Sunday, April 18, 2021

Đời nhảy toán – Lôi Hổ

Đời nhảy toán – Lôi Hổ

https://dongsongcu.files.wordpress.com/2016/12/d9438-solienlacloihonhakythuat.jpg?w=145&h=193
Đoàn 1 Liên Lạc/Chiến Đoàn 1 Xung Kích
1- Tiểu đoàn Phi-Hổ Nùng . Lúc này chỉ còn một đại đội. Người Mỹ đã sa thải một số Biệt-kích-quân không đủ khả năng. Riêng tôi sau chuyến hành quân tập kích vừa qua. Được chấp nhận trong cuộc thi tiếng Anh. Với chức vụ thông ngôn và theo lời tôi yêu cầu…

Cuối năm 1969, tôi thuyên chuyển sang Đại-đội-thám -sát (ReconCompany) và nhận thông ngôn Toán Indiana. Toán này đang chờ bổ sung bởi chuyến xâm nhập vừa qua, toán chỉ còn trở về người toán phó Mỹ và hai Biệt-kích-quân.

Thời điểm này, đầu năm 1970. Chương trình Biệt-kích của Nha-kỹ-thuật không còn ở mức quan sát viên như trước. Chuyển qua giai đoạn hành động. Những sĩ quan, hạ sĩ quan đến trại mỗi ngày một đông. Hai toán chờ bổ sung. Indiana và Idaho được chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật với tên mới Thăng-Long và Bắc-bình.

Toán chúng tôi, Indiana bổ sung quân số xong, đươc nhận tên mới Thăng-long. Toán trưởng Thiếu úy Bửu-Chính, toán phó Trung sĩ Lê Nam. Toán được đưa về Trung-tâm-huấn-luyện Long-thành ở thành phố Biên-hòa thụ huấn.

Image result for loi ho nha ky thuat

Trở lại trại CCN-Đà-nẵng, cái nắng hầm hập của ngày hè thật khó chịu. Gio biển không đủ để đẩy lùi cái nắng nóng. Cầm tờ phép năm ngày công thêm hai ngàn đồng tạm ứng trên ban lương.Toán tha hồ vung vít ngoài phố. Riêng tôi và Thiếu úy Bửu Chính có chương trình riêng. Ngày đầu về Phước-tường thăm nhà tôi, rồi sáng hôm sau trực chỉ Huế. Xe đến Nam-ô, nhìn ngọn núi cao vợi án ngữ mà khâm phục ông cha ta với công mở cõi. Xe đợi giờ để lên qua đèo. Gio biển hắt thêm cái nóng từ cát trắng và những cụm phi lao thấp tè chẳng che được mát trộn lẫn mùi tanh nồng của biển theo gió hắt lên đi qua cái làng chài bên tay mặt. Chiếc xe gầm gừ leo dốc chậm chạp, mặt đường nhỏ hẹp bên vách đá thẳng đứng và vực thẳm bên này. Dưới chân nước biển xanh ngắt. Ngồi nghỉ trên trạm dừng chân đỉnh đèo, không khí trong lành, cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bằng cảm nhận giây phút chợt đến, lòng tôi như thoát tục lâng lâng bay bổng, nhẹ tênh cùng cảnh vật. Tiếng ơi ới gọi nhau lên xe làm tôi bừng tỉnh ngất ngây. Bửu Chính sau lưng nắm tay tôi:

“Làm chi mà đừ người ra rứa, bộ lạ lắm sao…”

Trấn tỉnh, tôi cười nói với hắn:

“Cảnh đẹp quá, tớ đang nghĩ tới Hoàng-thân Tôn-thất-Mỹ, tới được đỉnh đèo ngài tức cảnh sinh tình, cùng phu nhân thoát tục, hì hụp. Kết quả thượng mã phong, để lại tiếng khóc của phu nhân…”

Nghe động đến gia tộc của hắn, nhăn mặt miệng chửi thề kéo tôi vào xe xuống đèo nhưng xe cũng chậm như lúc lên.

2- Ngồi trong xe lắm lúc giật mình, tưởng tượng chỉ cần một sơ sẩy hoặc xe hư là có thể lao thẳng xuống núi tắm biển. Phía tay mặt xuất hiện bên dưới phong cảnh tuyệt vời. Một cái lõm biển chạy vòng dài theo núi, mây lãng đãng dấn trôi, cát trắng mịn leo lên như muốn lấn đá núi, xa xa thấp thoáng vài con tầu cá điểm lồng vào mầu xanh biển cả. Ba ngày vui chơi ở Huế, Bửu Chính đáng mặt thổ địa…Ngạc nhiên đầu khi về tới nhà hắn. Mọi người đều gọi hắn là mụ, mụ Chính. Hàng cây cảnh tuyệt đẹp ngoài sân chạy theo dãy hàng hiên vắng lặng treo những lồng chim. Dưới tàn xanh xum xuê cây Ngọc-lan tỏa mùi thơm ngào ngạt. Cảnh tĩnh lặng như muốn dấu đi hay hắt bỏ mọi cuộc sống náo nhiệt. Ngồi trên sập gụ. Hai mẹ con đối đáp hỏi nhau bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, tiết kiêm lời nói và người đàn ông đứng tuổi sau lưng, khi đặt ba tách trà rồi lui đứng đó im lìm. Bà mẹ Bửu Chính quay sang hỏi chuyện tôi. Trong sự e dè tôi chậm rãi trả lời. Vài cái bánh trong cái dĩa to được đưa lên và những người trong nhà nghe chuyện chạy lại thăm cũng chỉ nói ít, phần đông vòng tay cúi đầu chào, khép nép. Cả buổi chiều dành cho gia đình tôi chứng kiến nhiều phong tục cũng như lễ nghi, phép tắc khác thường. Tỏ ra người lớn Bửu Chính nét mặt luôn trang nghiêm, cử chỉ khiêm tốn. Có những ông bà đã già gặp hắn vẫn phải cúi đầu, gập mình chào hỏi. Bữa cơm tối gia đình, lần đầu tiên tôi mới thưởng thức được cái mùi trong chất gạo ngọt nồng hương lúa, dai, dẻo của gạo đặc sản xứ Huế, gạo De An-cựu. Ăn với chim sẻ quay dòn. Trên chiếc Honda dame xanh. Bửu Chính chở tôi thăm thú kinh thành, lăng tẩm, hồ vọng…Có khi xa tít ngoại thành qua những đồng lúa, ao sen, e ấp quanh hàng cây cao chạy dài xa tận đồi dốc thoải, ngắm mà mê cả mắt. Bầy chim trắng bay theo đội hình chữ V xa xa một con vẻ già yếu, đang cố theo sau.

Buồi chiều sông Hương vắng lặng, trên bờ thưa thớt, người ta đợi nắng khuất. Đúng như vậy, mọi sinh hoạt đều đổ dồn ra, chả mấy chốc mà náo nhiệt, những đôi gánh đặc trưng bán đồ ăn quà, đến cái thúng đội trên đầu bán hột vịt lộn, mà cô hàng chỉ rao có một tiếng, nghe lầm tưởng đến cái danh vật muôn thủa mà phát ớn, mặt đỏ bừng…Dưới dòng sông đò cũng tấp nập chẳng kém, inh ỏi trao đổi thuê mướn, ngã giá. Tay chỉ bên kia sông nơi sản xuất thứ gạo de nổi tiếng. Trên đồi chùa Thiên-mụ cô đơn lặng lẽ.

3- Hai đứa bước xuống con đò thuê, khá lớn so với đò xung quanh. Ra giữa giòng, đò xuôi về hướng hạ lưu. Không gian êm đềm, sông nước tạo cảnhhữu tình. Trăng đã lên, sao sáng lung linh. Chiếc ghe con cập vào conđò đang neo, mang lỉnh kỉnh những thức ăn cùng hai kiều nữ sông Hương, bạn học của Bửu Chính lúc hắn chưa đi lính. Qua màn giới thiệu, với ánh mắt linh hoạt, nhưng cử chỉ e thẹn nhẹ nhàng. Người đàn ông chủ đò sáp xếp đồ ăn cùng rượu và hai tiểu thư bắt đầu vào cuộc vui đờn hát. Ly rượu đầu trang trọng giao hảo với tiếng cười không ngớt. Bầu không khí nhịp nhàng chuyển động. Bửu Chính tỏ ra thích thú hết cỡ với những bài hát hò đặc giọng, đôi lúc nhẩy nhổm lên với tiếng mõ đúng điệu nhịp, tay vỗ vẻ suýt soa…Chưa quen với bàn tiệc kiểu này, tôi chỉ biết làm theo và bắt chước. Ngừng tiếng đàn hát hai ả chia nhau tôi và Bửu Chính…Nói cười ngọt lịm chẳng thua tiếng hát…Có lẽ còn dễ nghe và khoan khoái hơn…Rót vào tai êm ả, mê ly…Cùng rượu nồng thi nhau biến hết. Chả mấy chốc,đêm vắng lặng, bóng trăng đã ngả xuyên qua lỗ vách liếp đò…Cả bốn người có vẻ khật khừ, những câu hát chợt nổi, ngắn không bài bản, tuôn ra tùy hứng…Tự nhiên bàn tay sôi nổi đi tìm cảm giác rồi những tiếng cười ré lên “Nhột, mần chi mà nhẽo rứa” Cứ thế, trong đỉnh của sự cợt nhã…Lúc ngối lúc lăn. Ông chủ đò đã mang ra chai rượu thứ hai. Dĩa gà luộc to lớn và chén muối tiêu chanh ngổn ngang như chiến trường tàn cuộc. Cái phao câu gà cứ bị đẩy qua lại tênh hênh một mình như thách thức. Vai đã ghì vai và miệng mặt cũng gần nhau phà hơi thớ nóng chẩy…Thoạt tiên ngần ngại, dần dà bạo dạn hẳn lên. Ngọn đèn chao đi theo con gió đêm lạnh và đỉnh điểm cuộc vui bày ra trong những cái lắc lư, sóng vỗ mạn đò…Đờn một bên, mõ một nẻo, quấn lấy nhau trong tiếng kêu trầm thống, thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nã. Ngọn đèn gió đã tắt đi từ bao giờ, ngoài kia ánh trăng soi rõ làn sương mù như đang e ấp với giòng sông. Đò đêm nay, lần đầu tiên khám phá mê cung, tôi mất đi cái đáng nhớ cuộc đời… Nhưng dù sao nét lãng mạng của cuộc chơi đã xóa ngay trong trí những băn khoăn, thẫn thờ…Lăn tùm xuống sông trong nước lạnh giá, tôi khoan khoái tháo bỏ những vết sước trên thân thể. Bơi hai vòng quanh đò, thầm nghĩ đã sạch sẽ. Vào trong khoang nằm vật xuống ngủ lăn như chết.

Image result for nha ky thuat

4- Năm ngày nghỉ phép, tràn đầy những cuộc vui, tâm hồn thoải mái. Toán cũng đã dần tề tựu. Sáng nay thiếu úy Chính được gọi lên phòng hành quân (TOC) Nhận mục tiêu và dự thuyết trình sơ khởi. Chiều đến lên kho lãnh đồ trang bị hành quân. Sau cơm chiều, chiếc xe jeep đưa toán nhập khu cấm (Isolation). Nghĩa là từ giờ phút này cho đến lúc kết thúc hành quân. Toán không được giao tiếp với bên ngoài. Cuộc thuyết trình hành quân chính thức bắt đầu vào lúc tám giờ tối. Thiếu úy Bửu Chính và Trung sĩ Lê Nam dự thuyết trình. Bốn đứa tôi coi TV và tán gẫu chờ đợi. Khoảng hai tiếng sau Chính và Nam trở về thông báo hành quân và phân nhiệm vụ cho mỗi người…Toán chúng tôi sẵn sàng hành quân với thành phần: Hai cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật và bốn Biệt-kích-quân (Special Commando Unit) SCU. Toán Thăng-long cùng tám chiếc Kingbee H34 vừa mới đến bãi trực thăng trại lên đường bay ra Quảng-trị. Nơi đặt Căn-cứ-xuất-phát nắm trong khu vực Sư-đoàn 101 nhẩy dù Mỹ…Khoảng mười giờ sáng, một Trung sĩ người Mỹ đến thông báo toán trưởng chuẩn bị đi xem bãi đáp xâm nhập.

Thiếu úy Bửu Chính cử tôi đi thay thế. Ngồi trên xe ra phi trường. Chiếc OV10 đậu sẵn chờ đợi…Lần đàu tiên tận mắt tay sờ…Lòng thán phục nền kỹ thuật tuyệt vời, nét thiết kế mỹ thuật, kiến trúc vững chãi và mọi vật hoàn hảo đến từng chi tiết. Người Đại úy phi công dẫn tôi leo lên buồng lái phía sau, tay chỉ vào cái khoen mầu vàng chữ D ngang,chốt an toàn mầu đỏ bên dưới. Hệ thống cấp cứu này nằm dưới giữa chân ghế của phi công và giảng giải”

“Mệnh lệnh tôi sẽ truyền cho bạn, hãy nhìn vào gương chiếu hậu trước mặt tôi. Trường hợp khẩn cấp, tiếng báo động reo vang và xin để ý khi nào tôi hô: “Emergency…go”

Bạn hãy rút cái chốt an toàn dưới khoen vàng đồng thời nắm khoen chữ D kéo mạnh lên trên. Đó là ghế thoát hiểm.”

Rời phi trường chiếc Covey lên cao bỏ lại sau lưng biển xanh. Núi cao trước mặt và dãy đồi xanh ngắt bất chợt dâng lên dãy núi đá loang lổ. Ngọn núi lẻ loi dẫn vào lòng chảo Khe sanh. Không hổ danh là loại trinh sát cơ tối tân. Từ ghế ngồi, phi công có thể quan sát mọi hướng, kể cả dưới bụng phi cơ. Chính sự thon nhỏ đã lấy hẳn sự che khuất tầm nhìn, đáng nói hơn bao phủ trên đầu hoàn toàn bằng kiếng trong … Đặc biệt không có cửa hông, người phi công phải leo qua thành máy bay đề vào ghế ngồi. Tiếng gọi trong mũ bay,nhìn lên kiếng chiếu hậu phía trước, gương mặt Đại úy phi công nhìn tôi tay chỉ và giọng nói trong mũ bay:

“Sửa soạn vào mục tiêu thả toán Lôi-hổ”

Tôi cười ra dấu hiệu tốt, lòng thích thú vì ở vào vị trí đi Covey thả toán… Nhớ lại buổi chiều khi toán tôi vào khu cấm, cũng là lúc toán của Đại úy Minh, sau này là Chỉ huy trưởng Đoàn 2…Cùng toán phó Trung sĩ Ban (Phạm văn Ban) và bốn Biệt kích quân lên xe ra phi trường. Chiếc Covey đang vòng trên khu vực bãi đáp. Sáu chiếc trực thăng lộ rõ dần. Tiếng người phi công gọi tôi

“Chú ý chuẩn bị, tôi xuống để chĩ điểm bãi đáp”

Image result for us army uh 1 helicopters drop special forces in the vietnam war

Toàn bộ trực thăng đã ở trên mục tiêu. Covey đang liên lạc với trực thăng và lao nhanh xuống. Tôi nghe thấy tiếng chú ý và tiếng hô Bingo của phi công và trên những chiếc trực thăng nhìn xuống. Covey là điểm còn tiếng Bingo là bãi đáp. Covey lao vút lên và đảo vòng. Dưới kia chiếc Gunship đang bắn dọn bãi. Nhanh và chuẩn cuộc thả toán xâm nhập chỉ trong vòng mười phút

5- Covey và trực thăng đang vòng vòng, chờ báo cáo của toán, tín hiệu tốt đẹp. Sự yên tĩnh dần được trả lại cho bầu trời. Covey đưa tôi đi xem bãi đáp. Bầu trời xanh ngắt, ánh nắng vào trưa chói chang. Dưới kia hiện ra dãy đồi núi đá loang lổ và cây cao thưa thớt. Đó là sườn của ngọn núi đá cao, vách thẳng đứng một bên, phía dưới một mầu xanh rì chạy dài tít mù…Nhìn lên phi công theo tiếng gọi:

“Hải, bãi đáp là hố bom”

Theo tay chỉ, toàn bộ bãi đáp tôi nhận ra ngay… Lác đác xung quanh là những cây cao cạnh cái hố bom rộng.

“Đại úy, bay lại một lần nữa để xem địa thế”.

Quan sát với địa thế như vậy, toán phải thật nhanh chóng ẩn mình. Tôi chọn đám bụi rậm chạy dài theo hướng nam để ẩn nấp trước khi lấy lại phương hướng xâm nhập mục tiêu. Trên đường về, cảm giác nhẹ nhõm, tự mãn được trên chiếc Covey. Một dịp hiếm có và hãnh diện vì rất ít mục tiêu phải cần đến bay không thám. Tường trình với toán về bãi đáp, chúng tôi thống nhất cách hành động… Thiếu úy Bửu Chính lúc này mới thổ lộ:

“Tau không chịu nổi những cú xuống nhanh và lên gấp của máy bay”.

Qúa trưa ngày hôm sau Thiếu úy Chính và Trung sĩ Nam lên dự thuyết trình không quân. Sau thuyết trình (Briefing) toán chúng tôi có một tiếng đống hồ chuẩn bị. Mọi người phải thắt đai dây sì líp qua hai háng, móc sắt sẵn sàng trước bụng. Đôi găng tay được phát đề chống cái nóng cọ sát giữa tay nắm và giây tụt. Bốn chiếc UH1 Huey và hai Huey Gunship trên sân, phi hành đoàn lục tục lên máy bay. Thiếu úy Bửu Chính và tôi (Nguyễn văn Hải) lên chiếc đầu. Cón lại Trung sĩ Nam (Lê Nam) cùng Sơn (Lê văn Sơn) Mẫn (Đặng văn Mẫn) Phùng (Trần Phùng)…Sơn, Mẫn, Phùng và tôi đều là Biêt-kích-quân…Theo thuyết trình Chính và tôi trên một trực thăng đổ bộ trước, tiếp đến chiếc thứ hai sẽ đổ bốn người còn lại. Dây tụt dài ở mức ba mươi mét. Một Thượng sĩ Mỹ kiểm soát xem móc sắt trước bụng đã được gài vào dây tụt hay chưa…Mọi việc hoàn tất bằng cái dấu hiệu number one của Thiếu-tá Trưởng căn cứ. Đoàn trực thăng cất cánh. Ánh nắng chiều xuyên ngang rọi trực tiếp mầu vàng khè chói lọi vào cứa trực thăng, quang cảnh bên dưới một mầu xanh thẫm chứa dấu bí hiểm. Quay sang phía cửa bên kia ra dấu hỏi Chính tốt chưa? Ông toán trưởng mới toanh của toán tôi mà cả buổi chiều qua Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) Đại đội trưởng Đại đội Thám-sát đặc biệt lưu tâm và truyền thêm nghề “Nhảy Toán”…Đoàn trực thăng và cả Covey đang trên mục tiêu, tôi nhận ra rõ khoảng núi đá thẳng đứng mà bên kia mới là bãi xâm nhập. Chiếc Gunship lao xuống, loạt rocket phóng xuống bãi đáp đồng thời cây đại bác 20ly bên hông khạc ra những loạt lửa dài. Người Thượng sĩ Mỹ ra hiệu. Trưc thăng từ từ đứng trên hố bom.

Tay trên tay dưới trong sợi dây tụt, chân chạm càng máy bay, tôi búng người lao xuống mắt hướng về phía dưới. Tay mặt nhấp siết hai lần dây tụt để giảm bớt lực xuống và rồi theo mắt nhìn dưới đất, ghì sợi dây một lần nữa, chân vừa chạm đất. Đưa tay tháo cái móc sắt khỏi dây tụt. Bên kia Chính cũng vừa xong. Trực thăng kế tiếp và bốn người còn lại xuống đất an toàn…Đúng như dự đoán cách bãi đáp không xa, khu rừng chồi quả là nơi che chắn lý tưởng. Thật nhanh chúng tôi biến vào khu rừng và yên tâm với địa thế hiện tại, nghe ngóng động tĩnh. Tôi báo cáo với Covey toán an toàn và đang di chuyển…Muỗi nhiều, tiếng vo ve săn đuổi. Toán phải dừng lại thoa thuốc muỗi. Tôi nói với Sơn đi đầu quan sát tìm chỗ ngủ.

6- Trung sĩ Nam và Phùng vừa gài xong hai trái mìn Claymore phòng thủ. Trời tối đen như mực, bên một hòn đá lớn, dựa lưng vào ba lô, nghe tiếng nhạc rừng trời đêm. Cảm giác lẻ loi một mình chân bỗng run lên lành lạnh. Dù rằng quanh đây đồng đội luôn phát ra những tiếng cựa quậy, đổi thế nằm. Thiếu úy Chính đang ho vào vặt áo bịt lên miệng, kèm theo hắt hơi đứt quãng, khô trong họng. Hắn đang dị ứng với núi rừng đêm lạnh. Một vệt ánh sáng mờ vừa chiếu qua, nhỏm người dậy nhìn lên chợt hiểu. Trên đồi bên kia, địch đang truyền tin cho nhau bằng ánh đèn pin. Tiếng ầm ì, ầm ì như mỏng manh trong gió vọng lại có lẽ còn nhỏ hơn nhiều so với cái cựa mình của đồng đội. Ánh đèn pin trên kia vẫn lúc mở lúc tắt theo cái khóa truyền tin. Bầu trời muôn ngàn sao, bất chợt một sao xẹt tạo một vệt ánh sáng đâm xuống hướng nam. Tiếng xe chạy mỗi lúc một rõ dần. Vẻ nặng nề chở nặng hay xe đang lên dốc. Ngọn đèn pha loang loáng có lúc bị che khuất bởi vật cản hay lùm cây bên đường. Ánh đèn pha lúc này rọi thẳng về hướng chúng tôi chỉ cách nhau khoảng một trăm mét…Chúng tôi đang ngủ cạnh con đường. Tiếng động cơ tạo sự rung động lan truyền theo đất và cả không khí âm vang dậy núi rừng. Thấp thoáng bóng người đi bộ theo hai bên xe. Nhờ ánh đèn pha, nhìn kỹ có người đeo súng quần áo bộ đội xen lẫn đám người ăn mặc thường tay cuốc tay sẻng. Ngang tầm chỗ toán đang ẩn núp. Bốn chiếc xe và đoàn người đột nhiên dừng lại. Đã có lệnh truyền trong cái lao xao tiếng người nhưng chẳng rõ họ đang nói gì ?…Lại gần Thiếu úy Chính, tôi bàn định…Phải di chuyển ngay trong đêm, cứ thẳng hướng mục tiêu. Để tránh xa cái con đường nguy hiểm này. Nam và Phùng đã tháo xong hai trái mìn . Toán lên đường mò mẫn trong đêm tối. Ánh sáng lân tinh từ chiếc la bàn của Sơn thi thoảng chợt lên rồi lại tắt…Tiếng gà gáy từ bên dưới núi vang lên, vọng lại xa hơn tiếng thú rừng vẻ buồn tình hay cả hứng tình hú gọi, gầm gừ hoặc vui thú reo vang. Di chuyển trong đêm tối thật vất vả, nhưng nhờ vào địa thế trống trải không phải mở đường, cái khó và mệt trong lúc này chính là độ dốc. Núi mỗi lúc một cao làm trì nặng đôi chân. Một tiếng hú lớn ngân vang, phía trên xa có tiếng đáp lại, đồng ca với đàn gà gáy dồn dập dưới dốc núi ngụ ý như đón chào ngày mới… Mệt thì nghỉ rồi lại leo… Nhắc Thiếu úy Chính căn hướng đi cho đúng, thầm nghĩ sao mục tiêu cứ ở mãi trên cao … Làn gió lạnh buốt hắt cuộn vào như ôm chặt chúng tôi, kèm theo mây mù giăng giăng trong cái sáng mờ mờ, đầu tiên của một ngày. Ngồi nghỉ lại bên tảng đá lớn quanh gốc cây. Toán chuẩn bị lương thực cho một ngày. Đun nước sôi trong cái ca nhôm, đổ nước vào hai bịch gạo sấy pha cà phê và tận hưởng điếu Capstan…Thèm muốn chết…Bửu Chính đang lo soạn bức điện và định hướng trên bản đồ vị trí con đường đêm qua. Ăn sáng xong toán bắt đầu di chuyển. Cây rừng không rậm cũng chẳng thưa tạo được tầm nhìn tốt nhưng cũng rất dễ để lộ tung tích…Đành vậy còn hơn khu rừng thưa đêm qua. tiếng ò ò của Covey bao vùng, chiếc O2 (FAC) còn nếu OV10 thì ấm hơn ì ì. Toán dừng lại , tôi bảo Mẫn bật điện đàm…Covey đang gọi tôi trả lời và chuyển ngay bức điện…Tiếp tục di chuyển theo triền dốc thoai thoải, khu rừng này có cái sướng là không có lấy mợt con vắt…Tiếng người ho làm chúng tôi theo tự nhiên ngồi thụp xuống, nhìn vào chỗ phát ra tiếng ho, chả thấy gì?. Lại ho nữa, lần này sặc sụa…

7- Rồi tiếng nói như còn ngái ngủ, chậm rãi “Ho mãi vậy để tớ ngủ, đắp cái khăn vào cổ đi” Chúng tôi đồng nhìn nhau, tôi tự hỏi chẳng lẽ là ma, mà ma sao nói được… Chợt hiểu tôi lấy tay chỉ chỉ xuống đất và những cái gật đầu đồng tình. Phất tay ra hiệu lẩn trốn, di chuyển trong thế khum khum…Một bóng người chui ra từ đất phía bên kia triền dốc vừa ngáp vừa sững sờ nhìn chúng tôi. Người gần nhất là Trung sĩ Nam. Cây Car 15 của hắn nổ khoảng nửa băng, phát một. Bóng người đổ ra sau. Toán lập tức ra sức nhắm chạy theo nhau mau mau thoát càng xa càng tốt…Một địa thế có vẻ thuận lợi cho tác chiến. Tôi gọi mọi người dừng lại, đổi ba lô cho Mẫn rồi bật máy liên lạc với Covey…Ngay tức khắc có tiếng trả lời, tôi báo đụng địch và xin trợ giúp khẩn cấp…Covey trả lời đến ngay. Chúng tôi tiếp tục di chuyển, càng đi dốc càng cao, cây ít nhưng đá thì nhiều. Lúc này Covey đã trên đầu và gọi…

-“ Zulu Romeo đây Oscar November, cho xin số nhà đi.”

Cái ánh nắng buổi sáng bởi những tảng sương mù che khuất nên tôi đành nói với thiếu úy Chính cho một người cầm panel ra khoảng trống mé ngoài phía thung lũng chờ máy bay…Nhớ mật hiệu mầu cam.

– “Oscar november, tôi đang ở hướng tám giờ, anh vòng sang phải qua thung lũng, ngay trên núi.”

-“Oscar november đây Zulu Romeo, cứ tiến tới hướng 11 giờ…12 giờ. Panel mầu cam đang chờ trước mặt.”

-“Ok thấy rồi bạn nên cố lên phía trên, có những tảng đá cao, ít cây rất dễ cho không trợ, sẽ có ngay đồ chơi, đang xin cho bạn triệt xuất.”

-“Cám ơn Oscar november, thoát.”

Chúng tôi đi thêm 100 mét, quả đúng những tảng đá mọc chen cùng cây thấp. Bãi lý tưởng để câu dây trệt xuất. Lập ngay vị trí phòng thủ. Bời chắc chắn địch sẽ theo chân chúng tôi. Trungsĩ Nam vừa gài xong trái Claymore và hai trái mìn M14… Toán chờ đợi. Trái mìn M14 nổ tung và rồi những tràng đạn tới tấp, sối sả của địch bắn vào. Cây M79 của Phùng nổ ác liệt tạo nên bụi khói che chắn tầm nhìn. Với vị trí lúc này ở vào địa thế cao chơi từ từ lựu đạn là tốt nhất…Một tiếng nổ lớn và rồi loang theo những lửa và sức nóng. Trái B40 của địch nổ tung trên tảng đá lớn. Loạt hơi nóng bao trùm đánh bạt cái lạnh ban sáng. Chúng tôi ở vào vị thế vượt trội và sau màn lựu đạn và M79. Địch có vẻ chững lại, cùng lúc chiến trường yên ắng nặng nề. Liên lạc báo cáo nhanh với Covey. Tôi nhắc Trung sĩ Nam “Coi chừng trái Claymore, tụi nó sắp tấn công”. Một tiếng xẹt, vèo ngay trên đầu, cây 79 của Phùng vừa phát hiện tên xạ thủ B40 của địch. Ôm trọn trái 79, rồi tiếng nổ và tên địch gập xuống như ai đó gấp tờ giấy…Không nghe tiếng nổ trái B40 của địch…Có lẽ đang xuống thung lũng. Vẫn cái bấm mìn trước mặt, Trung sĩ Nam đang loay hoay móc thêm lựu đạn. Tiếng hô xung phong vang dội, đám địch xuất hiện vừa bò vừa bắn dữ dội lên trên. Những cây Car 15 giờ đây mới nổ dòn…Xác người xấp ngửa thấy rõ làn đạn cày sới cùng những co giật thân mình. Lợi thế trên cao quả là tuyệt vời. Qua đi những khói bụi đám đông lố nhố dăng hàng lum khum, tay súng nổ dòn nhào lên. Trái mìn Claymore nổ tung khói lửa bụi mù. Bên này địch vẫn tiếng hô, thét áp đảo. Thiếu úy Chính đứng hẳn lên hô :

“Chạy lên phía trên mau.”

Rồi không đợi ai hắn tiến lên trước. Đúng với chiến thuật mìn nổ là lúc mở đường máu…Chạy một đỗi, chiếc Covey đang trên đầu…Xa xa hai chiếc Khu trục A1 Skyraider…Tôi đề nghị với Chính. Lập ngay phòng thủ gài luôn trái mìn của Phùng đang gọi Covey xin không kích. Tôi thấy Phùng từ nơi gài mìn hớt hãi chạy lên, bỗng quay lại nổ một trái 79.

8- Tôi hét vào trong máy.

-“Oscar november, tôi đang bị bao vây, địch tấn công . Oanh kích ngay vào trái khói vàng…”

Tháo trái khói đeo nơi ngực, tôi liệng thẳng xuống hướng địch. Ngay lập tức tấm panel vàng cũng được căng lên giữa toán… Loạt đạn 20 ly phầm phập nổ liên tục. Chiếc A1 như ngừng lại, nhìn thấy cả tia lửa nơi nòng súng…Chiếc thứ hai cũng đang từ từ chúc đầu nổ dòn đạn 20 ly. địa thế quá gần để không thể thả bom chùm… Bên trên chiếc Covey bỗng lao vụt xuống phóng một trái khói. Chiếc A1 đầu tiên lúc này tách ra tấn công vào vị trí Covey mới phát hiện. Tiếng bom nồ đinh tai không dứt kèm theo bên trận tiếng hô xung phong lanh lảnh…Bỗng chốc địch tràn ngập. Súng nổ ầm vang. Cạnh tôi Phùng thét nghe rợn người, cây M79 văng khỏi tay hắn, lồng ngực thấm đẫm máu…Nằm lăn người qua một bên, tôi quăng vài trái lựu đạn và vội tiếp vào súng băng đạn mới…Cả hai bên cùng nấp vào những phiến đá chơi trò cút bắt. Bên kia Thiếu úy Chính ra dấu Sơn chết rồi. Hai chiếc A1 vẫn tấn công vào mục tiêu. Khẩu phòng không bị Covey phát hiện giờ đây im tiếng. Trong máy Covey đang gọi:

-“Zulu Romeo, bạn chuẩn bị triệt xuất di chuyển nhanh lên phía trên 100 mét. A1 sẽ can thiệp phía sau, bỏ lại hai người chết.”

Thông báo cho Thiếu úy Chính. Mò tay vào túi bi đông đựng lựu đạn tôi lấy hết số lựu đạn của Phùng, rồi nắm lấy cái bấm mìn chờ lệnh… Những trái bon napalm tạo một vệt lửa chạy dài, cách chúng tôi chỉ vào khoảng 50 mét…A1 đã quen với vị trí mục tiêu…Nhờ vào địa thế và khẩu B40 của địch đã bị diệt, thêm vào sự tham chiến của hai Khu trục cơ. Toán chúng tôi mới giằng co được cho tới lúc này…Sáu trực thăng đã có mặt trong vùng, tạo nên sự sinh đông phấn khởi. Hai chiếc Huey Gunship thế chỗ cho Khu trục cơ.Trên kia Covey dục Toán cố di chuyển…Bằng một hiệu lệnh gật đầu đồng ý. Trái Claymore nổ tung, khói và bụi đất che chắn sau lưng. Toán vội vã chạy lên đỉnh cao hơn. Đành bỏ lại Sơn và Phùng. Hai Gunship thay nhau yểm trợ…Đến được một phiến đá bằng rộng, đường kính khoảng 10 mét. Đưa tấm panel lên làm ám hiệu, Mẫn đang ngửa cổ nhìn trực thăng…Súng địch tới tấp từ hông của toán…À, tụi này đi vòng mong chiếm đỉnh cao, nhưng sợ máy bay phát hiện…Giật mình nhìn lại ,Mẫn chân vẫn còn quì nhưng người gập xấp trên phiến đá. máu tuôn ra lai láng…Tôi gọi Covey báo cáo, nhưng sao máy câm nín…Hiểu rồi lúc ngã xuống vì bị tấn công, nhớ lại một cái gì như ai đánh vào vai rất mạnh, nhìn qua sau vai, cời bỏ cái ba lô để kiểm soát…Đạn cày nát nắp ba lô tạo một đường rách dài lộ ra phần trên máy truyền tin nát bét…Rút vội cái máy P90 mở làn sóng cấp cứu…Có ngay tiếng hỏi :

“Làn sóng cấp cứu nào lên với tần số”

-“Đây Zulu Romeo, máy truyến tin của tôi bị bắn nát. Xin chuyển làn sóng cấp cứu…Thêm một toán viên chết.”

