<p align="center"> </p><center><font style="font-size: 48pt;color: white;text-shadow:2px 4px deepskyblue"><b>A1 - H SKYRAIDER</b></font></center> <p align="center"> </p> <table style="border-collapse: collapse;" background="https://lh3.googleusercontent.com/hR6sDI1U6NJz_ZL36d__5H_4FLtJtUbG3ihclPSjo2aJKPLcBDJxIkZb_3ZRxsEBEOsOkjb9zK2TElAreqv6hwxByBPHcnQfLaRH7jk=w1280-h1024-rw-no" border="0" cellpadding="0" width="140%" style="box-shadow:10px 10px 10px deepskyblue"> <tbody><tr><td width=""><img src="https://lh3.googleusercontent.com/X8NR1F55JJgN1E1xObBXWE6b2JLDZ8lwjxp2DpQuzc5QPHAER0i2esIlHrZ63EAXoWZ_f70twIdlzSE4FIGQ7h3oDEN5NXLSPSw=s180-rw-no" width="130" style="box-shadow: 4px 8px deepskyblue" align="left" border="0" alt="blue corner.jpg"><br><br><div style="text-align: justify; line-height:36pt;margin: 0pt 20pt 0pt 32pt;"><br><br> <center><font style="font-color:powderblue;font-size: 48pt; text-shadow:2px 4px deepskyblue"><b>A1 - H SKYRAIDER</b></center></font> <center><font style="font-size: 48pt;color: white;text-shadow:2px 4px deepskyblue"><b>A1 - H SKYRAIDER</b></font></center> <br><br><center><font style="color:powderblue; font-size:20pt;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh07KUQg8up0I-QOL_1aX9O8XLS2MlYwsJeaxGE_cBBfz8hhJunh_GnZdmXJkJJBgVOlsWPOAhNkaKHgSpp6RI6ooSbhazZUT_LKXZ_328cVBVH4ob8PrDdG2pdmMxFpfoEmvtmAtSEtGsc/s1600/1+A+A+A+KQ+2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh07KUQg8up0I-QOL_1aX9O8XLS2MlYwsJeaxGE_cBBfz8hhJunh_GnZdmXJkJJBgVOlsWPOAhNkaKHgSpp6RI6ooSbhazZUT_LKXZ_328cVBVH4ob8PrDdG2pdmMxFpfoEmvtmAtSEtGsc/s1600/1+A+A+A+KQ+2.jpg" height="448" width="620" ></a><br>Skyraiders A-1 (hình) </font></center> <br><br><font style="color:powderblue; font-size:26pt;">Tarin65 <br><br> Viết về F-8F Bearcat, chúng ta thấy rằng việc thay thế nó là điều nhất định phải làm, chẳng những ở Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, mà còn ở Bộ Tư Lệnh Không Quân và Phái Bộ Cố Vấn (MAAG). <br><br> Sôi nổi nhất là ở phi đoàn. Phải nói rằng Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức và tôi thật sự nóng nảy, chớp mọi thời cơ, gây mọi áp lực cần thiết, nói lý, dùng cảm tình, làm mọi cách để cho có một loại phản lực cơ thay thế chiếc Bearcat. Có người cho rằng vì chúng tôi đã được qua các trường lớp huấn luyện trên phản lực cơ nên chúng tôi tranh đấu để có phản lực cơ trong Không Quân Việt Nam, và từ đó dễ bước lên một nấc thang danh vọng nào đó. Danh vọng thì có biết sống được bao lâu mà màn tới, đâu có phải như Nhảy Dù một cái là biết đánh nhau như lính Dù, và lãnh đạo dù là lãnh đạo tất cả. Muốn lãnh đạo, chỉ cần bay đại khái một chuyến L-19A như ông KHA từng muốn làm để có cơ hội lãnh đạo Không Quân Việt Nam. <br><br> <div class="e_articleSmallBox" style="margin: 15px 20px 10px; line-height:24pt;padding: 15px; float: right; width: 280px; border: 0px solid powderblue; background: -webkit-linear-gradient(left, Azure, powderblue 15%, seashell); box-shadow:15px 15px 15px skyblue;text-align: justify; font-family:Cambria !important;font-size: 24px;"> <font color="navy";><i><b>Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến.</b></i></font><center><br><img src="https://lh3.googleusercontent.com/MWAI3Kxxzy5CxiHoi1B6hPPWuqZazUm-bsmThUf19gp_GjNO0DgCMMwJnX9DzFyPFGapaf-kARY-6Dfley_KK8y5kkzuXFWFGvxZrHc=w500-h616-rw-no" width="200" alt="Photo: "/></center><b></b></div> Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến. Bây giờ, chúng tôi mới biết là chúng tôi đã không tự lượng sức mình, vì đất nước ta còn nghèo, mọi thứ đều nhờ ngoại bang chi viện. Nhưng ở đây mình nói cho sướng miệng thôi, vì lúc đó, chúng tôi vẫn còn trẻ lắm. Năm 1958, anh Vịnh mới lên 25, Đức 24, chúng tôi máu còn sôi sụt, chưa biết sợ là gì, mà cũng vì vậy mà không biết có Trời cao Đất rộng, chỉ có lý tưởng bay bổng, chỉ có "A la chasse, bordel". Và chúng tôi đã chọn A-4E Skyhawk, một chiếc vừa thon nhỏ, không kén phi trường, lại chở nhiều bom đạn (4 x 6 bom 500 lbs)... lại có đại bác 20 ly tha hồ mà bắn. Nên nhớ là sau tháng 6-1957, Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát bắt đầu có Cố Vấn Mỹ thay Cố Vấn Pháp. <br><br> Các ông cố vấn Mỹ này không có cảm tình với pilote trẻ chúng tôi, và chắc với các anh lớn như các ông Hiền, ông Khánh, ông Hùng, thì các cố vấn cũng không thích nói chuyện cho lắm, vì phần lớn chúng tôi, nếu không bị câm thì bị điếc. Nhưng chúng tôi hiểu được các ông không muốn chúng tôi chỉ thích máy bay của NAVY. Chẳng biết vì sao. Có lẽ vì các ông cũng chẳng biết gì máy bay của NAVY để cố vấn chúng tôi. Vậy Không Quân Argentine dùng A-4E thì sao? Nếu từ chối chiếc A-4E, bảo rằng không thích hợp cho chiến trường Việt Nam thì tại sao sau này người Mỹ đẩy chúng tôi ra để xen vào cuộc chiến thì dùng toàn Jet, như F-100, F-104, F-105, F-4 trong Không Quân, và bên NAVY thì có lẽ chiếc A-4E dành nhiều chiến tích nhứt, ít nhứt về số lần xuất trận. <br><br> <div class="e_articleSmallBox" style="margin: 15px 20px 4px;line-height: 24pt; padding: 15px; float: right; width: 280px; border: 0px solid powderblue; background: -webkit-linear-gradient(left, Azure, powderblue 15%, seashell); box-shadow:15px 15px 15px skyblue;text-align: justify; font-family:Cambria !important;font-size: 24px;"> <font color="navy";><i>Chúng tôi đã chọn A-4E Skyhawk, một chiếc vừa thon nhỏ, không kén phi trường, lại chở nhiều bom đạn (4 x 6 bom 500 lbs)... lại có đại bác 20 ly tha hồ mà bắn. Khi chưa "tự lực cánh sinh" được, thì coi như lý tưởng phải dẹp qua một bên. Sau nầy, cho Không Quân Việt Nam chúng ta bay F-5 và A-37, toàn là máy bay huấn luyện biến cải. Máy bay gì mà không có súng để bắn mà gọi là Khu Trục cái nỗi gì! </i></font><b></b></div> Tôi đã có dịp xuống hàng không mẫu hạm của Mỹ và nhìn máy bay lên xuống, thấy thèm làm sao. Cái tiện ở Việt Nam ta khi dùng may bay của US NAVY là nó đáp ngắn lắm, bay được xa, chở bom đạn nhiều. <br><br> Sau một thời gian bàn cải với cố vấn Mỹ tại phi đoàn, chúng tôi chờ đợi một thời gian khá lâu. Một ngày nào đó, chúng tôi được giới thiệu với một tập hồ sơ, có handbook, có hình ảnh của chiếc AD-6. Thoạt đầu, phải nói lên sự thất vọng của chúng tôi, khi nghe cố vấn giải thích tại sao chiếc AD-6 có lợi hơn chiếc A-4E. Thật là không còn gì để nói, đối với chúng tôi. Chúng tôi biết chỉ có một điều là thất vọng tràn trề, không có jet để bay thì chiếc nào chẳng được. Mình bắt đầu làm quen với sự việc "coi lý tưởng như dẹp qua một bên" khi mình chưa phải "tự lực cánh sinh". Viết như vậy để cho các em sau nầy, nhiều khi cũng nóng tính như các anh hồi còn trẻ, có lý tưởng thì sao? Phục vụ là phục vụ thôi. <br><br> Như sau nầy, cho Không Quân Việt Nam chúng ta bay F-5 và A-37, toàn là máy bay huấn luyện biến cải. Máy bay gì mà không có súng để bắn mà gọi là khu trục cái nỗi gì. Tôi nhớ đến cái vụ dùng A-37 kè một chiếc máy bay chuyên xịt thuốc trừ sâu và phân bón của nhà nông của Tân Tây Lan, lạc đường lãng vãng trên vùng Cà Mau, để bắt về đáp tại sân bay Bình Thủy, hoa tiêu phi tuần trưởng phải bay lại gần máy bay lạ, lấy tay chỉ chỏ bảo phải đáp xuống, và khi anh ta muốn dọa đối phương, bèn rút súng Colt.45 ra chỉ vào anh pilote kia. Buồn cười không? <br><br> Nói dài dòng để cho biết "Mình là ai?" thôi, chứ không có ý chê khen cá nhân nào trong chúng ta cả. Việc bàn tán và chọn lựa máy bay thay chiếc F-8F Bearcat bằng chiếc AD-6 Skyraider bắt đầu từ năm 1958 mà tận đến năm 1961 chúng ta mới thấy mặt nó tại Biên Hòa, home of the fighters. <br><br> Năm 1960, chúng tôi là một trong số 6 người đầu tiên sang Corpus Christi, Texas để tập lái AD-6. Đọc cho lẹ một tí thì cũng lấy le được vậy. Ai hỏi ta bay gì, ta bèn nhanh miệng AD-6 thì thoáng nghe như Eighty Six. Chúng tôi là Nguyễn Quan Huy, Tô Minh Chánh, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Ngọc Biện, Nguyễn Văn Long, và người viết bài này. Các cụ thấy không, tại sao tôi lại còn sống mà họ đi đâu cả rồi. Đó là những người bạn chết sống với nhau, những người không biết Trời cao bao nhiêu và Đất rộng bao nhiêu. Bay là cái gì cũng bay. Chữ nghĩa thì chẳng bao nhiêu. Nhớ anh huấn luyện viên của chúng tôi là Lt. Morenville, tên có vẻ Tây lắm, chắc phải chọn người biết tiếng Lang Sa, vì chúng tôi nói ít tiếng Anh. Đại khái như Left là Trái, Right là Phải. Nhớ lại khi thi ESL, anh Huy với tôi ăn ý nhau về mật mã, đầu nhọn bút chì chỉ xuống là (a), chỉ lên là (b), chỉ qua Trái là (c), chỉ qua Phải là (d)… Người cao điểm trắc nghiệm Anh ngữ nhất là anh Nguyễn Văn Long (em của anh Nguyễn Tấn Trào), vì anh Long có theo học Hội Việt Mỹ. <br><br> Chúng tôi đã có một số giờ trên F-8F Bearcat, tối thiểu 200 giờ, trừ anh Quốc có nhiều giờ F-8F hơn cả, lại có bằng Phi Tuần Phó nữa. Nhưng nhai cái Technical Order bằng Anh ngữ thì thật là khổ sở. Đêm nào tôi cũng dịch ra nhờ quyển Tự Điển bỏ túi của tôi (Tout Petit Dictionaire Larousse). Có điều là trợ huấn cụ của NAVY tại trường căn bản Corpus