Con Chó
Vện và Người Tù "Cải Tạo
"
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam, tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng
100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo
hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây
giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào,
chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh
bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm
trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng
điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia
thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà
sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6.
Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập
vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã
cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên
xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay
mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là
hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình.
Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó
vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sỹ
ở lán 4.
Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh
thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử
biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng,
cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn
cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về
sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau
cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi
để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái
chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng
không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn.
Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật,
sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi
là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy
mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào
rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là
đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn
776 do bộ đội CSBV quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói,
thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của
người tù đếm được khoảng 700 hôït và lao động khổ sai 10 tiếng một
ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa
nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng”
hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội
Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng
Sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn
đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà... và một
toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập
trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ
quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau,
toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân
Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với
tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất
chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình
thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là
một tai họa khó lường...
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân
tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường
hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía
sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức
hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua
dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu
chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau
khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20
cây, dấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc
chuyển về trại. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt
khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.
*
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại. Chúng tôi
ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau
dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội
nghiệp. Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ
ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy
cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe
mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!”
Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?”
Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm!
Mầy còn phải hỏi lôi thôi!”
Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách
như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát?
Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!”
Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có
đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta
trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.”
Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?”
- “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác
mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi.
Đèo nói, giọng quả quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!”
Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi
đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để
tao chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên
khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối.
Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám
lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng
mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía.
Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia
một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía
xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy
cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng
lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn
tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”
Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái
giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới...”
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không
phải “Chờ tớ!” thì đã muộn. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn,
xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn
vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân,
phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một
bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té
nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng
đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặc lại, giằng xé như muốn
lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời
thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu
sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh
nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!
Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?”
Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước. “Tụt quần ra, vọt
cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng
nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình,
con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần,
đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh.
Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi
phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước.
Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh
như vậy. Thế là thoát nạn!
Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té
đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một
cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi
phải lấy vạt áo che phần dưới lại, sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm
nhỏ dãi tội nghiệp!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông
hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang
dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt
13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã
từng chà xát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ
Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần
nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật
đó!
Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May
cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn
họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một
thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với
tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp
chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây,
Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng
khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu
bồ thật, tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua
bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
“Mầy yên chí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời
gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới
suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm
lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ
mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút
nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “Bác cùng
chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm
điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt
trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch,
ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”. Mẹ kiếp! Sống ở
Miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói
chi là con người.
Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng
chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi,
người tù cải tạo và “đồng chí vện”ù kết thành đôi bạn sống chết có
nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặc con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã
lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía.
Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối
qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2
lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ
khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện,
tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu
nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt âu yếm
nhìn nhau...tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn
thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng
thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện
chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với
tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ
khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại
trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta
có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh
có đủ sức thâm canh, tăng năng xuất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.”
Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ
trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên
cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên
Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân
nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2
được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang
một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm
thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng
cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông
anh càng ngày tròn trịa ra.
Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin
nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến
chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo
kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén
cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây
giờ miệng tôi vẫn còn tóm tèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch
thịt con vện...
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai
đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung
thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng,
rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi
định thịt nó, hưng Đèo cương quyết ngăn cản.
Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”
*
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên
chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù
cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng
phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại,
lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo
để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn
băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay.
Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên
thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành
những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến
khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến
đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua
những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy
chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây
Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa
phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc
của lá rừng ẩm mốc.
Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái
lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi
về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi
nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng
trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy...Bỗng
một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim
rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt
nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một
chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có
chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là
nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám
vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi
tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai
cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị
nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức
nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm
khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn,
năm con vắt xanh.
Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới,
âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng
bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên
thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ
tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ
trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc
đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi
phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào
thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang
cuốc một hố đất. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước
mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu
rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy
hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”
Tôi nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!”
Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị
ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên,
tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.
Ông cụ thở dài, nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ,
nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết
đấy, các anh ạ!”
Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm
tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?”
Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn
dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy
tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi,
đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói.
- “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy
người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa,
tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người
lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10
viên thuốc “con nhọng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhọng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng
và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn
gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó sơi
nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong
bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao
để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia
súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái,
Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh,
tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc,
sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập
ra để lót sàn. Leo lên mấy bật thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang
nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ
gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở
thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông.
Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới
nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra
về. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh
dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây
gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con
vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm
ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn
Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách
thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong
túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một
cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi
một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực.
Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc
“Reostop” còn đủ 10 viên rồi dấu dưới gối.
Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm
kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở
lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi
dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt
cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu,ï rồi chỉ cách dùng. Ông cụ
vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay
nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải
cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn
thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén
rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết
lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận”
một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng
sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho
chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến
trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị
là cựu thiếu tá Trần Sỹ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác
vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác
nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự
trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và
nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe
Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến
sĩ, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để
lấy điểm.
Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất
trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích
thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương
đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát -
trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người
được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần
thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10
viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến
chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế
yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng -
một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau
đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba
người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ
để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số
dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên
“Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày
tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá
Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng
lớn...
Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng
Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc
dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến
năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở
các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không
biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại
thuốc nầy?
*
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn
bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô
héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương,
rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công
tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng
như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị
ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người
anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn
nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh
ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông
lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai
cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ,
tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi
ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh,
trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm
cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn
đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào
làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh
mấy cái phên cửa...
Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò
khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”,
những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó
trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở
dài não nuột; đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau
với Việt Cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu!
Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt Cộng tràn ngập căn cứ
hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi
mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi
trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru
buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt
mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng
báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao
động khổ sai. Tôi nghe cả láng hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi!
Đèo chết rồi!...”.
Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái
chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị
gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm
vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi
thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt
chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra
từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh
mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người
bạn tù...
*
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần
khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn
cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song
song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo
trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ
những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh
bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận
đào huyệt còn có Trương Đăng Sỹ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm
an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách
trại khoảng 2 cây số. Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi
tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở
lại qua đêm để canh giữ xác của anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi.
Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa
đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn
nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về;
hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập
phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo.
Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của
anh đi!
Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi
đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cỏng trại. Tên
lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật
đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng
sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt
chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi
đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát
hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp
xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay
chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó
rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động
gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước
xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ
xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy
nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả,
nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên
phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy
xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn
rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và
thương mến.
Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng
sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một
bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người
bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó
vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn
chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình,
chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu
của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại
của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết
của tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương
còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách
thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở
lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn
trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào
quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh
biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó
với tôi chăng?
Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng
Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn
tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi
ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc
chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại,
dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã
hội chủ nghĩa đấy! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu!”
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh
cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên
con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt,
một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng
kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước
gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa
nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi
cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn
qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.
Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng
quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia
nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan
tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ
từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một
nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong
thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM
MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặc vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng
Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh
em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững
sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị
căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ
từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống
nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng,
rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước
mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay.
Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.
Hắn nói như ra lệnh:
“Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây
rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống
sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà
lòng quặn đau.
Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những
mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại
cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng
dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên
cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
*
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi
rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng
giăng khắp nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn
kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong
hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ
con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không
thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những
cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có
thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo
thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa
phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng
đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời
đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên
vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy
lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho
bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê
cóng vì đói và lạnh đến rét run.
Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên
Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong
dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm
ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá
dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang
lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi
lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản
Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết
như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng
khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm
hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm
cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt
thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh
bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.
Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy
khó kăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà
của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm
hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc
cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy
tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối.
Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là
ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ
nó đi nhá!”
Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!”
Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ
quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!”
Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ
ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói
với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo
nầy đấy!”
Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”
Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?”
Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!”
Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”
- “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhọng” của
anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình
nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên thuốc cuối
cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi
chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh
bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ
hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải thích:
- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón
mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi
rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng,
tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc
lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy
vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ
thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm
trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như
xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh
ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn
kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại
nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí
lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là
người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở
trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây
giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô
bé thỏ thẻ, nói đùa:
- “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn
biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn Lãnh đạo Cộng
Sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài
Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam.
Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé
viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi
thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không
phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo
không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người
lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt
trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong
lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm
xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy
hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại Miền Bắc
XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu.
Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của
người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận
tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
*
Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên
đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển
thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng
hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về
đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng
Sỹ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi
cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay
chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI
HOÀNG LIÊN SƠN!
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
--------------------------------------
CON GÀ TRỐNG CỦA NGƯỜI LÍNH TÙ
1.