-“Ok Zulu Romeo nhận rõ, trực thăng sẽ câu bạn lên khi nào tình hình cho phép, chuẩn bị sẵn sàng, móc và đưa người chết về.”

-“Oscar November, roger that.”

Sự can thiệp chính xác vào địch bên hông vị trí toán. Viên phi công trực thăng đã thấy rõ địch quân bên dưới…Đã ngớt tiếng súng, thỉnh thoảng thẩy vài trái lựu đạn phòng ngừa, chúng tôi ghìm súng chờ đợi. Chiếc Gunship vừa vút lên cũng là lúc Covey gọi tôi”

-“Zulu Romeo, chuẩn bị trực thăng đang xuống bãi.”

9- Đưa tấm panel mầu cam về phía trực thăng đang từ từ tiến đến. Ba người đã chuẩn bị cho câu dây. Hai chiếc móc dây đai dù qua háng đã được gài. Trung sĩ Nam gài móc dây cho xác Mẫn đang nằm dài trên phiến đá. Ở bên này theo gió mùi máu tanh hòa lẫn khói thuốc súng tạo cảm giác nôn nao lợm giọng. Chiếc Gunship vụt qua. Khẩu đai liên tự động sáu nòng vãi như mưa đạn xuống bên sườn đồi. Trực thăng đứng trên đầu đang thả xuống bốn sợi dây câu, bỗng chao đi đầu chúc thẳng xuống thung lũng. Tiếng súng lại vang lên pha lẫn tiếng rocket nổ ầm ầm của chiếc Gunship theo sau… Bất giác nhìn xuống thung lũng một đám lửa khói bốc cao, thầm nghĩ những người chiến sĩ đang đi lên với Thượng-đế…Có tiếng Covey:

-“Zulu Romeo, bỏ lại người chết bạn có mười phút để ra khỏi nơi tồi tệ đó. sẽ dùng hỏa lực…Thoát mau đi.”

Đứng vội lên tôi nói với Nam và Chính chạy đi mau lên…Băng nhanh vào hàng đá núi, chúng tôi chạy dần lên cao, mặc cho địa thế hiểm trở, nhưng nơi đây nơi lý tưởng cho tác chiến. Phân thành ba góc, Trung sĩ Nam trải ngay tấm panel. Tôi gọi Covey:

-“Oscar november địa điểm mới, anh thấy thế nào?”

-“Zulu Romeo tốt chuẩn bị triệt xuất.”

Image result for us army uh 1 helicopters drop special forces

Một chiếc UH1 Huey đang gần lại chúng tôi. Hỏa lực trên Gunship đạn cày sới tung tóe nhiều nhánh cây chồi gẫy gập. Trực thăng đang ở trên đầu, sức gió từ cánh quạt vẹt hẳn hàng cây…Chiếc Gunship thứ hai bắn ra những trái rocket có tiếng nổ phụ. Loại rocket phóng ra những đinh kim để chống biển người, cốt che chắn cho trực thăng. Người Mỹ phụ trách thả, rước toán đang buông dây câu…Rõ như ban ngày, người xạ thủ trực thăng rời tay súng, người gập thẳng vào giá súng, tay soãi lỏng, ngay chỗ tôi đứng chờ dây câu những giọt máu tong tong chảy xuống in đậm vào hàng đá tảng dưới chân. Lập tức trực thăng rú lên cất thẳng lên cao rồi vụt biến. Điên cuồng Gunship lúc này xuống thấp hơn. loạt đại liên và đạn 40 ly tự động tựa mưa rào trút xuống. Cùng lúc tiếng súng của địch bên dưới ầm vang…Vội thẩy mấy trái lựu đạn.
Tiếng Covey gọi tôi:

-“Zulu Romeo, bạn hãy cố cầm cự, Gunship sẽ ở cùng bạn, mọi thứ sẽ trở lại ngay…Cố lên.”

-“Oscar november, nhận rõ xin bạn cố gắng. hỏa lực của tôi đang hết dần.”

Hai trực thăng vẫn trút xuống thép và lửa nhưng thời gian tác xạ lâu dài hơn không tới tấp như trước…Nó đang câu giờ.

Chiếc Covey O2 sơn mầu rằn ri lao nhanh xuống phía đồi và đang thắng vút lên. Một trái khói trắng bốc cao.Chiếc F100 cũng sơn mầu ràn ri, không biết đến từ lúc nào lao nhanh xuống từ bụng phi cơ ba trái bom được nhả ra ngay trái khói chỉ điểm. Ba tiếng nổ dậy đất ầm vang cột khói bốc cao đen kịt. Tôi còn thấy rõ đường đạn đỏ theo máy bay…Những tiếng nổ tiếp theo sau liên tục. Một cột khói đen như cái nấm khổng lồ, bên trong nhìn rõ ngọn lửa sắc lẻm tung hoành. Chiếc F100 đã đánh trúng mục tiêu, bằng ngay mấy trái bom đầu.

10- Thật ngoạn mục khi chứng kiến cảnh những hòn than lửa bắn nối đuôi nhau vào chiếc F100 đang lao xuống bung ra một lúc ba trái bom mà không thèm bốc lên cao, đang bay gần như sát cụm rừng. Tiếng nổ ầm vang như sấm. Một biển lửa bao phủ mục tiêu. Phi cơ dần vút lên cao, giờ chỉ còn chấm nhỏ rồi mất hẳn trên bầu trời. .. Trận không kích thành công.

Nơi chúng tôi chận chiến bỗng ngưng hẳn…Một cuộc chơi mới chăng?…Đã có tiếng trực thăng từ hướng đông vọng lại. Những đốm đen từ bầu trời to dần. Sáu chiếc trực thăng đang bay tới.

-“Zulu Romeo, bạn thấy chiếc OV10 chưa? hắn sẽ thay tôi giúp bạn. Tôi chì còn đủ xăng để bay về, tạm biệt.”

Ngay sau đó tiếng Covey gọi :

-“Zulu Romeo, tôi thấy quả cam của bạn rồi. Chờ dọn bãi, hãy chuẩn bị trực thăng sẽ đến từ thung lũng, ghé vào bốc bạn ra. Không sử dụng dây câu.”

-“Oscar november. Roger that.”

Chiếc Cobra bổ xuống trút những viên đại liên, rồi tiếng nổ của đạn 40 ly(M79). Tiếng súng của địch bên dưới vẫn từng chặp sối sả cặp kè theo chiếc Cobra…Bốn chiếc Kingbee H34, thuộc phi đoàn 219. Không quân Việt Nam Cộng Hòa. Phi đoàn được mệnh danh “Thần Phong” bởi thành tích anh hùng, rất liều mạng trong chuyến thả và rước toán Biệt-kích…Huyền thoại về những phi công được danh xưng Cowboy hay Mustachio được loan truyền và mãi là những hiệp sĩ hào hùng bất diệt. Mặc cho tầng đạn từ Cobra. Bên dưới địch quân vẫn bắn lên như mưa mỗi khi trực thăng xuống tác xạ. Người phi công Cobra như hiều được tình hình và đã quen mục tiêu…Bây giờ họ đổi chiến thuật. Xạ kích từ trên cao rồi quay ngoắt về hướng thung lũng…Tiếng súng chát chúa rồi thấy rõ những vết đạn xoáy tung những hòn đá nhỏ rớt trên đầu và cổ. Nhìn ra hai tên địch vừa bò lên nằm im bất động. Lựu đạn lại được tận dụng…Cũng may loại lựu đạn đặc chế cho Biệt kích là loại nhỏ, nhẹ nên mỗi người chúng tôi có thề mang theo hành quân khoảng ba mươi trái…

-“Zulu Romeo, bạn có hai phút chuẩn bị, trực thăng đang đáp.”

Chiếc Kingbee bay theo sườn núi phía thung lũng sát những cây chồi rừng. Người xạ thủ đang vãi đạn trên đường hạ xuống. Chỉ còn vài mét nữa, cố chịu sức gió từ cánh quạt, chúng tôi khom lưng lao thẳng về phía cửa trực thăng. Chỉ còn cách trong gang tấc. Bỗng trực thăng nhổm lên, phía sau đuôi kêu ầm ầm…Vội nằm lăn xuống đá…Trực thăng giống như con diều mất gió ngửa bụng lao về hướng thung lũng xoay tròn như con cù…Rớt dần…dần cho đến khi ánh lửa và khói bốc cao…Chứng kiến sự việc, tự dưng ứa nước mắt. Nằm đây mà hồn tôi nao nao. Một nỗi buồn khôn tả ập vào tâm trí. Trong thân thể sức lực gần như chẳng còn…Đành nằm buông xuôi ăn vạ vậy…Đạn và rocket từ Cobra vẫn bốc lên những tầng khói, gió hắt lên bao trùm chiến trường mùi thuốc nổ khét lẹt hòa lẫn cây rừng tỏa hương ngai ngái, nồng nã. Ba chiếc Kingbee còn lại đang quần đảo bên trên chiếc Covey…Họ đang bàn tính gì chăng?. Hai chiếc Cobra vẫn thay nhau kềm mục tiêu. Một Kingbee đang tách đoàn ba chiếc… Từ hướng thung lũng, hạ độ cao ngang tầm sườn núi bay ***** vào chúng tôi. Trực thăng rú lên rồi từ từ hạ xuống ngay sát chỗ toán. Gập người đề tránh sức gió, chỉ còn khoảng một hai mét. Nhổm người lên lao nhanh vào bụng máy bay…Qua khung cửa trực thăng đụn mây trắng vun vút đi ngang nhanh đến chóng mặt. Một áp lực nào đó như đè chúng tôi xuống sàn. Bằng vào cái hất ngược, trực thăng quẹo gấp sang trái, thấy cả trời mây và cảm giác trì nặng, thổn thức…Trực thăng đang thẳng xuống thung lũng rồi dần dần bốc lên cao…Một màn bốc toán ngoạn mục, đầy tính oai hùng, sáng tạo và một nét đẹp, tuyệt đẹp trong hành động…Tôi thở phào soài người trên sàn, tứ chi gần như không cảm giác…Trong bụng tiếng sôi eo éo và cơn đói tràn dâng… Miệng ứa nước miếng.





=======================================



Sài Gòn Xưa & Nay đã thêm 5 ảnh mới — cùng với Chung Tử và 7 người khác. 10 tháng 2, 2015 ·

Có những hồi ức đời lính chiến đã từng tồn tại trong miền ký ức, dù 40 năm trôi qua,những tưởng quãng thời gian đủ lâu để làm phai mờ mọi dấu tích, phủ một lớp bụi lãng quên lên mọi thứ nhưng cũng chính thời gian như một lưỡi dao sắc nhọn, khắc sâu vào tâm trí người lính Việt Nam Cộng Hoà, đặc biệt là các vị anh hùng Biệt Kích dũng mãnh những ký ức, làm sống dậy kỷ niệm của những lần nhảy toán,những khoảnh khắc đối mặt với tử thần, thoát chết trong gang tấc... Tuy chỉ là một bài viết ngắn về một chuyến công tác trong vô số những trang hồi tưởng sống mãi với thời gian, xin mời tất cả các bằng hữu gần xa cùng lên chuyến xe ngược dòng thời gian, để cùng trở lại chiến trường xưa, nơi để các vị huynh trưởng cao niên cùng hồi tưởng những tháng ngày chinh chiến khi được lệnh di chuyển trong những "chuyến công tác đặc biệt" và cũng là dịp cho các bạn trẻ có được cơ hội hiểu biết, để thêm phần yêu quý đời lính chiến, kính trọng các bậc tiền nhân ra đi vì lý tưởng non sông, như một lời thề xác quyết.

"Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông."

mà cụ Nguyễn Công Trứ đã dạy khi xưa. Sài Gòn Xưa&Nay cũng không quên gởi lời cảm ơn đến tác giả của bài viết cùng với lời tri ân đến các bậc tiền bối, những vị anh hùng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

CHUYẾN CÔNG TÁC ĐẶC BIỆT

Những ngày chinh chiến đáng ghi nhớ,viết lại cho các bạn cùng đọc.

NGÀY 23 THÁNG CHẠP

Cứ mỗi năm gần đến Tết âm lịch lòng tôi lại bồi hồi nhớ đến chuyện đã xảy ra trong cuộc đời lính chiến của mình,nhớ những người bạn đã mất nhớ những người bạn thân và những đứa em tuổi học trò thường hay đi theo khi tôi về phố dạo chơi với người anh ‘thần tượng’ của chúng nó.

Tháng 12 âm lịch năm 1974 cũng nằm trong tháng 2 dương lịch của năm 1975,tôi không nhớ chính xác ngày Tây là ngày mấy vì lâu quá rồi nhưng ngày ta thì tôi chẳng bao giờ quên bởi nó là một ngày mà ai cũng biết và đối với tôi ngày ấy là một ngày đặc biệt và nhớ suốt đời vì tôi nhận được lệnh đi công tác(gọi là “đi nhảy”) vào đúng cái ngày “đưa ông Táo về Trời”,bình thường thì mỗi lần hành quân(nhảy toán) chỉ có 10 ngày thôi nhưng kỳ này lại phải đi đến 20 ngày, khi được chọn để đi công tác thường thì các Toán thay nhau hay đến phiên mới phải đi,lần này thì ngoại lệ vì tôi mới vừa xong một chuyến công tác về có 3 ngày lại được chọn đi tiếp cùng với 11 người khác mà số người ‘được chọn’ hầu hết là nằm trong sổ “bìa đen”của đơn vị ,tôi cũng nằm trong số đó(ba gai). Bạn hãy tưởng tượng mỗi người phải mang theo 20 ngày lương thực và 2 lần cấp số đạn,vật dụng cá nhân,súng,lựu đạn,nước uống(bao gồm cả nước để làm cơm)riêng tôi phải đem theo 2 loại đạn cho 2 loại súng trong cùng một khẩu súng(M18 và M79),tính ra có lẽ nó nặng tròm trèm 1 tạ chứ chẳng chơi vì còn máy truyền tin,pin(cho máy TT),mìn claymore và mìn chống chiến xa nữa,cách thức để mang cho hết là:

- 10 ngày vác trên lưng còn 10 ngày kia bỏ trong thùng nhựa miệng rộng có nắp tròn đậy kín ,khi đến gần mục tiêu chúng tôi phải đào lỗ chôn cái thùng nhựa,sau 10 ngày sẽ trở lại lấy để đi tiếp vì mục tiêu khá xa và chuyện tiếp tế cũng khó mà thực hiện khi đang hoạt động trong lòng đất địch.

Mục tiêu mà chúng tôi phải đến có tên là Nông Trường Nam Đông(còn gọi là mật khu Nam Đông) ,theo tin tức Tình Báo cho biết là có thể có kho xăng dầu,ống dẫn dầu,bệnh viện và một đơn vị Công Binh của V.C đang mở đường (Trường Sơn)nằm trong khu vực đó và có thể có cả trại giam giữ Tù Binh nữa,nếu thấy thì tùy tình hình Toán sẽ tìm cách để giải thoát Tù Binh luôn thể.

Nhiệm vụ của chúng tôi là xác nhận những chi tiết của Không Ảnh cộng với lời khai của những tù binh V.C khai ra,thời đó Không Ảnh chưa được tối tân như bây giờ cho nên phần nào bị mây che hay mục tiêu nằm dưới rừng cây thì không ai có thể đoán được những gì trong vùng đó cùng với lời khai của Tù Binh thì ai mà tin được cho nên mới phải đi kiểm chứng lại.

Lần này được gọi là chuyến “Công Tác Đặc Biệt”cho nên chỉ có những người trong cùng đơn vị biết mà thôi,khi có lệnh chuẩn bị(được lệnh trước 1 ngày)tôi không thể về thành phố Đà Nẵng để từ giã người thân,bạn bè trước lúc ra đi,chỉ âm thầm sửa soạn mọi thứ rồi chờ đến lúc lên đường,tôi xuống khu gia binh nhờ các bà vợ lính làm thức ăn khô chứ không thể nào mang nổi 8 cái thùng Ration C trên lưng và hầu như ai cũng phải làm như vậy. Giờ N đã đến,đó là buổi trưa ngày 23 tháng Chạp,ngày đưa ông Táo về Trời,một đoàn Trực Thăng 5 chiếc lần lượt đáp xuống bãi đáp trực thăng trên núi ngay phía sau lưng doanh trại của đơn vị ,hai chiếc xe Jeep vội vã chạy lên chở các Phi Công xuống để được thuyết trình Hành Quân về chuyến công tác đặc biệt này.

Chúng tôi được Sĩ Quan Ban 3 thuyết trình về mục tiêu,về bãi trực thăng sẽ thả xuống, tình hình chung quanh khu vực và những điều cần thiết cho chuyến công tác,Ban Truyền Tin cung cấp Đặc Lệnh Truyền Tin trong đó có những chi tiết về tên mật hiệu của Toán, mật hiệu của đơn vị của Phi Đoàn Trực Thăng sẽ phụ trách thả cùng nhiều chi tiết quan trọng khác về an toàn hay nguy hiểm mà tùy hoàn cảnh của Toán để mọi đơn vị liên quan cần biết, sau đó đến lượt các Pilot của Phi Đoàn 215 Thần Tượng (được tăng phái từ Nha Trang ra vì nhu cầu chiến trường) thuyết trình riêng với các Toán Trưởng và Toán Phó với những chi tiết khác với lần thuyết trình cho 2 toán vì họ chỉ được cho biết những gì liên quan tới nhiệm vụ của họ mà thôi cùng với tình hình của nơi sẽ thả các Toán xuống. Hôm ấy trời nắng thật đẹp,cái nắng rực rỡ của mùa Xuân làm cho tôi cảm thấy bồi hồi vì chỉ một lát nữa thôi, chúng tôi sẽ đến một nơi chưa từng biết ,sẽ không hưởng được cái Tết của miền Trung, từ lúc ra trường cho tới lúc này chưa lần nào tôi được ăn Tết ở thành phố hay ở nhà,tôi chạnh nhớ tới nồi bánh tét của nhà tôi hay nấu mỗi năm,nhớ nồi thịt kho tàu của mẹ tôi ,nhớ dưa hành củ kiệu, và nhớ nhất là những cô hàng cà phê xinh đẹp đã có cảm tình với tôi nhưng chẳng cô nào dám lấy một anh sống chết chả biết ngày nào như tôi cho dù tôi có “đợp chai” đến mấy đi nữa em cũng “chả dám hay là hỏng dém” còn có cô thì nói “em sờ lặm anh ơi” vì có biết ngày nào em sẽ là góa phụ và phải hát bài “ngày mai đi nhận xác chồng” (Tưởng như còn người yêu)?ôi sao mà nó buồn đến vậy, nhưng thôi, đời Lính mà,mà lại là cái thứ khó nuốt này nữa, biết làm sao hơn!!

Chúng tôi được cho biết bãi thả cách xa mục tiêu hơn 3 cây số cho nên tương đối an toàn,từ đó sẽ lội rừng đến mục tiêu nhờ vậy tôi cảm thấy yên tâm hơn,xe GMC chở 2 Toán đi công tác và một toán ứng chiến lên sân bay,chúng tôi vẫn vui đùa ca hát trong lúc xe đang leo núi,có anh nào đó cất tiếng hát bài “xuân này con không về” rồi cả đám hát theo:

- Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm,mái tranh nghèo không người sửa sang….

Với chúng tôi Sinh Tử coi như chuyện bình thường chẳng có gì phải lo lắng cả vì cũng đã quá quen rồi,với tôi đây là chuyến đi nhảy lần thứ 9,coi vậy mà cũng “thọ” dữ chứ hả,vậy mà cũng chưa “lạnh cẳng” đâu nhe,mỗi khi được lệnh đi công tác thì chỉ buồn chút thôi chứ chưa hề biết sợ,sợ thằng tây nào chứ?

Hai toán đi công tác và một toán ứng chiến lên 3 chiếc trực thăng,mỗi chiếc 6 người,nếu hai toán xuống đất đụng độ hoặc bị phục kích hay máy bay bị rớt thì toán ứng chiến sẽ xuống để yểm trợ,còn 2 chiếc kia là trực thăng võ trang sẽ cùng vào vùng để dọn bãi đáp nếu cần và yểm trợ hỏa lực khi có biến,trong lúc đó 1 chiếc phi cơ thám thính loại L19 đã bay ở trong vùng gần mục tiêu để quan sát bãi đáp cũng như để đánh dấu cho trực thăng biết chỗ nào để thả bằng cách bay chúi xuống rồi ‘lắc cánh’(nghiêng cánh qua lại)còn gọi là “Bingo”.

Đoàn trực thăng đồng loạt quay máy ,cánh quạt từ từ tăng vận tốc,cát bụi mù mịt khắp nơi,từng chiếc cất cánh theo thứ tự lên khỏi mặt đất rồi nối đuôi nhau,dẫn đầu bằng 2 chiếc võ trang,kế tiếp là 2 toán và cuối cùng là toán ứng chiến,tất cả các toán đều ngồi dưới sàn 2 bên máy bay đưa chân ra ngoài đong đưa để dễ dàng nhảy ra khỏi máy bay khi đáp xuống cách mặt đất khoảng 1 đến 2 mét.Những chiếc trực thăng hướng về biển Thanh Bình xuống thấp rồi lên cao trực chỉ hướng Tây Bắc của Đà Nẵng ,ngồi trên máy bay chỉ còn nghe tiếng cánh quạt đều đều cùng với gió lạnh trên cao lần lượt bỏ lại sau lưng biển xanh loang loáng ánh mặt trời, đến những xóm làng quê,phố xá thân quen của Đà Nẵng cùng với những nổi buồn xa xôi thoáng qua trong tâm tưởng..

Sau hơn ½ tiếng đồng hồ bay qua rừng núi chập chùng bên dưới hợp đoàn đã tiến vào vùng gần mục tiêu trong lúc chúng tôi được thông báo chuẩn bị mọi thứ mang theo để khi nhảy ra khỏi máy bay là không sót thứ gì vì máy bay chỉ dừng trong vòng 10 đến 15 giây ở độ cao 1,2 m,chiếc L19 đang bay ở trên cao đã bắt đầu chúi mũi xuống nghiêng cánh qua lại “Bingo” rồi bay vút lên cao như cũ, 2 chiếc võ trang bay thấp hơn cũng bay thành hàng 2 chúi xuống chổ chiếc L19 vừa lắc cánh nhưng không bắn vì không thấy động tịnh gì ở dưới đất, hai chiếc thả toán bay thêm một vòng rồi từng chiếc đổi cao độ từ từ đáp xuống ngọn đồi được chỉ điểm bởi chiếc L19,tôi ở chiếc thứ 2 và khi nó xuống còn cách mặt đất khoảng 1 m thì 2 bên cùng nhảy ra khỏi máy bay chỉ trong vòng 5 giây là xong ,thật nhanh chúng tôi mang tất cả đồ đạc súng ống lẫn vào những lùm cây trên ngọn đồi thấp trong đó đã có toán thứ nhất xuống trước để giữ an ninh cho chúng tôi.Sau một hồi quan sát không thấy có gì nguy hiểm chung quanh chúng tôi báo cho hợp đoàn biết là toán được an toàn bằng mật lệnh có sẵn trong lúc đó những tiếng cánh quạt của trực thăng xa dần ,nhỏ dần rồi mất hút ở chân trời trả lại cho núi rừng sự tĩnh mịch êm đềm của nó.

Một lúc sau không lâu lắm 2 toán trưởng và 2 toán phó chấm lại điểm đứng trên bản đồ và thật ngạc nhiên khi so sánh và đối chiếu trên bản đồ thì biết rằng chúng tôi đã được thả vào tận mục tiêu mà trên máy bay không ai nhận ra hoặc biết điều này vì chúng tôi cũng chỉ dựa vào những người đi tìm nơi thả toán an toàn sau một thời gian bay tìm bãi đáp(thường thì từ 1 đến 2 tuần trước khi thả)không biết vì lý do gì mà họ lại thả chúng tôi vào tận mục tiêu(chuyện này đôi khi vẫn xảy ra)lập tức chúng tôi báo về cho trạm liên lạc biết về tình hình Toán và mục tiêu,trạm liên lạc truyền tin này được đặt trên núi cao cách nơi chúng tôi công tác khoảng hơn 20 Km chúng tôi không thể liên lạc trực tiếp với đơn vị vì quá xa,cùng lúc đó chúng tôi chia nhau quan sát chung quanh bằng cách bò ra phía ngoài bìa rừng và quả thật từ trên cao không ai có thể nhìn thấy những căn nhà ẩn dưới những tàn cây lớn và một điều ngạc nhiên nữa là sao chẳng thấy bóng dáng của địch quân đâu cả?nhưng nếu để ý kỹ thì sẽ thấy khu vực này im vắng một cách khác thường vì trong rừng xa xôi như thế này luôn có những tiếng chim chóc hay khỉ vượn kêu hót đằng này thì không!có lẽ lúc máy bay tới đây bọn chúng đã bỏ chạy và ẩn nấp ở đâu đó.

Tôi đang còn suy nghĩ tại sao thì đột nhiên ai đó ở mé trong nói khẽ “Việt Cộng”,chữ cộng vừa dứt thì một tràng súng AK xé nát bầu không khí tĩnh mịch trong khu vực có 2 toán của chúng tôi và tiếng bắn trả của các bạn nổ giòn khắp nơi,tôi lăn người qua một gốc cây nhìn ra phía ngoài chỗ mình vừa mới xuống nhưng chẳng thấy bóng dáng tên nào cả và cũng không thấy được hết chung quanh,thật sự đây là lần đầu tiên trong đời lính tôi bị bao vây tứ phía mà không biết sẽ làm cách nào để thoát ra khỏi nơi này, cứ chống cự đến cùng thôi chứ biết sao bây giờ?
Mùi thuốc súng đã làm cho tôi phấn chấn và bình tĩnh một cách lạ thường mặc dầu trước đó khi nghe loạt đạn đầu tiên tôi có hơi run,Toán Trưởng của tôi đang kêu cứu trên máy truyền tin dưới làn mưa đạn của VC,tôi nghe anh ta nói khá lớn:

- Bắc Đẩu đây Sao Mai nghe rõ trả lời?(Bắc Đẩu là đài Tiếp Vận truyền tin,Sao Mai là tên Toán tôi)Sao Mai gặp nạn xin lệnh triệt xuất ngay lập tức,trả lời?( BĐẩu trả lời)

- Không có đường nào để di tản được hết,bị bao vây tứ phía.(BĐẩu trả lời) Anh ta lết tới bên cạnh tôi rồi nói:

- Ch/Úy Ngọc ra phía ngoài chỗ trống thủ mặt đó dùm tôi,tôi lo mặt trong,Tr/Sĩ Đức nằm gần Ch/Úy Ngọc cách mấy thước phụ mặt đó.

Tôi trườn ra phía ngoài núp ngay một bụi lau cháy dở dang còn cao khoảng một thước để quan sát,chỗ này trống trải và nguy hiểm quá nhưng tôi phải giữ không cho tên nào bén mãng phía trước chỗ máy bay vừa thả toán xuống lúc nãy,thôi cứ nằm đây thấy rõ hơn ở dưới chân đồi, và bất cứ tên nào bò lên là mình sẽ” đưa em vào hạ” ngay ,bên kia con suối nhỏ là những căn nhà núp dưới tàn cây tôi nhắm căn nhà cách chỗ tôi khoảng 150 m nhả đạn M79 vào , rót từng trái một rồi đệm một tràng M18 sau đó từng phát một cho chắc cú ,bóng chúng nó chạy thoát ra khỏi căn nhà đang bốc cháy,có đứa nhào xuống suối và đạn vẫn nổ vang khắp nơi,một toán viên bò ra trợ lực với tôi mang theo lời nhắn của toán trưởng:

- Cố gắng giữ mặt này để một lát khi hợp đoàn vào bốc thì anh chớp mắt(chiếu kiếng) và trải thảm màu an toàn cho họ xuống bốc,toán mình mất 2 người rồi và toán kia cũng mất 2 người, máy bay vừa đổ xăng xong và đang trên đường vào.

Nghe vậy tôi hơi bị khựng lại một tí ,không biết 2 đứa nào của toán tôi ,chết hay mất tích? Mỗi Toán có 6 thằng giờ còn có 4 thôi !làm sao chống cự nổi với ít nhất một Đại Đội của tụi nó đây?

Tuy nhiên tôi cũng mừng vì biết rằng trực thăng sẽ đến cứu,hy vọng là không quá trễ vì chỉ cần một tiếng đồng hồ thôi thời tiết trong núi có thể thay đổi,mây hoặc sương mù mà kéo đến thì không cách nào máy bay có thể xuống cứu Toán. Tôi và Trung Sĩ Đức núp cách nhau khỏang mấy thước vẫn lo mặt trống không có tên nào bò lên tôi cảm thấy đỡ lo hơn nhưng mặt trong và phía sau vẫn chống cự quyết liệt,bỗng nhiên có tiếng xé gió trên đầu rồi tiếp theo là tiếng nổ lớn như đạn súng cối từ đâu bắn tới cách chúng tôi khoảng 10 m ở phía ngoài làm tung bụi tro than và mảnh đạn văng tứ tung,tôi nghĩ thôi chết thật rồi làm sao tránh được đạn pháo kích đây khi mình không có gì che thân cho vững chắc? trên đầu thì không có anh nào có nón sắt mà chỉ cột cái khăn xếp hình tam giác thôi,cũng chẳng có hầm hố hay tảng đá nào để núp cho an toàn mà chỉ toàn là lau sậy chúng mới đốt để trồng trọt con mẹ gì đây hỏng biết nữa?cũng may là đạn pháo cứ rớt rải rác chung quanh nhưng không trúng chỗ Toán đang nằm, phía mặt trong cũng vậy còn có được cây cối nhưng phần nhiều không lớn lắm.

Thời gian như trôi qua thật chậm,từ lúc xuống đến giờ chỉ hơn 1 tiếng đồng hồ mà sao nó lâu như thiên thu bất tận!Lần đầu tiên trong đời tôi thầm kêu than với Chúa,tôi ngước mắt lên trời và cầu nguyện:

- Hôm nay trời quá đẹp Chúa ơi,nắng vàng trời xanh như thế này nhưng sao Chúa lại để con chết nơi đây hả Chúa !?, xin Chúa cứu con.

Phía sau lưng tôi là núi cao trước mặt là khoảng trống không,hai bên là rừng cây mà chẳng biết nó ra sao vì lúc xuống tới nơi phải chui vào bụi rậm chưa kịp quan sát chung quanh thì chả có ngõ nào để rút lui cả,tất cả nằm đây chịu trận và cố thủ cho đến viên đạn cuối cùng.

Trong đầu tôi lúc ấy chỉ nghĩ đến cái chết ở núi rừng xa lạ này,những hình ảnh của gia đình ,bạn bè người thân hiện ra trong tâm trí và rồi cứ nghĩ không biết lúc chết có được toàn thây hay sẽ tan xác vì đạn pháo kích?nếu mà nó bắt được thì cũng coi như tiêu vì chúng sẽ cắt lưỡi hoăc tùng xẻo như chúng đã làm với những người bị bắt ở những chỗ khác!? Đường nào cũng tới La Mã cho nên sợ đếch gì?tuy rằng đang nghĩ đến những chuyện không hên nhưng mắt thì vẫn quan sát phía trước.Tiếng súng,tiếng lựu đạn ,tiếng đạn pháo vẫn nổ khắp nơi,phía bên trong có tiếng la lớn:

- Tụi nó đang bò lên đó,bắn chết mẹ nó đi,giữ cho kỹ,đừng để tụi nó lên là tiêu à nghe.

Một trái B40 từ đâu bắn vào chỗ 2 toán đang cố thủ làm cho cây cối gãy đổ lung tung, thêm một trái nữa cũng trúng vào một thân cây lớn làm nó toác ra một nhánh lớn đè lên đám cây nhỏ nhưng không ảnh hưởng gì tới toán. Tiếng pháo kích chợt ngưng trong giây lát thay vào đó những tiếng hò hét của VC:

- Tiến lên bắt sống chúng nó,bọn nó sắp hết đạn rồi,đầu hàng đi, hàng sống chống chết.

Không phải dễ dàng dzậy đâu mấy em,làm gì có chuyện đầu hàng hả mấy em?có ngon thì nhào dzô coi ai chết cho biết. Th/Úy Toán trưởng tiếp tục gào lên:

- Sao mà lâu dzậy mấy cha,gần tiêu hết trơn rồi đây nè.