Christi phải nói là ngon lành, nhứt là cả cái động cơ được cắt ra, còn cho đúng màu, hệ thống xăng, hệ thống nhớt, hệ thống thủy điều, tôi khen Mỹ lắm, thấy Tây thua xa (vì Tây nghèo hơn Mỹ). Đại khái là chúng tôi làm quen với AD-6. Chúng tôi được chở trên AD-5 một chuyến. Thật sự không học hỏi gì nhiều. Có điều là lần đầu tiên leo lên chiếc Skyraider, tôi thấy nó cao làm sao ấy, có lẽ không thua khi ngồi trên C-47 đâu. Nhìn xéo từ 8 giờ hay 4 giờ thì nó giống như một ống kem đánh răng. <br><br> Như các cụ thấy qua cái tên của nó AD-6, A là Attack (loại dùng vũ khí mang bên ngoài để tấn công, khác với chữ B là chở bom trong bụng), D là hãng chế tạo Douglas, sau này bị Boeing merge rồi, còn 6 là serie. Sẵn đây, cho biết sau này tất cả máy bay của quân đội Mỹ đều phải theo một lối đặt tên duy nhứt, không phân biệt Hải Lục Không Quân, nên AD-6 trở thành A-1H, và AD-5 trở thành A-1E, là hai chiếc Không Quân Việt Nam đã dùng. <br><br> <div class="e_articleSmallBox" style="margin: 15px 20px 4px;line-height: 24pt; padding: 15px; float: right; width: 280px; border: 0px solid powderblue; background: -webkit-linear-gradient(left, Azure, powderblue 15%, seashell); box-shadow:15px 15px 15px skyblue;text-align: justify; font-family:Cambria !important;font-size: 24px;"> <font color="navy";><i>Sau này tất cả máy bay của quân đội Mỹ đều phải theo một lối đặt tên duy nhứt, không phân biệt Hải Lục Không Quân, nên AD-6 trở thành A-1H, và AD-5 trở thành A-1E, là hai chiếc Không Quân Việt Nam đã dùng. </i></font><br><br><b></b></div> Tại trường Corpus Christi, chúng tôi ghi nhận ba sự kiện tôi nhớ mãi. Sự kiện thứ nhứt là khi tác xạ ở xạ trường, thay vì quẹo phải để tác xạ vào mục tiêu của chúng tôi ngày hôm đó, thì anh Long quẹo trái tác xạ trên mục tiêu dành cho F-11 Cougar. Trong lúc Cougar tập thả bom nguyên tử nên chỉ trúng gần nhất là 300 feet, thì anh Long nhà ta chỉ thả bulls eye. Chiều đó, huấn luyện viên của chúng tôi nhận báo cáo của xạ trường, bảo đuổi cách gì anh Long cũng không đi chỗ khác, mà quả nào cũng trúng đích. May mà không bị đụng nhau trên không. <br><br>Sự kiện thứ nhì: Bay thực tập tác xạ thì huấn luyện viên chắp chúng tôi 30 feet average về bom (pratice bomb nhẹ lắm, gió 25 gút lận, khó thả vào vòng 100 feet). Thế mà anh ba Huy luôn luôn giúp chúng tôi uống beer free mỗi ngày. Học trò giỏi thì thầy cũng được khen, nên anh Morenville vui vẻ trả tiền beer. <br><br> Điều thứ ba - bay hợp đoàn, mà tôi nhớ mãi là nhân ngày lễ thành lập trung tâm huấn luyện Corpus Christi, hằng năm có đội biểu diễn Blue Angels đến. Nhưng năm 1960, đội Blue Angels vừa lãnh thẹo, một tai nạn chết người, nên miễn đến. Hôm đó lại trùng hợp máy bay của Morenville bị hỏng, phải về đáp trước. Thường khi thì Morenville dẫn bốn chiếc đáp trước, theo sau là Quốc dẫn ba chiếc. Chúng tôi liền lợi dụng cơ hội, bảo Quốc dẫn phi tuần sáu chiếc về đáp một lượt. Sáu chiếc bay hợp đoàn sát cánh hàng dọc bên phải, cứ tách đúng ba giây về hạ cánh an toàn và kỷ luật. Vào parking thì ôi thôi, mấy thằng học trò Mỹ chạy lại bắt tay khen, chưa thấy có ai bay hợp đoàn đẹp thế. <br><br> Rời Corpus Christi sau một tháng rưỡi, chúng tôi sang San Diego bay với đơn vị VA-122 tại Coronado, North Island. Vui nhất là tác xạ bom đạn thật tại Camp Pendleton, không biết viết như vậy có đúng không, nhưng đó cũng là chỗ sau này cho đồng bào ta ở tạm khi mới vào đất Mỹ. Tất cả mục tiêu là xe tank, chòi dưới hốc núi, mục tiêu gì cũng bị bọn VNAF (Vietnam Air Force) này tiêu hủy cả. Họ than phiền là tốn tiền tái tạo mục tiêu thật, nghĩa là - trước kia báo cáo tổn phí nhưng khỏi phải làm, vì có ai bắn trúng đâu. <br>Còn xạ trường Yuma thì thật là cực hình. Thời tiết quá nóng, chỉ hoạt động từ 4 giờ sáng đến 11 giờ trưa, mà chỉ nổ máy một lần, sau đó, thay hoa tiêu thì phải để chèn bánh và để máy chạy, vì tắt máy, quay máy lại sẽ bị back fire vì hòa khí quá non khi trời nóng bức. Trưa ở trong BOQ (Bachelor Officer Quarters) nhìn ra hồ tấm, thấy nước xanh mà không có bóng người. Chỉ mặc quần lót trong phòng lạnh mới chịu nổi. <br><br> <table class="tr-caption-container" style="float: left; margin-right:8pt; text-align: left;" align="center" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td style="text-align: center;border-width: 5px;border-style: solid;border-radius: 10px 10px 10px 10px;border-color:teal;text-align: justify; width="10%"> <div style="margin: 0pt 0pt 0pt 0pt;"><div class="article-header-photo" style="float:center; padding-right: 0px;padding-left: 0px;"><embed src="https://www.youtube.com/v/RamGop6NMH0?version=2&hl=ko_KR&=1&=1;color1%3D008eb6&color2=008eb6&border=0" style="background-color:4141414;color: white;" type="application/x-shockwave-flash" wmode="transparent" allowscriptaccess="never" height="440" width="500"></div><div class="aef-image-infos" style="font-size: 18px;color: cyan;width: 400px;"><div class="aef-image-infos-credits" style="font-size: 16px;line-height:16pt;padding-left: 10px;"><b>KQVNCH thao diễn thả bom trên bãi biển Nha Trang xưa trước 1975. <br>http://youtu.be/RamGop6NMH0</b></div></div><br></div></td></tr></tbody></table> Sau ba tháng huấn luyện, chúng tôi về nước. Và vài tháng sau, chúng tôi nhận phi cơ A-1H đầu tiên, mỗi đợt sáu chiếc. KQVN (Không Quân Việt Nam) tiếp tục gửi theo học khóa xuyên huấn như chúng tôi vừa kể, cũng được bốn hay năm đợt gì đó. Tuy vậy, khi nhận máy bay, chúng tôi đã thả tại Biên Hòa hoặc Tân Sơn Nhứt khi di chuyển để làm phi đạo mới (27-09) tại Biên Hòa. Phi Đoàn lúc đó thật là nhiêu khê. Theo bản cấp số thì còn 25 chiếc F-8F Bearcat, rồi thêm chín chiếc T-6G để huấn luyện khu trục cho các khóa sinh vừa tốt nghiệp khóa 58A (khóa Trần Duy Kỷ) trên L-19 mà sau này gọi là O-1A. Rồi thêm 12 chiếc A-1H, nhưng nhân viên của Phi Đoàn vừa hành quân vừa huấn luyện đâu có gì thay đổi. Nhiệm vụ tăng, nhân viên thiếu so với bản cấp số căn bản của phi đoàn, nên nhớ lại phát ớn. Khi Phi Đoàn đổi tên thành Phi Đoàn 514, tất cả nhân viên các Phòng Hành Quân cơ hữu chỉ có 20 hoa tiêu kể cả chỉ huy trưởng và chỉ huy phó, mà số sĩ quan học viên vừa trên T-6G vừa trên A-1H khoảng 30 người. Phòng Vật Liệu là phòng đông đảo nhân viên nhất do anh Dương Xuân Nhơn điều hành thật tốt, lúc đó có trên dưới 400 người. Phòng Hành Chánh thì nhỏ nhất, nhưng cũng bận rộn không kém các nơi khác. Tôi không biết quản lý một nhân số phức tạp như vậy, sau này tính ngang hàng với đơn vị như thế nào đây. <br><br> Chiếc A-1H Skyraider được Mỹ sử dụng trong chiến tranh Cao Ly (1950-53). Sau đó, Mỹ có bán cho Pháp một số AD-4 để trang bị cho bốn phi đoàn. Nếu tôi nhớ không lầm, một phi đoàn Pháp hồi đó có 25 máy bay, như vậy có thể nói Mỹ bán cho Pháp 100 chiếc AD-4. Việc nầy có tầm quan trọng về ngoại giao đáng kể sau này. Vì khi De Gaulle bất mãn với Mỹ, qua Nam Vang chỏ mõ qua Việt Nam mà tuyên bố: <i>"Vùng Đông Nam Á phải được trung lập hóa"</i>. Và khi Mỹ đòi mua lại Skyraider từ tay Pháp để viện trợ cho VNCH thì Pháp đã từ chối, trong khi đó, trong kho dự trữ của Mỹ không còn phi cơ hay phụ tùng gì thuộc A-1H nữa. Đó là một dấu ngoặc lịch sử của Skyraider. <br><br> <table class="tr-caption-container" style="float: right; margin-right:0pt; text-align: left;" align="center" cellpadding="0" cellspacing="10"><tbody><tr><td style="text-align: center;border-width: 5px;border-style: solid;border-radius: 10px 10px 10px 10px;border-color:teal;text-align: justify; width="10%"> <embed src="https://www.youtube.com/v/1V6P7W9VuLs?version=3&hl=ko_KR&=++loop%3D1;color1%3DC073BB&amp;color2=+C073BB&amp;border=1" style="background-color: 4141414; color: transparent;" type="application/x-shockwave-flash" wmode="opaque" allowscriptaccess="never" align="right" border="0" height="460" width="515"></td></tr><tr><td class="tr-caption" style="text-align: justify;line-height:20pt"><span style="font-size: medium;"><span style="color: cyan"><b>KQVNCH -- A1 Skyraider Danh Tiếng Muôn Đời <br>http://youtu.be/1V6P7W9VuLs </b></span></span></td></tr></tbody></table> Ai đã bay A-1H rồi thì phải công nhận nó thật thích hợp cho chiến trường Việt Nam trong giai đoạn VC (Việt cộng) sử dụng Du Kích Chiến và chưa được trang bị SA-7. Với động cơ Wright 3,300, có thể chở đến gần 8,000 lbs vũ khí đạn dược, hoặc thời gian bao vùng lâu nhứt làm cho quân bạn dưới đất thích nó hơn chiếc nào khác. Chỉ có mệt cho hoa tiêu, người phải ngồi chịu trận cả năm tiếng đồng hồ, phải kéo G cho đến thân em mềm nhũn ra, về nhà còn bị các chị hành hạ thêm nữa. Nghĩ lại mà tội nghiệp cho các cánh chim như Phượng Hoàng, như Phi Hổ… <br><br> Theo cấu trúc của chiếc A-1H thì dù động cơ mạnh hơn của F-8F, chong chóng cũng có thể to hơn, nhưng người ta làm cho cái đòn dài ra nên chỗ ngồi của hoa tiêu thoải mái hơn và nhìn rõ bên ngoài. Sở dĩ có thể quan niệm như vậy vì đây chỉ là một phi cơ loại Attack, đánh những mục tiêu dưới đất mà thôi, như yểm trợ tiếp cận (close support), như