, thật mừng rỡ có lẽ là tới bến phà. Khi đến gần thì quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng. Quả thật Dì tư nói đúng. Trả 3 đồng qua sông là tới nhà Bè, tới bến xe Lam về cầu Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng. Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài, khi nhìn tôi lạ ông tài xế hỏi:

- Đi đâu mà chân không, quần xà lỏn, áo thun vậy?

- Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xã Lý Nhơn, tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy. Thấy có lý bác tài không hỏi nữa. Khi xe chạy đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống. Hết tiền, tôi liều quắc đại Honda ôm kêu chở thẳng về ngã sáu chỗ nhà bạn thân của thằng em, là một trong những nơi tôi thường tá túc. Về tới nhà cũng may, tôi xin được 10 đồng đem trả tiền xe.

Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi, trú ẩn. Nơi đây, với tôi coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp.

Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi là tôi vẫn còn mạng sống. Vượt biên quả thật là không đơn giản. Sau này khi trở lại Saigon để tìm đương vượt biển chuyến thứ ba. Mới vỡ lẽ cũng vì lòng chủ tham nên chuyến thứ hai của tôi hoàn toàn thất bại.

Văn viết không hay, hơn 32 năm đã bao lần tôi định viết lại chuyến trốn tù, để cháu con tôi hay đời sau được biết, nguồn gốc ở đâu và vì sao chúng được tới nơi này.

Nhờ Lý Khải Bình cho tôi dịp gặp đuợc hai Ni ên Trưởng trong buổi tiệc tân gia. Cám ơn NT Tô Văn Cấp, NT Phan Nhật Nam đã khuyến khích tôi cứ viết lên những gì tôi nghĩ, nên đã hoàn thành xong câu chuyện trốn tù. Và đây chuyên thứ hai là đề tài vượt biển.

Chuyến trốn thứ ba của đời tôi vô cùng ngoạn mục, cũng là chuyến cuối cùng tôi giã biệt địa ngục XHCNVN.


00


https://ct.mob0.com/Textures/preview/Stripes.png

 


https://i626.photobucket.com/albums/tt346/Quynh494/en_2ngang.gif


0

 





Làm Thinh

Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.



BCH/TĐ1-1972



Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Trên Đầu Súng - YouTube
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
   Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

An Lộc hiền hòa đã bị cộng sản Việt Nam đem ba sư đoàn bộ binh, một sư đoàn phòng không, và sư đoàn pháo, tàn phá thành bình địa vào mùa hè 1972.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Có ngày thành phố này nhận 10,000 quả đạn pháo từ cộng sản Việt Nam. Trấn giữ An Lộc chỉ có sư đoàn 5 VNCH, hai tiểu đoàn Dù và Biệt Cách Dù, vậy mà cộng sản Việt Nam đã không thắng được

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
:th-3.jpg
Bản đồ vùng quanh sông Thạch Hãn
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



 

Photo:

 






Làm Thinh

Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.



BCH/TĐ1-1972



Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Trên Đầu Súng - YouTube
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
   Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

An Lộc hiền hòa đã bị cộng sản Việt Nam đem ba sư đoàn bộ binh, một sư đoàn phòng không, và sư đoàn pháo, tàn phá thành bình địa vào mùa hè 1972.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Có ngày thành phố này nhận 10,000 quả đạn pháo từ cộng sản Việt Nam. Trấn giữ An Lộc chỉ có sư đoàn 5 VNCH, hai tiểu đoàn Dù và Biệt Cách Dù, vậy mà cộng sản Việt Nam đã không thắng được

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
:th-3.jpg
Bản đồ vùng quanh sông Thạch Hãn
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



 

1

 





Làm Thinh

Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.



BCH/TĐ1-1972



Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Trên Đầu Súng - YouTube
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
   Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

An Lộc hiền hòa đã bị cộng sản Việt Nam đem ba sư đoàn bộ binh, một sư đoàn phòng không, và sư đoàn pháo, tàn phá thành bình địa vào mùa hè 1972.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Có ngày thành phố này nhận 10,000 quả đạn pháo từ cộng sản Việt Nam. Trấn giữ An Lộc chỉ có sư đoàn 5 VNCH, hai tiểu đoàn Dù và Biệt Cách Dù, vậy mà cộng sản Việt Nam đã không thắng được

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
:th-3.jpg
Bản đồ vùng quanh sông Thạch Hãn
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



 

Photo:

 

3




Làm Thinh

Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.



BCH/TĐ1-1972



Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Trên Đầu Súng - YouTube
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
   Trên Đầu Súng
http://youtu.be/Fgcko7vUWUE
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

An Lộc hiền hòa đã bị cộng sản Việt Nam đem ba sư đoàn bộ binh, một sư đoàn phòng không, và sư đoàn pháo, tàn phá thành bình địa vào mùa hè 1972.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Có ngày thành phố này nhận 10,000 quả đạn pháo từ cộng sản Việt Nam. Trấn giữ An Lộc chỉ có sư đoàn 5 VNCH, hai tiểu đoàn Dù và Biệt Cách Dù, vậy mà cộng sản Việt Nam đã không thắng được

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
:th-3.jpg
Bản đồ vùng quanh sông Thạch Hãn
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



No comments:

Post a Comment