Không biết đơn vị trả lời như thế nào mà ổng biểu tui chuẩn bị chớp mắt,mẹ tổ có thấy gì đâu mà chớp cha nội,tôi ráng chống mắt về phía chân trời xa kia xem những chiếc trực thăng cứu tinh kia đã đến đâu rồi nhưng chỉ thấy một vài cụm mây trên bầu trời xanh thẳm mà thôi,hoàn toàn không có tia hy vọng nào trong cơn nguy biến,sau một hồi lâu cố nhìn cho kỹ ở phía chân trời hướng Đông- Nam tôi thấy một chấm đen như con ruồi,một rồi hai,ba ,bốn…tới 7 chiếc,mèn ơi mình có nằm mơ hông dzậy?chắc mắt bị lé cho nên đếm dư 2 chiếc?rồi tiếng cánh quạt chặt gió bùm bụp thoang thoảng từ xa vọng lại,chẳng cần phải đợi hợp đoàn tới gần tôi đã lấy “kiếng thần”ra nhắm tâm điểm vào đám ruồi,nghiêng cái kiếng qua hướng mặt trời lắc tới lắc lui cho chắc ăn vì ông mặt trời ở chếch về hướng Tây,chắc mấy ổng bị chói mắt cho nên ông Toán trưởng phải kêu lên:

- Mày lắc gì lắc dữ dzậy?tụi nó nói thấy rồi, một lát tụi nó đui mắt là khỏi dìa nghe em, trải thảm cam ra đội trên đầu cho tới khi nó gần xuống.

Tôi đáp trả:

- Mụ nội ông chớ đội lên đầu cho lâu VC thấy rõ nó bắn bể gáo tui sao cha?

Nói thì nói vậy chứ tôi vẫn phải tìm cách làm thế nào để mình không là cái bia mà trên cao vẫn thấy được,tôi đợi cho nó đến gần tôi mới nằm ngữa ra trải tấm pano trên ngực cho tới lúc nó báo là thấy rồi mới thôi.

Chỉ trong vòng mấy phút mà thần kinh căng thẳng giống như cả tháng vậy đó!hai chiếc Gun Ship đã thấy điểm đứng của Toán bắt đầu nhào xuống hai bên trên đầu của chúng tôi rót những tràng đại liên như bò rống làm tôi cảm thấy xung hơn.Bọn VC chỉ có nước độn thổ may ra còn được toàn thây hoặc chạy thục mạng còn có cơ hội ăn cám chứ đứng đó mà bắn thì tám ông tổ cũng hỏng cứu nổi, hai chiếc lên cao vòng trở lại bắn tiếp mà lần này nó cắt chỗ của Toán thành cái hình vuông,coi như 4 bên được trải đều những tràng đạn đại liên M60,những căn nhà phía bên kia đồi cũng bị banh chành vì những trái rocket phóng như điện xẹt,bọn VC chạy khỏi ngọn đồi cho nên áp lực đã giảm bớt rất nhiều và nhờ vậy toán thứ nhất có cơ hội kéo trang bị ra bãi đáp,lỉnh kỉnh thùng bọng máy móc,tôi vẫn tiếp tục bám vị trí bụi lau cháy chờ đến chiếc thứ 2.

Công nhận mấy ông Phi Công này cũng liều mạng chẳng thua mình chút nào cả,tụi nó ở dưới bắn lên như mưa mà mấy ổng cũng nhào xuống tỉnh rụi,2 cây đại liên hai bên cũng bắn trả quyết liệt,chiếc bốc toán 1 đáp thật nhanh chạm mặt đất,4 người quăng đồ đạc lên trước rồi mới leo lên trong lúc bọn VC lại tiếp tục pháo kích từ xa,chiếc trực thăng từ từ bốc lên khỏi mặt đất , lấy trớn bay lên cao,chiếc thứ 2 nãy giờ bay vòng trên cao từ từ xuống thấp rồi cũng nhào xuống bắn phủ đầu rồi đáp hơi lơ lững, cũng có lúc chạm đất rồi lại nẩy lên, bên kia 2 toán viên đưa đồ đạc với sự phụ giúp của một Sĩ Quan trong đơn vị và leo vào ngồi trong máy bay còn tôi với Toán trưởng cũng được kéo lên ngay sau đó,máy bay bốc lên khỏi mặt đất rồi cứ thế lên thẳng luôn chứ không lấy đà bay lên,thật may mắn khi nó đã lên hơn 100 thước thì bên dưới ngay chỗ chúng tôi vừa đứng một đám khói bụi nổ bung lên, chỗ đó vừa nhận một trái đạn súng cối,nếu chậm hơn khoảng 30 giây thì chắc số phận chúng tôi và chiếc trực thăng cũng đã tiêu tùng luôn không có đường về ,đúng là trời còn thương! phía dưới chung quanh đó những tiếng súng vẫn còn bắn lên theo máy bay,mấy chiếc gun ship lại tiếp tục ra tay nghĩa hiệp cho bọn chó câm họng. Đoàn trực thăng nối tiếp nhau bay lên cao hơn để tránh đạn và hướng về phía Đông Nam của khu vực mục tiêu,niềm xúc cảm khoái lạc vì được trở về làm cho tôi bớt căng thẳng đôi chút,định bụng sẽ đốt một điếu thuốc lấy lại bình tĩnh đột nhiên tôi thấy hợp đoàn chuyển hướng bay,lúc nãy trên trực thăng bốc toán của tôi có viên Sĩ Quan của đơn vị đi theo để phụ giúp và nhận diện các toán,thấy tôi có vẻ thắc mắc anh ta kề tai tôi nói”chuẩn bị xuống bãi khác”,anh ta cầm máy liên lạc với ai đó mà lệnh là toán phải nhảy xuống bãi khác để tiếp tục công tác,nghe vậy tôi giận điếng cả người không chịu đựng được nữa,tôi giật phắt ống nghe của ông Sĩ Quan nọ và hét lên thật lớn vào combine:

””C O N C A A C””

Lúc đó tôi không cần biết ông nào ở đầu bên kia vừa mới ra cái lệnh chết tiệt đó nữa,mẹ bà nó tới đâu thì tới,về nhà rồi tính,cùng lắm là phạt ‘ký củ’ hay nhốt vài bữa là cùng,tay này tái cả mặt mày chồm tới hỏi:

- Tại sao mày dám chửi con c..c với Chỉ Huy Trưởng?

À thì ra là lệnh của Chỉ Huy Trưởng đấy, tôi chẳng thèm nói mà chỉ ra dấu bằng hai tay lật qua lật lại vừa chỉ vào băng đạn của cây súng hắn mới hiểu ra là:

- Hết đạn.

Thử hỏi xuống bãi khác với vài viên đạn để tụi VC tế sống mình à?mất 4 đứa chưa đủ hay sao mà còn bảo xuống chỗ khác mấy cha?Tay SQ cầm ống nói kể lại cho xếp,không biết họ nói gì mà hắn ta nhìn tôi rồi chỉ ngón tay cái ra phía sau lưng của hắn,qua cái nhép miệng tôi biết là hắn nói:

- Đi về.

Lúc ấy tôi mới thật sự yên lòng nhắm mắt lấy lại bình tĩnh chứ không phải xuôi tay đâu nhe…rồi cả đoàn lại đổi hướng một lần nữa để trở về,tôi thò tay vào túi lấy gói thuốc Captain ra mồi một điếu rít một hơi thật dài để quên đi những giờ phút căng thẳng vừa qua mà tôi cứ tưởng như một giấc mơ hãi hùng,mới vừa đó thôi mà 4 bạn của mình đã mất tích(nghe nói họ chạy tìm chỗ núp rồi thất lạc luôn)đúng là “vào sanh,ra tử”mà!! Hợp đoàn đã về đến sân đáp trực thăng của đơn vị,lần lượt đáp từng chiếc,tất cả là 7 chiếc,có một chiếc cứu thương và một chiếc chở Chỉ Huy Trưởng Sở Công Tác,CHT của đơn vị tôi và viên SQ Tùy viên của Đại Tá CHT Sở,lúc nãy tôi không đếm lộn đâu các bạn.Các quan lớn xuống trước và đang chờ các toán ở văn phòng CHT,khi chúng tôi xuống đến nơi Đại Tá CHT Sở Công Tác đến bắt tay từng người an ủi về sự mất mát, dặn dò đôi điều như : -Đừng cho ai biết về những gì đã xảy ra, ăn uống rồi về nghỉ ngơi đi. Mà thật ra ở đơn vị đã biết hết trơn rồi,ông ta mời tất cả vào Câu Lạc Bộ của đơn vị ăn uống qua loa rồi mạnh ai nấy về phòng mình.

Buồn quá tôi về tắm rửa ,thay đồ xong ra ngoài đón xe quá giang ra Sơn Chà để đón xe đò về Đà Nẵng.Trời về chiều nhưng vẫn còn chút nắng,bước lên xe đò mà người vẫn còn như say sóng,tai vẫn còn vang vang vì đủ thứ âm thanh của chuyện vừa rồi và lòng thì luôn nghĩ tới những gì đã xảy ra thật bất ngờ,lạ lùng,kỳ diệu,sao mình gan quá vậy?sao mình liều lĩnh thế?tại sao mình lại đi chọn cái thứ lính này?ngay từ lúc đầu người vào tuyển mộ trong Quân Trường đã nói trước rồi mà!không có gì sung sướng cả,chỉ có phiêu lưu,mạo hiểm ,chết chóc vậy mà có cả trăm đứa tình nguyện trong khi họ chỉ nhận có hơn 20,mình ở trong số được nhận hãnh diện lắm chứ,oai hùng lắm chứ,về nhà còn dối Mẹ:

-Con được về Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu nè Má.

- Má đâu có chạy chọt gì đâu mà sao con được về chỗ sướng quá vậy?

Mẹ tôi rất vui mừng vì nghĩ rằng con mình sẽ ở nơi an toàn khó mà chết chứ Mẹ đâu có biết đó chỉ là cái tên vỏ bọc mà thực chất nó là loại lính nguy hiểm nhất trong tất cả các sắc lính khác.Miên man với những suy nghĩ mà mình đã về đến nơi lúc nào chẳng hay,chân bước như người không hồn đi một mạch đến thẳng quán cà phê mình thường ngồi:quán Thiên Nga.

Vừa mở cửa bước vô tự nhiên nguyên một đám bạn ngồi đâu chẳng biết( vì ở ngoài bước vào hơi tối chưa quen mắt với những ánh đèn trong quán) đứng lên chạy ra ôm chầm lấy mình,có cả chủ quán ,bồi bàn cả cô Cashier nữa làm mình chẳng hiểu chuyện gì xảy ra? mọi người cười có khóc có làm tôi càng bối rối hơn,

- Chuyện gì vậy, tôi hỏi?

- Vậy mà họ nói anh bị mất tích hồi chiều nay khi vừa mới xuống tới nơi đó,đứa em học trò nói.

Thì ra là có ai đó ở đơn vị nghe tin từ lúc chúng tôi báo về mất 4 người mà ai cũng đoán tôi là một trong 4 người đó cho nên họ báo cho bạn thân của tôi biết rồi bạn tôi đi kêu mấy đứa em học sinh thường hay theo tôi uống cà phê làm một buổi “tưởng nhớ”nho nhỏ để nhớ đến tôi,trong lúc họ còn buồn bã đang nhắc lại những kỷ niệm cũ thì tôi mở cửa bước vào,có đứa em còn nghĩ tôi là ma trở về ,thật là một chuyện bực mình vì ai đó đã tung tin thất thiệt làm mọi người cứ tưởng thật mà nghĩ lại thì cũng vui vì nhờ đó mà mình mới biết tình cảm của mọi người đối với mình như thế nào,đến cả chủ quán trước giờ chẳng khi nào vui vẻ với tôi(vì có tôi trong quán thì khách sợ không dám đến)mà hôm nay thì mừng đến khóc,cô Cashier cũng vậy ghét tôi còn hơn ghét c.. vì tôi hay chọc ghẹo trước mặt bạn trai của cô ta,hôm nay cô chạy đến ôm tôi mừng rỡ như gặp lại người xưa và cũng khóc đỏ cả mắt thật là tội nghiệp,mấy đứa học sinh cũng khóc như mưa(nghe bạn tôi kể lại khi tụi nó nghe tin tôi mất tích) thấy thương tụi nó quá!sau đó ông bà (anh Hoàng và chị Nga)chủ quán nói với mọi người rằng:

- Hôm nay anh chị sẽ đãi tất cả mọi người một bữa tiệc nhỏ,cũng gần đến Tết rồi ,có gì ăn nấy,có sẵn bánh tét và thịt kho ở dưới nhà nữa để mừng Chú Ngọc trở về bình an.

Trong vòng tay thương yêu của mọi người lòng tôi cảm thấy bồi hồi xúc động,không ngờ ai cũng thương yêu mình hết lòng,lo lắng buồn khóc khi nghe tin mình mất tích và cũng chính lúc đó tôi thấy cay trong mắt cùng những giọt lệ lăn dài trên má….

Tháng 2 năm 2015.

Để nhớ tới các bạn đã mất,các bạn và các em thân thương của tôi cùng anh Hoàng chị Nga.

Chung Tử

https://vi-vn.facebook.com/SaiGon.ngayxua/posts/c%C3%B3-nh%E1%BB%AFng-h%E1%BB%93i-%E1%BB%A9c-%C4%91%E1%BB%9Di-l%C3%ADnh-chi%E1%BA%BFn-%C4%91%C3%A3-t%E1%BB%ABng-t%E1%BB%93n-t%E1%BA%A1i-trong-mi%E1%BB%81n-k%C3%BD-%E1%BB%A9cd%C3%B9-40-n%C4%83m-tr%C3%B4i-qu/847843531924696/

Kỷ niệm Với 2 niên trưởng. Trần Lê Tiến và Phạm Vương Thục

Phi Vụ Gunship Sau Cùng Trên Đồi 31-Hạ Lào Trong Ngày BCH/LĐ3/ND Thất Thủ ( HQ Lam Sơn 719 / 1971 )

Cuộc hành quân Lam Sơn 719 trên chiến trường Hạ Lào tháng 2/71, tuy khốc liệt, nhưng cũng là cơ hội để các anh em pilots trực thăng chúng tôi vừa mãn các khóa huấn luyện UH-1 [K/1-2-3-4] tại trường bay Hunter, Georgia, có dịp thử lửa và trau dồi thêm kinh nghiệm tác chiến cho những trận chiến kế tiếp trong cuộc chiến Việt Nam sau này.

Mặc dù sau hơn sáu tháng bay hành quân liên tục, với nhiều giờ bay và mớ kinh nghiệm tác chiến đã khá vững vàng; nhưng trên thực tế, ba đứa chúng tôi – Tài, Hoàng và Tôi – đều chưa có giờ bay huấn luyện để “check out” ra hoa tiêu chánh, nên khi cuộc HQ Lam Sơn 719 tới, chúng tôi chỉ được xếp ngồi cạnh các đàn anh gạo cội của phi đoàn Song Chùy 213, cùng nhau lao mình vào chiến trường Hạ Lào, coi như vừa hành quân vừa là những phi vụ huấn luyện. Nếu may mắn sống sót sau chiến trận, đương nhiên chúng tôi sẽ trở thành những Hoa Tiêu Chánh! Cả tôi, Tài và Hoàng đều vui mừng chấp nhận sự đổi chác ấy không cần đắn đo.Trong khi đó, cũng vì nhu cầu chiến trường, các khóa đàn em ở những phi đoàn khác, tuy về Nước sau, nhưng được cho ra hoa tiêu chánh [HTC] trước, chỉ với một khóa huấn luyện cấp tốc ngắn ngủi bởi các IP/ Mỹ của phi đoàn Black Cat [USMC] bên căn cứ Mable Mountain Air Base [Ngũ Hoành Sơn, Non Nước]. Họ trở thành những thành phần nòng cốt của phi đoàn tân lập, PĐ 233, và được bay “team” với nhau trong suốt cuộc hành quân Lam Sơn 719. Dù hiểm nguy, nhưng vẫn là niềm hãnh diện mà mỗi phi công đều mong đợi trong đời bay; cái ngày được toàn quyền chủ động trong tay lái, kể cả quyền “vung vít ” cho thỏa chí tang bồng!

Tôi, Nguyễn Tấn Tài, và Nguyễn văn Hoàng vừa mãn khóa 70-02, một trong những khóa đầu tiên trong chương trình Vietnamization. Về Nước July13, một tháng sau ra trình diện đơn vị liền [Aug. 06 /70]. Tuổi trẻ hình như không biết sợ, đứa nào cũng nóng lòng muốn tham gia cuộc chiến, mặc kệ số phận ra sao! Hoàng có gia đình ở Tam Tòa nên coi như có số may mắn nhất; không ngờ chưa đầy một năm sau, Hoàng bị tử thương trong một phi vụ gunship đêm cùng với Hoàng tất Đắc [khóa 1-Hunter] ngoài vùng biển Mỹ Khê . Ng.Tấn Tài quê Saigon, sau này chuyển qua Chinook, về Biên Hòa, PĐ 237, cũng bị bắn rớt, chết trên chiến trường Bình Long-An Lộc. Tất cả đều bởi định mệnh oan nghiệt mà nên! Trong đời bay trực thăng có lẽ không mấy ai dám cậy tài năng mà sống sót!

Ngày bốc thăm ra đơn vị, vị Thiếu Tá/Sĩ Quan trưởng phòng Nhân Viên/BTLKQ, sau khi đọc một danh sách đặc biệt của BTL với khoảng 20 người có lẽ do thân nhân, cha mẹ, đã khéo léo biết cách bồi dưỡng đúng chỗ, nên các anh em ấy được ưu tiên về các phi đoàn ở Biên Hòa và Cần Thơ, coi như may mắn được phục vụ vừa gần gia đình, vừa gần Sài Gòn, chắc chắn sẽ an toàn hơn. Số còn lại, sau đó mới tới lượt chúng tôi chia nhau ra bốc thăm cho vui. Dù sao thì BTL/KQ cũng đáng được vinh danh là binh chủng tương đối còn công bằng hơn các đơn vị tác chiến khác!

Căn cứ 41/Đà Nẵng, tháng 8/1970, mới chỉ có hai phi đoàn trực thăng: PĐ 213 và PĐ 219. Tất cả còn trực thuộc Không Đoàn 41/Chiến Thuật cùng với các phi đoàn “fixed wings ” như PĐ 516 [A-37] và PĐ110 [L-19]. Phi đoàn 213 đã được trang bị trực thăng UH-I nhưng PĐ/219 vẫn còn bay H-34. Hai phi đoàn ở sát, đối diện nhau, trong tình hàng xóm đậm đà, bạn bè cũng hay qua lại giao du. Phần đông các cấp chỉ huy 219 cũng từ gốc 213 mà ra và ngược lại. Cả hai phi đoàn cùng tọa lạc đằng sau khu Phòng Khánh Tiết của phi trường, gần sân đậu VIP. Sau này với đà bành trướng của Không Lực VNCH và trước khi có cuộc hành quân Hạ Lào/Lam Sơn 719, các phi đoàn trực thăng được tách khỏi KĐ 41/CT để trở thành Liên Đoàn 51/Tác Chiến, có thêm PĐ/233 vừa thành lập. Tuy nhiên, trong trận chiến Hạ Lào, chỉ một mình Phi Đoàn 213 có một phi đội gunship để hộ tống cho các slicks của cả ba phi đoàn 213, 219 và 233.

Tháng 2/71, mùa Đông giá lạnh, toàn bộ phi đoàn 213, từ pilots đến cơ phi xạ thủ, kể cả y tá phi hành, nhân viên văn thư… được lệnh bay ra biệt phái ở căn cứ Ái Tử/Đông Hà, trong khu doanh trại cũ của U.S. Marines bỏ lại. Đông Hà, miền địa đầu giới tuyến, là vùng đất khô cằn sỏi đá như sa mạc, xen giữa núi và biển. Mặt trong, hướng Tây, Trường Sơn, với núi non trùng điệp; sừng sững như những bức trường thành vĩ đại chắn ngang biên giới hai nước Lào-Việt. Mặt ngoài, biển Đông chói sáng như tấm gương khổng lồ, ánh nắng gay gắt thiêu đốt vạn vật, làng mạc xơ xác tiêu điều, cỏ cây lưa thưa, trụi lá… Các núi nằm sát bìa ngoài, gần quốc lộ, chỉ toàn là những núi đá trọc, với những tiền đồn quân sự như Rockpile, Sark, Fullers… là cửa ngõ dẫn vào căn cứ Khe Sanh. Ban đêm, sương lạnh từ vùng núi kéo xuống dữ dội, tạo nên một vùng “ground fog” mênh mông trắng xóa, không còn phân biệt đâu là ranh giới giữa Biển và Đất. Mỗi tối, sau phi vụ trở về hậu cứ ở Đông Hà, cũng là BCH tiền phương của LĐ 51/Tác Chiến, anh em phi hành đoàn chỉ biết quây quần chung quanh những bi-đông rượu rẻ tiền cùng với những hộp C-rations làm mồi để chống lại những cơn gió lạnh ray rứt, hầu tìm giấc ngủ say mê sau một ngày mệt mỏi nơi chiến trường. Dù vậy, được đặt chân lên tuyến đầu của Vùng Hỏa Tuyến vẫn là niềm hãnh diện chung cho mỗi chiến sĩ, bất kể binh chủng nào, dù là BB, BĐQ hay KQ, Nhảy Dù, TQLC…

Mỗi buổi sáng , khi mặt trời còn chưa kịp lên, thì chúng tôi đã hối hả cất cánh rời biệt đội Đông Hà để bay vào Khe Sanh túc trực phi vụ trên những ngọn đồi bên cạnh phi trường hoặc dưới bóng mát của những tàng cây cafe trái chín đỏ rói, trong khu đồn điền cũ của Pháp gần Lang Vei, đang bị khai quang để mở rộng thêm chiến địa. Ban đêm, gió lạnh lùa vào những khu barracks trống trải, tường che chỉ có một nửa; giấc ngủ chập chờn, nên buổi sáng anh em dậy sớm cũng dễ dàng. Các trực thăng, cả Mỹ lẫn Việt, từ những căn cứ kế cận như Ái Tử, Carroll, Cà Lú… cùng nhau tua tủa bay lên náo nhiệt, đèn “beacon” lấp lóe đầy bầu Trời như đom đóm. Mỗi chiếc, sau đó, cứ thế tự động đi tìm vị trí, nối đuôi nhau theo một hàng dọc, như những toa xe lửa biết bay. Tất cả cùng bay theo lề phải con thung lũng ngoằn ngoèo dẫn vào Khe Sanh. Bên dưới, từng đoàn công-voa của các đơn vị Bộ Binh cũng đang chậm chạp, khó nhọc vượt qua từng ngọn đèo.

Vừa vào tới Khe Sanh, trời sáng dần, anh Phạm Vương Thục và tôi đáp xuống phi trường; còn đang “refill” thêm, thì trên tần số, Hành Quân Chiến Cuộc/Liên Đoàn 51/Tác Chiến đã liên lạc cho phi vụ phải bay vào BCH / Lữ Đoàn 3/Dù trên Căn Cứ Hỏa Lực 31. Anh Thục lấy chi tiết phi vụ “Một gunship hộ tống cho hai chiếc H-34 của PĐ 219”. Nhận lệnh xong, chỉ vài phút sau, chúng tôi “rendezvous” được với hai chiếc H-34 đang chờ trên vùng Đèo Lao Bảo. Có lẽ vì không đủ phi cơ, nên phi vụ chỉ có một gunship hộ tống cho hai chiếc “slicks”. Như thường lệ, tôi bay hoa tiêu phụ, anh Thục trưởng phi cơ.

BCH/Lữ Đoàn 3 Dù. Đồi 31 còn gọi là căn cứ Hỏa Lực 31, nằm cách biên giới Lao Bảo chừng hơn 40 phút bay theo hướng Tây Bắc, với Đ/tá Trần đình Thọ/Lữ Đoàn Trưởng. Đường bay này chúng tôi đã ra vô nhiều lần nên rất quen thuộc, chả cần coi bản đồ. Nếu ở cao độ trên 2000ft, từ Đèo Lao Bảo có thể nhìn thấy Đồi 30, Đồi 31 và Tchepone trong thế tam giác là những “check points” mà chúng tôi luôn nhớ để dễ định tọa độ các LZ khác và bay cho an toàn. Đồi [31] không cao lắm, đã được khai quang trống trải và rất rộng lớn so với các đồi thấp hơn bao quanh các mặt phía Tây và mặt Bắc hoặc mặt Nam là những tiền đồn nho nhỏ để canh chừng bảo vệ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù trên đỉnh 31. Không hiểu vì sao hướng Đông là tuyến vào của trực thăng khi cần yểm trợ, tải thương hay tiếp tế, nhưng lại bỏ ngỏ không có phòng thủ nên không được khai quang, rừng cây rậm rạp bao trùm cả hệ thống đường mòn HCM nằm chằng chịt như lưới nhện ở bên dưới, không biết con đường nào là chính. Khác với chiến trường Kampuchea toàn là rừng già thưa thớt thì ở Hạ Lào cây rừng từ thung lũng có thể vươn cao gần ngang đỉnh núi .

Từ bên này biên giới Vietnam, Trường Sơn Tây đổ xuống thành một vùng thung lũng mênh mông rộng lớn, rất phì nhiêu. Chính nhờ rừng cây rậm rạp mà trực thăng dễ tránh né nếu bay ở cao độ thấp [low level] Phía cuối thung lũng là con suối dài ngoằn ngoèo như con rắn đen khổng lồ, bò ngang qua chân Đồi 30, căn cứ hỏa lực đầu tiên của QLVNCH do đơn vị Pháo Binh trấn giữ. Đường bay tuy tương đối an toàn, nhưng mỗi lần bay qua thung lũng , tôi vẫn luôn đề phòng, tránh trường hợp để phi cơ lơ lửng lưng chừng Trời, làm mồi ngon cho phòng không. Con tàu mỏng manh, liều mình cắm mũi đâm xuống dòng suối tối đen, vẫn bám chặt lấy địa hình địa thế, rồi lẹ làng cắt ngang cho mau chóng. Suốt thời kỳ Hạ Lào, tôi giữ thế “low level” làm thế bay chính nên may mắn chưa lần nào bị bắn. Ngày ấy ống khói trực thăng chưa được chế cong lên như sau này nên cũng rất khó tránh né, ngoại trừ bay thấp. Mỗi khi vào vùng, tôi và trưởng phi cơ thường hay bàn tính, dự trù sẵn từng thế bay, cơ phi xạ thủ cũng sẵn sàng trong thế thủ, hai bên “miniguns” dương lên oai hùng, chỉ chờ có dịp nhả đạn!

Tuy còn là copilot nhưng tôi rất được các đàn anh tin tưởng cả về khả năng chấm bản đồ cũng như những thế bay tác chiến. Trên vùng trời xa lạ, anh em tin tưởng nhau, sinh mạng phi hành đoàn cũng phó thác cho nhau. Mỗi lần phải đổi toán thay thế, các anh Trần Lê Tiến, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Ngọc Châu, Phạm Vương Thục, đều không muốn để tôi về Đanang, coi như vừa hợp rơ vừa có số hên với nhau.

Ngày còn học quân trường Thủ Đức, khóa 5/68, tôi rất mê thích môn Địa Hình, thích tìm hiểu những vòng cao độ màu nâu chằng chịt trên tấm bản đồ hành quân. Không ngờ, khi mới về phi đoàn 213, Đ/úy Trần Duy Kỳ, tân TPHQ, lại giao cho tôi và Nguyễn tấn Phát, nhiệm vụ mỗi ngày xuống phòng Quân Báo/KĐ 41, ghi chép các tin tức an ninh chiến sự và lãnh bản đồ về cho anh em đi bay. Đúng là thích hợp với sở trường sở thích của tôi. Từ đó, Tôi và Phát cũng trở thành đôi bạn thân thiết. Sau Phát đổi về Biên Hòa và bị rớt làm tù binh trên chiến trường Kampuchea .

Sáng nay, anh Thục và tôi cũng vẫn theo phi trình thường lệ như những lần trước. Từ Đèo Lao Bảo bay tới Đồi 30, rồi từ đó lấy hướng West vô thẳng Đồi 31. Như đã liên lạc sẵn, ba phi cơ, một lượt lao xuống thật thấp, trên mặt rừng rậm rạp, cùng nhắm hướng bay vào. Hai chiếc H-34, slicks, nối đuôi nhau bay trước. Chiếc gunship, anh Thục lái, bọc phía sau, vừa tầm quan sát cả hai, nhưng không bắt buộc phải theo formation nhất định, để mỗi chiếc có thể dễ bề tránh né cho an toàn. Âm thanh động cơ và cánh quạt của ba chiếc trực thăng, xèng xẹc chém vào không khí, vang dội rùng rợn trên vùng không gian tĩnh mịch của buổi sáng sớm. Chiến trường hôm ấy, tự dưng như có vẻ yên tĩnh hơn mọi ngày! Rừng núi im lìm không khói súng, các họng Pháo Binh 155 ly, trên căn cứ hỏa lực Đồi 30, vẫn yên lặng chờ đợi. Mặc dù đoạn đường khá dài, nhưng từ xa, chúng tôi đã có thể nhìn rõ được vị trí của Đồi 31.

Trước đây, một lần, tôi có dịp bay với Phạm Văn Vui, một đàn anh từ trường bay Ft. Rucker, nhưng cũng mới vừa ra HTC. Chúng tôi chở Đại tá Nguyễn Đình Vinh, Tham Mưu Phó HQ/QĐI, vào Đồi 30 để thám sát chiến trường sau một trận tấn công mới xẩy ra đêm hôm trước. Khác với Đồi 31 là đồi đất, trọc lóc và thấp thoai thoải, không có cây cối. Đồi 30 như một vách đá thẳng đứng, bốn bề cheo leo hiểm trở, rừng cây rậm rạp bao quanh, ngọn cây vươn ngang tầm chóp núi, chỉ có trực thăng là phương tiện vận chuyển duy nhất để lên tới đỉnh. Vậy mà, một đêm, bọn đặc công Việt Cộng cũng đã trèo lên tận bãi đáp trực thăng nhưng bị quân ta đẩy lui, quân dụng còn ngổn ngang chưa kịp dọn… Tôi xuống lượm một chiếc nón cối màu kaki xanh xanh, bên những vũng máu còn loang lổ, định về làm kỷ vật chiến trường. Cái nón bị dấu mìn Claymore xuyên thủng nhiều lỗ, còn dính lại một cụm tóc nhỏ. Đ/tá Vinh muốn xin lại chiếc nón nhưng tôi từ chối. Sau này tôi mang về treo trong phòng ở khu cư xá độc thân Butler, được mấy bữa. Đêm nào tôi cũng mơ thấy hồn ma thằng VC về đòi lại cái nón, nên sau phải đốt bỏ nó mới được ngủ yên.

Ngày đầu có lệnh tiến vào nội địa Lào, bản đồ hành quân phát cho ngày hôm ấy chỉ được giới hạn theo mức tiến quân của các đơn vị bạn. Tôi bay với Đ.úy Trần Lê Tiến, chiếc lead gun. Chúng tôi lỡ bay quá giới hạn bản đồ một con suối mà không hề bị bắn. Các anh Nguyễn Anh Toàn , Nguyễn Văn Thanh, và Anh Thục bay theo sau . Bốn gunships cùng với chiến xa, một lượt ầm ầm, ồ ạt tiến vào đất Lào trên con Q/L số 9 từ ranh giới đèo Lao Bảo. Không khí trở nên rất hào hứng vui nhộn hơn là sợ sệt! Anh Tiến lái, tôi coi bản đồ, nhưng mắt và chân tay lúc nào cũng thủ thế sẵn sàng để nếu bất trắc gì vẫn có thể kịp thời “take over control!”. Theo sau đoàn chiến xa là những chiến sĩ tinh nhuệ nhất của QLVNCH. Thiết Giáp, Nhảy Dù… tất cả cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là Tchepone. Trực thăng tiếp tục quần thảo lòng vòng , ngay sát trên đầu, để bảo vệ cho đoàn quân đang mò mẫm tiến chiếm từng bước trên con đường đầy cạm bẫy và cây lá rậm rạp. Trước sức vũ bão của quân ta, quân CSBV dù mạnh mấy cũng phải thủ thế chờ đợi và chúng tôi đã an toàn trở về nội địa không một vết đạn, vui mừng trong chiến thắng của ngày đầu tiên.

Sau này, anh Tiến bị tử thương trong một phi vụ gunship ở vùng núi phía Tây Bắc Huế cùng với copilot là Th/úy Ng. Trọng Khanh, trước Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, khi anh vẫn còn độc thân. Ngọn đồi sau đó được mang tên anh, “Đồi Trần Lê Tiến”. Phi đoàn ai cũng rất thương mến anh. Với dáng mảnh mai, cao ráo, đẹp trai, gốc Bắc Kỳ; tính tình dễ thương, tiếu ngạo, trẻ trung, lúc nào anh cũng vui vẻ yêu đời… Những lúc hứng chí một mình, anh hay lúc lắc cái đầu, nghêu ngao, huýt sáo nhè nhẹ mấy câu hát ngắn ngủi, có lẽ của một bài ca mà anh rất ưa thích: “Không! Không! Tôi không còn yêu em nữa… “. Bài ca này tôi đã nhiều lần thấy anh hát đi hát lại, không biết đời anh có oán hận một cuộc tình lỡ làng nào đó hay không?