đánh phá hậu tuyến của địch (interdiction), mà không dự vào không chiến. Tuy vậy mà trong các cuộc hành quân Bắc Tiến, một A-1E của Hải Quân Mỹ đã hạ một chiếc MIG trong phi vụ yểm trợ cấp cứu hoa tiêu lâm nạn trên vùng mục tiêu, có lẽ vì anh lái MIG đó đang dỡ trò "tắt máy phục kích trên không", chẳng may lại đưa lưng cho bốn khẩu đại bác 20 ly bắn rụng. Do chế tạo để đánh các mục tiêu dưới đất, nên sở trường của nó là thả bom với nhiều độ chúi khác nhau: 70 độ, 45 độ, hay 30 độ chúi. Máy bay khi chúi sẽ đầm hơn chiếc F-8F, nhưng cũng đòi hỏi phải có cao độ sơ khởi khá cao, vì nó leo lên chậm lắm, và dễ mất cao độ khi xuống đánh. Cao độ tối thiểu mà tôi kinh nghiệm là 4,500 bộ khi bắt đầu. <br><br> Nếu bắt đầu từ cao độ thấp hơn thì sau khi đánh sẽ không trồi lên lại được tới cao độ sơ khởi, và cứ thế mất dần cao độ, làm cho các kỳ xuống đánh tiếp theo càng lúc càng nguy hiểm, nhứt là cho phi tuần viên số 2. Nếu một phi tuần bốn chiếc, ta có thì giờ chờ đợi và lên cao độ, nhưng khi chỉ có hai chiếc thì người số 2 muốn làm tròn nhiệm vụ bảo vệ cho số 1 phải giữ vòng bay sát nhau, do đó, anh số 2 vừa không được số 1 bào vệ khi anh xuống đánh, vừa không đủ cao độ để đánh chính xác và an toàn. <br><br> <img src="https://lh3.googleusercontent.com/5VbUsJ1yIfJHnL9npekvNv4UnBK4R1TXkUcQ1XC4ddrNxnY0ml0bzW2C77sxICYy6qaORrYO36eDoNiWIWrwipfiYT_5OPMjKaJQ8sE=w672-h255-rw-no" alt="Photo: "/> <br><br> Dive bombing là một trò vui mà cũng hao sức với A-1H. Bắt đầu từ 10,000 bộ, ra dive brake, chúi xuống 70 độ (sự thật, ta thấy thân mình nằm trên giây cột an toàn tòn ten khi chúi như vậy), thả bom ở cao độ 3,000 bộ, vào dive brake và kéo lên đúng 4.5G. Làm chừng 5 cái thấy "học xì dầu", vì ít khi tôi kéo 4.5G mà thường là 7.5G, do đó, các bạn có thể nói tất cả máy bay mau hư là vì tôi đó. Với độ chúi 45 độ thì ít vấn đề. Đại khái là khi chúi, và nhắm bắn, chúng ta lúc đầu chưa quen, hay sửa cho tâm điểm trên máy nhấm nằm trên mục tiêu, thì kết quả lại phải sửa ngược lại khi tốc độ tăng cao, vì nhà chế tạo canh ngẫu lực chong chóng làm cho đuôi có độ lệch khá lớn đối với trục dọc máy bay, làm máy bay lãnh hậu quả không đồng đều khi tốc độ thay đổi quá nhiều trong đà chúi của chúng ta. Một tật nữa rất nguy hiểm cho hoa tiêu là "sink rate" khá cao, vì thân nó quá nặng nề. <br><br> Thường thường, những vụ mang ngọn tre về đáp, hay tệ hơn nữa là cày dưới ruộng, đó là hậu quả của mất nhiều cao độ khi ta múc lên. Mũi máy bay thì đã nằm trên chân trời, nhưng máy bay còn tiếp tục trằn xuống theo quỷ đạo chúi của nó trước kia một lúc lâu rồi mới ngóc đầu lên thật sự. Đó là vì quán tính của ly tâm. Ở đây không nói nhiều về cơ học được. Chỉ đưa ra một so sánh để các cụ đọc chơi. <br><br> Bây giờ là lúc trời đang có tuyết và phần lớn các nơi đó có đường đóng băng trơn trợt. Lái xe trên đường như vậy, bạn thử nhích tay lái một chút là xe bắt đầu quẹo. Nếu cứ giữ tay lái như vậy thì các bạn sẽ trợt (glisser, glide). Nếu thấy trợt va vào gốc cây mà tăng thêm vòng quẹo thì sẽ trợt nhiều hơn nữa, chứ không phải là tránh được gốc cây đâu, mà trái lại sẽ đụng mạnh hơn, vì bạn đã tăng lực ly tâm khi bẻ tay lái quẹo gắt hơn. Tại các xạ trường, nhứt là tập tác xạ ban đêm, ta mất nhiều thì giờ để nhắm hơn. Cố sửa cho tâm điểm của máy nhấm nằm trên mục tiêu, sửa mãi mà không ngờ cao độ giải tỏa đã tới từ lâu rồi. <br><br> Hoảng hốt kéo lên mạnh chừng nào thì lực ly tâm càng trằn máy bay xuống đất chừng nấy. Khi điều tra tai nạn, chỉ cần xem phần nào của máy bay chạm đất trước thì đủ biết nguyên nhân tai nạn là gì. Các anh đi học Mỹ về thường dùng chữ Target Fixation. Cũng đúng, đó là nguyên nhân đầu tiên. Mãi nhấm đến khi quá gần đất rồi thì kéo mạnh. Ta sẽ thấy khi chạm đất, phần đuôi chạm trước, rồi xác máy bay rải dài theo trục bay của máy bay. Nếu lúc ta thấy kéo mà không lên thì ta ngưng kéo, hoặc dằn tay lái xuống thì nó sẽ ngưng trằn xuống lập tức. Giống như khi lái xe trên đường lộ, ta quẹo trái thấy cứ lọt qua lane phải thì ngưng đừng cố quẹo gắt nữa thì nó sẽ nằm yên. Phải quẹo gắt mà ngưng lại thì hiệu quả mới đúng như đã nói, chứ quẹo chưa đủ mà ngưng thì là vấn đề khác rồi. <br><br> Vì đòn dài và nặng nề nên đánh nhau giữa hai loại máy bay thì không thích hợp. Đừng nói chi đấu với F-8H thì thua quá xa rồi, đấu với T-28 cũng không lại. Vì thế, không nên bắt mèo ăn cứt. <br><br> Về không hành (navigation) thì tương đối thoải mái hơn F-8F. Có thể bay xa hơn, như bay qua Phi Luật Tân chẳng hạn thì dễ như chơi. Tuy trang bị cũng xoàng thôi, nhưng cũng đủ để bay đêm rất tốt. Và Phi Đoàn 514 đã có khả năng đó. Nhất là khi trời trên mục tiêu tốt mà từ phi trường xuất phát lại xấu, ta bắt buộc phải cất cánh hợp đoàn, ngày hay đêm không thành vấn đề, rồi nhờ radar hướng dẫn đến mục tiêu, tha hồ mà đánh. Xong rồi về hạ cánh, trời xấu thì hợp đoàn từng hai chiếc mà xuyên mây hạ cánh cũng tốt. Tôi còn nhớ có lần, chúng tôi hành quân đặc biệt ban đêm, oanh tạc theo chỉ điểm của Lực Lượng Đặc Biệt, bay hợp đoàn sát cánh ba chiếc, tắt cả đèn mà chỉ nhìn ánh lửa từ ống thoát ra mà bay ở cao độ thấp cho đến khi đến mục tiêu, chúng tôi lấy đội hình oanh kích, làm mỗi người một passe salvo bomb, đã thật. Kết quả phối kiểm có hình ảnh, rất tốt. <br><br> Phạm Phú Quốc khi thành lập Phi Đoàn 518 đã được huấn luyện vượt biên bằng đường biển ở cao độ thấp (50 feet) cho đến vùng mục tiêu mới làm vòng tác xạ thường lệ. Như vậy mới khai thác tận dụng khả năng của A-1H. <br><br> Về trang bị vũ khí, A-1H có thể nói là số một trong những chiếc mà tôi được bay. Thêm nữa, được KQVN ta sử dụng, chiếc A-1H mới thêm rạng rỡ, nổi tiếng hơn bao giờ hết. Thành thật mà nói, có bay cùng chiếc máy bay này ở đơn vị VA-122 của USNAVY, mới thấy KQVN bỏ xa mút tí tè. Chẳng những về bảo trì phi động cơ, mà nói về vũ khí thì phải nói là KQVN vô địch. Súng họ bắn ở Yuma, tôi hỏi anh Biện xem tôi bắn ở mấy giờ mà xạ trường báo "zero hit" trên bia điện tử. Biện thường bay ở gió xuôi khi tôi tác xạ, nên mấy vòng anh mới thấy được ở "một mile 6 giờ". Trong khi đó, đi hành quân trên vùng Hồng Ngự Cái Cái mà bắn xuồng ba lá bằng đại bác 20 ly thì chỉ cần một tràn ở mũi xuồng là xuồng bị toét ra thành ba mảnh. Ai dại gì bắn giữa xuồng, chỉ đục lỗ xuyên qua, VC lại lấy đất trét lên và bơi như thường. Vì súng của ta có anh Phan Đàm Liệu điều chỉnh trước Fire-in-but ở 300m xa, ai mà bắn trật thì người đó không phải hoa tiêu của PĐ-514. Bởi vậy, VC khó mà thoát khi bị PĐ-514 bao vây. Như kỳ Ấp Bắc chẳng hạn, ai làm bậy đâu không, làm những thành tích của Phi Đoàn - 514 tiêu ra ma. <br><br> Chính mắt tôi thấy mấy trái chuối của Hoa Kỳ (H-21) bị Ground Resonance lật ngửa ngay trên vùng, không có ai đánh hết, mình tự té nhào ra, hết chiếc nầy đến chiếc kia, tổng cộng 5 chiếc, rồi bảo VNCH chúng ta không biết hành quân, không biết bảo vệ cho trực thăng đổ bộ. Rồi sau đó, lại thấy cái cảnh Pháo Binh rượt lính Bảo An chạy có cờ. Toàn là mình chơi mình không thôi. Tiểu Đoàn 514 của Tiền Giang Việt cộng (trận Ấp Bắc 12-9-1962) có mặt ở đó, nhưng nó bị chúng tôi phát giác khi còn xa vùng mục tiêu. Chính ba Huy và anh Biện bao vây chúng trên mặt ruộng, chờ Bảo An lại tóm gọn. Chắc các anh cho tôi nói láo cho vui chớ gì. Rõ ràng là như vậy. Bị chúng tôi 'dí' thì không làm sao thoát khỏi. Ở Mỹ này, có anh phi tuần viên đã từng bay chung với tôi là anh Nguyễn Quốc Thành, hỏi anh ấy thì biết, gặp chúng tôi vây thì chỉ có chết mà thôi. Vì vậy, Việt Cộng phải xin viện trợ cho được SA-7, nếu không chúng bị KQVN diệt hết. Chúng tôi dùng Đại Bác 20 ly một cách say mê, tiết kiệm từng viên đạn, có khi gỡ bớt circuit breaker súng để chỉ bắn một lần hai cây mà thôi. Có nhiều phi tuần viên muốn về sớm cho đỡ mệt, không thích làm như vậy. Có anh lại phí đạn quá sớm. Làm phi tuần trưởng cụt hứng, phải kéo nhau đi về. Đó là chúng tôi áp dụng đúng mức nguyên tắc chiến tranh vào việc sử dụng hỏa lực. <br><br> <table style="margin: auto 5.85pt;width: 200.65pt;border-collapse: collapse;" class="MsoNormalTable" id="table3" align="left" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="652"> <tbody><tr> <td style="border-bottom: medium none rgb(212, 208, 200);padding: 0cm;background-color: transparent;width:263.65pt;border-top: medium none rgb(212, 208, 200);border-right: medium none rgb(212, 208, 200);" valign="top" width="652"> <p style="margin-top: 0pt;margin-bottom: 0pt;" align="center"> <b></b></font></p> <font color="cyan" face="Times New Roman" size="3"> <img alt="" src="https://lh3.googleusercontent.com/UP7LyP3N7cU_zB6L_uMKlLeJLZ7asfxXcW67RlWUvUPIVYHFvRqusUBjpsEyzraAZHMWP_sbtMZT5EcKlbeBgZIoSa8K9kLfP_WKQRo=w1029-h683-rw-no" width="550" border="1" hspace="3"> <div style="text-align:justify;margin-top: 0pt;margin-bottom: 0pt;line-height: 20pt" align="left"> <font color="cyan" face="Times New Roman" size="5"><b>Nhớ lại kỳ thả bom đó, tới nay tôi còn thấy tiếc, tại sao mình đã không bỏ salvo một pass mà thôi, như vậy, mình không cần trúng đích cũng làm cho địch vỡ màng nhĩ mà chết (lúc thả bom để tiêu diệt Tướng Đôn của Việt Cộng đang nằm trong chân núi).