Nhóm lính tù ngồi bó gối trên đòn gỗ quanh chiếc thùng đạn pháo binh kê dùng làm bàn trên nền đất rít ẩm. Hai chiếc thau nhôm úp vào nhau, nằm lỏng chỏng trên mặt bàn. Bên trong là khẩu phần bo bo cho buổi ăn tối của nhóm. Họ ngồi trấn an nhau chuyện vẫn chưa thấy con gà trống về ngủ bên góc bếp quen thuộc dành riêng cho nó. Từ một lúc nào đó, câu chuyện trở chiều xoay quanh cơn mưa chuyển mùa đã làm đoàn tù cải tạo ướt đầm lúc lếch thếch kéo nhau về từ trong rừng cao su sau ngày dài lao động. Nước mưa sót lại trên trần lá giàn dưa tây đã qua mùa trái, thỉnh thoảng nhỏ từng giọt đọng muộn màng xuống mặt bàn thô nhám hoen ố thời gian. Vài giọt rơi trên chiếc thau nhôm gây nên chút âm thanh chợt vỡ, nhỏ nhặt rồi lụn tàn không chút vướng vất. Họ lách mắt qua màn lá dưa, chăm chú nhìn về phía khu nhà quản giáo lẩn khuất sau rào bên kia dải đất trống. Tiếng quát tháo, rượt đuổi, lẫn trong tiếng reo hò của bầy vệ binh đánh bóng chuyền khiến họ nhìn nhau, ngờ ngợ nỗi lo. Một người lính bỏ chỗ ngồi cạnh bàn, kéo chiếc đòn gỗ ra trước bếp đang âm ỉ nồi lá rau lang luộc trộn với đọt lá sắn. Anh khêu bùng ngọn lửa, châm thuốc vào chiếc điếu cày làm bằng vỏ nhôm trái sáng, rồi rít một hơi thuốc lào dài đến rúng sâu lồng phổi. Anh sốt ruột lắng nghe tiếng gà vùng vẫy kêu đau, âm thanh thoắt nghẹn cố vượt thoát khỏi hơi giọng lềnh nặng tục tằn của người vệ binh nào đó đang hồi ganh giận.
- Tiên sư con gà Ngụy lếu láo này, cái phao câu vểnh lên thế kia mà mày cứ bơ ra như không có gì xảy ra thì có chán không cơ chứ?
Một giọng nói khác vang lên châm chọc.
- Tớ thấy sáng nào anh chàng cũng làm liên thanh con gà mái dầu đi cặp... Chắc nó chê phao câu quê-em-miền-trung-du của cậu rồi đó. Thiến mẹ nó đi là hòa cả làng!...
Người lính tù lo lắng đứng vói chồm lên rào trại, rảo mắt tìm bóng dáng con gà trống trong nhá nhem màn đêm đang xuống. Anh khum tay làm loa, nói lớn về phía khu nhà vệ binh.
- Báo cáo cán bộ, làm ơn cho tôi xin lại con gà đi lạc.
Tiếng gào xin rơi tuột đâu đó xuống vùng bóng tối giữa bãi đất trống. Chỉ còn tiếng quằn oại của con gà trống chìm dần trong tiếng người nhạo báng, hỗn độn và vô lương. Tiếng rơi huỵch của thân xác con gà bị quăng vào nền đất, theo sau là chuỗi im lặng xé lòng. Bầy người vừa thỏa chút lòng ganh ghét có lẽ đã bỏ đi. Cơn im lặng kéo dài. Những cặp mắt căng luồn bóng tối dừng lại bên xác con gà nằm sóng soài trên mặt đất. Một lúc sau, có lẽ hơi đất ướt đã giúp con gà trống lấy lại được hơi thở. Nó ngóc đầu nhìn quanh, gượng đứng lên nhưng chỉ chập choạng được vài bước lại ngã xoài xuống vì quá yếu.
Không đành lòng nhìn đôi chân con gà trống mệt mỏi cày chống trong đất lết từng chút một về phía mình, người lính tù dùng sức kéo rộng khoảng rào bằng dây thép gai, lách mình dợm chui qua. Một bạn tù lo lắng kéo tay anh lại.
- Mày cố gắng chờ thêm chút nữa đi, thế nào nó cũng lết về được. Chui rào, vệ binh bắt được bị cùm làm kiểm điểm không đáng.
- Ở đó mà đáng với không đáng. Nếu nó lết về không tới nơi, nằm chết bên đó thì mày tính sao? Người bạn tù khác cố gắng phân giải.
- Thằng nào cũng có lý hết. Thằng Hổ chết gần tròn một năm rồi. Gia đình nó cạy cục xin ban quản trại mãi mới được phép sau dịp lể tháng Chín lên làm giỗ đầu và dời mộ về Sài Gòn. Cặp gà thằng Hổ trối lại nhờ nuôi. Tuần tới vợ con nó lên, nếu con gà trống bị chết tối nay thì lại thêm chuyện đau lòng. Tao nghĩ...
- Nghĩ mẹ gì... mầy thì lúc nào cũng bận rộn suy-tư-cuộc-chiến...
Anh lính trẻ tuổi nhất trong nhóm trách đùa bạn trong lúc hối hả đặt cái thau rau luộc lên bàn. Anh bước đến sát hàng rào, miệng la lớn vào bóng tối "Báo cáo cán bộ, cho thằng bạn tui đi tìm con gà bị lạc", tay thì đẩy bạn qua rào.
- Tao xin phép cho mày rồi đó. Êm thì thôi, nếu không, tao theo vô hộp cho có bạn...