Click here to view the original image of 1198x635px.

Trở lại phi vụ vào Đồi 31, vì UH-1 bay lẹ và uyển chuyển hơn H-34, nên anh Thục và tôi phải bay vòng lại nhiều lần để chờ nhau. Khi Tôi và anh Thục quay lui thì vừa lúc thấy chiếc H-34 thứ nhất rớt xuống lưng chừng đồi sau một tiếng “bộp” ngắn gọn và chùm khói trắng xì ra ở phần giữa đuôi của phi cơ. Tất cả cùng xẩy ra quá lẹ làng trong tích tắc. Phi cơ còn nguyên hình hài, chỉ cách bãi đáp vài mét; phần đầu nghiêng xéo một chút như kim đồng hồ chỉ về hướng C/c Tchepone, phi hành đoàn thoát ra vô sự… Anh Thục đáp xuống, vô “bunker” BCH Dù, xem tình trạng PHĐ ra sao. Tôi ở lại tiếp tục giữ máy ở thế “idle”, chờ đợi cỡ 15 phút. Tình hình an ninh chung quanh đồi vẫn bình thường, không có gì khẩn trương, chúng tôi cũng không bao giờ ngờ tình hình lại có thể thay đổi đột ngột như sau này; vì là BCH tiền phương lớn nhất của đơn vị Dù trên lãnh thổ Laò lúc bấy giờ. Sau đó chúng tôi cất cánh lên để nhường chỗ cho chiếc sồ 2 vào đáp. Trong lúc anh Thục còn đang định bay “circle around” thêm mấy “path” nữa để chờ chiếc H-34 số 2, đến lúc phi cơ vừa quẹo qua trái, trên mặt rừng góc Đông Nam thì có một tiếng nổ cực mạnh dưới bụng phi cơ, ngay sát chân đồi. Có lẽ, con tàu bị sức hút của khoảng “vacuum” bất ngờ nên lao chao như muốn rớt! Khi ấy, chiếc H-34 số 2 cũng vừa đáp xuống và báo cáo đã bị “trúng pháo” trên bãi đáp nên không cất cánh lên được! Cả hai chiếc H-34 đều bị hạ trên bãi đáp, không còn chỗ trống, và chiếc gunship nặng nề cũng chẳng làm được gì. Anh Thục đổi tay lái, bảo tôi bay ra, để anh liên lạc với BCH/Liên Đoàn 51/TC xin cho phi cơ “rescue” vô cứu, tình hình quanh đồi đã trở lại bình thường, không có dấu hiệu gì nguy hiểm hơn . Mọi người chắc chắn đều yên trí, Đồi 31 là BCH lớn nhất của đơn vị Dù trên đất Lào, không ai nghĩ Cộng Sản có thể sẽ tiến chiếm quá dễ dàng. Rất tiếc, hồi ấy LĐ 51/Tác Chiến mới thành lập, với ba phi đoàn trên vùng hành quân mà không có lấy một chiếc cấp cứu túc trực sẵn trên trời như các hợp đoàn trực thăng của Mỹ, đến khi có tàu vô rescue thì đã quá trễ.Tình hình lúc ấy chưa đến nỗi bi quan lắm, chúng tôi còn thản nhiên bay ra bình thường, không bị một viên đạn nào bắn lên! Mãi vài giờ sau, quân CS Bắc Việt mới bắt đầu mở màn tấn công. Khói đen bốc lên giữa đỉnh đồi như những trụ antennas thẳng đứng, có thể nhìn thấy từ bên này biên giới. Sau Đồi 31 lại đến Đồi 30 rồi căn cứ Tchepone, cứ thế mà xụp đổ như quân đô-mi-nô! Và tiếp sau đó là những trang sử đau thương đầy máu lửa của cuộc triệt thoái trở về nội địa của QLVNCH. Hai phi hành đoàn của anh Giang và anh Chung Tử Bửu, nếu có phi cơ cấp cứu kịp thời, chắc chắn các anh đã không bị bắt làm tù binh cùng với Đại tá Trần Đình Thọ và các chiến sĩ BCH Dù trên Đồi 31 sau đó.

Ngày ấy, những gì xẩy ra, đối với tôi đều như phép lạ! Tại sao trên cùng một bãi đáp [Đồi 31], cả 3 chiếc vào đáp cùng một thời điểm, nhưng 2 chiếc H-34 đều bị bắn khi xuống bãi đáp còn chiếc gunship của anh Thục và Tôi lại được tha? Nếu không có một sự che chở linh thiêng nào đó thì chắc chắn chúng tôi nếu không chết thì cũng đã cùng chung số phận với hai phi hành đoàn của anh Giang và anh Bửu/PĐ 219.

Quen biết anh Thục nhiều năm, nhưng mới đây trước khi anh mất, tôi mới biết anh là một tín đồ CG rất đạo đức; chắc chắn ngày ấy anh cũng đã tin ở phép lạ và sự che chở nhiệm màu nào đó như tôi, hoặc biết đâu tôi đã nhờ hưởng được những phúc đức của anh mà thoát nạn. Lần cuối có dịp gặp lại anh Thục ở Houston, Texas, vào dịp SĐIKQ hội ngộ năm 2010. Thấy anh ốm hơn ngày xưa rất nhiều nên tôi hỏi thăm, vì nghe tin anh bệnh mà không có dịp. Anh cười hiền từ, với cặp mắt vẫn nheo lại như lúc trước, mỗi khi anh em có dịp vui đùa. Anh nói: “Bệnh sơ thôi có xá gì! Ngày xưa Hạ Lào còn chưa chết mà!”. Làm tôi lại tưởng nhớ đến phi vụ của hơn 40 năm trước, cùng anh bay vào Đồi 31, BCH/LĐ.3/Dù, và những kỷ niệm ngày anh em còn chung phi đoàn 213/Song Chùy… Hồi tôi mới cưới vợ, anh cũng mới được đề cử chức Phụ Tá Sĩ Quan HQ/213 cho Đại Úy Trần Lê Tiến. Một hôm, tôi quá mê ngủ nên quên cả giờ bay, anh phải chạy xuống khu cư xá Butler đánh thức tôi dậy. Sau khi gõ cửa hoài không thấy trả lời, anh vòng qua lối cửa sổ, nhìn thấy lờ mờ sau lớp kiếng cửa sổ phòng tôi có gác đầy xoong nồi và chén bát… Anh sực nhớ tôi mới cưới vợ nên bỏ về không đánh thức tôi nữa . Sau này chỉ nghe anh kể lại cho vui mà không hề trách móc, làm tôi luôn ghi nhớ và quý mến anh. Anh có vóc dáng lý tưởng mà các phi công VN ai cũng mơ ước: to lớn, cao ráo, đẹp trai, râu ria râm rạp… Anh không thua bất cứ một phi công Mỹ nào về kích thước nên các đồ bay anh mặc cũng của các phi công Mỹ mới vừa! Là một copilot có nhiều dịp bay bên anh, tôi thấy anh rất hiền lành, giong nói cũng nhẹ nhàng, cặp mắt không to lắm, hơi nhíu lại một chút khi nhìn người đối diện với nụ cười như luôn cảm thông dễ dàng, tất cả đều trái nghịch với bề ngoài kếch xù, râu ria xậm đen của anh. Những ngày biệt phái, thỉnh thoảng buổi trưa có dịp bay về Đông Hà ra phố ăn trưa. Mấy cơ phi xạ thủ như Hết, Để, Mai… thường đeo thêm mã tấu đi bên cạnh, làm anh trông rất ngầu! Chúng tôi cũng hãnh diện lây trước con mắt ái ngại đang xầm xì của những người lính trận phong sương thuộc các binh chủng Dù, TQLC, hay BĐQ ở trong quán. Có lẽ họ cũng ngưỡng mộ trước kích thước cao lớn đồ sộ của anh.

Sau này tôi mới nghĩ thêm một lý do khác để giải thích tại sao VC đã không có ý bắn chiếc gunship của anh Thục và Tôi trên vùng Đồi 31 ngày ấy? Rất tiếc anh Thục đã mất nên anh em không có dịp cùng nhau mổ xẻ lại chuyện xưa. Tôi còn nhớ rất rõ, hôm ấy anh Thục mặc bộ đồ bay Nomex màu cứt ngựa hơi vàng vàng của US Marine Pilot, với cái áo Jacket da mầu nâu của US Navy Pilot mà anh hay mặc, và mang đôi giầy “boot” da màu đỏ lờn lợt. Anh cũng đội thêm chiếc nón rừng “rằn ri” của binh chủng Biệt Kích hay Nhảy Dù… Với vóc dáng kếch xù đồ sộ của anh cùng với nước da ngăm đen, râu ria rậm rạp; nếu Việt Cộng có dùng telescope mà quan sát thì chúng cũng sẽ lầm tưởng anh là một phi công Mỹ, lai Đen hoặc gốc Mễ. Có lẽ vì thế mà chúng đã buông tha không dám bắn, vì không muốn cho Mỹ [US Air Forces] có lý do để can thiệp làm hư hỏng kế hoạch sắp tấn công của chúng. Chúng tôi đã bay lòng vòng “low level” trên mục tiêu suốt cả nửa giờ, ngay trong tầm súng AK nhưng chúng vẫn không hề bắn lên một viên mà chỉ muốn triệt hạ 2 chiếc H-34 của anh Giang và anh Bửu. Thực sự phải có một lý do đặc biệt nào đó? Hay là lúc ấy chúng đã thắt chặt vòng vây quanh đồi [31] nên không muốn bị lộ tẩy làm hư kế hoạch tấn công? Và nếu sức hút của khoảng “vacum” , do tiếng nổ mà chúng tôi gặp phải, cũng chính là họng súng pháo kích lên chiếc H-34 thứ nhì, thì điều ấy chứng tỏ quân BV đã tiến rất sát chân đồi mà BCH Dù vẫn chưa hay biết gì; cũng như chúng tôi đang bay ngay trên miệng súng mà may mắn được chúng buông tha.

Sau cuộc hành quân 719, Tôi không còn mấy tin tưởng vào hỏa lực của gunships và những trái rockets. Sức công phá của rocket trên vùng rừng núi Hạ Lào chỉ tạo được một cụm khói tí hon như nhúm bếp vừa le lói khỏi tầm ngọn cây đã hòa tan theo làn gió. Sau khi ra hoa tiêu chánh [HTC], tôi xin trở về với nghiệp bay slicks. Với tôi, đời “Slicks” nguy hiểm nhưng thú vị hơn! Trực thăng khó nhất là đáp chứ không phải bay, nhất là phải đáp sao cho an toàn trong những điều kiện éo le của chiến trường, của địa thế hiểm trở và thời tiết khó khăn. Sự thử thách càng cao thì thú vị càng nhiều, đó là cái thú bay “Slicks”. Mỗi phi vụ hoàn tất an toàn trở về, tự nó đã mang lại một chút cảm giác chiến thắng!

Tại vùng I chiến thuật, núi rừng dầy đặc, khó khăn hiểm trở. Mọi hoạt động hành quân đều nằm trong vùng núi. Trực thăng UH-1 là phương tiện duy nhất, bên cạnh các hoạt động quân sự của các đơn vị Bộ Binh. Trong đời bay trực thăng năm xưa, có thể do cơ may, nhưng cũng có thể vô tình, mà tôi đã tìm được thế bay nào đó, khả dĩ có thể tránh né hữu hiệu, nên rất ít khi bị bắn; làm tôi không tin, chiến trường VN, kể cả Hạ Lào và Kampuchea, lại có nhiều phòng không như các bạn pilots khác, thường diễn tả lại. Thực tế tôi luôn đề phòng, lo sợ bãi đáp bị pháo kích nhiều hơn là sợ phòng không bắn rớt. Vũ khí phòng không là loại vũ khí cộng đồng, xoay sở chậm chạp và đòi hỏi phải có những xạ thủ chuyên môn, cần thiết cho chiến trường miền Bắc nhiều hơn ở miền Nam nên chắc chắn không thể được phân phát bừa bãi cho bọn du kích; ngoại trừ các mặt trận lớn với quân số cấp sư đoàn như trận Quảng Trị hay Bình Long – An Lộc nhưng cũng chỉ giói hạn trong một phạm vi nhỏ bé nào thôi. Điều quan trọng là phải luôn nắm vững tình hình trước khi thi hành phi vụ, nghiên cứu kỹ càng các vị trí bạn và địch chung quanh bãi đáp; do đó những phi hành đoàn chịu bay thường xuyên sẽ ít gặp nguy hiểm hơn những người lâu lâu mới đi bay. Tóm lại , không phải mọi nơi mọi lúc, chỗ nào cũng có phòng không dầy đặc như lưới lửa! Nào là 12ly7, nào là SA-7, 37 ly, 57 ly trực xạ… Tất cả có lẽ chỉ là những huyền thoại, được tô điểm thêm cho đậm màu sắc chiến tranh và chiến trường được hào hùng hơn mà thôi!

Chỉ có một lần, tôi được tận mắt chứng kiến những luồng tia lửa màu cam của SA-7 từ một ngọn núi ở phía Đông Bắc quận Ba -Tơ bắn theo chiếc trực thăng của Tr/tá Cao Q. Khôi, PĐT 213, vị niên trưởng khả ái của chúng tôi . Hôm ấy, anh Khôi từ hướng quận Mộ Đức bay vào để quan sát cuộc đổ quân vào Ba-Tơ/Quảng Ngãi. Vì là cuộc đổ quân quan trọng và nguy hiểm do hai phi đoàn 213 & 239 đưa một đơn vị thuộc Tr/đoàn 4, Sư đoàn 2/BB từ sân bay Đức Phổ vào giải tỏa cho quận lỵ Bato đang bị bao vây cả tuần lễ chưa chiếm lại được. Có lẽ anh lo lắng cho các đàn em, vì trước đó mấy ngày, Phi Đoàn 239 đã phải hy sinh một phi hành đoàn của T/úy Hoàng Vũ & Toản. May mắn hôm ấy, anh Khôi bay cao và lẹ, phi cơ cũng đã được trang bị loại ống khói mới với kiểu cong lên trời, nên đạn chỉ bay xẹt qua đuôi, trước con mắt kinh hoàng của chúng tôi. Còn lúc ấy, có lẽ chính anh Khôi cũng không hề hay biết mình đang bị SA-7 dí theo!

Quận lỵ Ba Tơ nằm trong vùng thung lũng giữa 3 quận Minh Long – Ba Tơ – Gia Vực, bao bọc bởi ba mặt núi. Chỉ có hướng từ Gia Vực bay ra là vùng thung lũng khá rộng, đủ cho 2 hợp đoàn xoay sở trường hợp có bất trắc. Do đó, tôi mới chọn lấy hướng vô Gia Vực rồi bay ngược trở ra, dù đường bay có xa hơn mấy phút. Từ phi trường Đức Phổ, tôi lead 10 chiếc slicks, với 4 gunships hộ tống, bay xuống khu rừng rậm ở phía Nam, ngang qua tiền đồn Biệt Động Quân của Th/tá Dư, một LZ rất quen thuộc đối với các phi hành đoàn 213 trước đây. Từ đó, chúng tôi bắt đầu low level, băng rừng vào hướng West, tất cả bay theo hàng dọc cho dễ tránh né và khi đáp cũng đáp từng chiếc một. Bốn gunships theo sau, hộ tống hai bên. Hai hợp đoàn vào tới sát chân núi mới quẹo phải, rồi ôm sát sườn núi phía Bắc, men theo đường thung lũng bay ngược trở ra Ba Tơ, vẫn với cao độ rất thấp. Không ngờ nhờ sự thay đổi ấy, vô tình [hay may mắn], đã vô hiệu hóa được các dàn hỏa tiễn SA-7, nếu có nhắm sẵn, từ dãy núi phía trước [East], chặn ngang Đức Phổ và Ba Tơ, mà chúng [VC] đã bắn lên phi cơ của Tr/tá Khôi, bây giờ sẽ không có tác dụng gì đối với chúng tôi; bởi vì SA-7 là loại vũ khí chỉ bắn theo đuôi chứ không có hiệu quả gì với thế trực xạ “diện đối diện”. Có lẽ nhờ vậy mà hai hợp đoàn, 10 slicks và 4 gunships, đã an toàn hoàn tất phi vụ, trở ra, không chiếc nào bị bắn! Phi vụ hôm ấy tôi còn nhớ có Đ/úy Nguyễn Như Huyền, Đ/úy Trần Văn Hòa bay các slicks số 2, số 3 theo sau, tàu của Tr/úy Trần Tâm Sơn báo cáo bị “chip detector” nên cho ở lại sân bay Đức Phổ standby!

Thường thường, phi trình “hành quân” của trực thăng, trong mỗi phi vụ, được coi là nguy hiểm, nhưng trên thực tế rất ngắn! Cái khoảng không gian mà anh em hay ám chỉ là “vào vùng”, chỉ nằm trong khoảng 1-2 miles cuối cùng gần bãi đáp, tức là trong vòng cận tiến mà thôi. Nếu chiến trường nào cũng đầy rẫy phòng không thì trực thăng mới cất cánh lên đã bị bắn rớt hết! Mức độ nguy hiểm để bay từ tỉnh này đến tỉnh kia hầu như không có, nếu từ cấp tỉnh đến cấp quận, vùng nào nguy hiểm lắm có lẽ cũng không quá 1%. Tương tự các phi vụ bay từ cấp sư đoàn đến các trung đoàn thường là phi vụ liên lạc với mức nguy hiểm 0%. Từ BCH trung đoàn đến BCH tiểu đoàn cũng tương đương như từ Tỉnh đến Quận. Vậy thì còn lại sự nguy hiểm chỉ ở những mục tiêu [Lz] cấp Đại đội hay Tiểu đội mà tầm hoạt động của họ thường không quá BCH /Tiểu Đoàn chừng 3 -5 miles là cùng. Nhiều bãi đáp vừa từ BCH cất cánh lên đã thấy Lz, khoảng cách ấy chính là phi trình thực sự của mỗi phi vụ trực thăng khi “vào vùng” hành quân mà mỗi phi công tùy theo kinh nghiệm chiến trường có thể tính toán cách – vô, đáp, cất cánh – sao cho an toàn. Trong bốn hướng vô ra, nhất định phải có một lối “safety” hơn! Khúc nguy hiểm nhất chính là lúc phi cơ chậm lại để vào “short final”, tức là trong vòng bán kính 1 mile cuối cùng quanh bãi đáp, hoặc lỡ bãi đáp bị pháo kích bất ngờ.

Các phi công Mỹ thường quá chú trọng đến yếu tố an toàn kỹ thuật, phải theo hướng gió, phải có trái khói đánh dấu bãi đáp v.v… Ngày xưa các phi vụ trực thăng vận còn thả pathfinders xuống trước để ném trái khói và hướng dẫn phi cơ đáp tại chiến trường, nên trực thăng Mỹ bị rớt cũng nhiều. Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, trong vùng núi phía Tây tuyến phòng thủ Mỹ Chánh gần quận Phong Điền tỉnh Thừa Thiên, trực thăng Mỹ rớt ngổn ngang dưới các thung lũng, bên những dòng suối khô cạn ngay cạnh chân đồn, các phi cơ vẫn còn nguyên vẹn hình hài; nhưng có lẽ các pilots Mỹ lúc nào cũng coi trọng nguyên tắc “safety first!” nên bỏ chạy sớm? Các phi công trực thăng Vietnam ở vùng núi, như Vùng I, không xa lạ gì với những thế đáp núi táo bạo tùy theo điều kiện chiến trường đòi hỏi, bất chấp cả hướng gió ngược xuôi. Đáp núi không phải lúc nào cũng từ trên xuống mà nếu cần, có thể múc lên từ thế low level, bất ngờ đánh lừa địch, trong trường hợp bãi đáp đã được cảnh cáo đề phòng pháo kích… Muốn xuống mau, đáp lẹ và gọn, phải xoáy xuống [spiral approach] như cái phễu, với ít đường zig zag ngoạn mục, cho khỏi bị “overshoot” bãi đáp. Đáp núi cần chính xác, không để bị “overshoot” nhưng cũng không thể “undershoot” và khi cất cánh cũng phải đề phòng bị “over torque” vì địa thế cao, thiếu sức nâng [up lift]. Gió núi càng lớn, nếu xuống càng lẹ sẽ bớt được ảnh hưởng của turbulance. Đâm đầu cắm mũi xuống bằng “cyclick”, phi cơ sẽ rớt mau lẹ hơn là chỉ với “collective down” như thế đáp thường lệ. Các bạn từ vùng trong khi mới đổi ra vùng núi, quen thế “normal approach”, tà tà vừa “flare” lại, vừa đẩy “collective down”; phi cơ đã không xuống còn tạo điều kiện cho gió càng bốc lên, không tài nào xuống núi nổi. Phi cơ cứ như diều gặp gió, lơ lửng mãi trên không trung. Gặp bãi đáp lưng chừng 2/3 núi, chỉ có thể đáp và cất cánh cùng một hướng. Khi vào thì như nhắm núi mà đâm vô, nhưng lúc cất cánh ra, bắt buộc phải “hovering” lùi rồi lẹ làng cắm mũi xuống thung lũng mà “gain speed” [giả] cho mau kẻo bị “stalled “… Đó là những chiến thuật bay của pilot VN nằm ngoài sách vở huấn luyện ở trường bay. Tại chiến trường Iraq [2003], sau khi hàng loạt trực thăng bị bắn rớt, mãi tới năm 2007, mới nghe tin các phi công trực thăng Mỹ phải thay đổi chiến thuật bay để tránh né. Ngày xưa, tôi rất khâm phục tài năng của các phi công tải thương đêm/phi đoàn Cứu Tinh 257/SĐ IKQ. Càng hãnh diện hơn vì các anh đều xuất thân từ PĐ 213 qua như: Dương Tấn Long, Vũ Ô, Trần Long, Vũ Văn Hiền, Đỗ Quốc Hùng, Đặng Vũ Đăng … Đáp núi ban ngày đã khó thì ban đêm còn khó khăn gấp bội!

Đa số các phi vụ ở vùng núi chỉ có một bãi đáp, nên leader lúc nào cũng phải hy sinh một mình tìm cách lọt vô trước, nếu an toàn , sau đó mới đến lượt các wingman. Vai trò của leader trong mỗi phi vụ HQ rất quan trọng trong việc dẫn dắt hợp đoàn vào bãi đáp cho an toàn, nhất là đối với những bãi “Hot”. Nó đòi hỏi sự thông suốt về địa hình địa thế cũng như tình hình an ninh chung quanh bãi đáp và những phán đoán chính xác của leader. Sự tương quan giữa các vị trí bạn và địch cũng như một ván cờ, trong bốn hướng nhất định sẽ tìm được một lối ra vô “safety” hơn. Rất tiếc ngày xưa các phi hành đoàn thường bay theo sự hướng dẫn của “C&C” mà đa số là những sĩ quan tham mưu phi đoàn, lâu lâu mới có dịp ra vùng hành quân một lần, đâu có am hiểu tình hình chiến sự thay đổi mỗi ngày.

Niên trưởng Đ.V.A.H , một đàn anh hoa tiêu trực thăng ở Biên Hòa, diễn tả lại hình ảnh một phi vụ hành quân có “C&C” trong “Đêm chờ ngưng bắn, nhớ An Lộc” như sau:

…”Đạn bắn như mưa. Bắn cùng mọi phía. Bắn bằng đủ loại phòng không dữ tợn, hỏa tiễn tầm nhiệt, đại bác phòng không, súng cá nhân, 12 ly 7 phòng không chụp lại, trực xạ, đại bác nổ chụp, súng cối rót vào bãi đáp…”
…”Hợp đoàn 4 chiếc nối đuôi nhau bay hối hả vòng qua Minh Thạnh, vào bãi đáp B-15 từ hướng Tây Nam An Lộc, năm phút sau trận mưa bom B-52 cuối cùng vừa dứt…”
…”Đoàn trực thăng bay thấp lướt trên ngọn cây rừng theo lệnh “C&C” hướng dẫn : Hợp đoàn quẹo phải 10 độ . Đi thẳng! Chiếc số 3 bay nhanh một chút! OK đi thẳng… Bãi đáp 12 giờ, còn 3 trăm thước… Giảm airspeed!… Coi chừng! Coi chừng nó bắn phòng không bên trái!…”.
“Tôi nín thở. Hợp đoàn đã đến gần bãi đáp nhưng trước cả tiếng la coi chừng hốt hoảng của chiếc phi cơ chỉ huy. Tôi thấy điểm sáng dưới lòng một hố bom bay loáng lóe lên cao như chớp kính… Ô quẹo phải! Hợp đoàn quẹo phải!… Chiếc số 2 rớt rồi!… Số 3 nhanh lên! Lead quẹo phải 90 độ!… Bay ra! Bay ra đừng đáp! …”.

Sau Hạ Lào, tháng 11/71, phi đoàn 213 lại biệt phái vào Biên Hòa, tăng cường cho SĐ3/KQ đang đương đầu với hai chiến trường Bình Long/An-Lộc và Kampuchea cùng một lúc. Vùng đất lạ nhưng không có núi nên chúng tôi đa số có vẻ không mấy đề phòng. Một lần, nhận phi vụ một mình, một slick, chẳng cho gunship hộ tống, cũng không có phi cơ khác bay theo; tôi đáp xuống phi trường Lộc Ninh ở phía Tây Bắc tỉnh Bình Long để bốc đồ tiếp tế và lấy thêm tin tức an ninh cho phi vụ bay vào Bu Đốp tiếp tế cho đơn vị Biệt Kích. Chấm xong tọa độ trên bản đồ, ghi chú những check points cần thiết cho khỏi bị lạc đường bay. Tôi cất cánh lên, xác định hướng bay xong, cắm mũi lấy tốc độ. Qua khỏi khu rừng gỗ rậm rạp bên cạnh vòng đai phi trường Lộc Ninh, ở bên trái quốc lộ, rồi bắt đầu xuống “low level” bay theo Quốc Lộ 13 lên hướng Bắc. Con đường như đã bị hoang phế lâu năm, không xe, không người, cây cối phủ kín mặt đường y như Quốc Lộ 9 bên Hạ Lào. Tiền đồn Bu Đốp nằm sâu trong vùng biên giới Việt – Miên, ở hướng Tây Bắc, lẻ loi một mình giữa bốn mặt rừng già, cây cối lưa thưa bao quanh. Các binh sĩ vui mừng tiếp nhận chuyến hàng tiếp tế, họ “unload” rất mau, chỉ mấy phút sau là xong. Tôi cất cánh lên trở về, cúi nhìn lớp hàng rào kẽm gai thô sơ bao bọc quanh đồn và bốn chòi canh thô sơ, không biết có ngăn cản nổi thú rừng ban đêm? Làm sao có thể chống đỡ được sự tấn công của VC? Lòng bùi ngùi thương cho thân phận mỏng manh của những người lính Biệt Kích còn ở lại nơi tiền đồn quạnh hiu. Dù không chết, họ cũng xứng đáng được tuyên dương là những chiến sĩ anh hùng cảm tử của QLVNCH!… Vẫn thế low level, phi cơ uốn lượn sát trên tầm ngọn cây để tránh né, nhẹ nhàng băng qua khu rừng già lởm chởm những cây khô không có lá, rồi lại theo quốc lộ 13 bay trở ra, đáp xuống phi trường Quảng Lợi trực “standby” tiếp… Địa thế vùng III tương đối bằng phẳng dễ đáp, nhưng rất nguy hiểm, khó xác định hướng nào an ninh hơn. Tôi nghĩ, thế bay hữu hiệu nhất để tránh né vẫn là “low level”, càng thấp càng an toàn hơn. Chỉ ở độ thấp, trực thăng , dù gunship hay slicks, mới có thể biểu dương hết tất cả sức mạnh hùng hồn của nó.

Phi vụ cuối cùng [3/75] tôi và Lê Tấn Đại bay vào Núi Tròn, trước ngày mất Quảng Ngãi, để tiếp tế tải thương cho một đơn vị của SĐ2BB. Nhờ low level, mấy thằng du kích cầm AK-47 ở xóm nhà lá dưới chân núi, thấy trực thăng cứ hùng hổ đâm tới cũng phải hốt hoảng chạy trốn vô nhà. Chúng tôi không bắn nên chúng [VC] cũng không bắn lại!

Sau chuyến biệt phái Biên Hòa, khoảng cuối tháng Giêng 72, phi đoàn 213 trở về Đà Nẵng, sau đó lại lao đầu vào những trận chiến mới của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và mặt trận Quảng Trị. Anh Trần Lê Tiến tử trận, Anh Phạm Vương Thục rời PĐ 213, thuyên chuyển qua Phi Đoàn 239 tân lập, đảm nhận chức vụ TPHQ .

Anh Tiến & Anh Thục không còn nữa, nhưng hình bóng các anh có lẽ sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí những người bạn đã quen biết, nhất là những cánh chim Song Chùy 213 đã một thời cùng các anh vùng vẫy ngang dọc trên khắp chiến trường của Vùng Trời Hỏa Tuyến!

Vĩnh Biệt Anh Tiến, Vĩnh Biệt Anh Thục!!!