<br>Công dụng tốt nhất của Napalm là diệt những Việt cộng trốn dưới hầm bí mật. </b></font></div></td></tr></tbody></table> Bom thì A-1H là vua chở bom. Trọng lượng chưa trang bị là 9,000 lbs. Trang bị tối đa là 17,000 lbs. Lần hành quân Lam Sơn 1 ở Đà Nẵng với Trung Tướng Trần Văn Đôn, thả bom để tiêu diệt Tướng Đôn của Việt Cộng đang nằm trong chân núi, chúng tôi trang bị tối đa bom: <br>- Hai quả 1,000 lbs ở inboard racks, <br>- 8 quả 500 lbs ở outboard racks, và <br>- Thêm ít quả 100 lbs ở các kẽ hở và ngoài đầu cánh. <br><br> Khi cất cánh, bắt buộc phải dùng full flaps. Khi có tốc độ sau khi vào chân đáp rồi mới giảm xuống ¼ flaps để bay lên. Tới cao độ 10,000 bộ mới bình phi và vào flaps trọn vẹn. Nếu ai không nghe briefing kỹ thì dễ chết lắm, hay ít ra cũng hết hồn, như có người thấy không lên nỗi bèn ra biển thả hết bom để về đáp cho sớm. Chúng tôi hiểu, chúng ta là con người mà, có lúc phải "teo" một tí. Nhưng nếu chịu khó khai thác TOC, và chịu khó nghe briefing thì đâu có khó gì đâu. Không lẽ những người làm được là những người chỉ biết liều mạng? Nhớ lại kỳ thả bom đó, tới nay tôi còn thấy tiếc, tại sao mình đã không bỏ salvo một pass mà thôi, như vậy, mình không cần trúng đích cũng làm cho thiên hạ vỡ màng nhĩ mà chết. Chứ dựa vào phóng ảnh mà thả bom thì có thấy gì cụ thể đâu! Nhưng sau khi giải tỏa hết bom rồi, thấy sao mình nhẹ phơi phới, khó tả. <br><br> <div class="e_articleSmallBox" style="margin: 15px 20px 4px;line-height: 24pt; padding: 15px; float: right; width: 280px; border: 0px solid powderblue; background: -webkit-linear-gradient(left, Azure, powderblue 15%, seashell); box-shadow:15px 15px 15px skyblue;text-align: justify; font-family:Cambria !important;font-size: 24px;"> <font color="navy";><i>Hỏa tiễn không có công dụng tốt trong chiến tranh du kích, vì chúng chưa dùng đến chiến xa, và không có công sự kiện cố như đồn bót chúng ta. Trừ khi chúng đã chiếm đóng trong các vị trí của chúng ta mà thôi. Trái lại, bom napalm có nhiều công dụng tốt hơn. </i></font><br><br><b></b></div> Mười hai dàn bên ngoài cánh còn có thể dùng phóng hỏa tiền đủ loại, nhưng thú thật với các bạn, hỏa tiễn không có công dụng tốt trong chiến tranh du kích đâu, vì Việt cộng lúc đó chúng chưa dùng đến chiến xa, và không có công sự kiện cố như đồn bót chúng ta. Trừ khi chúng đã chiếm đóng trong các vị trí của chúng ta mà thôi. Trái lại, bom napalm có nhiều công dụng tốt hơn, và A-1H có công dụng chở được đến ba quả ở inboard racks, và sáu quả nữa ở outboard racks, nếu có loại 500 lbs như bom của Nhật Bản để lại thì tốt, hay loại dùng trên T-28 sau này. <br>Kinh nghiệm cho thấy, không nên trộn lẫn Napalm với bom nổ hay hỏa tiễn; pha trộn như vậy thường do các yêu cầu của những giới chức có thẩm quyền nhưng không hiểu biết về ngành hỏa lực, vì rất nguy hiểm cho hoa tiêu. Chỉ cần bấm lộn nút trong khi xuống thấp 50 bộ để thả napalm mà thả lầm bom nổ thì quá nguy, bắn hỏa tiễn ở cao độ thấp làm sao giải tỏa khỏi kịp, nếu cố gắng quá có thể bị déclenché (snap roll?). Công dụng tốt nhất của Napalm là diệt những Việt cộng trốn dưới hầm bí mật. <br><br> Khi ta thả từng cặp một cách nhau một giây thì sẽ có sức cháy phủ trùm lên nhau. Nhiệt độ cháy của Napalm là 1,500 độ C. Nếu có sức cháy phủ trùm lên nhau thì sẽ đốt hết oxy trên mặt đất, và từ các lỗ thông hơi đốt cả oxy dưới hầm trú ẩn, Việt cộng sẽ bị chết khô dưới hầm, chứ không phải bị chết cháy. Người phi tuần trưởng có nhiệm vụ điều khiển cho thả napalm chồng lên nhau thì kết quả bảo đảm hơn. Thường thì anh em dùng napalm để đốt nhà. Đâu cần như vậy. Chỉ dùng đại bác 20 ly của A-1H, bắn vào vách nhà sau thường để bếp, hoặc trúng phải lò dầu, hoặc làm tung củi đang cháy vào vách, hoặc chính băng đạn có đạn lửa của chúng ta cũng đủ đốt nhà lá rồi. Napalm còn một loại mục tiêu khác là diệt súng phòng không của địch, nhưng không nên dùng A-1H vì quá chậm, mà phài dùng F-5 mới tốt. Vì sức nóng cháy của napalm làm cong nòng súng, không làm sao sửa chữa được. Một loại vũ khí khác để diệt phòng không là CBU, không phải để tiêu hủy súng mà là giết chết xạ thủ. Những người nầy phải được tập luyện khó khăn, khó được thay thế nhanh chóng. <br><br> Nói thêm một ưu điểm nữa của A-1H mà nhiều người đã biết, nhưng ít dùng đến trong các kế hoạch dài hạn. Nó đáp rất ngắn. Với trang bị nhẹ, có thể lên xuống với phi đạo dài 750 mét. Cụ thể, chúng tôi đã sử dụng phi trường Cù Hanh ở Pleiku, do công của Hà Xuân Vịnh thám sát phi trường ở vùng cao nguyên. Lúc đó, phi trường được lót bằng vĩ sắt (PSP) loại đen nhỏ bảng. Chúng tôi đáp lên giốc, cất cánh xuống giốc, trên dưới 1,000 mét. Có lần tôi chờ các anh thay thế, ngồi ngoài phi đạo nhìn các anh cất cánh. Tôi giật mình khi thấy chiếc A-1H sụp vào một lỗ giữa phi đạo, vĩ sắt thụn xuống, cây cọc sắt dài độ bốn tấc tây lòi lên, và sau khi bánh lăn qua rồi thì vĩ sắt trở lên như cũ, nên ta không thấy cọc sắt đâu cả. Tôi chạy ra ngay tại chỗ có vũng nước màu đỏ của Pleiku, gọi hai ba anh cơ khí gần đó chạy xe dodge 4x4 lại đè lên vĩ sắt thì rõ ràng có cây cọc lòi lên. <br><br> Có lần, một anh không cảnh giác bị lạc tay lái khi sụp lỗ nên anh bị tạt khỏi trục phi đạo, chạy băng ra hàng rào kẽm gai có cọc bê tong, và anh tiếp tục hốt lên với cái cọc bê tông ấy, vất nó xuống cách hàng rào cả chục thước. Điều nầy cho thấy chân đáp của A-1H rất chắc. Một sân ngắn nữa chúng tôi đã dùng là sân Sóc Trăng, dài 1,000 mét, nhưng lúc đó có một cái lỗ to ở khoảng ¾ phi đạo, nghĩa là còn lại 750 mét. Do đó, anh Nguyễn Thành Long (Long Chà) đã làm hư một chiếc A-1H vì đáp quá ngắn, đúng chỗ có bùn trơn trợt ngoài đầu phi đạo, nên anh bị lạc hướng chạy qua trái 60 độ, vượt khỏi rào kẽm gai, ra ngoài ruộng còn cán chết tại chỗ một chị người nhà của một anh lính pháo binh cùng đóng tại phi trường. Đó là trong chiến dịch Bình Tây do Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm làm tư lệnh chiến dịch. Một lần khác, tôi hành quân tại phi trường Nha Trang trong lúc phi trường đang được sửa chữa. Chỉ còn một nửa chiều rộng, và một nửa chiều dài, chúng tôi đã trang bị khoảng hai tấn rưỡi bom đạn cũng hành quân tốt. Nói cách khác, chỗ nào C-47 lên xuống được, chúng tôi đều hành quân được. <br><br> <div class="e_articleSmallBox" style="margin: 15px 20px 4px; padding: 15px; line-height: 24pt;float: left; width: 180px; border: 0px solid Powderblue; background: -webkit-linear-gradient(left,Azure, powderblue 15%, Azure); box-shadow:-15px 15px 15px skyblue;text-align: justify; font-family:Cambria !important;font-size: 22px !important;"><font color="navy";><i>Cái nạn SA-7 làm cho phe A-1H phải cụt hứng, vì nó quá dễ bị tiêu diệt. Tính chung về sự đóng góp cho chiến tranh tại Việt Nam của các loại máy bay, phải nói A-1H là số một. </i></font><b></b></div> Chúng tôi nhận thấy chỉ có thể viết về chiếc A-1H như thế thôi. Lẽ tất nhiên, có nhiều phi đoàn đã xử dụng nó, càng lúc càng hay hơn. Nhưng mà rủi cho các anh phải bay trong giai đoạn sau cùng của nó, vì nó cũng đã quá nhão nhề rồi. Tôi nhớ người Mỹ cứ khen thưởng Không Quân Việt Nam bảo trì giỏi. Để chi? Để tăng thêm giờ hoạt động trước khi mang về Mỹ để làm đại tu. <br>Chỉ cần o bế với anh Tech Rep của hãng Wright để báo cáo và đề nghị, thì bên kia, Nhà Nước Mỹ cũng nói cho hãng Wright biết -- nên chấp thuận cho tăng giờ bay thì phải đỡ tiền viện trợ không… Cứ thế, ta xài mãi mà không thấy hư. Tài thật! Có gì thì pilote Việt Nam chịu, có phải pilote Mỹ đâu mà họ lo. Còn phe ta mà được khen thì chỉ có một bằng tưởng lục là xong, chỉ tốn có mấy trang in roneo mà thôi. <br><br> Sau cùng, cái nạn SA-7 làm cho phe A-1H phải cụt hứng, vì nó quá dễ bị tiêu diệt. Tính chung về sự đóng góp cho chiến tranh tại Việt Nam của các loại máy bay, phải nói A-1H là số một. Đây không phải là vì tôi bay nó mà nó hay đâu. Đừng chê cười. <br><br> Tarin65 </font></p> <br><br><br></div> </td></tr></tbody></table> <p align="center"> </p>