Song Chùy T/hoang
( Chút kỷ niệm với hai Niên Trưởng: Trần Lê Tiến & Phạm Vương Thục )

BIỆT KÍCH 34A BIỆT KÍCH 34A Ngày 26 tháng Mười Một năm 1963, Tổng Thống Johnson tuyên bố sẽ tiếp tục theo đuổi đường lối cứng rắn của Tổng Thống Kennedy về các hoạt động bí mật, ký thuận chương trình NSAM273. Cho phép gia tăng những hoạt động bí mật chống lại miền bắc Việt Nam, trong đó có việc thả những toán biệt kích ra ngoài bắc trong Hành Quân 34A, và gia tăng mức độ cho những toán biệt kích xâm nhập vào nước Lào sâu 50 cây số. Với sự chấp thuận này, Tổng Thống Johnson có ba mục đích: thứ nhất, chính quyền Hà Nội phải chấm dứt các hoạt động trong miền nam. Thứ hai, thực hiện kế hoạch Tâm Lý Chiến, tuyên truyền người dân miền bắc. Thứ ba, gia tăng các hoạt động bán quân sự (tổ chức kháng chiến), gây khó khăn cho quân đội, chính quyền miền bắc. Và ông ta hy vọng chính quyền miền bắc sẽ cảm thấy tình hình không được sáng sủa cho họ và phải rút quân đội từ bên Lào và trong miền nam trở về miền bắc. Ngày 21 tháng Mười Hai, Tổng Thống Johnson họp với bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, giám đốc cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA John McCone để bàn về Hành Quân (Chương Trình) 34A. Họ quyết định thực hiện những hoạt động bí mật, để đỡ bị tổn thất, và tránh dư luận Quốc Tế. Ủy ban Krulak được thành lập để xét lại Hành Quân 34A, thứ nhất, tìm hiểu xem Hà Nội sẽ trả đũa như thế nào cho các hoạt động bí mật này. Thứ hai, thăm dò dư luận Quốc Tế. Sau khi nghiên cứu, ủy ban Krulak khuyến cáo, Hành Quân 34A phải thu hẹp lại, và Tổng Thống Johnson ký thuận những lời khuyến cáo của ủy ban Krulak trong tháng Giêng năm 1964. Bộ tư lệnh Quân Viện MACV trong Saigon ban hành quyết định “General Order 6”, thành lập một đơn vị “tối mật” được biết đến qua danh hiệu MACV-SOG hay SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát) để thi hành những hoạt động bí mật theo lệnh của Tổng Thống Johnson. Theo tài liệu “The Secret War Against Hanoi”, tác giả Richard Schultz, Jr. tìm lại những hoạt động của đơn vị SOG nơi miền bắc Việt Nam, sau đó phát triển sang Lào và Cambodia. Mục đích chính của đơn vị SOG, gửi những toán biệt kích xâm nhập ra miền bắc, phá rối hậu phương, tâm lý chiến, đưa những toán biệt kích hải quân (biệt hải) đánh phá hải phận miền bắc, và phá hoại đường mòn HCM. Để yểm trợ cho những hoạt động bí mật này, đơn vị SOG có ba ngành, trong đó có Không Yểm, bao gồm tất cả các loại phi cơ chiến thuật, trực thăng và phi cơ vận tải, đóng trong các căn cứ không quân trong miền nam Việt Nam và Thái Lan. Tướng William Westmoreland, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã báo cáo cho Bộ Quốc Phòng / bộ TTM Quân Lực Hoa Kỳ (Pentagon), những hoạt động của đơn vị SOG không đem lại nhiều kết qủa trong trận chiến với Hà Nội. Trong vòng sáu tháng kế tiếp, quân đội Hoa Kỳ không thèm để ý đến đơn vị SOG. Đô Đốc Harry Felt, vẫn tiếp tục cho những toán biệt hải, bắn phá bờ biển miền bắc, nhưng những toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam, bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ không màng tới. Chỉ còn lại bốn toán biệt kích cùng với một điệp viên đơn độc (singleton) cẫn còn hoạt động nơi miền bắc, được cơ quan CIA bàn giao cho đơn vị SOG vào đầu năm 1964. Năm đó, SOG đưa ra miền bắc khoảng 250 biệt kích quân, bằng phương tiện thả dù, đường biển và đường bộ. Cơ quan CIA cung cấp cho đơn vị SOG đủ loại “đồ nghề” trong chiến tranh ngoại lệ. Những toán biệt kích SOG mặc quân phục lính Bắc Việt, võ trang tiểu liên AK-47, đem theo mìn bẫy, dụng cụ nghe lén điện thoại, v.v... Các loại vũ khí trong khối cộng sản kể cả súng cối 82 ly, sản xuất từ Trung Cộng, cơ quan CIA mua lại từ một quốc gia đệ tam, cung cấp cho đơn vị SOG. Ngoài ra đơn vị SOG có một đài tiếp vận truyền tin, liên lạc, nằm trên đỉnh một ngọn núi cao trên đất Lào, quân đội Bắc Việt không thể lên tới được. Đài tiếp vận này rất quan trọng, cho những biệt kích quân bị thất lạc (trong lúc gia tranh với quân đội Bắc Việt), liên lạc với bộ chỉ huy hoặc các toán biệt kích khác. Trong khoảng thời gian từ tháng Tư 1964 đến tháng Muời năm 1967, có khoảng 40 toán biệt kích, và điệp viên đơn độc được đưa ra xâm nhập miền bắc. Bốn toán biệt kích có tên Bell, Remus, Tourbillon, và Easy. Toán biệt kích thứ năm, Europa và những điệp viên đơn độc của cơ quan CIA, khi bàn giao cho đơn vị SOG cũng “được” thả xuống miền bắc. Toán biệt kích Remus nhẩy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ ngày 16 tháng Tư năm 1962. Nhiệm vụ của họ thiết lập một căn cứ bí mật, từ đó phát xuất đi những chuyến dò thám lấy tin tức. Ngoài ra toán biệt kích còn có thêm nhiệm vụ thâu thập những tin tức, tình hình chính trị miền bắc và những bản báo cáo của quân đội Bắc Việt, tìm những bãi thả dù để nhận đồ tiếp liệu cũng như những toán biệt kích khác. Toán biệt kích Remus thành công, phá xập vài chiếc cầu, nhưng trong năm 1968, mọi sự liên lạc với toán biệt kích Remus chấm dứt. Sau đó một tù binh Bắc Việt khai, có nghe nói toán biệt kích Mỹ Remus bị bắt trong tháng Sáu năm 1962. Toán biệt kích Eagles được thả dù xuống khu vực gần biên giới Việt-Trung ngày 27 tháng Sáu năm 1964, với nhiệm vụ phá hoại đường xá, đường rầy xe lửa, và một căn cứ không quân. Họ chưa hoàn thành nhiệm vụ, đã được lệnh di chuyển về hướng nam rồi sau đó mất liên lạc. Toán biệt kích Romero gồm mười người được trực thăng đưa vào xâm nhập khu vực nơi hướng bắc vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi các cuộc chuyển quân của quân đội Bắc Việt từ miền bắc vào đất Lào (sau đó vào miền nam Việt Nam), và quấy rối, phá hoại con đường chiến luợc của quân đội Bắc Việt (đường mòn HCM). Trong những bản báo cáo của đơn vị SOG, toán biệt kích Romero không trả lời những tin tức đòi hỏi trong năm 67, 68. Toán biệt kích Hadley, xâm nhập miền bắc bằng cách băng qua vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi mức độ chuyển quân của quân đội Bắc Việt trên các con đường chạy qua Lào, và chỉ điểm cho không quân oanh kích đoàn xe chở quân của địch. Toán biệt kích Hadley có báo cáo về cho đơn vị SOG, nhưng những tin tức của họ không có giá trị. Toán biệt kích Tourbillon nhẩy dù xuống khu vực gần biên giới Lào Việt. Toán biệt kích cuối cùng nhẩy dù xuống miền bắc là toán Red Dragon. Ngày 21 tháng Chín năm 1967, toán biệt kích Red Dragon bẩy người nhẩy dù xuống khu vực nơi phiá nam biên giới Việt-Trung. Cả hai toán biệt kích có nhiệm vụ dò thám lấy tin tức và phá hoại đường xá, cầu cống. Lần cuối cùng toán Red Dragon liên lạc năm 1969, người Hoa Kỳ nghi ngờ toán biệt kích đã bị bắt, gửi những báo cáo sai lạc về. Trong chiến tranh tâm lý, người Hoa Kỳ cho phi cơ thả radio, đã được điều chỉnh trước xuống miền bắc, để nghe hai đài phát thanh “đen”, đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đài “Cờ Đỏ”. Hai đài phát thanh “bí mật” này phát ra những tin tức sai lạc, phóng đại, về những toán biệt kích hoạt động bí mật nơi miền bắc (dĩ nhiên thổi phồng). Những điện văn gửi qua lại, nhắn tin giữa những toán biệt kích đang “nằm vùng” nơi miền bắc, làm sao bắt tay, v.v... Nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc được tăng cường thêm biệt kích quân bằng cách nhẩy dù xuống. Toán Toubillon nhận thêm “người” trong năm 1962, hai lần khác trong năm 1964, một lần trong các năm 1965, 1966 và 1967. Toán biệt kích Remus được tăng cường bốn lần, toán Easy được năm lần. Tất cả những biệt kích quân nhẩy dù xuống tăng cường đều bị giết hoặc bắt sống. Đơn vị SOG tin rằng các toán biệt kích đã bị bắt, rồi bị ép buộc gửi những tin tức, báo cáo sai lạc vào Saigon. Cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA đã “làm” chuyện này từ lâu, bắt sống lính Bắc Việt, bắt cóc thường dân sinh sống nơi miền bắc, và xử dụng những “cảm tình viên” làm gián điệp “hai mang”. Đến năm 1967, chỉ còn bốn toán biệt kích, Eagles, Hadley, Red Dragon, Romeo và một điệp viên đơn độc vẫn còn hoạt động nơi miền bắc. Đến cuối năm 1967, đơn vị SOG cho thêm hai toán biệt kích xâm nhập ngắn hạn, dò thám tìm mục tiêu vào trong các hoạt động bí mật của họ. Hành Quân 34 (Oplan 34) có thêm một “chương trình” (kế hoạch) mới, nhằm đánh lạc hướng cơ quan “phản gián” miền bắc. Chương trình này có mật danh “Forae”, đon vị SOG hy vọng sẽ gây chia rẽ trong nội bộ miền bắc. Đến năm 1968, Hành Quân 34 chia làm ba chương trình: 34A đặc trách các toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam. 34B, bao gồm các toán biệt kích “Strata” xâm nhập, dò thám miền bắc trong thời gian ngắn. 34C, bao gồm các hoạt động nhằm đánh lạc hướng địch quân. Theo kế hoạch Hành Quân 34A, những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có nhiệm vụ xây dựng những nhóm kháng chiến, chống lại chế độ Hà Nội. Nhưng chưa bao giờ được Washington chấp thuận nên nhiệm vụ thay đổi, lấy tin tức tình báo, phá hoại và tâm lý chiến. Rồi toán biệt kích được lệnh không được tiếp xúc với dân chúng miền bắc... làm cho họ không thể nào hoàn tất nhiệm vụ. Tóm lại, chương trình 34A của đơn vị SOG không thành công. Chuyện đưa những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có thể nói hoàn toàn thất bại. Ngày 14 tháng Ba năm 1968, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland, chấp thuận cho một chương trình mới nhằm đánh lạc hướng địch quân, có mật hiệu là Forae. Mục đích chính của chương trình Forae, làm cho chính quyền Hà Nội tin rằng, có nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc Việt Nam... nhiều hơn họ được biết. Điều này làm lạc hướng quân đội Bắc Việt trong miền nam, và cho Hà Nội biết rằng, nền an ninh miền bắc không được yên ổn, không thể đưa thêm quân vào miền nam. Forae có ba chương trình căn bản, mang mật danh, Borden, Urgency và Oodles. Chương trình Borden tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm việc cho đơn vị SOG. Họ đưa những tù binh này đi nơi khác, huấn luyện, rồi trả về miền bắc. Người Hoa Kỳ, cho họ biết những tin tức sai lạc, có rất nhiều toán biệt kích đang hoạt động hữu hiệu nơi miền bắc Việt Nam và con số lực lượng kháng chiến càng ngày càng gia tăng. Khi được đưa trở ra miền bắc, đơn vị SOG tin rằng, các tù binh này sẽ khai lại những điều mình biết cho sĩ quan an ninh Bắc Việt. Trong năm 1968, chương trình Borden tuyển mộ 98 “cựu tù binh” Bắc Việt và đưa ra miền bắc 44 người. Urgency có hai nhiệm vụ. Thứ nhất, “làm việc” với những tù binh (bị bắt), thường dân miền bắc (bị bắt cóc) cứng đầu, không chịu hợp tác. Những người này được đưa ra “Paradise Island” (Cù lao Chàm) để nhồi sọ, làm cho họ có cảm tưởng đang sống ở một nơi nào đó trên miền bắc Việt Nam, trong lòng một tổ chức kháng chiến, với đài phát thanh “đen”. Sau đó họ được huấn luyện nhẩy dù, và thả dù xuống gần một làng nơi miền bắc để họ có thể đi bộ đến làng, trình diện, đem theo những tin tức sai lạc. Nhiệm vụ thứ hai cũng nhằm đánh lạc hướng chính quyền miền bắc. Lần này họ xử dụng những người chịu hợp tác, cũng đưa ra “Paradise Island” tuyên truyền, trao cho những tin tức sai lạc rồi trả về miền bắc. Chương trình đánh lạc hướng địch quân qua phương tiện truyền thông, máy phát thanh (radio) là Oodles. Chương trình làm như có một hệ thống gián điệp, biệt kích nằm vùng trong một khu vực chọn lọc nơi miền bắc Việt Nam. Gửi đi những điện văn cho những toán biệt kích (không có thực) nằm vùng, bao gồm: thả dù tiếp tế, thả dù toán biệt kích mới, thả dù thêm biệt kích xuống tăng cường, chúc mừng ngày sinh nhật của toán viên nào đó... Thả những kiện hàng tiếp tế trống rỗng xuống gần chỗ đóng quân của một đơn vị lính Bắc Việt, làm cho địch có cảm tưởng, toán biệt kích... đã đem đi hết đồ tiếp tế. Ngoài ba chương trình chính yếu, Forae tạo ra thêm ba chương trình khác, Uranolite, Pollack, và Sanitaries. Uranilite thả xuống miền bắc những thùng đồ “quấy rối” gây khó khăn, mệt mỏi cho lực lượng an ninh miền bắc. Chẳng hạn như thùng đựng giấy nhưng bên ngoài có vẻ như thùng chứa máy móc điện tử để lấy tin tức, dụng cụ ám sát, chất nổ, v.v... và đã được toán biệt kích (ma) đến lấy đi. Chương trình Pollack gửi những tài liệu giả, để viên chức trong chính quyền miền bắc nghi kỵ lẫn nhau. Pollack chấm dứt hoạt động trong tháng Mười Một năm 1968. Sanitaries trợ lực cho đài phát thanh đen “Gươm Thiêng Ái Quốc”, làm như các hoạt động của các toán biệt kích nơi miền bắc rất thành công. Những chương trình “đánh lạc hướng” miền bắc, tỏ ra có hiệu qủa. Đài phát thanh, báo chí miền bắc lên tiếng lo ngại những chuyện điệp viên, biệt kích xâm nhập. Đến tháng Mười Một năm 1968, Washington ra lệnh cho đơn vị SOG chấm dứt tất cả các hoạt động này. Trong tháng Mười Hai năm 1964, đơn vị SOG được lệnh gia tăng những hoạt động đánh phá các mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, đơn vị SOG (Biệt Hải) đã tổ chức 170 chuyến hành quân vượt tuyến phát xuất từ Đà Nẵng. Những tầu chiến Swift, Nasty chạy tốc độ rất nhanh, tấn công các mục tiêu nơi bờ biển, bắt cóc ngư dân miền bắc đem đến “Paradise Island” để tuyên truyền. Sau đó họ được trao qùa tặng, truyền đơn, radio để nghe đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đưa trở về làng cũ nơi bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, SOG bắt cóc 126 thường dân miền bắc, thả xuống miền bắc 1000 radio, và 28.742 hộp qùa và cả triệu tờ truyền đơn. Năm sau, 1966 họ bắt cóc 353 thường dân ngoài bắc. Dallas, Texas May 4, 2010 vđh

Đời Nhảy Toán / Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật







Khác hơn thường lệ, chiều nay mới bốn giờ toán chúng tôi đã được ăn cơm. Xong một lân nữa lệnh kiểm soát lại đồ đoàn. Toán chờ xuất phát. Thiếu úy Điệp (Phạm ngọc Điệp) trưởng toán (One zero), sáng nay đã bay Covey Ov10 quan sát bãi đáp, dự thuyết trình mục tiêu. Chuyến này Trung sĩ Quang (Trần Quang) toán phó (One one) phụ trách điện đàm, còn lại là bốn toán viên Biệt kích quân (BKQ). Tôi BKQ Hải (Nguyễn văn Hải) Thông dịch viên. BKQ Nguyễn duy Châu Khinh binh (point man) BKQ Hào (Lê thanh Hào) M79 sau cùng BKQ Cường (Nguyễn mạnh Cường) đoạn hậu.
Sáu người trong toán được đưa lên chiếc xe bít bùng, đậu trong sân. Đây là cãn cứ đươc xây dựng đặc biệt để người bên ngoài không thể nhìn thấy gì bên trong. Thiết kế ba dẫy nhà liền nhau tạo thành chữ U. Mọi cửa phòng bên trong, mở ra chung mọt cái sân. Phía trước cái cổng sắt đặc liền, luôn có người gác, cửa đóng im ỉm. Đó là căn cứ Biệt kich nằm trong phi trường Nakhon Phanom (NKP). Xe bít bùng mở cửa sau, rồi de khớp vào cánh cửa hông của chiếc trực thăng CH53 Jolly Green. Bằng cách này người bên ngoài không thể nhìn thấy cái gì được chuyển từ xe lên trực thăng .Tức thì ,cửa trực thăng được đóng lại ngay, rồi tiếng đề pa của động cơ cánh quạt rít lên, từ từ xoay nhấc bổng rời bay đi.
Nhìn qua khuôn cửa, trời đă nhạt nắng. Lên đến cao độ, trực thăng bay với sự hộ tống của hai Khu truc cơ A1 Skyraider đến từ lúc nào và đang bay kèm hai bên. Xem đồng hồ đã qua nửa giờ bay, nhìn qua cửa,bóng chiếc Covey OV10 (FAC) ánh lên cùng nắng chiều tà. Thiếu tá Thụ (Nguyễn văn Thụ) Sĩ quan Điều Nghiên và Không Thám, ra hiệu cho Toán chuẩn bị.







Một Thượng sĩ người Mỹ đã đứng trước cuộn thang dây. Không có bãi đáp, Toán được xâm nhập bằng thang dây. Trực thăng nặng nề hạ độ cao. Ngoài cửa sổ chiếc A1 đang lao xuống dọn bãi đáp bằng đại bác 50, tiếng như bò rống. Toán đã sẵn sàng.Trực thăng ồ một tiếng lớn, rít lên rồi từ từ đậu bên trên ngọn cây bao quanh một hố bom trống trải. Toán từng người một leo bám vào thang dây lẹ làng đáp đất .
Toán đã tiếp được đất an toàn, coi như xâm nhập thành công ...Có tiếng rên và tôi quay ngoắt lại. Cường nhóc sao nửa mặt đầy máu. Nhanh như cắt tôi nắm lấy máy truyền tin từ Quang gọi Covey báo cáo tình hình và mô tả vết thương. Nhìn máu chan hòa nửa gương mặt, Hào đang loay hoay phụ băng vết thương. Trước tình thế tôi thật sự nghĩ là nghiêm trọng và xin triệt xuất. Hỏi nguyên do chỉ vì cạnh ngoài chấn thang tự nhiên đập thẳng vào đầu. Người Mỹ trên Covey hỏi lại một lần nữa. Tôi đáp chắc chắn cái đầu nó bị bể. Thế rồi lệnh triệt xuất được truyền xuống. Trực thăng trở lại, sáu người leo lên thang, lựa chỗ cho đủ đứng rồi móc cái móc từ người vào thang. Thiếu úy Điệp người cuối cùng ở vị trí cuối thang ra hiệu trực thăng bay đi.
Về đến phi trường NKP trời đã về đêm, dưới ánh sáng đèn trên trực thăng tôi thấy Cường nhóc ngoài cái băng trên đầu, trông nó như chả làm sao cả. Tôi giật mình khi người y tá vào trong khoang tầu săn sóc vết thương cho Cường. Thiếu tá Thụ đứng bên tỏ vẻ lo lắng vì thấy vết thương quá nhẹ... Xe bít bùng chở Toán đang đường về căn cứ. Ngồi trong xe ai ai củng tỏ vẻ ngượng ngập nhất là tôi và Thiếu úy Điệp. Nhìn cái băng cá nhân tí tẹo trê trán Cường nhóc mà thấy xốn sang trong dạ và chuẩn bị đối phó bởi báo cáo của mình không xác thực . Xe đã vào trong sân căn cứ. Thiếu tá Thụ vội vàng, trước nhất xuống xe đi thẳng vào phòng Hành quân, dẫy nhà bên hai Toán người Thượng nhìn có vẽ soi mói trong ánh đèn pha trên cột cao dội ánh sáng chói chan xuống sân. Một Trung sĩ người Mỹ gọi tôi và Điệp lên phòng Hành quân. Cửa vừa mở, hai tôi bước vào chưa kịp dơ tay chào, đã gặp ngay nét mặt nộ khí xung thiên của Thiếu tá người Mỹ trưởng căn cứ. Sau một hồi dữ dằn mắng chửi với khoa tay múa chân, khỏi cần thông dịch. Ông ta giờ có vẽ nguôi và đang giải thích về chi phi cùng những khó khăn của một quá trình xâm nhập. Thiếu tá Thụ ngồi bên hoàn toàn yên lặng... Bây giờ thì " Này các bạn, với tư cách Trưởng căn cứ, tôi tuyên bố Toán của các bạn đang trong muc tiêu " Rồi tiến đến bắt tay Thiếu úy Điệp và vỗ vào vai tôi ông nói giọng gằn từng tiếng " Nhớ, đừng quên học thêm tiếng Anh bạn ạ".
Thiếu tá Thụ đánh thức chúng tôi dậy vào lúc năm giờ sáng, thông báo ba mươi phút nữa Toán đươc đưa ra sân bay. Cường nhóc ở lại NKP... Toán còn lai năm người hành quân.
Chiếc MC130 Blackbird, loại có râu móc trước mũi đề bốc Toán theo kiểu James Bond 007 (Fulton Skyhook Extraction System). Cửa sau đã mở sẵn chờ đợi cửa sau của xe bít bùng chở Toán. Thiếu tá Thụ không đi theo. Máy bay lập tức ra phi đạo rồi cất cánh. Hơn nửa giờ bay, giờ phi cơ đang chuẩn bị hạ cánh, cái cảm giác nặng chịch trong lòng cùng buốt hai tai, tạo cho tôi cảm giác bay bổng nhưng rất khó chịu trong người. Một xe GMC chạy đến tận cửa sau máy bay đón chúng tôi. Nhìn vào nóc nhà xây trước mặt, trên nóc nhà hàng chữ. Phi trường Kontum. GMC chở Toán đên một khu vực cũng nằm trong phi trường, trên sân sáu chiếc Kingbee sơn mầu blackbird đang chờ, sẵn sàng cất cánh.

Từ trực thăng, cảnh núi rừng trùng điệp. Bên dưới, đám mây trắng kéo thành một vệt dài dưới ánh nắng như chưa đủ sức làm tan loãng. Gió phần phật lốc vào làm ran rắt trên mặt cùng tiếng ầm ĩ của động cơ trực thăng. Người xạ thủ trực thăng, cạnh tôi mời thuốc hút.
Đảo một vòng, trực thăng chở Toán bắt đầu đáp xuống, theo sau những chiếc đã xuống trước. Đoàn King Bee sáu chiếc, chỉ chở năm hành khách. Dưới bãi đáp, một Trung úy người Mỹ thông báo phi hành đoàn cùng toán trưởng vào dự thuyết trình. Ngay tức thì, Thiếu úy Điệp, đưa cây Car 15 cho tôi, rồi vào phòng Hành quân.
Hai chiếc Kingbee cất cánh và một trong hai chở theo Toán. Vượt qua những ngọn đồi thoai thoải tiếp nhau, xa xa dẫy núi xanh mờ chắn ngang. Gió dữ dằn tung lốc ào ạt quanh quanh. Những đám mây lạ lạc bất thần tạt cái lạnh êm êm. Hai chiếc Cobra, đến từ lúc nào đang song hành hộ tống. Sự phối hợp không quân bài bản, nhuần nhuyễn với độ chính sác cao. Dưới kia giòng sông đỏ ngầu mầu đất ngoằn ngoèo chia cắt giữa núi cao và đồi cây. Xa kia, tầng mây trắng như cố bám lấy núi rừng và tuyệt vời hơn nữa, những đám mây mỏng nhỏ lang thang tạo thành bức tranh thần tiên lãng đãng. Người xạ thủ trực thăng ra dấu Toán chuẩn bị. Nhìn ra ngoài, đã thấy rõ chiếc OV10 (FAC) bay đằng xa. Theo thuyết trình hai chiếc Kingbee sẽ đáp xuống cùng một lúc hai bãi đáp khác nhau và chỉ có một chiếc là chở Toán, nhằm đánh lừa địch. Trực thăng hạ độ cao. Chiếc Cobra đang dọn bãi bằng đại liên sáu nòng và M79 tự động. Bằng vào một động tác hạ nhanh, trực thăng sát đất rồi trườn xa một quãng. Đáp vội trên con suối cạn, đá lởm chởm. Toán chúng tôi nhanh chóng thoát vào rừng cây.
Cơn mưa ngày qua để lại dấu tích dễ nhận trên bề dầy của lá rụng, nơi sinh sản và cũng là căn cứ của loại vắt độc hại. Mùi khai nồng, hăng hắc của cây lá bung lên như muốn giao tình với ánh nắng trên cao. Nhưng nắng chẳng đủ sức xuyên qua tàn cây xòe rộng dù rằng nắng đang trực diện với đất. Lặng lẽ chúng tôi cố gắng di chuyển thật nhanh để tránh cái lộ của bãi xâm nhập. Khi máy bay đi rối, chắc chắn ở gần đây, địch sẽ đến và thám thính.
Dự đoán không lầm, khi anh em ngồi nghỉ rồi ăn trưa, đất vẫn còn nhão, thêm sự tĩnh lặng, lẫn tiếng thú rừng thi thoảng âm vang rồi vọng lại. Tiếng súng địch bắn để báo động cho nhau. Rõ nhất vẫn là tiếng gà rừng mà tất nhiên không thể thiếu ở bất cứ một khoảnh rừng nào. Thiếu úy Điệp cùng Châu đang căn lại bản đồ lấy phương hướng. Hào thì vẫn cái mùi mắm ruốc xả kinh niên mà mỗi chuyến hành quân, vợ tịch thu hết lương khô, xong phát cho một hũ Ruốc xả có thề ăn dè được cả tháng. Có tiếng Covey lên bao vùng, tôi mở điện đàm chờ đợi. Toán phó Trần Quang đã giao điện đàm cho tôi để thế chỗ Cường nhóc đoạn hậu. Tiếng Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) trên Covey gọi Toán, tôi chuyển ngay bức điện đã làm sẵn, rồi nhanh chóng di chuyển, đâm xâu vào mục tiêu.



Khu rừng thật rậm rạp. Châu vất vả lắm để mở đường. Len tỏi, lạng lách, đánh vật với cây rừng, khi mà yêu cầu đi đúng đường. Chốc chốc hắn lại phải xem la bàn. Thiếu úy Điệp đi kế Châu, cây Car 15 luôn sẵn sàng bảo vệ. Trời quá chiều, ánh nắng hắt những tia cuối cùng. Muỗi như vã vào mặt và vắt thì nhiều vô kể, nó đi tìm mồi như người làm xiếc, di chuyển uốn dẻo thân mình rồi bung tiến tới mồi rất chính xác nếu chúng tôi lộ ra khoảng da thịt. Điệp đả chọn được chỗ nghỉ ăn cơm chiều. Có tiếng hú vọng lại, trầm ấm, lan tỏa rồi hình như lại dội lại. Trên tàn cây lao xao tiếng chim gọi nhau, thiếu đi giọng hót mượt mà ban mai. Tiếng súng địch quân vẫn thi thoảng nổ gọi nhau hay báo hiệu gì đó... Tay lấy lọ thuốc muỗi, xoa thêm vào mặt và tay để đối phó với sự tấn công quyết tử của vắt và muỗi. Nhá nhem tối, Toán đi tìm chỗ ngủ, lý tưởng nhất vẫn là gốc cây to, rễ bạnh. Trung sĩ Quang lên đi đầu. Di chuyển êm, chậm chạp và cẩn thận nghe ngóng. Trời tối hẳn, ánh trăng tỏa vằng vặc từ lúc nào. Đứng nghe ngóng một hồi lâu. Thiếu úy Điệp ra lệnh ai hút thuốc thì hút đi... Cẩn thận vì khói thuốc tỏa rất xa và đó là cái mùi không có ở núi rừng. Kinh nghiệm cho thấy, có Toán địch theo dõi cả ngày, đem đến, chỉ vì mùi thuốc lá dễ nhận, địch âm thầm bao vây và tấn công. Xong , Quang gài lại trái mìn M14 rồi di chuyển tìm chỗ ngủ. Địa điểm ngủ đêm đã được đồng ý. Toán chúng tôi hạ bàn tọa... Một đám mây đen lao thẳng vào mặt trăng, trời bỗng tối xầm rồi lại sáng. Ba lô là gối, lá cây rừng làm nệm. Dưới ánh trăng từng ngọn gió nhẹ lay động cây lá truyến tải ánh sáng phản chiếu lung linh. Cảm giác như lạc vào cõi kinh dị. Nghĩ bụng phải nhắm mắt lại ngay và đừng suy nghĩ cố mà tìm giấc ngủ. Đây là một kinh nghiệm, vì đã có những toán viên không ngủ được trong tình cảnh này, đã thút thít khóc gọi mẹ, để rồi bị chế giễu và sa thải, hay những toán viên đào ngũ chỉ vì đã từng để lại tiếng thở dài trong đêm hành quân.
Trời sáng, sương đêm còn ướt nơi ngực, là đà quẩn trong gió, sương mù mỏng dần theo gió núi lành lạnh. Thông lệ Toán có một tiếng đồng hồ đễ vệ sinh và chuẩn bị cơm nước trong ngày. Point man Châu trở lại vị trí dẫn đầu, giờ đang cùng Thiếu úy Điệp căn lại phương hướng, xong  Điệp đưa cho tôi bức điện tin vừa viết bằng mật mã. Bất giác tôi nhìn Châu, khăn mầu lá cây cột trên trán, cái răng vàng nhìn thấy rõ bởi cái miệng hắn hô, trên gương mặt lầm lì, xa vắng như nhớ vợ. Tự nhiên tôi bật lên tiếng cười. Lệnh di chuyển, ngoái lại thấy Trần Quang đang xóa dấu vết. Tiếng súng báo hiệu hôm nay, bên này đã trả lời. Cánh rừng bớt rậm, nhưng cây lớn nhiều. Thỉnh thoảng vài trái cây ném xuống từ trên cao, nhìn lên thằng khỉ đang nhăn răng cười tay gãi gãi vào nách. Không gian bao trùm âm thanh núi rừng, nắng chếch trên cao, sưởi ấm cái lạnh bên dưới nhưng không đủ sức. Châu bất thần ngồi xuống tay ra thủ hiệu dừng lại, mắt nhìn Điệp và tôi. Quan sát động tĩnh rồi ngó về phía trước... Một con đường mòn chắn ngang hướng di chuyển. Phân công ba người yểm trợ, Điệp và tôi lum cum đi lên thám thính... Con đường rất ít lá cây, có nơi nhẵn nhụi, lạ lùng nơi kia loang một vũng nươc nhỏ như có ai mới vừa tiểu tiện. Hoảng hốt tôi kéo Điệp trở lui, miệng lầm bầm "đồng chí mái" Điệp hỏi lại "sao Hải biết". Đến nơi đòng đội đang chờ, tôi giải thích... Vết lỗ đái nhỏ, xâu in trên đất, tại vũng nước loang tròn, hạn chế thì dứt khoát đó là tác phẩm của phụ nữ, các bà. Gọn ghẽ và thẩm mỹ. Thiếu úy Điệp phất tay ra dấu, vượt đường mòn từng người một, yểm trợ lẫn nhau, đi trên lá cây. Bở hơi tai, chúng tôi đến đươc nơi có thể ngồi nghỉ. Có tiếng Covey trên bầu trời. Điệp vội vàng thêm vài chi tiết vào bức điện. Đại úy Ginh từ Covey đang gọi Toán, tôi trả lời và mau chóng chuyển ngay bức điện. Bây giờ tôi mới nhân rõ Thiếu tá Thụ trên Covey. Hai ông đều nói tiếng bắc nên dễ lộn.


5
Tiếp tục tiến vào mục tiêu. Nửa tiếng ăn buổi trưa, Toán vội vã di chuyển để tránh địch theo dõi. Châu dừng lại bên tảng đá cao ngút đầu, ngồi xuống rồi đưa tay chỉ. Một con suối rộng, nước chảy lặng lờ trong kẽ đá. Xa xa mà mắt thường có thể nhìn thấy, bên bờ suối, trên dốc thoai thoải, nép vào những cây cao. Hai dẫy nhà bằng cây rừng tre lá, ẩn nấp dưới những tàng cây. Thấp thoáng vài bóng người. Bên này suối, xa hơn một tí, những ngôi nhà ngắn và nhỏ, lọt xâu giữa những tảng đá lớn. Vài tên bộ đội đang lấy nước.
Toán nhanh chóng di chuyển càng xa càng tốt, nhắm hướng hạ lưu. Thấy có vẻ ổn, Toán dừng lại bàn bạc và đồng ý xin không kích. Định vị trên một vị trí có vẻ kín đáo và thuận tiện cho tác chiến. Tôi vừa ăn trưa vừa lo bắt liên lạc với FAC (Covey OV10), nhưng không được đành phải xài tới hệ thống máy cấp cứu P90. Một lúc sau, khọt khẹt và tiếng trả lời hoi: Sóng cấp cứu của ai lên với tần số...Tôi thông báo mật danh và được trả lời hãy đợi.
Mười phút trôi qua, động cơ ì ì của Covey càng lúc càng rõ. Trong máy PRC74 đã nghe rõ tiếng gọi Toán. Một ông tây điều không, trả lời mật danh và chuyển lên bức khẩn điện, tôi yêu cầu Không-quân. Mười phút sau khi nghiên cứu bức điện và điều không. Lời yêu cầu được chấp thuận. Báo cáo với Điệp, hiểu ý Quang và Hào lẳng lặng lấy trong ba lô hai trái mìn Claymore, hỏi ý Điệp nên gài ở đâu. Chớp nhoáng Toán đã ở vào vị trí chiến đấu. Nép vào góc hai cục đá to, giữ cái PRC74 ở vào nơi tương đối an toàn. Tôi đang ở giữa bốn đồng đội. Trên tầng cây cao sau lưng, tiếng kêu ré lên đuổi nhau ầm ĩ của đàn chim, chúng đang tung chưởng đánh nhau.
Covey lúc này đang vòng trên đầu chúng tôi. Hắn gọi Toán và xin mở cửa sổ (ý muốn thấy vị trí Toán bằng chiếu gương).Tôi cầm cái gương dưa lên mắt, ngó hướng mặt trời, lấy ánh sáng hội tụ tròn mờ trong gương và qua lỗ nhắm giữa gương chỉnh điểm ánh sáng tròn mờ lên thẳng Covey đang bay....À thấy rồi, xin cho mục tiêu. lúc này không còn cần mật mã, mà nói trực tiếp và bạch hóa.
-Lima charlie (tên Covey)nghe đây, ngay tại triền suối, hướng Tây, khoảng cách 1000 mét
-Pa pa oscar (tên Toán) nhận rõ, chuẩn bị panel cho oanh kích.
Một Phantom F4 lúc này đang bay trên trời.
-Papa oscar đây là Li ma charlie. Tao sửa soạn làm tình, xin cho ý kiến và trải panel vàng.
Một cú bay xuống như tia chớp, chiếc Covey lao nhanh trực chỉ mục tiêu và trái rocket đã được bắn ra. Nhìn làn khói trắng bốc lên, tôi ước lượng và gọi Covey.
-Lima charlie. Mục tiêu 200 mét về hướng bắc. Ngay triền suối.
-OK Papa oscar. Hãy nhìn đây.
Covey đảo nửa vòng cung, đầu chúc xuống, thêm một trái rocket thứ hai xuống mục tiêu. Máy bay múc thẳng lên cao, nghiên nghiên rồi ngừa bụng lên trời, tí sau mới lật lại, bay bình thường. Với câu hỏi:
-Papa oscar. Đúng mục tiêu chưa. Tao chơi có khá không?
-Lima charlie, Đúng rồi, thật tuyệt. Anh trình diễn giống như Elvis Presley.
-Cám ơn cám ơn Papa oscar. Ha, ha, ha, ha.
Liền tiếp theo sau, chiếc F4 xà xuống một trái bom ghim ngay mục tiêu khói trắng chỉ điểm.Tiếng nổ vang dội và một cột khói lửa bao trùm bốc cao. Ngay đầu tiên hắn đã xài loại 500 cân anh.Trên bầu trời lúc này còn thêm chiếc A1 Skyraider chả biết đến từ lúc nào? bất thần theo sau chiếc F4
6Máy bay như ngừng lại khi khai hỏa một loạt đại bác 50 và rồi hất ra tung tóe như đậu vãi những trái bom bi cứ như nắm tay một, rồi nghiêng nghiêng tăng tốc vút lên cao. Chợt tôi hoảng hốt, nhìn thấy làn đạn xanh, đỏ từ dưới đất bắn lên.