Skyraiders A-1 (hình) Tarin65 Viết về F-8F Bearcat, chúng ta thấy rằng việc thay thế nó là điều nhất định phải làm, chẳng những ở Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, mà còn ở Bộ Tư Lệnh Không Quân và Phái Bộ Cố Vấn (MAAG). Sôi nổi nhất là ở phi đoàn. Phải nói rằng Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức và tôi thật sự nóng nảy, chớp mọi thời cơ, gây mọi áp lực cần thiết, nói lý, dùng cảm tình, làm mọi cách để cho có một loại phản lực cơ thay thế chiếc Bearcat. Có người cho rằng vì chúng tôi đã được qua các trường lớp huấn luyện trên phản lực cơ nên chúng tôi tranh đấu để có phản lực cơ trong Không Quân Việt Nam, và từ đó dễ bước lên một nấc thang danh vọng nào đó. Danh vọng thì có biết sống được bao lâu mà màn tới, đâu có phải như Nhảy Dù một cái là biết đánh nhau như lính Dù, và lãnh đạo dù là lãnh đạo tất cả. Muốn lãnh đạo, chỉ cần bay đại khái một chuyến L-19A như ông KHA từng muốn làm để có cơ hội lãnh đạo Không Quân Việt Nam. Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến. Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến. Bây giờ, chúng tôi mới biết là chúng tôi đã không tự lượng sức mình, vì đất nước ta còn nghèo, mọi thứ đều nhờ ngoại bang chi viện. Nhưng ở đây mình nói cho sướng miệng thôi, vì lúc đó, chúng tôi vẫn còn trẻ lắm. Năm 1958, anh Vịnh mới lên 25, Đức 24, chúng tôi máu còn sôi sụt, chưa biết sợ là gì, mà cũng vì vậy mà không biết có Trời cao Đất rộng, chỉ có lý tưởng bay bổng, chỉ có "A la chasse, bordel". Và chúng tôi đã chọn A-4E Skyhawk, một chiếc vừa thon nhỏ, không kén phi trường, lại chở nhiều bom đạn (4 x 6 bom 500 lbs)... lại có đại bác 20 ly tha hồ mà bắn. Nên nhớ là sau tháng 6-1957, Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát bắt đầu có Cố Vấn Mỹ thay Cố Vấn Pháp. Các ông cố vấn Mỹ này không có cảm tình với pilote trẻ chúng tôi, và chắc với các anh lớn như các ông Hiền, ông Khánh, ông Hùng, thì các cố vấn cũng không thích nói chuyện cho lắm, vì phần lớn chúng tôi, nếu không bị câm thì bị điếc. Nhưng chúng tôi hiểu được các ông không muốn chúng tôi chỉ thích máy bay của NAVY. Chẳng biết vì sao. Có lẽ vì các ông cũng chẳng biết gì máy bay của NAVY để cố vấn chúng tôi. Vậy Không Quân Argentine dùng A-4E thì sao? Nếu từ chối chiếc A-4E, bảo rằng không thích hợp cho chiến trường Việt Nam thì tại sao sau này người Mỹ đẩy chúng tôi ra để xen vào cuộc chiến thì dùng toàn Jet, như F-100, F-104, F-105, F-4 trong Không Quân, và bên NAVY thì có lẽ chiếc A-4E dành nhiều chiến tích nhứt, ít nhứt về số lần xuất trận. Chúng tôi đã chọn A-4E Skyhawk, một chiếc vừa thon nhỏ, không kén phi trường, lại chở nhiều bom đạn (4 x 6 bom 500 lbs)... lại có đại bác 20 ly tha hồ mà bắn. Khi chưa "tự lực cánh sinh" được, thì coi như lý tưởng phải dẹp qua một bên. Sau nầy, cho Không Quân Việt Nam chúng ta bay F-5 và A-37, toàn là máy bay huấn luyện biến cải. Máy bay gì mà không có súng để bắn mà gọi là Khu Trục cái nỗi gì! Tôi đã có dịp xuống hàng không mẫu hạm của Mỹ và nhìn máy bay lên xuống, thấy thèm làm sao. Cái tiện ở Việt Nam ta khi dùng may bay của US NAVY là nó đáp ngắn lắm, bay được xa, chở bom đạn nhiều. Sau một thời gian bàn cải với cố vấn Mỹ tại phi đoàn, chúng tôi chờ đợi một thời gian khá lâu. Một ngày nào đó, chúng tôi được giới thiệu với một tập hồ sơ, có handbook, có hình ảnh của chiếc AD-6. Thoạt đầu, phải nói lên sự thất vọng của chúng tôi, khi nghe cố vấn giải thích tại sao chiếc AD-6 có lợi hơn chiếc A-4E. Thật là không còn gì để nói, đối với chúng tôi. Chúng tôi biết chỉ có một điều là thất vọng tràn trề, không có jet để bay thì chiếc nào chẳng được. Mình bắt đầu làm quen với sự việc "coi lý tưởng như dẹp qua một bên" khi mình chưa phải "tự lực cánh sinh". Viết như vậy để cho các em sau nầy, nhiều khi cũng nóng tính như các anh hồi còn trẻ, có lý tưởng thì sao? Phục vụ là phục vụ thôi. Như sau nầy, cho Không Quân Việt Nam chúng ta bay F-5 và A-37, toàn là máy bay huấn luyện biến cải. Máy bay gì mà không có súng để bắn mà gọi là khu trục cái nỗi gì. Tôi nhớ đến cái vụ dùng A-37 kè một chiếc máy bay chuyên xịt thuốc trừ sâu và phân bón của nhà nông của Tân Tây Lan, lạc đường lãng vãng trên vùng Cà Mau, để bắt về đáp tại sân bay Bình Thủy, hoa tiêu phi tuần trưởng phải bay lại gần máy bay lạ, lấy tay chỉ chỏ bảo phải đáp xuống, và khi anh ta muốn dọa đối phương, bèn rút súng Colt.45 ra chỉ vào anh pilote kia. Buồn cười không? Nói dài dòng để cho biết "Mình là ai?" thôi, chứ không có ý chê khen cá nhân nào trong chúng ta cả. Việc bàn tán và chọn lựa máy bay thay chiếc F-8F Bearcat bằng chiếc AD-6 Skyraider bắt đầu từ năm 1958 mà tận đến năm 1961 chúng ta mới thấy mặt nó tại Biên Hòa, home of the fighters. Năm 1960, chúng tôi là một trong số 6 người đầu tiên sang Corpus Christi, Texas để tập lái AD-6. Đọc cho lẹ một tí thì cũng lấy le được vậy. Ai hỏi ta bay gì, ta bèn nhanh miệng AD-6 thì thoáng nghe như Eighty Six. Chúng tôi là Nguyễn Quan Huy, Tô Minh Chánh, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Ngọc Biện, Nguyễn Văn Long, và người viết bài này. Các cụ thấy không, tại sao tôi lại còn sống mà họ đi đâu cả rồi. Đó là những người bạn chết sống với nhau, những người không biết Trời cao bao nhiêu và Đất rộng bao nhiêu. Bay là cái gì cũng bay. Chữ nghĩa thì chẳng bao nhiêu. Nhớ anh huấn luyện viên của chúng tôi là Lt. Morenville, tên có vẻ Tây lắm, chắc phải chọn người biết tiếng Lang Sa, vì chúng tôi nói ít tiếng Anh. Đại khái như Left là Trái, Right là Phải. Nhớ lại khi thi ESL, anh Huy với tôi ăn ý nhau về mật mã, đầu nhọn bút chì chỉ xuống là (a), chỉ lên là (b), chỉ qua Trái là (c), chỉ qua Phải là (d)… Người cao điểm trắc nghiệm Anh ngữ nhất là anh Nguyễn Văn Long (em của anh Nguyễn Tấn Trào), vì anh Long có theo học Hội Việt Mỹ. Chúng tôi đã có một số giờ trên F-8F Bearcat, tối thiểu 200 giờ, trừ anh Quốc có nhiều giờ F-8F hơn cả, lại có bằng Phi Tuần Phó nữa. Nhưng nhai cái Technical Order bằng Anh ngữ thì thật là khổ sở. Đêm nào tôi cũng dịch ra nhờ quyển Tự Điển bỏ túi của tôi (Tout Petit Dictionaire Larousse). Có điều là trợ huấn cụ của NAVY tại trường căn bản Corpus Christi phải nói là ngon lành, nhứt là cả cái động cơ được cắt ra, còn cho đúng màu, hệ thống xăng, hệ thống nhớt, hệ thống thủy điều, tôi khen Mỹ lắm, thấy Tây thua xa (vì Tây nghèo hơn Mỹ). Đại khái là chúng tôi làm quen với AD-6. Chúng tôi được chở trên AD-5 một chuyến. Thật sự không học hỏi gì nhiều. Có điều là lần đầu tiên leo lên chiếc Skyraider, tôi thấy nó cao làm sao ấy, có lẽ không thua khi ngồi trên C-47 đâu. Nhìn xéo từ 8 giờ hay 4 giờ thì nó giống như một ống kem đánh răng. Như các cụ thấy qua cái tên của nó AD-6, A là Attack (loại dùng vũ khí mang bên ngoài để tấn công, khác với chữ B là chở bom trong bụng), D là hãng chế tạo Douglas, sau này bị Boeing merge rồi, còn 6 là serie. Sẵn đây, cho biết sau này tất cả máy bay của quân đội Mỹ đều phải theo một lối đặt tên duy nhứt, không phân biệt Hải Lục Không Quân, nên AD-6 trở thành A-1H, và AD-5 trở thành A-1E, là hai chiếc Không Quân Việt Nam đã dùng. Sau này tất cả máy bay của quân đội Mỹ đều phải theo một lối đặt tên duy nhứt, không phân biệt Hải Lục Không Quân, nên AD-6 trở thành A-1H, và AD-5 trở thành A-1E, là hai chiếc Không Quân Việt Nam đã dùng. Tại trường Corpus Christi, chúng tôi ghi nhận ba sự kiện tôi nhớ mãi. Sự kiện thứ nhứt là khi tác xạ ở xạ trường, thay vì quẹo phải để tác xạ vào mục tiêu của chúng tôi ngày hôm đó, thì anh Long quẹo trái tác xạ trên mục tiêu dành cho F-11 Cougar. Trong lúc Cougar tập thả bom nguyên tử nên chỉ trúng gần nhất là 300 feet, thì anh Long nhà ta chỉ thả bulls eye. Chiều đó, huấn luyện viên của chúng tôi nhận báo cáo của xạ trường, bảo đuổi cách gì anh Long cũng không đi chỗ khác, mà quả nào cũng trúng đích. May mà không bị đụng nhau trên không. Sự kiện thứ nhì: Bay thực tập tác xạ thì huấn luyện viên chắp chúng tôi 30 feet average về bom (pratice bomb nhẹ lắm, gió 25 gút lận, khó thả vào vòng 100 feet). Thế mà anh ba Huy luôn luôn giúp chúng tôi uống beer free mỗi ngày. Học trò giỏi thì thầy cũng được khen, nên anh Morenville vui vẻ trả tiền beer. Điều thứ ba - bay hợp đoàn, mà tôi nhớ mãi là nhân ngày lễ thành lập trung tâm huấn luyện Corpus Christi, hằng năm có đội biểu diễn Blue Angels đến. Nhưng năm 1960, đội Blue Angels vừa lãnh thẹo, một tai nạn chết người, nên miễn đến. Hôm đó lại trùng hợp máy bay của Morenville bị hỏng, phải về đáp trước. Thường khi thì Morenville dẫn bốn chiếc đáp trước, theo sau là Quốc dẫn ba chiếc. Chúng tôi liền lợi dụng cơ hội, bảo Quốc dẫn phi tuần sáu chiếc về đáp một lượt. Sáu chiếc bay hợp đoàn sát cánh hàng dọc bên phải, cứ tách đúng ba giây về hạ cánh an toàn và kỷ luật. Vào parking thì ôi thôi, mấy thằng học trò Mỹ chạy lại bắt tay khen, chưa thấy có ai bay hợp đoàn đẹp thế. Rời Corpus Christi sau một tháng rưỡi, chúng tôi sang San Diego bay với đơn vị VA-122 tại Coronado, North Island. Vui nhất là tác xạ bom đạn thật tại Camp Pendleton, không biết viết như vậy có đúng không, nhưng đó cũng là chỗ sau này cho đồng bào ta ở tạm khi mới vào đất Mỹ. Tất cả mục tiêu là xe tank, chòi dưới hốc núi, mục tiêu gì cũng bị bọn VNAF (Vietnam Air Force) này tiêu hủy cả. Họ than phiền là tốn tiền tái tạo mục tiêu thật, nghĩa là - trước kia báo cáo tổn phí nhưng khỏi phải làm, vì có ai bắn trúng đâu. Còn xạ trường Yuma thì thật là cực hình. Thời tiết quá nóng, chỉ hoạt động từ 4 giờ sáng đến 11 giờ trưa, mà chỉ nổ máy một lần, sau đó, thay hoa tiêu thì phải để chèn bánh và để máy chạy, vì tắt máy, quay máy lại sẽ bị back fire vì hòa khí quá non khi trời nóng bức. Trưa ở trong BOQ (Bachelor Officer Quarters) nhìn ra hồ tấm, thấy nước xanh mà không có bóng người. Chỉ mặc quần lót trong phòng lạnh mới chịu nổi.
Chiếc A-1H Skyraider được Mỹ sử dụng trong chiến tranh Cao Ly (1950-53). Sau đó, Mỹ có bán cho Pháp một số AD-4 để trang bị cho bốn phi đoàn. Nếu tôi nhớ không lầm, một phi đoàn Pháp hồi đó có 25 máy bay, như vậy có thể nói Mỹ bán cho Pháp 100 chiếc AD-4. Việc nầy có tầm quan trọng về ngoại giao đáng kể sau này. Vì khi De Gaulle bất mãn với Mỹ, qua Nam Vang chỏ mõ qua Việt Nam mà tuyên bố: "Vùng Đông Nam Á phải được trung lập hóa". Và khi Mỹ đòi mua lại Skyraider từ tay Pháp để viện trợ cho VNCH thì Pháp đã từ chối, trong khi đó, trong kho dự trữ của Mỹ không còn phi cơ hay phụ tùng gì thuộc A-1H nữa. Đó là một dấu ngoặc lịch sử của Skyraider.
Theo cấu trúc của chiếc A-1H thì dù động cơ mạnh hơn của F-8F, chong chóng cũng có thể to hơn, nhưng người ta làm cho cái đòn dài ra nên chỗ ngồi của hoa tiêu thoải mái hơn và nhìn rõ bên ngoài. Sở dĩ có thể quan niệm như vậy vì đây chỉ là một phi cơ loại Attack, đánh những mục tiêu dưới đất mà thôi, như yểm trợ tiếp cận (close support), như đánh phá hậu tuyến của địch (interdiction), mà không dự vào không chiến. Tuy vậy mà trong các cuộc hành quân Bắc Tiến, một A-1E của Hải Quân Mỹ đã hạ một chiếc MIG trong phi vụ yểm trợ cấp cứu hoa tiêu lâm nạn trên vùng mục tiêu, có lẽ vì anh lái MIG đó đang dỡ trò "tắt máy phục kích trên không", chẳng may lại đưa lưng cho bốn khẩu đại bác 20 ly bắn rụng. Do chế tạo để đánh các mục tiêu dưới đất, nên sở trường của nó là thả bom với nhiều độ chúi khác nhau: 70 độ, 45 độ, hay 30 độ chúi. Máy bay khi chúi sẽ đầm hơn chiếc F-8F, nhưng cũng đòi hỏi phải có cao độ sơ khởi khá cao, vì nó leo lên chậm lắm, và dễ mất cao độ khi xuống đánh. Cao độ tối thiểu mà tôi kinh nghiệm là 4,500 bộ khi bắt đầu. Nếu bắt đầu từ cao độ thấp hơn thì sau khi đánh sẽ không trồi lên lại được tới cao độ sơ khởi, và cứ thế mất dần cao độ, làm cho các kỳ xuống đánh tiếp theo càng lúc càng nguy hiểm, nhứt là cho phi tuần viên số 2. Nếu một phi tuần bốn chiếc, ta có thì giờ chờ đợi và lên cao độ, nhưng khi chỉ có hai chiếc thì người số 2 muốn làm tròn nhiệm vụ bảo vệ cho số 1 phải giữ vòng bay sát nhau, do đó, anh số 2 vừa không được số 1 bào vệ khi anh xuống đánh, vừa không đủ cao độ để đánh chính xác và an toàn. Dive bombing là một trò vui mà cũng hao sức với A-1H. Bắt đầu từ 10,000 bộ, ra dive brake, chúi xuống 70 độ (sự thật, ta thấy thân mình nằm trên giây cột an toàn tòn ten khi chúi như vậy), thả bom ở cao độ 3,000 bộ, vào dive brake và kéo lên đúng 4.5G. Làm chừng 5 cái thấy "học xì dầu", vì ít khi tôi kéo 4.5G mà thường là 7.5G, do đó, các bạn có thể nói tất cả máy bay mau hư là vì tôi đó. Với độ chúi 45 độ thì ít vấn đề. Đại khái là khi chúi, và nhắm bắn, chúng ta lúc đầu chưa quen, hay sửa cho tâm điểm trên máy nhấm nằm trên mục tiêu, thì kết quả lại phải sửa ngược lại khi tốc độ tăng cao, vì nhà chế tạo canh ngẫu lực chong chóng làm cho đuôi có độ lệch khá lớn đối với trục dọc máy bay, làm máy bay lãnh hậu quả không đồng đều khi tốc độ thay đổi quá nhiều trong đà chúi của chúng ta. Một tật nữa rất nguy hiểm cho hoa tiêu là "sink rate" khá cao, vì thân nó quá nặng nề. Thường thường, những vụ mang ngọn tre về đáp, hay tệ hơn nữa là cày dưới ruộng, đó là hậu quả của mất nhiều cao độ khi ta múc lên. Mũi máy bay thì đã nằm trên chân trời, nhưng máy bay còn tiếp tục trằn xuống theo quỷ đạo chúi của nó trước kia một lúc lâu rồi mới ngóc đầu lên thật sự. Đó là vì quán tính của ly tâm. Ở đây không nói nhiều về cơ học được. Chỉ đưa ra một so sánh để các cụ đọc chơi. Bây giờ là lúc trời đang có tuyết và phần lớn các nơi đó có đường đóng băng trơn trợt. Lái xe trên đường như vậy, bạn thử nhích tay lái một chút là xe bắt đầu quẹo. Nếu cứ giữ tay lái như vậy thì các bạn sẽ trợt (glisser, glide). Nếu thấy trợt va vào gốc cây mà tăng thêm vòng quẹo thì sẽ trợt nhiều hơn nữa, chứ không phải là tránh được gốc cây đâu, mà trái lại sẽ đụng mạnh hơn, vì bạn đã tăng lực ly tâm khi bẻ tay lái quẹo gắt hơn. Tại các xạ trường, nhứt là tập tác xạ ban đêm, ta mất nhiều thì giờ để nhắm hơn. Cố sửa cho tâm điểm của máy nhấm nằm trên mục tiêu, sửa mãi mà không ngờ cao độ giải tỏa đã tới từ lâu rồi. Hoảng hốt kéo lên mạnh chừng nào thì lực ly tâm càng trằn máy bay xuống đất chừng nấy. Khi điều tra tai nạn, chỉ cần xem phần nào của máy bay chạm đất trước thì đủ biết nguyên nhân tai nạn là gì. Các anh đi học Mỹ về thường dùng chữ Target Fixation. Cũng đúng, đó là nguyên nhân đầu tiên. Mãi nhấm đến khi quá gần đất rồi thì kéo mạnh. Ta sẽ thấy khi chạm đất, phần đuôi chạm trước, rồi xác máy bay rải dài theo trục bay của máy bay. Nếu lúc ta thấy kéo mà không lên thì ta ngưng kéo, hoặc dằn tay lái xuống thì nó sẽ ngưng trằn xuống lập tức. Giống như khi lái xe trên đường lộ, ta quẹo trái thấy cứ lọt qua lane phải thì ngưng đừng cố quẹo gắt nữa thì nó sẽ nằm yên. Phải quẹo gắt mà ngưng lại thì hiệu quả mới đúng như đã nói, chứ quẹo chưa đủ mà ngưng thì là vấn đề khác rồi. Vì đòn dài và nặng nề nên đánh nhau giữa hai loại máy bay thì không thích hợp. Đừng nói chi đấu với F-8H thì thua quá xa rồi, đấu với T-28 cũng không lại. Vì thế, không nên bắt mèo ăn cứt. Về không hành (navigation) thì tương đối thoải mái hơn F-8F. Có thể bay xa hơn, như bay qua Phi Luật Tân chẳng hạn thì dễ như chơi. Tuy trang bị cũng xoàng thôi, nhưng cũng đủ để bay đêm rất tốt. Và Phi Đoàn 514 đã có khả năng đó. Nhất là khi trời trên mục tiêu tốt mà từ phi trường xuất phát lại xấu, ta bắt buộc phải cất cánh hợp đoàn, ngày hay đêm không thành vấn đề, rồi nhờ radar hướng dẫn đến mục tiêu, tha hồ mà đánh. Xong rồi về hạ cánh, trời xấu thì hợp đoàn từng hai chiếc mà xuyên mây hạ cánh cũng tốt. Tôi còn nhớ có lần, chúng tôi hành quân đặc biệt ban đêm, oanh tạc theo chỉ điểm của Lực Lượng Đặc Biệt, bay hợp đoàn sát cánh ba chiếc, tắt cả đèn mà chỉ nhìn ánh lửa từ ống thoát ra mà bay ở cao độ thấp cho đến khi đến mục tiêu, chúng tôi lấy đội hình oanh kích, làm mỗi người một passe salvo bomb, đã thật. Kết quả phối kiểm có hình ảnh, rất tốt. Phạm Phú Quốc khi thành lập Phi Đoàn 518 đã được huấn luyện vượt biên bằng đường biển ở cao độ thấp (50 feet) cho đến vùng mục tiêu mới làm vòng tác xạ thường lệ. Như vậy mới khai thác tận dụng khả năng của A-1H. Về trang bị vũ khí, A-1H có thể nói là số một trong những chiếc mà tôi được bay. Thêm nữa, được KQVN ta sử dụng, chiếc A-1H mới thêm rạng rỡ, nổi tiếng hơn bao giờ hết. Thành thật mà nói, có bay cùng chiếc máy bay này ở đơn vị VA-122 của USNAVY, mới thấy KQVN bỏ xa mút tí tè. Chẳng những về bảo trì phi động cơ, mà nói về vũ khí thì phải nói là KQVN vô địch. Súng họ bắn ở Yuma, tôi hỏi anh Biện xem tôi bắn ở mấy giờ mà xạ trường báo "zero hit" trên bia điện tử. Biện thường bay ở gió xuôi khi tôi tác xạ, nên mấy vòng anh mới thấy được ở "một mile 6 giờ". Trong khi đó, đi hành quân trên vùng Hồng Ngự Cái Cái mà bắn xuồng ba lá bằng đại bác 20 ly thì chỉ cần một tràn ở mũi xuồng là xuồng bị toét ra thành ba mảnh. Ai dại gì bắn giữa xuồng, chỉ đục lỗ xuyên qua, VC lại lấy đất trét lên và bơi như thường. Vì súng của ta có anh Phan Đàm Liệu điều chỉnh trước Fire-in-but ở 300m xa, ai mà bắn trật thì người đó không phải hoa tiêu của PĐ-514. Bởi vậy, VC khó mà thoát khi bị PĐ-514 bao vây. Như kỳ Ấp Bắc chẳng hạn, ai làm bậy đâu không, làm những thành tích của Phi Đoàn - 514 tiêu ra ma. Chính mắt tôi thấy mấy trái chuối của Hoa Kỳ (H-21) bị Ground Resonance lật ngửa ngay trên vùng, không có ai đánh hết, mình tự té nhào ra, hết chiếc nầy đến chiếc kia, tổng cộng 5 chiếc, rồi bảo VNCH chúng ta không biết hành quân, không biết bảo vệ cho trực thăng đổ bộ. Rồi sau đó, lại thấy cái cảnh Pháo Binh rượt lính Bảo An chạy có cờ. Toàn là mình chơi mình không thôi. Tiểu Đoàn 514 của Tiền Giang Việt cộng (trận Ấp Bắc 12-9-1962) có mặt ở đó, nhưng nó bị chúng tôi phát giác khi còn xa vùng mục tiêu. Chính ba Huy và anh Biện bao vây chúng trên mặt ruộng, chờ Bảo An lại tóm gọn. Chắc các anh cho tôi nói láo cho vui chớ gì. Rõ ràng là như vậy. Bị chúng tôi 'dí' thì không làm sao thoát khỏi. Ở Mỹ này, có anh phi tuần viên đã từng bay chung với tôi là anh Nguyễn Quốc Thành, hỏi anh ấy thì biết, gặp chúng tôi vây thì chỉ có chết mà thôi. Vì vậy, Việt Cộng phải xin viện trợ cho được SA-7, nếu không chúng bị KQVN diệt hết. Chúng tôi dùng Đại Bác 20 ly một cách say mê, tiết kiệm từng viên đạn, có khi gỡ bớt circuit breaker súng để chỉ bắn một lần hai cây mà thôi. Có nhiều phi tuần viên muốn về sớm cho đỡ mệt, không thích làm như vậy. Có anh lại phí đạn quá sớm. Làm phi tuần trưởng cụt hứng, phải kéo nhau đi về. Đó là chúng tôi áp dụng đúng mức nguyên tắc chiến tranh vào việc sử dụng hỏa lực.