-Lima charlie. Đồ chơi có gai, ngươi thấy gì không?  xanh, đỏ đang lên với bạn.
 -Cám ơn, Papa oscar, thấy rõ 5 trên 5, có lẽ còn trước cả bạn. Nó sẽ câm họng.

Chiếc Phantom tiếp đến bổ nhào xuống và cắt một lúc hai trái bom, rồi biến mất sau cột khói mịt mù. Tiếng nổ khủng khiếp tạo sư chấn động, mà chỉ nhũng kẻ có tinh thần thép mới không khỏi sợ hãi khi mắt chứng kiến cảnh hãi hùng bom đạn, khói lửa bao trùm

-Papa oscar ghi nhận có tiêng nổ phụ. Xin xác nhận.
 -Lima charlie...Đúng rồi và cháy dữ dội, có thể là kho tồn trữ nhiên liệu.

Trên cao họ tinh tường thật, lúc này bình tâm tôi mới nhận ra và báo cáo...Tới tấp đánh vào mục tiêu, chiếc A1 bổ nhào ném thêm hai trái bom Napalm. Một vệt dài toàn lửa cháy dần loang, tung lên những cuộn khói đen kịt. Trên bầu trời đã mất hút chiếc F4 và chiếc A1 cũng nhỏ dần. Sau đám mây cuồn cuộn trắng. Chỉ con lại chiếc Covey quần đảo, để ghi nhận cùng xác định kết quả.

-Papa oscar...Tạm biệt, thằng nhóc. Ta đã biết mi là ai rồi. Chuyển lời khen đến mi, con trai. Ta đi lo phần việc tiếp theo.
 Tháo gỡ hai trái mìn claymore phòng thủ. Quang và Hào đã sẵn sàng di chuyển. Ngoái nhìn mục tiêu, vẩn tiếng nổ rời rạc và lửa khói bốc cao. Toán nhanh chóng vượt con suối trống trải. Biến vào khu rừng bên kia... Tiếng súng quanh quanh vẫn bắn cú một truyền tin ... hay đang có một cuộc lùng sục của địch. Chiều tà mang mầu nắng vàng ệch soi rọi trên khuôn mặt mỗi người. Tàng cây rừng thưa cao nghất không đủ sức che chắn ánh nắng chiếu ngang tạo cảnh thu não lòng trên cùng hình ảnh năm cái bóng đổ dài như ma quái chập chờn. Cố gắng di chuyển thật nhanh để kiếm tìm sự che chắn. Toán bất chấp sự hiểm nguy, vì chẳng còn con đường khác. Phải nhanh chóng thoát khỏi khu rừng thưa náy.


Mọi lo lắng rồi cũng qua, địa thế lại thuận tiện. Chúng tôi ăn cơm trong ánh sáng còn sót lại trong ngày. Tìm được chỗ ngủ, khi bóng tối bao trùm. Núi rừng bỗng trở nên yên lặng kỹ quái, như cố đẩy lùi những xao động vừa qua. Vài tiếng hú gọi nhau thê dài như có vẻ nhớ nhau. Trong ánh trăng chiếu rọi xuyên cành. Năm chúng tôi im lìm, lặng lẽ đi vào giấc ngủ.


7
Tiếng ngáy của thằng Hào làm tôi tỉnh giấc, chửi thề trong bụng, tôi nhoài người đưa tay lay gọi nó "mẹ cái thằng, đồ chết tiệt, ăn cho đẫy mám ruốc vào, ngủ rồi ngáy " Xem đồng hồ, mới bốn giờ sáng. Tôi nín cười vì bất chợt được thưởng thức bản hợp tấu tiếng người ngáy và gà gáy xen lẵn tiếng đệm âm trầm của thú rừng xa xa. Điệp hình như cũng đã thức. Trần Quang xích lại phía tôi rủ hút thuốc. Tôi buột miệng dút khoát"không được".Anh trăng treo ngang in nguyên cành lá trên gương mặt tẽn tò của Quang đã xấu lại càng xấu thêm.
Hai trái claymore phòng thủ đã được thu hồi.Toán chuẩn bị di chuyển. Sương mù dầy đặc làm hạn chế tầm nhìn và cái lạnh ướt hai hàng mi. Có tiêng súng nổ rồi bên này đáp lại. Địch đang truyền tin cho nhau. Đến một con suối cạn, bên kia dốc cao. Ngồi quan sát địa hình... Châu và Điệp đang so lại bản đồ và địa bàn. Hướng đi được xác định, phải vượt suối và khắc phục dốc cao. Châu và Điệp sang trước, ba người bên này yểm trợ. Đã có nhửng hòn đá theo chân của Châu, Điệp lăn xuống lòng suối, phát ra những tiếng va chạm lớn theo đà lăn, gây sự nguy hiểm, chú ý nếu địch ở gần đây. Bắt đầu ba người còn lại vượt qua dưới sự yểm trợ của hai người sang trước.
Vào ngay hướng đi của Toán, phía trước thoai thoải cánh rừng thưa, cây cao,bóng cả. Nắng chói rọi một mầu vàng vào từng đốm bãi cỏ bên dưới mà không bị che khuất bởi những tàn cây dâm mát. Xa xa tít ngoài, bìa rừng xanh thẵm, đẹp như tranh vẽ.
Địa thế thật bất lợi và rất nguy hiểm cho di chuyển và tác chiến. Lộ nguyên hình trong nhiệm vụ Thám-sát đồng nghĩa với nhất chín,nhì bù. Thiếu úy Điệp ra lệnh phòng thủ đợi Covey, vì thường vào giờ này đã lên bao vùng. Một con khỉ đực lông vàng, to lớn có vẻ đầu đàn, nhăn nhở cười trên cây, tay gãi gãi mân mê khoe quả quí. Ở phía xa kia  lũ chim líu lo, đanh đá đánh nhau hay đùa giỡn ầm cả một góc rừng. Có tiếng ì ì quen thuộc của Covey rồi Thiếu tá Thụ gọi. Tôi gửi ngay bức điện, Điêp đưa cho hồi sáng rồi trao máy cho Điệp trực tiếp xin yểm trợ ...Lệnh chấp nhận và Toán bắt đầu di chuyển. Covey vọng ngay trên đầu.
Bở cả hơi tai, mồ hôi nhễ nhại. Cuối cùng cũng đã vượt qua trở ngại. Yên tâm hơn với địa thế hiện tại. Vẫn tiếng súng cú một quen thuộc, rồi tiếng đáp trả. Sự đe dọa tinh thần căng thẳng hay một cuộc bao vây đang hình thành vì điên tiết bởi trận oanh kích ngày qua. Point man Châu bỗng dừng lại. Tôi và Điệp lên quan sát. Con đường rộng, cách chúng tôi chừng tám hay mười mét, ngang hướng đi của Toán. Lên tiếp cận con đường, Điệp chụp ảnh và ghi nhận... Đường rộng hai mét, dấu vết thường xuyên và đang sử dụng, lá cây không bao phủ hết, lòi cả đất. Một vết trượt ngắn để lại dấu dép nghiên nghiên. Ngoắc tay ra hiệu cho Toán đi lên, chúng tôi vượt qua con đường.
Nửa tiếng nghỉ ăn trưa. Một tiếng hú lạ tai dài hơi ở hướng bắc, bên này cũng hú đáp lại. Chúng tôi nhìn nhau, lòng cũng đã hiểu. Sự sợ hãi ập tới chen lấn và len lỏi trong tôi. Nhưng rất may chỉ thoáng qua. Ý tưởng vượt khó, lồng lẫn vài gương mặt mấy em cava, xinh sắn thơm như mít, đã làm tâm hồn dịu lại. Mồ hôi chẩy dài trên mặt người đi đầu thật vất vả. Cái mặt bóng lưởng bởi thuốc bôi trừ muỗi và vắt nay lại càng bóng thêm vì mồ hôi. Bất giác mọi người nhìn nhau như muốn hỏi... Tiếng chim ré lên lao xao như đang gặp người lạ... "Kệ mẹ nó, tiếp tục, chả có chi"  Tiếng nói khẽ của Thiếu úy Điệp nghe đanh vả gọn. Vẻ lừng khừng. Châu lại tiếp tục mở đường.
Một cơn dâm buổi chiều, che khuất ánh nắng đã ngả về tây. Ranh giới của rừng rậm,lui dần về phía sau. Trước mặt dốc thoai thoải trống trải tối mù bởi nhũng tàn cây xòe rộng. Nhũng cây cổ thụ vút lên cao vẻ thách thức. Một con đường lớn băng ngang ở phía trước chia cắt bên kia rừng chồi non, bên này cổ thụ. Toán khựng lại, án binh bất động. Thật đáng ghét, đành chờ tối hẳn... Trung sĩ Quang và Hào vùa giăng xong hai trái mìn phòng thủ. Vẫn tiếng súng phát một của địch, vẫn tạo ngay sự khủng bố tinh thần. Chẳng làm chúng tôi mê mụ đi.
8
Cơm vừa xong,thì trời vừa tối. Ngồi đợi trăng lên, nhưng thiết nghĩ trăng cũng chẳng đủ sức soi rọi qua những tàn cây rậm rạp, nhưng có thể cũng đủ để không khỏi va chạm. Âm thanh núi rừng bỗng bừng bừng trỗi dậy,ma quái, huyền bí, não nuột tiếng thú khàn đục vọng dội thê lương như mãi mãi cô đơn. Ánh trăng vừa treo chếch, cũng là lúc Toán tới chạm con đường. suýt vấp ngã bởi chỗ trũng trên con đường, bước băng ngang khoảng năm bước, lại một vết trũng. Cho tôi hiểu ra rằng, đây là con đường cho xe hơi chạy. Báo cáo xong với Điệp... Lệnh qua đường, tìm chỗ ngủ.
Lắng nghe động tĩnh, nhìn đồng hồ đã mười giờ đêm. Thấy an toàn. Điệp ra lệnh cho Quang và Hào đi gài claymore phòng thủ... Cố dỗ giấc ngủ, bằng cách nghĩ một chuyện vui rồi vật vờ chìm dần... Bỗng giật bắn người lên, tiếng nhẹ xoay người từ đồng đội. Vểnh tai dựng đứng, nghe cho rõ hơn... Từng bước, từng bước. Tiếng bước chân và cành cây khô gẫy. Địch đang di chuyển thẳng vào Toán. Ánh trăng lao xao qua kẽ lá, không đủ để nhìn rõ quang cảnh. Tiếng bước chân bỗng ngừng lại. Không khí nặng nề lại nặng thêm. Tôi suy đoán địch chỉ cách chúng tôi chừng bốn hay năm mét. Nhưng rồi có tiếng khụt khịt, xong đi thẳng về chỗ chúng tôi. Thở phào nhẹ nhõm, mọi người hiểu ngay chỉ là thú rừng. Đến gần, con heo rừng cao cả thước đứng đánh hơi một chặp, mới chịu ra đi... Mẹ kiếp, đêm đến thấy vợ chưa về, bực tức đi tìm... Làm hú hồn.
Nằm yên được một chặp.Trong đêm tĩnh lặng.Tiếng động cơ ì ì nặng chịch, ngay sau lưng chúng tôi. Chắc chắn trên con đường tối qua, với hai vết lõm hai bên. Gà gáy lao xao tứ phía, lâu lâu xen lẫn tiếng người ồn ào nhưng chẳng rõ nói gì. Trăng đang gặp núi cao bên hông, tỏa ánh sáng mờ đục đùa giỡn cùng sương mù bay bay theo gió. Nghĩ lại quả là đêm của những giật mình.
Liên lạc xong với Covey, chúng tôi lại bỏ sau lưng những gì đã qua. Ngày mới lại đến, bình thường như đang trong mục tiêu.?! Mới mười giờ sáng, cái không khí oi nồng, nắng gắt trên cao và gió, gió biến đâu mất. Thời tiết tạo những cơn mưa đầu mùa. Thấy một địa thế ưng ý. Thiếu úy Điệp cho Toán nghỉ lại ăn trưa. Một chiếc phản lực lang thang ầm ĩ trên không. Ăn cơm xong, tôi thấy đau bụng lạ kì. Mượn chai dầu gió của Châu, dùng móng tay cái tôi cạo hai bên khủy tay, nhưng chẳng hết đau. Hay tại hũ mắm ruốc của Hào mà mình đã xin, sơi khi sáng.Điệp nhìn tôi e ngại. Tôi kêu Quang đưa viên thuốc và rồi  "Điệp coi dùm ba lô máy". Tôi tất tả ra ngoài, vẹt xong lá cây, khoan khoái phóng thích của nợ. Kéo quần lên trong trạng thái thoải mái. xoay lưng chưa kịp về chỗ. Súng ầm ầm nổ chát chúa. Tôi chỉ kịp nghe tiếng của Điệp "Hải chạy đi"
9
Nhanh như chớp, tôi nhắm thẳng hướng bốn người vừa khuất. Mặc cho gai rừng quất vào mặt và cổ, cố sức phóng cho kịp đồng đội chạy trước... Thế rồi cám ơn Chúa, chúng tôi cũng đã cùng nhau một nơi. Vui thoáng qua. Bất giác tôi và mọi người cùng nhìn nhau. Chiếc ba lo máy của tôi vẫn còn trong trận địa. Ứa gan và hoảng hốt, rút vội cái máy P90 phóng làn sóng cấp cứu. Rồi nóng nẩy, điên tiết tôi nói "Trở lại lấy máy ngay,chần chừ là không kịp" Tự động tôi lao lên trước dẫn đầu, trở lại trận địa, mà cách đây chẳng bao xa.
Bên dưới gốc cây, chiếc ba lo nằm ngang, chứng tỏ khi ra lệnh rút Điệp đả cố kéo mang theo. Quan sát động tĩnh, tôi cẩn thận nhôm từng bước, bốn đồng đội yểm trợ phía sau. Chỉ còn lại khoảng ba mét nữa,tôi dần bò vào.Ngồi dậy sốc cái ba lo vô vai,thở phào nhẹ nhõm. Chỉ là đám trinh sát địch. Dưới kia hai tên địch chết nằm xấp, vũ khí văng xa. Thiếu úy Điệp ra dấu lại đây, di chuyển. Tôi ra thủ hiệu chờ một tí, lẹ làng băng xuống lấy cây AK gần nhất, tiếc rẻ nhìn cây AK còn lại, tôi tặc lưỡi... Ôi, cũng chỉ làm quà cho mấy ông Tây mà thôi.
Cây rừng chằng chịt, cản trở nhiều và lấy đi bao sức lực. Nhìn đôi găng tay đen của Châu, đã thấy rõ những vết sước tráng ởn... Mừng rỡ khi nghe tiếng Covey. Bật điện đàm tôi gọi ngay.
-Hotel bravo đây Whisky yankee Toán đụng địch, xin trợ giúp khẩn cấp.
-Whisky yankee. Tao đang tới, yên tâm.
Tôi nhận ra ngay tiếng nói đặc biệt của Đại úy Storter, thanh tao như gái.
Lấy cẩm nang mật mã, tôi đọc và gửi lên Covey báo rõ tình hình và xin triệt xuất vì Toán đã bị lộ.
Tam nghỉ mệt ngồi chờ quyết định. Hào đang mân mê cây AK và lắc lắc tay ra dấu vô ích, súng hết đạn rồi.Trong máy có tiếng gọi Toán và Đại úy Storter thông báo, yêu cầu đã được chấp thuận và xin cửa sổ nhà tôi. Móc trong túi áo ngực lấy cái gương,chiếu thẳng lên Covey.
-Whisky yankee. Đi về hướng đông 200 mét,có bãi đáp.
Thông báo cho Thiếu úy điệp. Toán vội vã di chuyến, tẽ ngang hướng đông, được chừng 100 mét. Phía trước cây rừng thưa, từng bụi rậm rải rác chen lấn nhau. Điệp ra dấu ngồi xuống, quan sát địa thế. Toán đang đứng trên ngọn đồi. xa xa một khoảng trống bãi cỏ vàng, nhởn nhơ dưới ánh nắng vàng quá trưa. Thót người vì tiếng hú ngay sau lưng, kèm theo tiếng người. Rất nhanh, Toán đều tìm được mỗi người một gốc cây và sẵn sàng. Tôi gọi ngay cho Covey báo đụng địch và xin trợ giúp... Tiếng chân người xen lẫn những cánh tay vẹt cây rửng, từ từ đến thẳng chúng tôi... Sự căng thẳng, hồi hộp trên từng nét mặt, gần tôi, Hào đưa tay vuốt mồ hôi trên mặt. Tôi, tim như ngừng đập theo từng tiếng bước chân của địch. Châu và Điệp tay đang mở bao bi đông nước trong có chứa khoảng hai mươi trái lựu đạn mini... Loạt đạn đầu tiên của Trung sĩ Quang đã làm hai tên địch đi đầu vật ngửa, mà chẳng kịp nhìn thấy ai...Tiếng hô hoán, ra lệnh bỗng chốc ầm ĩ sau loạt đan của Quang. Tiếp đó,cái không khí nặng nề lại đè lên hiện trường, kèm theo mùi thuốc súng cộng lá cây rừng. Bên này đồi ,nghe thấy tiếng quát thúc dục. Toán chúng tôi đang bị bao vây bằng hai cánh quân. Địch đã đến gần và trực diện với chúng tôi bằng những loạt đạn phủ đầu áp đảo. Nép vào gốc cây, nhìn nhũng vết đạn cày sước, đất bắn tung tóe. Tôi gọi Covey trong lúc bốn đồng đội tác chiến.
-Hotel bravo. Anh có mang theo đồ chơi không,bật khói vàng cho anh chơi nhá.
-Whisky yankee, rất tiếc tôi không trang bị đồ chơi.Hãy cố gắng...Con hổ mang đang trên đường đến... Chạy ra bãi đáp sau lưng.
Bằng vào hỏa lực của mình.Toán cầm cự nhờ vào địa thế thuận lợi trên cao. Chúng tôi chơi lựu đạn dễ dàng và chính xác. Quang bò ra sau chúng tôi lo gài trái claymore để mở đường máu, tay đang sởi cuộn dây điện bấm mìn... Bất thần tiếng hô "Muốn sống đầu hàng đi, chúng mày bị vây chặt rồi "Đáp trả bằng một băng đạn vào chỗ tiếng nói. Nóng nẩy và điên tiết tôi gào lên "chửi thề".  Bên dưới Quang đã gài mìn xong ra hiệu cho Toán rút xuống từng người. Đòn cân não và những loạt đạn qua lại chứng tỏ địch không đông... Giờ này địch đã chiếm được vị trí cao mà chúng tôi mới bỏ lại. Bên gốc cây to, bạnh.  Điệp chỉ chiếc balo rách, đạn cày phá tung bên hông, nước trong bi đông giờ còn nhỏ giọt. Trên kia bốn cái xác địch nằm dài xuôi tay quanh những tay súng lâu lâu xuất hiện bắn xối xả vào chúng tôi. Địch đang chờ tiếp viện để làm cỏ Toán tôi.
10 /last
Tiếng súng xối xả của cả hai bên đánh bật đi tiếng Covey, mà có để ý mới nghe thấy. Tôi vẫn bấm mở máy điện đàm để Covey có thể theo dõi tình hình và thưởng thức diễn tiến trận đánh bằng âm thanh. Có tiếng thét thúc dục của cấp chỉ huy địch. Những lằn đạn cày sới, hất tung đất cát lên cao và lả tả vỏ cây văng vãi trên đấu và vai. Cây M79 của Hào tỏ ra thật hữu hiệu, áp đảo trận địa. Hào chứng tỏ sự nhanh nhẹn,t hông minh, chính xác trong tác chiến. Cây M79 của hắn thật tuyệt vời đã làm khưng lại cuộc tấn công, vì sau tiếng nổ của những trái M79. Phía địch gần như phải lo chống đỡ hoặc ẩn núp. Nhuần nhuyễn trong bài bản chiến thuật, lúc này mới thấy được tính hữu dụng của những giờ khó nhọc thực tập. Chiếc Covey xà xuống thật thấp, bay theo kiểu khủng bố với tiếng động cơ hết cốt. Xẹt,ào ào trên trận địa. Đèn xanh đã được bật,t rong chiến thuật quen thuộc. Covey gọi tôi.
Whisky yankee Phá vòng, chạy thẳng ra bãi đáp hướng đông.
Tôi báo cáo cho Điệp, hiểu Điệp ra lệnh chơi lựu đạn... Bất chấp Toán đồng loạt đứng lên. Mỗi người tay lựu đạn lấy hết sức ném về phía đối phương. Trung sĩ Quang nổ trái claymore. Toán chúng tôi hè nhau, vắt giò lên cổ, chạy thục mạng, nhắm hướng đông có bãi đáp. Dưới sự che khuất bởi khói và đất cát mịt mù của lựu đạn và mìn nổ. Cố hết sức, kết cục cũng ra được tới bìa rừng và thấy rõ những chấm đen của trực thăng đang lao tới. Thoải mái và phần nào lạc quan. Nét hân hoan hiện lên tửng khuôn mặt chờ đợi trực thăng bốc về.
-Whisky yankee. Con trai,mở cửa đi
Thiếu úy Điệp ra khỏi tàn cây rồi lắc gương.
-Whisky yankee. Thấy rồi. tiến ra khoảng trống, một trưc thăng sẽ bốc hết Toán.
Tiếng trực thăng chém gió đang quần ngự trên đầu. Hai chiếc Cobra, vòng chờ đợi sự điều khiển của Covey. Trên cao bốn chiếc Kingbee vẫn chưa chịu hạ thấp.
-Whisky yankee, ra ngay bãi đáp và chuẩn bị panel vàng. Hải, coi chừng phía bìa rừng.
Toán chạy thẳng ra bãi trống, phất panel vàng theo mật lệnh, trong lúc loạt rocket đầu tiên bốn, năm trái đươc phóng xuống nổ tung dài theo bìa rừng... Xa luân chiến... Tiếp theo sau, Cobra thứ hai, bay đầu chúc chúc... Tiếng đại liên mini, cùng 40ly tự động nghe phần phật, rồi nổ văng vãi dưới đất. Hai chiếc Cobra đảo vòng hai cũng là lúc chiếc Kingbee đang xuống bãi đáp. Phía sau hỏa lực của Cobra lập thành hàng rào thép cho Kingbee. Chiếc Cobra thứ hai lù lù phía sau... Nằm vội xuống đất, trong khi từ bìa rừng, cách Toán khoảng 50 mét, tiếng súng thi nhau nổ... À,mày chơi cú chót... Tôi thấy rõ chiếc Kingbee xẹt ngang qua đầu. Cây đại liên M60 phun ra lửa. Người xạ thủ đứng hẳn lên, vãi đạn xuống bìa rừng. Nhưng trực thăng bỗng bốc lên cao.
Hỏa lực của Cobra chơi bằng đủ mọi đồ chơi hiện có.Toán chúng tôi nằm chết dí tại bãi đáp. Địch đang nỗ lực chơi máy bay, tạm tha cho chúng tôi. Vẫn xa luân chiến, hai Cobra thi nhau tận dụng mọi hỏa lực và đang áp tải chiếc Kingbee xuống bãi. Người xạ thủ trên Kingbee nổ tới tấp vào bìa rừng, trong khi hỏa lực từ Cobra cày tung tóe đất cát. Một địa ngục lửa thép... Nhưng, rõ ràng là một thằng điên đứng chạy với cây thượng liên nồi xối xả bắn vào trực thăng. Lạ lùng cây M60 trên trưc thăng không làm hắn ngã được. Kingbee đáp hẳn xuống bãi. Hai Cobra vẫn bân bịu ở bìa rừng. Nhưng không thể ngăn được chừng cả chục tên địch đứng chạy bắn đuổi theo chiếc Kingbee. Trên trực thăng, tôi dơ cao khẩu AK chiến lợi phẩm dí dí thẳng vào mặt đối phương.
Toán về đến CCC (Snowden Hall) . Trời vừa ập tối. Nhân viên phòng Hành-quân ra đón, tay bắt mặt mừng. Chiếc Kingbee đang được soi đèn đếm vết đạn. Ông Thiếu tá người Mỹ dơ cao cây AK tôi mới trao, miệng cười ha hả. Trên sân lúc này chỉ còn ba chiếc Kingbee, hỏi ra, một chiếc bận đưa người xạ thủ bị thương lên tận Pleiku.
Toán Hải Sơn CCN (Command Control North)
Chiến Đoàn 1 Xung Kích / Sở Liên Lạc / Nha Kỹ Thuật


CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG.

Câu chuyện của Tháng Ba 40 năm trước.