- Hai quả 1,000 lbs ở inboard racks, - 8 quả 500 lbs ở outboard racks, và - Thêm ít quả 100 lbs ở các kẽ hở và ngoài đầu cánh. Khi cất cánh, bắt buộc phải dùng full flaps. Khi có tốc độ sau khi vào chân đáp rồi mới giảm xuống ¼ flaps để bay lên. Tới cao độ 10,000 bộ mới bình phi và vào flaps trọn vẹn. Nếu ai không nghe briefing kỹ thì dễ chết lắm, hay ít ra cũng hết hồn, như có người thấy không lên nỗi bèn ra biển thả hết bom để về đáp cho sớm. Chúng tôi hiểu, chúng ta là con người mà, có lúc phải "teo" một tí. Nhưng nếu chịu khó khai thác TOC, và chịu khó nghe briefing thì đâu có khó gì đâu. Không lẽ những người làm được là những người chỉ biết liều mạng? Nhớ lại kỳ thả bom đó, tới nay tôi còn thấy tiếc, tại sao mình đã không bỏ salvo một pass mà thôi, như vậy, mình không cần trúng đích cũng làm cho thiên hạ vỡ màng nhĩ mà chết. Chứ dựa vào phóng ảnh mà thả bom thì có thấy gì cụ thể đâu! Nhưng sau khi giải tỏa hết bom rồi, thấy sao mình nhẹ phơi phới, khó tả. Hỏa tiễn không có công dụng tốt trong chiến tranh du kích, vì chúng chưa dùng đến chiến xa, và không có công sự kiện cố như đồn bót chúng ta. Trừ khi chúng đã chiếm đóng trong các vị trí của chúng ta mà thôi. Trái lại, bom napalm có nhiều công dụng tốt hơn. Mười hai dàn bên ngoài cánh còn có thể dùng phóng hỏa tiền đủ loại, nhưng thú thật với các bạn, hỏa tiễn không có công dụng tốt trong chiến tranh du kích đâu, vì Việt cộng lúc đó chúng chưa dùng đến chiến xa, và không có công sự kiện cố như đồn bót chúng ta. Trừ khi chúng đã chiếm đóng trong các vị trí của chúng ta mà thôi. Trái lại, bom napalm có nhiều công dụng tốt hơn, và A-1H có công dụng chở được đến ba quả ở inboard racks, và sáu quả nữa ở outboard racks, nếu có loại 500 lbs như bom của Nhật Bản để lại thì tốt, hay loại dùng trên T-28 sau này. Kinh nghiệm cho thấy, không nên trộn lẫn Napalm với bom nổ hay hỏa tiễn; pha trộn như vậy thường do các yêu cầu của những giới chức có thẩm quyền nhưng không hiểu biết về ngành hỏa lực, vì rất nguy hiểm cho hoa tiêu. Chỉ cần bấm lộn nút trong khi xuống thấp 50 bộ để thả napalm mà thả lầm bom nổ thì quá nguy, bắn hỏa tiễn ở cao độ thấp làm sao giải tỏa khỏi kịp, nếu cố gắng quá có thể bị déclenché (snap roll?). Công dụng tốt nhất của Napalm là diệt những Việt cộng trốn dưới hầm bí mật. Khi ta thả từng cặp một cách nhau một giây thì sẽ có sức cháy phủ trùm lên nhau. Nhiệt độ cháy của Napalm là 1,500 độ C. Nếu có sức cháy phủ trùm lên nhau thì sẽ đốt hết oxy trên mặt đất, và từ các lỗ thông hơi đốt cả oxy dưới hầm trú ẩn, Việt cộng sẽ bị chết khô dưới hầm, chứ không phải bị chết cháy. Người phi tuần trưởng có nhiệm vụ điều khiển cho thả napalm chồng lên nhau thì kết quả bảo đảm hơn. Thường thì anh em dùng napalm để đốt nhà. Đâu cần như vậy. Chỉ dùng đại bác 20 ly của A-1H, bắn vào vách nhà sau thường để bếp, hoặc trúng phải lò dầu, hoặc làm tung củi đang cháy vào vách, hoặc chính băng đạn có đạn lửa của chúng ta cũng đủ đốt nhà lá rồi. Napalm còn một loại mục tiêu khác là diệt súng phòng không của địch, nhưng không nên dùng A-1H vì quá chậm, mà phài dùng F-5 mới tốt. Vì sức nóng cháy của napalm làm cong nòng súng, không làm sao sửa chữa được. Một loại vũ khí khác để diệt phòng không là CBU, không phải để tiêu hủy súng mà là giết chết xạ thủ. Những người nầy phải được tập luyện khó khăn, khó được thay thế nhanh chóng. Nói thêm một ưu điểm nữa của A-1H mà nhiều người đã biết, nhưng ít dùng đến trong các kế hoạch dài hạn. Nó đáp rất ngắn. Với trang bị nhẹ, có thể lên xuống với phi đạo dài 750 mét. Cụ thể, chúng tôi đã sử dụng phi trường Cù Hanh ở Pleiku, do công của Hà Xuân Vịnh thám sát phi trường ở vùng cao nguyên. Lúc đó, phi trường được lót bằng vĩ sắt (PSP) loại đen nhỏ bảng. Chúng tôi đáp lên giốc, cất cánh xuống giốc, trên dưới 1,000 mét. Có lần tôi chờ các anh thay thế, ngồi ngoài phi đạo nhìn các anh cất cánh. Tôi giật mình khi thấy chiếc A-1H sụp vào một lỗ giữa phi đạo, vĩ sắt thụn xuống, cây cọc sắt dài độ bốn tấc tây lòi lên, và sau khi bánh lăn qua rồi thì vĩ sắt trở lên như cũ, nên ta không thấy cọc sắt đâu cả. Tôi chạy ra ngay tại chỗ có vũng nước màu đỏ của Pleiku, gọi hai ba anh cơ khí gần đó chạy xe dodge 4x4 lại đè lên vĩ sắt thì rõ ràng có cây cọc lòi lên. Có lần, một anh không cảnh giác bị lạc tay lái khi sụp lỗ nên anh bị tạt khỏi trục phi đạo, chạy băng ra hàng rào kẽm gai có cọc bê tong, và anh tiếp tục hốt lên với cái cọc bê tông ấy, vất nó xuống cách hàng rào cả chục thước. Điều nầy cho thấy chân đáp của A-1H rất chắc. Một sân ngắn nữa chúng tôi đã dùng là sân Sóc Trăng, dài 1,000 mét, nhưng lúc đó có một cái lỗ to ở khoảng ¾ phi đạo, nghĩa là còn lại 750 mét. Do đó, anh Nguyễn Thành Long (Long Chà) đã làm hư một chiếc A-1H vì đáp quá ngắn, đúng chỗ có bùn trơn trợt ngoài đầu phi đạo, nên anh bị lạc hướng chạy qua trái 60 độ, vượt khỏi rào kẽm gai, ra ngoài ruộng còn cán chết tại chỗ một chị người nhà của một anh lính pháo binh cùng đóng tại phi trường. Đó là trong chiến dịch Bình Tây do Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm làm tư lệnh chiến dịch. Một lần khác, tôi hành quân tại phi trường Nha Trang trong lúc phi trường đang được sửa chữa. Chỉ còn một nửa chiều rộng, và một nửa chiều dài, chúng tôi đã trang bị khoảng hai tấn rưỡi bom đạn cũng hành quân tốt. Nói cách khác, chỗ nào C-47 lên xuống được, chúng tôi đều hành quân được. Cái nạn SA-7 làm cho phe A-1H phải cụt hứng, vì nó quá dễ bị tiêu diệt. Tính chung về sự đóng góp cho chiến tranh tại Việt Nam của các loại máy bay, phải nói A-1H là số một. Chúng tôi nhận thấy chỉ có thể viết về chiếc A-1H như thế thôi. Lẽ tất nhiên, có nhiều phi đoàn đã xử dụng nó, càng lúc càng hay hơn. Nhưng mà rủi cho các anh phải bay trong giai đoạn sau cùng của nó, vì nó cũng đã quá nhão nhề rồi. Tôi nhớ người Mỹ cứ khen thưởng Không Quân Việt Nam bảo trì giỏi. Để chi? Để tăng thêm giờ hoạt động trước khi mang về Mỹ để làm đại tu. Chỉ cần o bế với anh Tech Rep của hãng Wright để báo cáo và đề nghị, thì bên kia, Nhà Nước Mỹ cũng nói cho hãng Wright biết -- nên chấp thuận cho tăng giờ bay thì phải đỡ tiền viện trợ không… Cứ thế, ta xài mãi mà không thấy hư. Tài thật! Có gì thì pilote Việt Nam chịu, có phải pilote Mỹ đâu mà họ lo. Còn phe ta mà được khen thì chỉ có một bằng tưởng lục là xong, chỉ tốn có mấy trang in roneo mà thôi. Sau cùng, cái nạn SA-7 làm cho phe A-1H phải cụt hứng, vì nó quá dễ bị tiêu diệt. Tính chung về sự đóng góp cho chiến tranh tại Việt Nam của các loại máy bay, phải nói A-1H là số một. Đây không phải là vì tôi bay nó mà nó hay đâu. Đừng chê cười. Tarin65 |
==================================
|
Viết từ một người Lính Không Quân VNCH.
Ông Nguyễn Thành Trung,
Thật sự, tôi không muốn viết những dòng này, viết về sự thực của câu chuyện cũ, câu chuyện này được ông kể lại theo cách bịa đặt của ông, nhiều tưởng tượng, có phần cổ xúy cho cá nhân ông, che lấp đi cái thực của ông mà tôi và nhiều người, trải qua một thời gian dài không muốn nói đến nữa, đó là sự phản bội, vong ân cái quá khứ mà ít nhiều gì cái quá khứ này đã nuôi dưỡng, dạy dỗ ông, trong hoàn cảnh côi cút, không nơi nương tựa thuở ấu thơ của ông.
|
*******************************************************************
Lời Nguyễn Thành Trung, kẻ ném bom Dinh Độc Lập.
<... Thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.
Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán...> Chính kẻ phản bội và đi theo VC đã cho mọi người thấy cách hành xử của VNCH bao dung và nhân đạo thế nào. Cũng chính vì tính nhân bản, đạo đức và bao dung này mà Việt cộng đã lợi dụng và chơi những trò đê hèn nên người quân tử thường bị tiểu nhân đánh lén, hãm hại là vậy. Xin xem bài phỏng vẫn sau đây: (Xin đính chính, HL không hoàn toàn đồng ý với tác giả bài viết. HL chỉ tình cờ đọc được và thấy chính lời của một tội đồ đã tin tưởng VNCH sẽ không đối xử tàn nhẫn với vợ con ông ta nên đã cố tình chọn để vợ con ở lại chỗ cũ mà không tìm cách đưa vợ con đi lánh nạn trước khi ném bom dinh Độc Lập) < ...Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán...> (Lời kẻ phản bội). VC thì thế nào? Họ đã đối xử với các sĩ quan VNCH sau cuộc chiến ra sao? Tù đày, ăn uống thiếu thốn, lao động khổ sai, cùm chân, biệt giam... Ông nào đi tù VC về cũng chỉ còn da bọc xương. Đáng nói là một số đã chết rục trong tù vì thiếu thốn, bệnh tật. Nguyễn Thành Trung và vợ con ông ta thì sao?? < ...Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà…> < …Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”...> (Lời kẻ phản bội) < ...họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo...> (Lời kẻ phản bội). < ... đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hóa với người thân của kẻ thù...> (Lời kẻ phản bội). VC thì đã đối xử với các sĩ quan VNCH ra sao? Vậy mà giờ đây vẫn còn kẻ ca ngợi, bênh vực chính sách của Việt cộng!!! Bai viet: SỐ PHẬN CỦA MỘT KẺ PHẢN BỘI Mai Tú Ân VNCH đã đối xử rất nhân đạo với Đinh Khắc Chung tức Nguyễn Thành Trung ngay cả sau khi ông ta ném bom Dinh Độc Lập. Nhưng ông trời thì không nhân đạo như thế. Ông trời đã bắt Trung trả giá bằng luật nhân quả. Sau đây trả là phỏng vấn của Nguyễn Thành Trung sau khi ném bom Dinh Độc Lập: - "Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng 'giải phóng' để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hòa về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hóa với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trung Tướng Không Quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ." http://www.chinhluanvn.com/…/ai-ta-nguyen-thanh-trung-vo-co… Luật Nhân Quả dành cho kẻ phản bội Nguyễn Thành Trung... Đã một năm rồi, Nguyễn Thành Danh, sinh năm 1977 con trai của phi công nổi tiếng Nguyễn Thành Trung đã treo cổ tự tử chết vì những lý do không ai biết. Thật đáng tiếc vì anh này cũng là một phi công, vừa lập gia đình và có một con nhỏ. "Lá vàng khóc hận lá xanh rời cành". Bầu trời trong xanh bỗng như sụp đổ. Đau lòng lắm khi tương lai của Nguyễn Thành Danh cũng sụp đổ. Nhưng tại sao anh lại bị ông Trời kêu tên khi tuổi đời còn quá trẻ. Than ôi. Chỉ vì cái tên anh đã gắn với cái tên mà không mấy người Việt Nam không biết. Anh chính là con trai của phi công Nguyễn Thành Trung. Chỉ vì cùng tên tuổi và cùng tình ruột thịt máu mủ với người cha độc ác trên mà ông Trời đã gọi tên? Người thì tin điều này, người thì không nhưng nếu nói về luật nhân quả thì trăm phần trăm đều tin rằng Nguyễn Thành Danh đang trả nợ cho cha anh, Nguyễn Thành Trung. Và việc anh treo cổ, tìm đến cái chết cũng chính là chịu không nổi áp lực khi nhìn thấy đống nợ cha mình để lại nó lớn đến nhường nào. Cha của anh, phi công Nguyễn Thành Trung, "Kẻ Phản Bội Thành Đạt" thì chẳng qua là một sĩ quan quân lực VNCH, phản chủ khi thấy con thuyền VNCH sắp đắm. Anh ta có thể lái máy bay bỏ trốn đi nhưng là một tay cơ hội sư tổ, anh ta đã lái máy bay ném bom vào Dinh Độc Lập để lấy điểm rồi bay sang đầu hàng quân miền Bắc. Cũng may mắn cho anh ta là quân đội miền Bắc đang cần một hướng dẫn viên lái máy bay A.37 ở phi trường Phan Rang đã bị chiếm. Rồi anh ta tham gia cuộc chơi của một kẻ phản bội tầm cỡ. Với tầm cỡ như thế thì anh ta xứng đáng được tặng thưởng nhưng không lẽ tặng thưởng anh hùng cho một tên phản chủ. Thế là các nhà tạo tác lịch sử Đảng vào cuộc và biến gia đình anh ta thành một thứ Cách Mạng (VC) ba đời. Còn anh ta thì thành một thứ tình báo chiến lược, cài cắm sang cả Mỹ... Nhưng rồi do một sự nhầm lẫn lịch sử, một sự trớ trêu của ông Tạo Hóa sáng nắng chiều mưa, hay một thời ngáo đá của cả họ nhà ông Trời mà Nguyễn Thành Trung đứng vững trước cú phản có một không hai đó và cứ phơi phới đi lên. Trong khi đáng ra anh ta phải chết vài lần, ở tù 1,000 năm và học tập cải tạo 10,000 năm thì mới xứng đáng với những gì anh ta đã làm. Trong thời gian hơn 40 năm thì anh ta đã được phong làm Anh Hùng, rồi lái máy bay chuyên cơ cho thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải, rồi tiếp đó là lái máy bay riêng cho tay tỷ phú Đoàn Nguyên Đức, Hoàng Anh Gia Lai mà chẳng hề gặp tai nạn nào như rơi máy bay chẳng hạn. Rồi cứ thế đi lên. Mấy chục năm nay ông ta đã sống sung sướng tột đỉnh như bay mãi trên bầu trời... Nhưng không lẽ không còn Trời, Đất hay đạo đức nữa hay sao mà ông ta cứ sống mãi trong một sự nghiệp không phải dành cho một kẻ phản bội được. Và đến tận bây giờ thì Luật pháp của trời đất đã được thực hiện qua cái chết của con trai ông ta. Và mới chỉ bắt đầu. Giờ đây thì Trời bắt ông ta phải sống để nhìn thấy tất cả những thứ ông gây dựng sụp đổ. Đầu tiên là đứa con trai yêu quí, và chắc chắn không phải tai họa cuối cùng đến với ông ta. Ông ta phải nhìn, ông phải sống để cho người dân chúng tôi nhìn thấy để biết rằng vẫn có thứ Luật còn cao hơn Luật Pháp. Đó là Luật Nhân Quả. Đời Cha ăn mặn đời con khát nước. Chính ông đã gây nên tội ác trong quá khứ thì giờ đây ông phải sống trong sự phán xét, sự khinh bỉ của người dân chúng tôi cho đến muôn đời. Nếu ai đó còn có chút suy nghĩ tích cực về phi công Nguyễn Thành Trung thì hãy nghĩ thêm về những người VNCH đã điêu đứng như thế nào khi bị ông Trung này phản bội. Đó là luật Nhân Quả, rõ ràng và không thể trốn đi đâu được. Người viết bài này (MTA) không liên quan đến VNCH mà cũng đau nhói, uất ức khi cứ vẩn vơ cái suy nghĩ rằng, một quốc gia đang sống chết trong cơn sụp đổ cuối cùng mà lại bị một thành viên ưu tú trong đó đạp đổ cho chết luôn. Đừng trách ai đao kiếm vô tình khi mình súc sanh! Bởi sự phản bội là không thể tha thứ, muôn đời không tha thứ. Mai Tú Ân Hoàng Lan |
Skyraiders A-1 (hình) Tarin65 Viết về F-8F Bearcat, chúng ta thấy rằng việc thay thế nó là điều nhất định phải làm, chẳng những ở Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, mà còn ở Bộ Tư Lệnh Không Quân và Phái Bộ Cố Vấn (MAAG). Sôi nổi nhất là ở phi đoàn. Phải nói rằng Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức và tôi thật sự nóng nảy, chớp mọi thời cơ, gây mọi áp lực cần thiết, nói lý, dùng cảm tình, làm mọi cách để cho có một loại phản lực cơ thay thế chiếc Bearcat. Có người cho rằng vì chúng tôi đã được qua các trường lớp huấn luyện trên phản lực cơ nên chúng tôi tranh đấu để có phản lực cơ trong Không Quân Việt Nam, và từ đó dễ bước lên một nấc thang danh vọng nào đó. Danh vọng thì có biết sống được bao lâu mà màn tới, đâu có phải như Nhảy Dù một cái là biết đánh nhau như lính Dù, và lãnh đạo dù là lãnh đạo tất cả. Muốn lãnh đạo, chỉ cần bay đại khái một chuyến L-19A như ông KHA từng muốn làm để có cơ hội lãnh đạo Không Quân Việt Nam.
Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến.
Chúng tôi muốn Không Quân Việt Nam có một "bước nhảy vọt" so với Không Quân các nước tân tiến. Bây giờ, chúng tôi mới biết là chúng tôi đã không tự lượng sức mình, vì đất nước ta còn nghèo, mọi thứ đều nhờ ngoại bang chi viện. Nhưng ở đây mình nói cho sướng miệng thôi, vì lúc đó, chúng tôi vẫn còn trẻ lắm. Năm 1958, anh Vịnh mới lên 25, Đức 24, chúng tôi máu còn sôi sụt, chưa biết sợ là gì, mà cũng vì vậy mà không biết có Trời cao Đất rộng, chỉ có lý tưởng bay bổng, chỉ có "A la chasse, bordel". Và chúng tôi đã chọn A-4E Skyhawk, một chiếc vừa thon nhỏ, không kén phi trường, lại chở nhiều bom đạn (4 x 6 bom 500 lbs)... lại có đại bác 20 ly tha hồ mà bắn. Nên nhớ là sau tháng 6-1957, Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát bắt đầu có Cố Vấn Mỹ thay Cố Vấn Pháp.
Chẳng những người dân Miền Nam không theo các anh, mà ngược lại họ còn chỉ điểm những nơi các anh ẩn nấp, hướng các anh tháo chạy… đến nỗi các anh đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đập cho tan tành khiến cho MTGPMN của các anh bị tiêu diệt đến 80%, hạ tầng cơ sở bị lộ, đầu não của họ phải chạy sang Kampuchea ẩn nấp chờ quân Bắc Việt vào tiếp sức? Cũng do ở lòng dân như thế mà ngay sau Tết Mậu Thân 1968 đó, VNCH đã giao 3 trăm ngàn khẩu súng cho dân phố để họ góp phần gìn giữ an ninh cho khu xóm của mình, mà không phải lo họ cầm súng nổi dậy như các anh rêu rao... Miền Bắc giải phóng Miền Nam là chính đáng? Nếu ngày xưa Miền Nam cũng dùng chiêu bài của Miền Bắc để giải phóng Miền Bắc (khỏi ách nô lệ Cộng Sản Thế Giới) rồi mở cuộc Bắc tiến, thống nhất đất nước thì sao? |
No comments:
Post a Comment