25 tháng 3 ,1975
Chỉ trong vòng mấy ngày mà Đà Nẵng gần như tràn ngập dân di tản từ Huế, Quảng Trị cùng với các Binh Chủng TQLC, Bộ-Binh thuộc các Sư Đoàn 1,2,3 và các đơn vị Địa Phương Quân của các Tỉnh vừa mới mất làm cho Thành Phố gần như hỗn loạn, tin tức chiến sự càng lúc càng thêm bất lợi cho phe ta.
Lệnh cấm quân đã được ban hành sau khi Ban Mê Thuột và Phước Long thất thủ, tôi cảm thấy lo lắng không biết gia đình có còn ở Di Linh hay không vì nghe nói Cộng quân đang đánh ở nơi đó, tôi mò về Đà Nẵng để hỏi thăm tin tức từ người chị dâu. Khi qua bến phà thì bị mấy chàng Quân Cảnh chận lại, tôi đã xuống nước năn nỉ mà vẫn bị khước từ cho nên đành phải tự động xé rào đi qua, mặc cho mấy QC kêu trời và bây giờ đến lượt mấy ổng năn nỉ xin đừng để mấy "Ổng" thấy là chết tụi tôi, tới nước này thì ai thấy cũng chả là vấn đề gì quan trọng vì tin tức của gia đình quan trọng hơn, sorry nghe mấy chú.Sau khi biết gia đình đang trên đường di tản về Sài Gòn tôi cảm thấy an tâm hơn, tiện thể ghé quán Thiên Nga làm một ly Cà Phê với mấy đứa bạn đang chờ ở đó.
Vừa về tới đơn vị cũng là lúc có lệnh qua Bộ Chỉ Huy Sở Công Tác họp và nhận kế hoạch của Bộ Tổng Tham Mưu-Nha Kỹ Thuật về việc tái chiếm Huế. Hôm đó tất cả Sĩ Quan của các Đoàn 11,71,72 đều có mặt. Kế hoạch là các Toán của SCT sẽ có nhiệm vụ nhảy xuống những nơi còn phe ta cầm cự giúp họ đánh trở lại, gom những Quân Nhân của các đơn vị còn kẹt lại, tái trang bị và giúp họ có tinh thần để chiếm lại Cố Đô Huế.
Buổi họp được đặt dưới sự chủ tọa của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng SCT,Đ/Tá Ngô Xuân Nghị cho biết Bộ TTM sẽ yểm trợ, tiếp tế lương thực, vũ khí, đạn dược, phương tiện di chuyển đầy đủ vì trong cuộc họp có nhiều câu hỏi được đưa ra về những vấn đề đó. Sau lời kêu gọi của Đ/Tá CHT /SCT mọi người đều đồng lòng chấp nhận hy sinh để thi hành công tác, không một người từ chối, thật không hổ danh Lôi Hổ.
26/3
Đoàn Công Tác 72 đang có 3 Toán hoạt động tại khu vực Đồng Đen nơi có Liên Tỉnh Lộ 544 và 545 chạy từ dãy Trường Sơn về đến khu vực Quảng Nam - Đà Nẵng. Đoạn cuối của 2 Liên Tỉnh Lộ này đều nối với Xã Hòa Thanh - Quận Hòa Vang, cuối hai con lộ này có một Đại Đội Địa Phương Quân trấn giữ, 3 Toán của Đoàn 72 đang Công Tác Thám Sát con lộ 545 gần đèo Mũi Trâu.
Bộ Chỉ Huy Sở Công Tác cho biết tin tình báo từ Quân Đoàn 1 nhận được là Cộng Sản Bắc Việt sẽ một mặt trà trộn vào đám dân di tản theo Quốc Lộ 1 tiến vào, một mặt sẽ xử dụng LTL 545 để vận chuyển vũ khí, chiến xa, lương thực và chuyển quân theo con đường này để đánh Đà Nẵng.
Ba toán đang hoạt động trong vùng đã gần đến ngày triệt xuất. Chỉ còn một ngày nữa thôi ,tôi được Chỉ Huy Trưởng gọi lên, tưởng đâu sửa soạn ra Huế chứ giờ này gọi lên là biết sửa soạn đi thôi.
-Chú mày chuẩn bị nắm Toán vào thay cho mấy Toán ngày mai triệt xuất. Tụi nó đi học Dù, phá hoại cho nên thiếu người, đi giùm anh một chuyến, nếu có gì thì sẽ bốc ra ngay, 2 toán kia Th/Uý Quách Tố Long và Ch/Uý Nguyễn Trọng Vui sẽ dẫn đi.
-Chuyện nhỏ, đi đâu cũng đi hết, hồi nào tới giờ chưa biết từ chối mà? (mà từ chối sao được hổng đi chỗ này thì cũng phải đi chỗ khác thôi)
Ba toán được lệnh trang bị mìn chống chiến xa, mỗi em một quả để chặn đường tiến quân của CS Bắc Việt. Tôi còn ráng mang theo một dây lựu đạn Mini để lỡ có gì....thì chơi luôn, Lôi Hổ chết bỏ.
Cùng đi chuyến này còn có Th/Uý Thể và Tr/Sĩ Trọng sẽ nằm ở đỉnh Đồng Đen làm Relate cho 3 Toán. Chúng tôi đã chuẩn bị để sẵn sàng xâm nhập khi có phương tiện từ phía Không Quân. Trong lúc đó tình trạng của Đà Nẵng càng xáo trộn hơn vì lính tráng và dân chúng tràn ngập phố phường, đã có nghe những vụ cướp bóc xảy ra đây đó. Bên Sơn Trà cũng thấy nhộn nhịp hơn thường lệ , mọi người hối hả, xe cộ cũng tấp nập khác thường. Sở Công Tác cũng đã phổ biến lệnh di tản thân nhân và gia đình, được loan tải cho mọi quân nhân thuộc SCT và các Đoàn nội đêm hôm nay 26/3.
Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn Dù và Tiếp Liệu cũng đang lên tàu chuyến chót ở bên Non Nước. Sư Đoàn TQLC từ phía Huế, Quảng Trị đã rút về để thay thế cho Sư Đoàn Dù trám vào những trọng điểm trước đây do SĐ Dù trách nhiệm. Kế hoạch tái chiếm Huế dường như đã bãi bỏ vì không còn lực lượng nào kháng cự với CSBV. Quảng Trị, Quảng Tín cũng đã "di tản chiến thuật". Riêng trong đơn vị Đoàn Công Tác 72 thì vẫn bình thường, không thay đổi gì mấy ,mọi sinh hoạt vẫn như không có gì xảy ra, chỉ có 3 toán đang chờ đợi.... xâm nhập và 3 toán đang mong chờ....triệt xuất.
Dường như linh tính mách bảo tôi rằng lần này sẽ không bình thường như những lần trước. Trong lòng có chút bất an, với tâm trạng buồn buồn, lo lắng xen lẫn những suy nghĩ mông lung , tôi muốn dzọt về Đà Nẵng để coi tình hình ra sao? Và cũng phải báo cho chị dâu của tôi hay về việc di tản, gia đình chị cũng khá đông, khoảng hơn chục mạng chứ đâu có ít, mà làm sao bây giờ, đang chờ phương tiện để vô vùng mà???
Cũng may là hôm đó không có phương tiện vì họ phải giúp bên TQLC chuyển quân và tiếp tế cho các đơn vị bạn cho nên tôi cũng vù về Đà Nẵng để cho chị hay đặng sửa soạn mà đi. Khi gặp chị rồi mới biết là chị cùng các cháu có vào phi trường để kiếm phương tiện nhưng vì sợ phải chen chúc mà có hai đứa nhỏ thì khó mà lên được máy bay cho nên chị đã bỏ cuộc trở về nhà và chị nói rằng để mai chị vô lại phi trường kiếm phương tiện khác vì chồng chị là Không Quân (bị bắt ở chiến trường Hạ Lào năm 71) cho nên chị có nhiều cơ hội hơn, thôi vậy cũng được.
27/3
Cả 3 toán lại tiếp tục ứng chiến. Buổi sáng chầm chậm trôi qua, ngồi trong câu lạc bộ uống cà phê tán gẫu, tôi ngồi im lặng quan sát các bàn kế bên. Có tên đang kể chuyện mà kèm theo nhiều tiếng "Đan Mạch" liên tục làm tôi bật cười, hình như tay nào cũng vậy nói chuyện phải có tiếng đệm đi kèm mới rôm rả. Ngồi lâu cũng chán , tôi thả bộ qua Ban 3 chơi nhưng đi chưa tới đã nghe tiếng Trực Thăng xa xa giống như trong rừng mà (lúc) chờ nghe tiếng máy bay để triệt xuất vậy. Tôi đứng chờ thêm chút nữa để coi có phải là họ đến đón mình không? Đúng là hợp đoàn đến đón chúng tôi . Lúc nào cũng 5 chiếc nếu thả 3 toán, vì lần này thả chỗ tương đối an toàn cho nên không có L19 hướng dẫn. Họ đang lượn một vòng để đáp xuống bãi đáp của đơn vị nằm trên lưng chừng núi. Các toán cũng lục tục ra khỏi CLB về chỗ để "trang bị". Lần này thả điểm an toàn rồi lội bộ tới mục tiêu cho nên không cần thuyết trình như những lần thả xuống vùng có hỏa lực của địch. Xe chở chúng tôi lên sân bay của Đoàn , mỗi toán leo lên một chiếc như vẫn thường đi, hai chiếc còn lại là Gun Ship đi theo yểm trợ, tôi thầm nghĩ:
“Trong khi các đơn vị khác còn không có phương tiện di chuyển hoặc yểm trợ mà đơn vị mình lại có 5 chiếc để thả toán thì đâu có gì đáng ngại khi phải xâm nhập đang lúc dầu sôi lửa bỏng này?? Có gì thì họ cũng bốc mình ra ngay thôi.”
Giờ này cũng đã gần 12 giờ trưa, trời nắng nóng như thiêu như đốt, cái nóng của miền Trung thật khó chịu. Mỗi đứa còn phải vác một cái ba lô nặng chịch, cộng thêm một dây đeo lưng có 8 bình đông nước, đạn, lựu đạn, mìn chống chiến xa cộng cây súng nữa là khoảng 1/2 tạ, khiếp thiệt. Lúc leo lên máy bay rồi cũng vẫn phải đeo đầy đủ trên lưng, cho nên ngồi để chân ra ngoài là thoải mái nhất và cũng để nhảy xuống dễ dàng.
Từng chiếc bốc lên khỏi mặt đất rồi từ từ lao xuống phía biển trước mặt lấy trớn cất lên cao hơn cho đến một một độ cao nào đó mới "bình phi". Tiếng động cơ nhỏ hơn một chút , tiếng chém gió của cánh quạt cũng nhẹ hơn khi đã lấy đủ cao độ. Gió bên ngoài thổi mạnh , hai cái ống quần vỗ liên hồi vô chân làm cho hai chân hơi tê tê. "Hợp đoàn" đang bay về hướng Tây Bắc, phía dưói chỉ còn thấy biển xanh xanh và xa dần, bỏ lại thành phố cùng với những làng mạc dưới kia. Khi bay ngang qua Quốc Lộ 1 nhìn xuống vẫn thấy hàng xe từ phía đèo Hải Vân nối đuôi nhau hướng về Đà Nẵng.
Không nhớ lúc đó tôi đang nghĩ gì mà đến khi nhìn xuống thì đã thấy núi rừng phía dưói rồi. Mọi vật bên dưới giống như vẫn đứng yên một chỗ. Bầu trời quang đãng không một bóng mây. Thường thì mây che khuất đỉnh núi nhưng hôm nay thì đã thấy nó ở đằng xa , từ từ rõ dần, lớn dần. Tự nhiên trong lòng cảm thấy một nỗi buồn khó tả, cái buồn phải xa thành phố, xa cô hàng cà phê, không biết những ngày sắp đến sẽ ra sao?
Máy bay từ từ giảm tốc độ. Chiếc số 1 chuẩn bị đáp xuống. Toán tôi trên chiếc số 2 cho nên còn phải lượn thêm một vòng nữa mới đáp được vì trên đỉnh núi bãi đáp chỉ vừa cho một chiếc thôi. Các toán triệt xuất cũng phải chờ từng chiếc một để đổi tua. Chúng tôi chỉ kịp bắt tay các bạn của toán vừa leo lên chứ không nói gì với nhau được cả vì tiếng ồn của trực thăng và những thằng mới xuống thì bị ù tai cho nên có nói cũng như không. Khi cả 5 chiếc bay đi rồi tôi càng thấy buồn hơn. Cái im lặng của núi cao cùng với cái nóng càng làm tôi khó chịu, chỉ muốn tìm chỗ nghỉ ngơi cho mát mẻ một chút.
Ở trên đỉnh núi này có một Trung Đội thuộc Tiểu Đoàn 14 TQLC đang trấn giữ. Được biết Thiếu Úy Hương là Trung Đội trưởng cùng với 21 anh em khác đang đóng ở đây thay thế cho một Trung Đội thuộc Sư Đoàn Dù đã rút về phía Nam. Chúng tôi đã làm quen với nhau và được Th/Uý H. cho biết tình hình tại đây rất yên tĩnh. Có một lính của anh đã tự hủy hoại một bàn chân của mình, nhưng không được tản thương và đang bị "giam" trong cái chuồng làm bằng kẽm gai. Anh ta đã quay mặt đi, né tránh ánh nhìn của tôi về phía góc sân nắng chang chang-nơi anh bị giam giữ, tôi bỗng thấy thật chạnh lòng!
Chúng tôi đã trao đổi về tình hình chiến sự, về những đơn vị bạn đóng trong vùng này và điểm đóng "chốt" của trung đội. Cả 3 toán dự tính đêm nay sẽ xuất phát. Chúng tôi trở về hầm của toán Truyền Tin và báo cho Th/Uý Thể là các toán dự định tối nay sẽ lên đường.
Chiều xuống, mây đang từ từ kéo đến, không khí trở nên dịu mát hơn nhờ những cơn gió trên đỉnh núi cao này. Tiếng pháo của "Vua chiến trường" 175 ly từ phía ngoài cầu Nam Ô bắn vào phía trong nghe rõ mồn một. Tiếng nổ của nó vang dội cả núi rừng. Họ đang bắn vô phía Bắc của vị trí chúng tôi đang ở, có lẽ khu vực đường mòn dọc theo sông Cu Đê , tôi vì đã đi khu vực này mấy lần rồi nên tôi có thể định hướng được dễ dàng.
Trời bắt đầu tối dần. Bữa cơm chiều đã xong. Núi rừng xa xa mờ đi vì mây mù nhiều hơn, dưới chân núi chỉ còn một màu xanh đen. Chúng tôi đang ngồi im lặng. Toán của tôi và toán của Ch/Uý Vui đã chuẩn bị xong rồi, chờ cho toán của Th/Uý Long nữa là đi thôi. Tôi định đến chỗ Th/Uý H. để cho biết chúng tôi sẽ xuống núi ngay bây giờ, Th/Uý hãy cho chốt biết tụi tôi sẽ đi ngang để tránh ngộ nhận, nhưng Th/Uý H.cũng vừa đi tới phía tôi hỏi nhỏ rằng:
- Bên các anh có lệnh gì chưa?
Tôi hỏi:
- Lệnh gì?
- Thì lệnh rút ra ngoài .?.?
- Làm sao có chuyện đó cha nội?
- Bên tụi này có lệnh rồi đó.!.
- Để tui hỏi lại coi sao.?
Tôi đến gặp Th/Uý Thể để hỏi xem ở bên đơn vị mình có lệnh lạc gì không, sao bên bạn đã có lệnh rút mà mình chẳng nghe gì cả?? Sau khi liên lạc với Bộ Chỉ Huy Th/Uý Thể nói là tình hình không có gì nguy hiểm, lệnh của Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng là nhiệm vụ vẫn phải thi hành và 3 toán phải đi ngay trong đêm nay. Tôi và 2 toán Trưởng kia bàn với nhau là nếu thật sự họ có lệnh rút thì tại sao mình phải đi? Chẳng lẽ mình đi rồi bỏ lại hai ông "rờ le"ở lại đây một mình? Thôi thì mình nằm lại đêm nay để sáng mai xem tình hình như thế nào rồi sẽ tính.
Đêm đó, tôi và các bạn không ngủ được thẳng giấc, vì từ trong phía đèo Mũi Trâu chạy ngược về dãy Trường Sơn, chúng tôi thấy nhiều ánh đèn xe ẩn hiện càng lúc càng nhiều thêm. Có lẽ chúng nó đang chuyển quân về phía mình. Chúng tôi lại liên lạc với BCH Đoàn và cũng như lần trước câu trả lời là phải đi để ngăn chặn tụi nó. Trời ơi! Bộ giỡn sao chớ? Nó đi xe còn mình lội bộ làm sao mà kịp, ban ngày còn đi không kịp nói gì ban đêm hả mấy ông Thần?!?!?! Những ánh đèn vẫn thấp thoáng xa xa rồi lại khuất sau những ngọn núi, và cứ liên tục suốt đêm như thế. Thôi thì đành chờ sáng chớ biết sao bây giờ!!?
28/3
Sương đêm ướt lạnh, chúng tôi ngồi bàn chuyện phải làm gì nếu TQLC rút. Mọi người đều đồng ý là nếu họ rút thì mình cũng phải lui binh chứ không thể nào làm nhiệm vụ được. Nhâm nhi ly cà phê buổi sáng mà chẳng ngon lành chút nào. Mình cũng lo là nếu cãi lệnh thì sẽ bị phạt, còn nếu tuân lệnh thì chắc chắn mất xác. Chọn đi các con, dĩ nhiên là thà bị phạt chứ chẳng dại gì mà đem thân làm vật tế thần. Bây giờ chờ sáng rồi tính sau.
Trời đã sáng rồi, cái chốt của quân bạn dưới chân núi đã leo lên tới đỉnh. Chắc chắn họ có lệnh rút thiệt rồi. Còn mình thì sao? Đã tới giờ liên lạc mà chẳng nghe ai nói năng gì cả, thế là thế nào?? Có gì thì cũng cho tụi này biết để mà lo liệu chớ? Ngồi chờ tiếp!!!! Phe bạn đã đi gài lựu đạn chung quanh hàng rào phòng thủ. Họ dở lều và chuẩn bị quân trang cá nhân sẵn sàng triệt thoái, có lẽ cơm nước xong là họ sẽ cuốn gói. Thời gian trôi qua nặng nề ,nắng bắt đầu nóng lên mặc dù bao quanh lưng chừng núi là một lớp mây trắng xóa không thấy phía dưới, giống như mình đang ở trên cảnh tiên vậy. Vẫn không có lệnh lạc tin tức gì từ BCH, chán thiệt!
Trung Đội TQLC sau khi cơm nước xong thì cũng đã trưa rồi, Th/U H.đến từ giã và hỏi tụi tôi rằng:
-Mấy anh tính sao, tụi này dzọt trước nghe. Nếu cùng đi thì sẽ có xe đón ở ngoài đồn Địa Phương Quân. Họ sẽ chờ đến 4 giờ sáng. Từ đây ra đó cũng khá xa cho nên nếu mình đi giờ này thì sẽ dư thời gian một chút. Nếu mình đi ra trễ thì không còn phương tiện để về Đà Nẵng đâu ,tùy mấy anh thôi.
Tôi nói:
-Nếu mấy anh muốn đi trước thì cứ đi. Tụi này còn chờ lệnh của đơn vị nữa, lỡ có gì thì phiền lắm. Thôi, các bạn đi đi, tụi này ở lại.
Họ đi rồi cả bọn mới thấy buồn. Có một số anh em cằn nhằn là tại sao họ đi ra mà mình còn ở đây làm gì chứ? Thật là khó xử! Thôi cứ chờ xem sao.
Chờ hoài mà không thấy động tịnh gì hết, Th/U Thể có báo cho đơn vị biết tình hình là như vậy đó nhưng nghe trả lời là: “Kệ họ, các anh cứ ở đó chờ lệnh”. Tôi cũng đinh ninh là nếu có biến chuyển ở đơn vị thì thế nào cũng có Trực Thăng vào bốc ra ngay thôi. Đà Nẵng còn biết bao nhiêu Lính của các đơn vị làm sao mà mất dễ dàng như vậy được?
Chiều xuống, lôi gạo sấy ra làm tiếp một bụng nhưng trong lòng cứ lo lo, không hiểu tại sao cho đến giờ này không nghe nói năng gì hết, điệu này chắc mình phải tự lo thôi. Quả thật chẳng sai, Th/U Thể chạy ra mặt mày nhăn như khỉ ăn ớt:
-Mất liên lạc rồi chúng mày ơi, làm sao bây giờ?
-Thì còn chờ gì nữa mà không dzọt cho lẹ nếu còn muốn thấy mặt vợ con- cả đám nhao nhao lên.
-Mầy thấy chưa , đ.má mày, tao đã đoán trước là thế nào cũng bị bỏ lại mà hồi nãy mày còn cãi tao..!!
-Đ.m. tại lúc đó còn liên lạc được thì tao nghĩ là nếu thả được thì bốc cũng đâu có gì là khó đâu?
-Thôi đi đi mấy ông, còn ở đó mà cãi lộn, xuống tới dưới kia cho tụi bay cãi tiếp.-Ch/U Vui lầu bầu
Phải đi ngay, trời đã chạng vạng tối rồi làm sao ra tới ngoài kia trước 4 giờ sáng mới kịp xe phe bạn đang chờ. Chúng tôi thu dọn thật nhanh và cuốn gói đi liền, không biết có kịp không?
Từ trên đỉnh đổ xuống cũng khá nhanh. Tay nào dẫn đường thật không hổ danh Lôi Hổ, chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ mà đã bắt kịp quân bạn ở giữa đường. Có lẽ họ bị mất phương hướng cho nên không đi nhanh bằng mình. Thôi thì đi theo tụi tôi, bảo đảm không ra đúng giờ không lấy tiền mà...Phe bạn tỏ vẻ thán phục cái khả năng lội rừng của phe ta hết mình, vì trước khi họ đi thì chúng tôi có cho tần số liên lạc của nhau. Đến khi chúng tôi rời Đồng Đen cũng đã báo cho họ hay rằng đã bắt đầu đi xuống. Lúc đó là khoảng 6 giờ chiều mà cho đến lúc bắt kịp thì chỉ mới hơn 9 giờ thôi.
Lúc nãy dọc đường có gặp anh bạn "đau chân" được 2 đồng đội dìu đi. Tụi này cũng mang nặng quá cho nên không giúp gì được. Thôi ráng đi theo sau vậy. Tụi tôi chỉ cách tìm đường mà đi để khỏi bị lạc bằng những dấu vết tụi tôi để lại trên đường. Với số người đông như vậy thì đi sau sẽ thấy giống như đường mòn, cứ thế mà đi.
Lúc này đã gần nữa đêm rồi, bọn VC đã bắt đầu pháo liên tục từ hướng mục tiêu của chúng tôi định tới để đặt mìn. Chúng nó đang bắn về phía Đà Nẵng. Không biết chỗ nào bị trúng đạn pháo mà thấy cháy sáng cả một vùng, hướng đó thì có lẽ là Phi Trường?
Từ hồi "nhổ neo" khoảng chừng hơn 1/2 tiếng, chúng tôi có nghe tiếng trực thăng bay ở phía ngoài Xã Hòa Thanh. Nó cứ bay vòng vòng lâu lắm rồi lại bay đi đâu không rõ. Sau đó lại nghe tiếng của nó cũng lòng vòng một lúc rồi lại bay đi. Rồi bây giờ nó lại xuất hiện ở phía ngoài cách chúng tôi khá xa. Lúc này hình như bên Đà Nẵng cũng bị cháy ở đâu đó. Chúng tôi cũng đã ra gần khỏi khu rừng, có lẽ khoảng 1 tiếng nữa thôi là tới bìa rừng. Trời đêm nay có trăng nhưng cứ bị mây che khuất, thỉnh thoảng cũng sáng được một lát rồi lại tối, cho nên đi ra ngoài cũng không khó lắm.
Cuối cùng rồi cũng ra khỏi khu rừng, bây giờ đã là gần 2 giờ sáng rồi. Chiếc trực thăng hồi nãy cũng đã đi đâu mất. Cứ nghe tiếng nó bay phành phạch là trong lòng cảm thấy nôn nao. Không khí bây giờ thật là buồn và vắng lặng, mây đã ở lại sau lưng chúng tôi để nhường chỗ cho vầng trăng sáng trên bầu trời đêm nay, chúng tôi ngồi nghỉ lấy sức, tôi ngồi bên cạnh Ch/U Vui:
-Hồi nãy mày có nghe tiếng Trục Thăng không? Vui hỏi nhỏ nhỏ
-Có chứ sao không- Tôi trả lời.
-Anh tao chờ bọn mình ra từ chiều tới lúc nãy luôn mà mình ra không kịp, ảnh cũng không còn xăng để bay cho nên đã đi đâu rồi không biết? (Anh của Vui là Hoa Tiêu thuộc Phi Đoàn 233)
-Sao mầy không nói tao nghe? Tôi hỏi.
-Nói làm gì? Vui trả lời.
-Sao mầy biết là anh của mầy bay chiếc đó? Tôi thắc mắc?
-Tao liên lạc với ổng chứ sao...Trước khi tao đi, ảnh có cho tao số riêng để khi cần thiết thì kêu.
-Bây giờ ổng đi đâu rồi? Tôi hỏi.
-Ổng nói đi kiếm xăng mà phi trường cháy mẹ nó rồi làm sao có xăng mà đổ. Nãy tao có gọi mà không nghe trả lời, không biết có chuyện gì không? Tao cũng đang lo đây.!.!
-Hèn chi, cứ thấy nó bay lòng vòng hoài mà tao đâu có biết.!!!
-Đừng cho ai biết chuyện này, chừng nào tao liên lạc được rồi hẵn hay.
-Ừ, ngu sao nói???
Hai thằng cùng cười tủm tỉm.
Ra được đến ngoài này tự nhiên thấy khỏe re. Chẳng còn bao lâu nữa là ra đến đồn Địa Phương Quân rồi. Ngoài đó có xe của TQLC chờ sẵn cho nên mọi ngưòi đều cảm thấy thoải mái ngồi nghỉ, uống nước, phì phèo thuốc lá, nói chuyện hoặc ngả lưng một chút cho đỡ mệt.
Chúng tôi ngồi nghỉ được khoảng 15, 20 phút gì đó thì Th/U H. bên bạn đề nghị là TQLC sẽ đi trước, Lôi Hổ sẽ đi sau, vì đến đây là khu rừng chồi cho nên đi cũng dễ dàng. Vả lại Lôi Hổ đi quá nhanh thành ra đi sau cũng được. Trời sáng trăng nên cũng dễ thấy đường đi không có gì đáng ngại cả, chúng tôi nói:"các bạn đi trước đi, một lát nữa chúng tôi sẽ đi sau.”
Một lúc không lâu sau đó, bỗng nhiên cả bọn chúng tôi bật cả dậy vì một tiếng nổ dữ dội ở phía trước, là hướng của TQLC đang di chuyển. Mọi người ngơ ngác vì không biết chuyện gì xảy ra: bị phục kích? Mìn hay lựu đạn?..Không nghe một tiếng súng nào có nghĩa là mìn hay lựu đạn gì đó chứ không phải bị phục kích. Chúng tôi đang định chạy về hướng đó thì Truyền Tin cho biết là họ có gọi cho hay là bị nổ lựu đạn và họ nhờ mình lên để giúp cho một người bị thương nặng được "siêu thoát" . Vì có lẽ không cứu được, cả bọn chúng tôi cảm thấy khó chịu vì (về) lời đề nghị đó, đâu có ai mà làm như vậy được? Chúng tôi cùng tiến lên phía quân bạn đang gặp nạn. Và thay vì làm theo lời yêu cầu thì chúng tôi lại kêu 3 người cứu thương của 3 toán băng bó, chích thuốc cầm máu cho anh bạn bị thương. Sau đó mọi người chuẩn bị để đi tiếp, phía bạn lại xin đi trước, chúng tôi đồng ý. Họ tiếp tục đi bỏ lại người bạn bị thương. Chúng tôi có dự định sẽ dìu anh bạn này đi nhưng anh ta từ chối, anh ta nói :"Tôi không muốn làm phiền các anh, các anh cứ đi đi".
Khi chúng tôi bắt đầu lên đường được một quãng không xa thì nghe một tràng súng M16 nổ vang ở phía sau. Một vài người vội chạy ngược trở lại thì thấy anh bạn ấy đã tự sát. Tội nghiệp quá! Mọi ngưòi buồn bã tiếp tục đi vì thời gian cũng gấp rút lắm rồi.
Tôi cảm thấy hơi mệt và buồn ngủ quá, ráng chút nữa hy vọng mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Tôi đang nghĩ đến cảnh về tới Đà Nẵng làm một tô bún bò ở Ngã Năm rồi chạy về Thiên Nga làm một ly cà phê sữa đá, se một điếu rồi tới đâu thì tới. Nhưng trong lúc đang mơ mộng thì lại một tiếng nổ nữa cũng là tiếng của lựu đạn ở đằng trước làm cho bún bò, cà phê, thuốc lá bay mất mẹ nó hết trơn, đ.. mẹ , ở đâu mà lựu đạn nhiều dzậy cà?
-Ê, Vui , coi lại coi chỗ nầy là chỗ nào mà nổ lung tung dzậy ?
-Hình như chỗ này có một Tr/Đội TQLC đóng ở đây mà? Vui trả lời- có lẽ lúc họ rút lui họ quên gỡ lựu đạn hay là cố tình gài để chặn đường cũng không chừng?
Tôi nói:
-Nếu vậy thì mình phải đổi hướng ngay lập tức ,trở ngược lại, bẻ 90 độ, nếu không mình sẽ còn bị dài dài, xuống đường 544 rồi đi ra theo đường lộ.
Tôi còn đang nói thì lại một tràng M16 nổ dòn tan. Đằng trước nhốn nháo, có mấy anh bạn chạy ngược trở lại cho biết là lần này Th/U H. bị thương cùng với 2 người nữa, 1 người đã tự sát. Tụi tôi lại phải tới giúp băng bó và lần này dìu cả 2 đi theo luôn. Vì 2 người này bị thương không nặng lắm; Th/U H. bị thương đầu và tay, anh bạn mang máy thì bị thương ở trán, máu chảy khá nhiều cho nên phải băng kín cả mắt không thấy đường đi.
29/3
Chúng tôi kiểm lại quân số 2 bên: phe ta còn đủ 20, phe bạn chỉ còn 17 (3 người đi phía sau,2 người tự sát) và bắt đầu đi ngược lại chỗ dừng chân hồi nãy rồi mới "chặt góc" trái hướng về Liên Tỉnh Lộ 544 mà đi. Đường đi hơi khó khăn hơn lúc nãy. Tuy là rừng chồi nhưng gai góc hơi nhiều làm cho tốc độ chậm hẵn lại, vì vậy chuyện ra được phía ngoài chắc cũng hơi lâu và chẳng biết xe phía bạn có chờ hay không?
Mãi đến hơn 7 giờ sáng mới mò xuống tới con đường 544. Nói là Liên Tỉnh Lộ chứ có ai xử dụng đâu, nó chỉ là con đường đất như ở thôn quê vậy thôi. Trước khi ra đường chúng tôi cũng quan sát hết chung quanh. Bên kia đường là ruộng lúa ,phía bên phải thì ruộng chạy thẳng đến bìa rừng cũng khá xa ,thẳng trước mặt bên kia ruộng là Xã Hòa Thanh, bên trái là đường dọc theo chân đồi dẫn ra ngoài đồn Địa Phương Quân. Giờ này xe của TQLC đã đi mất lâu rồi, tuy nhiên ra được đến chỗ này thì cũng cảm thấy không còn mỏi mệt nữ. Cảnh đồng quê thật yên tĩnh. Chúng tôi cẩn thận đi trên đường một cách chậm rãi, chỉ nghe tiếng chim kêu ngoài ra không thấy bóng dáng một người nào cả. Cả bọn yên trí là ra được tới đồn Đ.P.Q là an toàn, lúc đó sẽ tìm cách để về Đà Nẵng.
Vì mất liên lạc cho nên chúng tôi không biết tình hình bên ngoài như thế nào, cả bên TQLC cũng vậy. Chiếc GMC dự định đón Tr/Đội bạn và phe ta cũng bỏ đi lúc nào không thông báo gì hết. Mặc dù đường đi vắng vẻ nhưng chúng tôi cũng cảnh giác đề phòng mọi tình huống có thể xảy ra như mìn bẫy hoặc lựu đạn gài 2 bên đường cũng không ngoại trừ, lạ một điều là không thấy một bóng người nào đi làm ruộng cả. Mọi người thầm lặng bước đi, không đùa giỡn như mọi khi. Hình như ai cũng biết có chuyện gì đó không bình thường cho nên cứ lầm lũi mà đi.
Chỉ còn một quãng đường ngắn nữa thôi là tới đồn ĐPQ rồi. Tôi đang dẫn toán đi trước, bỗng nhiên anh chàng Tiền Đạo đứng lại ra hiệu cho mọi người dừng bước. Hắn chỉ lên phía đồn ĐPQ, mọi người nhìn theo và tất cả đều chưng hửng vì trên đó có lá cờ của bọn Mặt Trận Phỏng Giái treo lên từ lúc nào rồi. Thế là hết, mọi hi vọng đều tiêu tan. Tôi đứng như trời trồng nhìn lên rồi lại nhìn chung quanh, những gương mặt đầy thất vọng chảy dài ra. Mãi một lúc sau mới có đứa lên tiếng an ủi:
-Có lẽ tụi du kích nó thấy đồn bỏ trống cho nên nó lên nó ở chơi thôi, có gì đâu mà lo.
Lúc đó mọi người mới như chợt tỉnh lại, nói chuyện, bàn tán xôn xao, có đứa hỏi:
-Bây giờ mình làm gì đây? Đi đâu? Đi ra hay là đi dzô rừng lại?
Chúng tôi còn đang phân vân chưa biết phải tính làm gì, thì bỗng có tiếng loa từ ngoài đầu đường dưói chân đồn chĩa vào phía chúng tôi đang đứng:
-Những tên lính TQLC hãy ra đầu hàng với chính quyền Cách Mạng sẽ được khoan hồng, nếu ngoan cố chống lại sẽ bị tiêu diệt.
Thì ra là nãy giờ tụi tôi đứng đây là chúng nó đã thấy và chúng nó chỉ biết có TQLC mà thôi vì chúng biết Tiểu Đoàn 14 TQLC đóng ở vùng này rất nhiều, còn Biệt Kích thì chúng không biết có mặt ở đây. Chúng tôi thấy tụi nó dàn hàng ngang "dàn chào" anh em chúng tôi, cũng khá đông .
-Bà mẹ tụi bây ông đêch.. đầu hàng, đừng hòng dụ tụi tao..Tôi nói.
-Có ai muốn ra đầu hàng thì cứ ra, tụi này sẽ vô rừng lại.
Các bạn TQLC nói:
-Tụi tôi cũng theo mấy anh luôn.
Tôi, Long, Vui và Thể bàn với nhau sẽ dàn quân ra. TQLC đứng hàng sau, mình ngồi hàng trước, họ sẽ bắn trước rồi chạy, mình sẽ đi sau TQLC, cho họ chạy trước, tôi nói:
-Như vậy thì chúng ta dàn hàng ngang, các bạn TQLC bắn trước rồi chạy, sau đó chúng tôi cũng sẽ bắn và chạy sau, O.K?
Và chúng tôi đã làm như vậy. Bọn VC không ngờ chúng tôi chống cự mãnh liệt cho nên đến khi chúng tôi chạy rồi chúng nó mới bắt đầu bắn theo. Tụi tôi cứ tưởng rằng chỉ có đám du kích thôi, chứ đâu ngờ tụi nó đông quá, hỏa lực chúng nó cũng mạnh, có cả súng cối, chúng nó nhả đạn như mưa. Hầu hết mọi người đều chạy dưới ruộng và tản ra, chạy theo hình chữ chi. Tôi thấy bên trái rồi bên phải rồi phía trước có người trúng đạn, ngã xuống, có người đứng lên chạy tiếp và tất cả đều hướng về phía bìa rừng cuối ruộng lúa, vì nếu chạy ngược lên núi thì rất khó khăn và khó thoát. Hình như tôi là người chạy cuối cùng và quả thật tôi là người chạy sau cùng. Mọi người đã bỏ xa tôi, ngó lại phía sau chỉ thấy VC đang rượt theo. Có lẽ tại tôi chưa bỏ một cái gì xuống hết vì cũng sợ đói, khát, thành ra nặng quá. Chúng nó đang rượt đuổi ráo riết, chúng nó chạy trên đường lộ, có mấy thằng cũng chạy xuống ruộng nhưng rồi lại chạy lên đường. Tôi chạy vô sâu trong ruộng, chẳng còn thấy ai chung quanh tôi nữa.
Chắc phen này không thoát nổi rồi, chúng nó vẫn bắn theo tôi, chỉ có trời cứu may ra mới thoát. Gần tới bìa rừng rồi, cố lê-,tôi thầm nhủ.
Tôi chạy lọt xuống một vũng lầy hồi nào không biết, tôi cố bơi mà không tài nào trườn tới được. Nhìn qua bên cạnh khoảng 20 thước tôi thấy 2 đứa trong toán tôi cũng đang bơi như vậy, đó là Chánh và Hậu đều mới về Đoàn không lâu. Trước mặt tôi là một cái đồi thấp, gọi là cái gò thì đúng hơn, có 2 bạn TQLC đang bắn yểm trợ cho tôi lên nhưng không tài nào lết lên được, tôi nghe tiếng Chánh nói với tôi là:
-Thằng Hậu nó nói nó sẽ bỏ máy Truyền Tin có được không?
Tôi nói:
-Có cái máy mà bỏ thì làm sao mà liên lạc với nhau đây cha?
Chừng một lát sau tôi nghe Chánh nói :
-Thằng Hậu nó tự sát rồi anh Ngọc ơi!!
Có lẽ vì nhiều tiếng nổ chung quanh cho nên tôi không biết tiếng nào là tiếng của lựu đạn, tiếng nào là tiếng của súng cối cả, Chánh nói Hậu xin nó trái lựu đạn rồi cho nổ luôn.
Tôi điếng cả người muốn buông xuôi hết tất cả nhưng từ trên gò 2 bạn TQLC hối tôi :
-Nãy giờ tụi tôi bắn gần hết đạn mà ông chưa chịu lên nữa, lẹ lên!
Tôi thật cảm động vì họ chịu trận từ nãy đến giờ. Đến lúc này tôi phải bỏ ba lô, dây nước, chỉ mang theo 2 bình nước, dây lựu đạn và cây súng mà thôi; đồng thời tháo luôn đôi giày đang mắc kẹt dưới sình mới leo lên trên bờ. Khi tôi ngó lại thì không thấy Chánh đâu, chắc nó đã lên trước rồi.
Còn đang mệt đứt hơi mà tự nhiên nghe ai kêu tên mình. Tôi ráng bò lên lưng chừng đồi nơi có tiếng gọi trong một bụi cây nhỏ thì gặp Vui, nó bị thương ở cánh tay, máu chảy ra nhiều, tôi không có băng để băng cho nó cho nên tôi lấy cái khăn tam giác cột đỡ, tôi nói:
-Bây giờ mình phải đi khỏi chỗ này liền, mấy đứa TQLC chờ tao nãy giờ lâu lắm rồi, tao sẽ dìu mày đi.
-Không-Vui trả lời- mày đi đi, đưa tao mấy trái Mini, tao nằm đây chờ tụi nó tới tao cưa với tụi nó luôn.
Tôi nói:
-Hôm qua mấy đứa kia bị thương mình còn dẫn tụi nó đi mà, mày ráng đi với tao , còn chút xíu nữa là vô rừng rồi.
Vui cương quyết:
-Không, tao chẳng muốn làm phiền ai hết, mày cứ đi đi, mặc kệ tao.
Tôi biết tánh nó lì lợm và thẳng tánh, nói là làm. Tôi đưa cho nó một bình nước, nó uống một miếng rồi đưa lại cho tôi, nó bảo :
-Đưa mấy trái lựu đạn cho tao ,tao nằm lại đây, mày đi đi.
Tôi biết không thể thay đổi được tình thế cho nên tôi đành phải bò lên với hai bạn vẫn còn đang bắn yểm trợ. Một trái đạn cối rớt gần chỗ tụi tôi đang nằm, tôi vội chạy thẳng người lên phía trên nhập với 2 tay súng đang cầm cự.
Tôi đưa cho hai bạn bình nước, họ chia nhau uống. Tôi cũng khát quá, uống một miếng rồi dẫn 2 anh bạn lẫn vô rừng. Trên đường đi tôi nói cám ơn 2 bạn đã giúp tôi nãy giờ, họ nói:
-Tụi tôi phải cám ơn mấy anh mới đúng chớ, các anh đã dẫn tụi tôi ra, cứu những người bị thương bên tôi, bắn cho tụi này chạy trước thì tụi tôi phải lo lại cho anh thôi chứ có gì đâu. Thú thật với anh tôi thấy các anh gan lì và hiên ngang quá cho nên tôi rất nể phục mấy anh, bây giờ anh dẫn đi đâu tụi tôi theo đó.
Nghe anh bạn nói làm tôi cũng cảm thấy vui và hãnh diện. Có lẽ lúc đó cái mũi tôi phồng hơi to, tôi nói:
-Chuyện thường thôi mà.
Tôi dẫn 2 người bạn vượt qua mấy ngọn đồi. Tôi nghĩ đi càng xa càng tốt cứ đi chừng nào mệt thì nghỉ và tôi chọn một ngọn đồi khá cao có thể nhìn ra ngoài được để quan sát. Không thấy tên nào trên đường, không biết tụi nó có núp ở đâu không? Ngoài xa kia chỗ tụi VC chận đường hồi sáng không thấy rõ lắm cho nên tôi cũng yên tâm. Nhưng chưa kịp thoải mái thì chúng tôi thấy mấy chiếc xe Tăng đang chạy vô đường 544 tôi nói:” bỏ mẹ rồi”, nếu nó chạy vô đây thì nguy to. Nhưng không, nó đã dừng lại và nó bắt đầu bắn loạn xạ vào phía rừng chỗ sáng nay tụi tôi dừng lại và dọc theo con đường chỗ có khúc quanh. Nó cũng rê súng qua phía tụi tôi bắn mấy loạt đạn đại liên dọa dẫm. Trên đường chỗ ngã 3, tôi thấy xuất hiện nhiều xe Tăng hơn cùng với các loại xe khác nữa đang di chuyển ra ngoài xã Hòa Thanh. Cũng còn hên đấy, nếu hồi sáng mà tụi nó vô sớm hơn chắc là tụi này khó thoát.
Cho đến lúc này tôi vẫn đinh ninh là Đà Nẵng chưa mất cho nên tôi cứ suy nghĩ làm cách nào để về được ĐN đây? Xe Tăng mà vô đến đây nhiều như thế thì ĐN không tránh khỏi số phận như Huế. Ngoài ĐN còn biết bao nhiêu lính có lẽ cũng cầm cự được một thời gian chứ đâu có dễ dàng buông súng chạy hay đầu hàng đâu nhỉ???
Mấy chiếc xe Tăng vẫn nằm đó không bắn nữa. Tụi ngoài đường cũng ngưng tiếng súng nhưng lâu lâu lại có một trái đạn cối bắn bừa bãi vì chúng đâu còn thấy tụi này nữa đâu.?
Ngồi nghỉ ngơi quan sát động tĩnh phía ngoài và chung quanh cũng khá lâu, tuy không thấy tụi nó đi lùng nhưng tôi vẫn cứ dẫn 2 anh bạn đi sâu vô thêm cho chắc ăn . Và cứ thế mà đi theo những đường thông thủy cho đến chiều tối mới dừng lại uống một chút nước rồi lại tiếp tục đi mò mẩm trong đêm tối. Chỗ này lau sậy nhiều cho nên tôi thận trọng đi thật chậm để khỏi gây tiếng động, cứ theo suối cạn lần mò đi tiếp. Tôi đi được chừng hơn 100 thước thì tôi nghe có tiếng động phía trước, ba đứa tôi dừng lại nghe ngóng và tay tôi để sẵn trong cò súng, hễ có gì là phơ liền lập tức. Nhưng bỗng nhiên tôi nghe tiếng chửi thề đ.má nho nhỏ làm tôi thở phào nhẹ nhỏm. Đúng là phe ta chứ chẳng ai vào đây hết. Tôi mò tới gần hơn chỗ phát ra tiếng chửi thề rồi lên tiếng hỏi nhỏ:
-Ngọc Lôi Hổ đây, có phải phe ta không?
Tôi nghe tiếng Q.T .Long trả lời:
-Đúng , phe ta,tụi bây mấy đứa?
-Ba đứa, tui với 2 TQLC nữa.
-Vậy thì dzô đây nhập bọn cho dzui.
-Đ.mẹ chửi thề lung tung bộ hỏng sợ VC nghe hả cha nội?
-Sợ đé.. gì mà sợ?
Tổng cộng được 16 em dại, 9 Biệt Kích + 7 TQLC . Vậy cũng yên tâm và đỡ cô đơn hơn hồi nãy, tưởng đâu chỉ có 3 đứa tôi thôi chứ. Th/U H. cũng có mặt, như vậy là thiếu Ng.Trọng Vui và Th/U Thể, không biết nó có còn không hay đã cưa với tụi kia rồi? Nghĩ tới nó mà mình cảm thấy bứt rứt, thêm thằng Hậu nữa, có gì đâu mà phải làm như vậy??? Toán tôi còn lại Tr/S Đức răng vàng và Tr/S Chánh còn mấy người nữa tôi không nhớ hết.
Chúng tôi ngồi lại bàn với nhau để tìm cách thoát ra khỏi khu vực này. Vì tụi VC biết chúng tôi đang lẩn trốn trong rừng và chưa thể đi xa hơn. Nếu đi đường rừng thì phải mất nhiều thời gian mới về được ĐN, với lại nhiều đứa đã phải bỏ giày làm sao mà lội rừng được. Cho nên chỉ còn một cách là lội ngược trở ra đi trong ruộng lúa, làm sao mà qua được bãi biển gần Nam Ô thì mới có cơ hội đi bằng ghe thuyền để về đơn vị. Giờ này trời cũng chưa có trăng rất thuận tiện để lội ra ngoài, tránh làng xã đi ra Quốc Lộ 1 rồi xuống biển. Tuy rất nguy hiểm nhưng phải liều thôi, không có chọn lựa nào khác.
Bàn xong là chúng tôi đi liền. Trời tối cho nên không lo tụi nó thấy. Chúng tôi đi thật nhanh vì nếu trăng lên thì chết chắc. Ra đựơc khỏi rừng cũng mất hết hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới ruộng, rồi lom khom mà đi trong đêm tối. Khi đó, chúng tôi đã gặp phải một khó khăn mới đó là xe Tăng và các loại xe đang chạy trên đường chắn ngang đằng trước mặt- con đường mà sáng nay VC chận tụi tôi. Tuy còn khá xa nhưng ánh đèn của những chiếc xe cũng làm chậm lại sự di chuyển của chúng tôi. Cũng còn khá may cho chúng tôi là tụi nó từ đường 545 đi ra. Mà con đường đó khuất bên kia đồi có đồn Đ.P.Q, tức là song song với hướng chúng tôi đi ra và nó phải quẹo 90 độ mới đi ngang trước mặt. Vì thế, chúng tôi dặn nhau là khi tới gần đường thì phải nằm sát xuống. Khi thấy đèn dọi thẳng thì từng người chạy qua, dọi ngang thì nằm xuống, qua được bên kia thì tất cả phải nằm chờ cho đủ rồi mới đi tiếp.
Nửa tiếng sau mọi người đều qua được phía bên kia. Tuy rằng chỉ có ½ tiếng đồng hồ thôi nhưng sao mà nó dài như vô tận. Xe chạy liên tục, những ánh đèn nối đuôi nhau lướt qua trên đường. Hồi hộp và nín thở, chúng tôi đếm đủ 16 rồi mới tiếp tục đi hơi xéo xéo để tránh cái xã Hòa Hiệp, cũng lội ruộng hơn 1 cây số nữa mới tới một khu nghĩa địa. Từ đây, chúng tôi phải đi cẩn thận hơn vì mặt trăng đã bắt đầu ló dạng.
30/3
Bây giờ đã qua ngày 30/3 rồi, tôi cảm thấy đói bụng vì từ sáng hôm qua cho tời giờ chẳng có cái gì bỏ bụng cả, mà còn phải chạy suốt buổi nữa, nước cũng còn được một chút thôi thì uống nước đỡ vậy. Cả đám lầm lũi bước đi. Dù không ai nói ra, nhưng tôi biết ai cũng mệt và đói cả rồi. Chân thì đau rát vì những vết trầy xước, nếu đi trong ruộng nước thì đỡ đau hơn, giờ bắt đầu đi trên đất đá đầy những bụi gai tôi mới thấy tiếc đôi giày. Tôi nghĩ thầm: "Như vậy là cũng may lắm rồi, nếu không tháo đôi giày thì làm sao ra khỏi vũng sình được. Kệ nó, tới đâu hay tới đó!"
Chúng tôi đi vào một khu Nghĩa Trang, hình như không có ai chăm sóc cho nên cây cỏ mọc tràn lan trên đất cát và cả trên những ngôi mộ xi măng nữa. Đi trong này dù sao cũng đỡ hơn ngoài kia vì mình có thể ẩn núp được, hơn nữa ở đây cát nhiều cho nên đỡ đau chân hơn. Đang đi bỗng tôi vấp phải một vật gì tròn, lớn, hơi lạnh lạnh. Tôi cúi xuống rờ thử thì biết đó là một trái dưa hấu, thật đúng là đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh. Cả đám ngừng lại ngồi thưởng thức, dù không thấm vào đâu nhưng cũng đủ ấm lòng Chiến Sĩ....đang đói .
Chúng tôi lại tiếp tục đi về hướng Quốc Lộ 1. Sau khi đã nghỉ chân lấy sức, chắc không còn bao xa nữa là có thể băng qua đó để xuống bờ biển. Từ lúc bắt đầu đi ra khỏi chỗ ẩn núp đến giờ thật là may mắn vì không gặp một trở ngại nào đáng kể, mọi chuyện êm xuôi như dự tính. Khi đã ra khỏi Nghĩa Trang để tới một khu đất trống, nơi trước đây là một Phi Trường Dã Chiến của quân đội Đồng Minh sử dụng, giờ đã bỏ hoang, tôi thấy chỉ còn lại cái Phi Đạo hư hỏng và một cái hố rác mục, phía trên được che bởi tảng đường nhựa còn sót lại mà thôi. Lúc này trăng sáng hơn cho nên chúng tôi đi dễ dàng hơn trước nhiều, cũng không quên quan sát mọi phía. Băng qua cái phi trường là đến một cái voi (doi) nước, bên kia voi (doi) nước lại thêm một cái Nghĩa Trang nữa rồi mới tới Quốc Lộ 1. Cả bọn ngồi nghỉ mệt, trong lúc đó Th/U Long và tôi cùng một vài toán viên nữa đi thẳng xuống voi (doi) nước để quan sát tìm cách qua bên kia bờ. Nhưng khi đến nơi mới thấy không dễ dàng vượt qua. Nước thì đen ngòm và sâu hoắm. Tuy rằng trong bản đồ chỉ thấy nhỏ xíu, nhưng ở ngoài thì nó rộng và dài hơn mình nghĩ. Nếu đi đường vòng thì sợ gặp nhà dân chúng, có thể bị lộ. Thôi thì ở lại chờ trời sáng cho chắc ăn.
Bọn tôi quay trở lại chỗ anh em đang ngồi nghỉ và quyết định ngủ lại đây chờ sáng thấy đường rồi tính sau. 16 người chui vô cái hố rác mục để ngủ lấy sức. Hố rộng rãi và có mái che bằng đường nhựa dư sức cho 16 người nằm thoải mái. Vì quá mệt cho nên chỉ trong vòng chưa đầy 5 phút mọi người đều mở máy cưa, máy kéo đủ kiểu. Tôi cũng không thể nào cầm cự lâu hơn và thiếp đi vài tiếng đồng hồ.
Khi tôi tỉnh giấc thì trời đã hửng sáng. Có nhiều tiếng súng ở xa xa, đầu trên, đầu dưới, chỗ nào cũng có, không biết ai bắn, bắn ai???? Một số anh em cũng đã thức dậy. Tôi nhìn lên Quốc Lộ 1 thấy có vài chiếc xe chạy trên đường không rõ lắm, không biết xe gì. Cho đến khi trời sáng hẳn, tôi mới thấy rõ hơn những chiếc xe đó có gắn cờ xanh đỏ, chở đầy người chạy trên đường. Súng vẫn nổ đó đây.
Tôi coi lại súng của tôi, trong băng đạn chỉ còn đúng 3 viên và một trái M79, ngoài ra còn bản đồ, một trái lựu đạn Mini. Tôi suy nghĩ: "Bây giờ phải làm gì với mấy thứ này đây? Chắc chắn là chúng nó đã chiếm ĐN rồi, làm sao bây giờ?". Mỗi người đều vẫn còn mang theo súng của mình, nhưng đạn thì chắc chỉ đủ cho mình thôi chứ bắn được ai đâu? Tôi thấy mọi người đều đã thức dậy và không ai nói với ai câu nào, dù chỉ một lời. Nói gì bây giờ? Mỗi người đều hiểu rằng chẳng còn hy vọng gì hết.
-Bây giờ anh em tính sao? Tôi hỏi.
-..............!!..
-Giờ mình đi đâu?
-..............!!..
-Có ai muốn đi với tôi không?
-.......??..??...
-Nếu không ai đi thì tôi đi một mình, mấy anh ở lại mạnh giỏi.
-.................
Tôi đứng lên, bỏ súng lại, cất bản đồ cùng với trái lựu đạn trong túi quần , leo lên khỏi miệng hố rồi đi ra hướng Quốc Lộ 1. Tôi chẳng biết là mình sẽ đi về đâu? Sẽ làm gì? Sẽ ra sao? Tôi thấy trong lòng rất thanh thản. Không khí ban mai làm cho tôi thấy dễ chịu. Kệ mẹ nó! Tới đâu thì tới, mình phải đi thôi, rủ chẳng ai đi thì mình đi một mình, có chết thì cũng một mình thôi, mà số mình chắc cũng chưa tới vì mới cách đây hơn một tháng mình đi chuyến "Đặc Biệt" mất hết 4 mạng còn chưa chết thì bây giờ cũng đé.. sợ cái thằng nào hết.
Khi tôi đi được chừng khoảng 50 thước thì nghe ở phía sau có tiếng kêu: - Ngọc, chờ tao với.
Tôi quay lại thấy Th/U Long và Tr/S Đức chạy theo, làm cho tôi cảm thấy đỡ cô đơn hơn. Đám còn lại có lẽ chờ tụi này đi một khoảng xa để coi có bị ai bắn không rồi mới chui ra.
Ba đứa tôi đi qua hướng bên trái cặp theo bờ của cái doi nước về phía cầu Nam Ô- nơi có những lũy tre xanh mà ban đêm chúng tôi nghĩ là nhà dân, nhưng sáng ra mới thấy là không có nhà cửa nào ở gần đây hết và chỗ đó có một bờ xi măng giống như cái đập ngăn nước vậy. Chúng tôi đi qua cái đập rồi lại rẽ phải một quãng để vào Nghĩa Trang. Từ đó chúng tôi định đi ra đường QL 1 nhưng thấy nguy hiểm quá, vì trên đường lộ súng bắn lung tung. Không biết tình hình ra sao cho nên tụi tôi kiếm một ngôi mộ có mái che để nghỉ chân và bàn với nhau coi có cách nào để về ĐN an toàn không. Vừa lúc đó tụi tôi thấy một chiếc xe Tang có màn che phướn rũ rẽ vào Nghĩa Trang. Trên xe có khoảng 4 hay 5 người gì đó, có tiếng khóc của phụ nữ cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh, không biết họ chôn ai đây? Có lẽ một người Lính hoặc cũng có thể là một thường dân? Chúng tôi quan sát thật lâu cho đến khi xe dừng lại khoảng giữa Nghĩa Trang, một cái hòm được khiêng xuống cùng với cuốc xẻng. Họ khiêng vào một khoảng đất trống rồi chuẩn bị đào huyệt.
-Đúng là Trời thương mình rồi tụi mày ơi! Mình lại xin họ phụ đào huyệt rồi xin họ quá giang Về ĐN, ngồi trên xe này là an toàn nhất không sợ ai thấy..Tôi reo lên mừng rỡ..
Thế là cả ba đứa đi lại chỗ họ đang chuẩn bị đào đất nói cho họ biết ước muốn của bọn tôi và họ chấp thuận ngay không ngại ngần gì cả. Ba đứa thay phiên nhau đào không biết mệt ,chỉ cần đào một chút nữa thôi là cái huyệt đã cao tới cổ của tôi rồi. Họ và tụi tôi cũng chẳng nói chuyện với nhau câu nào cho đến lúc.....những tràng súng từ trên đường bắn xối xả xuống phía chúng tôi đang đào. Mấy người dân vội núp sau những ngôi mộ. Tôi đang đứng dưới huyệt với một người dân cùng với Đức vừa nhảy xuống, họ nói với tụi tôi rằng:
-Đà Nẵng đã mất rồi, nếu mấy anh là lính thì lên "trình diện" với họ
(VC) đi, đừng để tụi tui phải chết chung với mấy anh!!!!!
-Trình diện là sao? Tôi hỏi.
-Ở ĐN họ kêu quân đội ra trình diện hết rồi, sau đó được thả về nhà, cho nên mấy anh đừng sợ.
Tôi vẫn chưa tin. Tuy nhiên vì thấy họ có vẻ khẩn thiết quá, mà tụi chó nào trên đường vẫn cứ tiếp tục bắn xuống, nên tôi phải quyết định đi lên. Tôi lén vùi trái lựu đạn dưới chân, rồi đợi cho mấy người dân đưa áo trắng, để trên kia ngưng bắn tôi mới leo lên.
Thế là hết! Bao nhiêu hy vọng tan tành theo mây khói. Tôi nghĩ nếu tụi nó biết mình là Biệt Kích thì nó sẽ thịt mình ngay. Mà bây giờ biết phải làm sao đây? Nếu nó không giết mình thì hy vọng nó sẽ nhốt mình với ông anh hồi đó cũng bị bắt năm 71, nghe nói đang giam ở đâu ngoài Bắc thì phải. Lúc trước ổng ở Phi Đoàn 219 cũng đi thả Lôi Hổ đấy.(*)
Ba đứa tôi đi lên, tụi nó ra lệnh phải cởi áo ra và để tay lên đầu. Khi lên tới nơi, có một thằng nhóc cầm súng M16 lại gần hỏi tôi:
-Có phải anh là bạn của Th/U Phận không? Tui nhớ mặt anh vì hồi đó anh có ghé làng Liên Chiểu đánh Bi Da uống cà phê với Th/U Phận nè, bộ râu của anh làm sao tui quên được?
Thấy nó có vẻ dễ chịu tôi hỏi:
-Bắt như vậy bị giam ở đâu? Có lâu không?
Nó trả lời:
-Chỗ nhốt ở gần đây thôi, còn lâu mau thì tui hỏng biết, có lẽ cũng không lâu đâu.
Tôi thấy phía trên đường đông lắm, có cả xe Jeep rồi Molotova nữa. Có một toán Phóng Viên của tụi nó cũng đứng đó, có lẽ nó đi ngang thấy rồi đứng lại coi. Sau khi lục soát không thấy vũ khí hoặc vật gì nguy hiểm thì tụi nó không trói, rồi đưa 3 đứa lên xe Jeep chở về xã Hòa Hiệp. Tại đó có một số Tù Binh đủ mọi thành phần, trong số đó có cả 13 ông bạn mình bị trói thúc ké ngồi riêng một góc trông thật tức cười. Một lát sau họ cũng được cởi trói, vì sau khi điều tra, họ không biết chúng tôi là những người hôm qua chống cự rồi rút chạy, coi như thoát nạn.
Có một đám bộ đội CSBV cũng đến coi, chúng nó chỉ trỏ nhục mạ TQLC rồi sau đó hỏi mấy người dân đứng chung quanh:
-Còn mấy thằng đồ xanh tóc dài dài nà nính gì thế?
Dân trả lời:
-Biệt Kích Long Thành đó mờ?
-Mang dza bắn bỏ, mang dza bắn bỏ..bọn nó gào lên.
Dân trả lời:
-Thâu đi mấy chú ơi! Mấy chú khang biết cứa chi coả. Họ đi ngeng đai hùa mà có bô giờ béc gừa béc dzịt của dân đâu mà bén bỏ bén bỏ?
Mấy tay Du Kích cũng lên tiếng:
-Chỗ ni là chỗ chúng tôi trách nhiệm, không cuan chi tới các anh, để chúng tôi lòm việc.
Chiều hôm đó chúng bắt được một anh Cảnh Sát Đặc Biệt. Thật tội nghiệp cho anh này vì dân trong Xã đã kể tội anh ta đủ thứ. Anh này không được cởi trói và dân xông vô chỗ chúng tôi bị giam để khảo tội anh ta. Mỗi lần như vậy họ đánh anh không thương tiếc. Chúng tôi chỉ ngồi yên không có một hành động nào hết cho đến khi tên Tổ Trưởng can thiệp thì anh ta mới được yên. Dân làng đã nấu cho chúng tôi một nồi cháo lòng vì họ biết chúng tôi đói lắm. Thấy họ cũng không có ác cảm gì với tụi tôi. Họ bảo ăn từ từ thôi kẻo bị trúng thực và họ cũng khuyên đừng nên chống lại "Cách Mạng". Đêm hôm đó chúng tôi được ngủ yên vì quá mệt, mặc cho muỗi tha hồ tung hoành. Phía ngoài được canh gác cẩn mật bởi những tay Du Kích. Lâu lâu tôi phải thức giấc vì chân tôi đã bắt đầu đau đớn, những vết thương bị mưng mủ khắp nơi mà không có gì để lau rửa. Đất, sình bám đầy hai bàn chân thật khủng khiếp! Chịu thôi.!.!
31/3
Trời vừa hửng sáng, chúng tôi thấy dân làng lại nấu cháo mang đến cho Tù Binh. Sau khi chúng tôi được ăn uống đầy đủ và có phần khỏe khoắn hơn mấy ngày qua thì thấy dân chúng tụ tập đông hơn. Họ đã yêu cầu tên Tổ Trưởng cho dẫn anh Cảnh Sát ra ngoài để lập "Tòa Án Nhân Dân" xử anh này. Họ đã mang ra ngoài sân trường gần đó và chỉ sau 1/2 tiếng đồng hồ chúng tôi nghe nhiều tiếng súng nổ vang. Chúng tôi biết anh ta đã bị xử tử. Dân chúng giải tán, còn lại tên Trưởng toán, Xã Đội Trưởng thì đúng hơn. Tay cầm cây K54 còn bốc khói bước vào trong nhà, hắn kéo cái bàn ra giữa nhà ngồi lên trên đó. Hắn suy nghĩ một hồi làm tụi tôi nín thở (có lẽ hắn vừa bắn phát ân huệ cuối cùng), đột nhiên hắn hất hàm hỏi:
-Sao? Mấy anh có còn muốn chống lại C.M không? Nếu muốn chống lại thì sẽ như tên ác ôn kia. Thế nào? Các anh tính sao?
Không ai dám hé môi dù chỉ một lời.
Hắn lại hỏi tiếp:
-Các anh có muốn được về với gia đình không?
Cả bọn chưng hửng. Một câu hỏi thật dễ trả lời và trên gương mặt hắn không có vẻ gì là lừa gạt cả, tôi trả lời ngay:
-Chúng tôi không có ý định chống lại ai hết, còn gì đâu để mà chống? Nếu thực sự anh cho chúng tôi về thì chúng tôi cám ơn.
Hắn lại cúi đầu im lặng một lúc lâu rồi ngẩng đầu lên cất giọng khàn khàn:
-Các anh được tự do trở về nhà...
Chúng tôi không nghĩ là hắn nói thật, có lẽ nào? Nhưng rõ ràng mặt hắn rất thành thật khi thốt ra nhưng lời đó, hắn tiếp:
-Các anh được tự do vì chính sách khoan hồng nhân đạo của......
Chúng tôi chẳng cần nghe thêm nữa, tôi hỏi tiếp:
-Anh có cấp giấy trả tự do cho chúng tôi không?
-Có chứ, anh ta đáp: Tôi sẽ dẫn các anh ra ngoài trụ sở để họ làm giấy cho các anh.
Chúng tôi đi theo anh ta ra ngoài Xã. Ở đó có mấy người ngồi phụ trách giấy tờ nhưng..... không ai biết đánh máy, cũng không biết viết cho nên chúng tôi nói :
-Thôi khỏi cần giấy, hễ tụi tôi bị bắt lại thì mấy anh xác nhận là mới thả được rồi. Thế là chúng tôi đi thật nhanh ra ngoài Quốc Lộ 1 mà cứ sợ chúng đổi ý, chúng tôi chia tay với một vài người đi về hướng đèo Hải Vân vì nhà họ ở phía ngoài Huế, còn lại chúng tôi đi về Đà Nẵng.
Như một đám tàn binh, chúng tôi cố gắng đi thật nhanh mặc dù chân đứa nào cũng "thương tích trầm trọng". Lâu lâu có một chuyến xe đò chạy ngang qua nhưng họ không dám dừng lại khi chúng tôi đưa tay đón. Họ không biết chúng tôi thuộc loại nào mà lại lang thang lếch thếch như thế này? Có lẽ họ nghĩ rằng chúng tôi mới ở đâu đó chui ra cho nên chẳng dại gì mà dây vào cho thêm nặng tội.
Khoảng cách từ cầu Nam Ô về Đà Nẵng cũng khoảng trên dưới 30 Km. Chúng tôi biết không có hy vọng để quá giang xe cho nên cứ lết được tới đâu hay tới đó. Trên đường đi, hai bên là đồng ruộng, đường xa vời vợi nhưng nghĩ đến chuyện sẽ về Đà Nẵng cũng cảm thấy hăng hái một chút. Khi chúng tôi đi ngang qua những căn cứ quân sự của B.Đ.Q ở Hòa Vang thì bị bắt lại. Sau khi được xác nhận là đã được tha bởi "quân C.M"ở Xã Hòa Hiệp thì chúng tôi lại được thả cho đi tiếp. Cứ như thế không biết bao nhiêu lần.
Chân tôi càng đau đớn nhiều hơn và bắt đầu sưng lên. Không biết bao lâu chúng tôi đã tới ngã ba Huế và lại bị bắt hạch hỏi đủ điều. Lần này những tên khốn nạn CM 29-30 đã bắt chúng tôi cởi trần mới được vào thành phố. Bây giờ không còn cách nào khác hơn là phải chịu nhục để được yên thân. Gần đến nơi rồi, đừng năn nỉ chúng nó làm gì, kệ mẹ nó, đi thôi.!.!
Về đến ngã ba Cai Lang chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng thật đau lòng. Tất cả những người Thương Binh ở Tổng Y Viện Duy Tân đều bị lùa ra ngoài đường. Họ nằm ngồi la liệt bên cạnh những đống rác hôi tanh, bên những vũng nước nhầy nhụa, bông băng, máu mủ. Không thể nào diễn tả hết được những sự độc ác của lũ khỉ hóa người, không tình đồng loại, còn thua xa những con thú chứ đừng nói gì đến so sánh với súc vật. Có những ngưòi nằm chết cong queo, có những ngưòi rên siết vì những vết thương. Chúng tôi đi qua, không có gì để giúp đỡ họ. Chúng tôi chỉ hơn họ là còn đi được mà thôi. Cả bọn chúng tôi ứa nước mắt lầm lũi bước đi trong nỗi căm hờn với cái bọn đê hèn đốn mạt kia.
Mình thua thật rồi. Đà Nẵng mất thật rồi. Bạn bè tôi đâu? Đơn vị tôi đâu? Có lẽ họ cũng bị bắt đâu đó? Nếu họ có thoát được, mong họ bình yên. Còn gia đình tôi giờ đang ở đâu? Tôi về có còn gặp lại ai nữa không? Còn những con súc vật sẽ đối xử với kẻ bại trận như thế nào đây? Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu tôi, Tôi muốn điên lên được. Chắc các bạn tôi cũng vậy!!
Chúng tôi vào đến thành phố Đà Nẵng vắng vẻ. Một vài nơi đổ nát hoang tàn, phố xá thảm hại, dân chúng chắc ở trong nhà nhiều hơn ngoài đường. Không ai để hỏi thăm tình hình Sài Gòn ra sao cả. Chúng tôi đi qua một ngôi Chùa, ở đó thấy đông người hơn những chỗ khác. Chúng tôi chia tay một lần nữa. Hầu hết các bạn đều vào Chùa xin tá túc. Tôi chia tay Th/U Long và Th/U H.. Tôi sẽ về nhà chị Dâu tôi xem có ai còn ở lại không? Nếu không còn ai có lẽ tôi sẽ đi tìm một Nhà Thờ nào đó xin tá túc rồi sẽ tính sau.
Chỉ còn một mình tôi lủi thủi đi từ Chợ Cồn về đường Phan Đình Phùng /Lê Lợi. Lúc này chân tôi không còn biết đau đớn là gì nữa vì mãi lo suy nghĩ không biết có chuyện gì xảy ra cho gia đình chị Dâu tôi không? Có còn ai ở nhà hay đã di tản khỏi nơi này rồi? Đường phố sao mà vắng tanh như ngày Tết vậy? Hay là người ta ra khỏi thành phố lánh nạn ở đâu đó? Tôi đi qua những hàng quán trước kia tấp nập nay cửa đóng then cài. Xe cộ cũng biến đâu mất cả. Đúng là thành phố chết. Tôi cứ lầm lủi bước đi mà trong lòng chẳng có hy vọng gì gặp lại người thân. Từ xa tôi đã thấy cái cổng sắt trước nhà, tôi đi chậm lại rồi khi chỉ còn vài căn nữa tôi đứng lại quan sát. Nhà nằm ngay góc ngã tư đường, tôi đứng chờ hoài không thấy bóng dáng một ai cả,hàng xóm cũng thế. Tôi nghĩ trong bụng là cứ tới trước cửa coi sao, nếu không có ai thì mình cứ vô nhà rồi tùy cơ ứng biến.
Tôi đứng trước cửa mà tim tôi đập mạnh. Cửa không khóa ngoài lẫn trong, nhà cũng chẳng bị hư hỏng gì cả. Tôi định thò tay vô để mở cái then cài phía trong thì chợt thấy có bóng ai vén rèm cửa lên nhìn. Tôi chưa biết là ai thì nhanh như cắt thằng em của bà chị Dâu tôi chạy ra mở cửa cổng sắt lôi tôi vào rồi đóng cửa lại, kéo tôi chạy vô trong nhà cũng nhanh như lúc nó chạy ra vậy. Thì ra là thành phố đang trong tình trạng giới nghiêm- nó cho tôi biết thế . Mọi người mừng rỡ vì thấy tôi an toàn trở về. Tôi chỉ kể sơ về chuyến đi và làm sao thoát được để về đến đây, thế thôi. Bây giờ tôi cảm thấy tội nghiệp cho mấy người bạn của tôi không biết bây giờ ra sao? Việc tôi làm trước tiên là tắm rửa thay quần áo và săn sóc các vết thương ở dưới chân. Sau đó chị tôi kêu tôi ăn một chút cơm, sao mà nó ngon không thể tưởng tượng được. Lúc này đã là buổi chiều sắp tối rồi, tôi leo lên giường chỉ trong chốc lát tôi không còn biết gì nữa cả, thân thể rã rời vì suốt mấy ngày qua phải đương đầu với bao nhiêu hoạn nạn, khó khăn!!
1/4
Sau một đêm thẳng giấc không vướng bận,không lo nghĩ và thật là ấm áp, sức khỏe của tôi hồi phục thật nhanh. Tôi chỉ ở quanh quẩn trong nhà theo dõi tin tức chiến sự qua các đài V.O.A , B.B.C và đài phát thanh Sài Gòn. Những người trong nhà kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra từ lúc tôi đi Công Tác cho đến giờ. Không ai nghĩ rằng tôi sẽ trở về. Đây là lần thoát chết thứ hai trong đời Lính của tôi. Ở nhà có nghe tin tôi mất tích và lần nào cũng thấy được toàn thây trở về.
Hôm nay là hạn chót cho Sĩ Quan, Công Chức, Binh Lính chế độ cũ phải ra trình diện. Chúng nó phát loa kêu gọi, hăm dọa làm cho gia đình chị tôi lo sợ. Họ nói tôi phải đi ra ngoài trụ sở gì đó để "nộp mạng", nên tôi phải đi ra ngoài . Hôm nay trên đường phố có đông người qua lại hơn hôm qua. Tôi thấy ai cũng cắm cúi đi mà không ai nhìn ai cả. Trên đường tới chỗ trình diện tôi có gặp Đ/ Úy Thục và Th/Úy Phụng cũng lang thang ngoài đường tới chỗ làm giấy tờ để vào tù, tôi hỏi Đ/Úy Thục:
-Sao anh còn ở đây? Tưởng anh đi theo Đoàn rồi chứ?
-Đi răng được mà đi? Tau cọ biết chi mô? Đ.mạ, tau với Th/Úy Phụng ở trên núi Sơn Trà mà còn bị bỏ lại đây. Chọ mạ lặm mi ơi, tau thấy mi còn lành lặn trở về là tau mừng rồi, còn thằng Thể với mấy đứa kia đâu?
Tôi chỉ kể vắn tắt cho ổng nghe những gì đã xảy ra cho anh em cùng đi, ai còn, ai mất, rồi mạnh ai nấy đi.
Những ngày sau đó là "Tập Trung Cải Tạo", Thiếu Úy trở lên đi trước, Chuẩn Úy đi sau (15 ngày tại chỗ) sống lang thang đói rách cho đến ngày mất Sài Gòn vẫn còn lang thang, mãi 2 tháng hơn mới về được Sài Gòn. Tưởng đâu được yên nhưng rồi cũng phải chui vào rọ vì trên đầu có dán cái nhãn Biệt Kích Lôi Hổ. Ngày đi thì có, ngày về thì mút chỉ.
Chung Tử Ngọc 729 SCT/NKT
(*)Tr/Úy Chung Tử Bửu -Phi Công Phi Đoàn 219 lúc đó đóng tại Đà Nẵng

No comments:

Post a Comment