Rồi anh quay qua ra dấu cho bạn tù đứng quanh.
- Tụi bây vào ngồi khuất trong bếp, để mình tao chờ ngoài này thôi.
Người lính tù khom người chạy về phía con gà trống bị nạn. Anh quỳ xuống ôm con gà bê bết máu vào lòng. Lúc anh đứng lên, dợm bước về phía rào trại, thì tiếng quát tháo chừng như đang chờ sẵn từ trong cuống họng đắc chí nào đó lanh lảnh vang lên cùng lúc với tia sáng ngọn đèn bấm nhọn lểu, le dài, liếm láp không sót khoảng sân nhão nhoẹt đất đỏ.
- Anh kia đứng lại! Láo nhể! Dám vi phạm nội qui trại đi vào đất cấm.
Người lính tù vẫn đứng chờ bạn bên bờ rào, vói người dang cao hai tay quơ vẫy, biến mình thành mục tiêu để phân tâm sự chú ý của gã vệ binh. Anh nói nhỏ cho bạn vừa đủ nghe "Đ. mẹ! Không êm rồi! Mày cứ tiếp tục bước, đưa con gà cho tao lẹ lên!" rồi ồn ào lớn tiếng với gã vệ binh đứng khuất lấp đâu đó trong bóng tối.
- Báo cáo cán bộ, tui bự con không chui qua rào được nên nhờ người bạn tìm giùm con gà.
Anh kéo bạn về phía mình, đón ôm vào lòng con gà trống đau đớn rũ lông ngoẹo đầu trong cơn đại nạn. Vệt sáng ngọn đèn bấm dừng lại xoi bói trên mặt hai người lính tù rồi lắt lay theo bước chân gã vệ binh loắt choắt đi về phía nhà quản giáo.
- Cho chúng mày lếu láo, lần này thì ông cùm cả hai.
Hai người lính ngồi nuốt vội bát rau luộc trộn bo bo dưới bóng ngọn đèn dầu khói tỏa nhiều hơn ánh sáng. Họ bước về phía cái chái sau của gian nhà cuối dãy trại, lố nhố bạn tù im lặng đứng ngồi. Từng ánh mắt lo âu chăm chú nhìn người tù bác sĩ đang khâu lại vết thương bết máu dưới bụng gà. Nhóm lính tù xuýt xoa vui mừng khi người bác sĩ nhẹ đặt con gà xuống tấm áo lính trải trên nền đất, vuốt ve lên đôi cánh màu sặc sỡ. Con gà trống chậm chạp run rẩy đứng lên, chiếc cổ từ từ vươn cao, kiêu bạc cất lên tiếng gáy dù hơi sức còn khàn vướng cơn đau. Tiếng gáy trùng chất lời trần tình trống mái thủy chung được xúc động đáp lời bằng tiếng chắt chiu vẹn nghĩa thương yêu. Vòng người giãn ra, mở lối cho cuộc đoàn viên. Con gà trống chậm chạp lê từng bước chân về phía góc bếp. Hắn đang trở về. Trong chiếc thùng cạc-tông cũ lót rơm, con gà mái nằm xù lông, ấp ủ bầy con tương lai của mẹ. Nàng nghểnh cổ nhìn vòng người vây quanh, nghi nan nhìn cơn mơ đang hiện thực. Cho dù mất mát tang thương, hắn cũng đã trở về...
Nhóm lính tù đứng im sửng trong xúc động không ngờ. Rồi như một nhiệm mầu, từ bên dưới chiếc cánh ấm nồng ấp ủ, chú gà con mịn như nắm tơ vàng và mong manh như một điều không thực đang chiêm chiếp khởi sinh một cuộc bắt đầu.
Ngoài kia tiếng còi tập họp bất thường chợt ré lên từng hồi khẩn cấp. Họ nghe mà hình như không ai để ý tới.
2.
Đất trời sắp sửa bước vào tháng Chín. Những bài ca về một mùa Thu sắt máu, hùng hồn trong quân nhịp gươm đao vang lên từng chặp từ máy phóng thanh. Có thể mùa Thu đang về ở một nơi nào khác, nhưng nắng ở đây vẫn hừng hực dây dưa cơn sốt hạn. Buổi sáng trong rừng cao su, cây lá uể oải không muốn thức giấc để phải chịu đựng thêm một ngày đổ lửa. Từng hàng cây thẳng tắp, thân già nua chồng chất những vết cạo dài, hằn sâu, mủ đọng lâu ngày ngả màu nâu đặc, như thể xác người mẹ cơ cực đã khô cạn dòng sửa nuôi con. Xa lắm cuối mỗi hàng cây, đuối tầm mắt nhìn ngái ngủ là những ô ánh sáng mông lung như khung cửa mở ngập màu mây trắng xám trong một cơn mơ rất cũ. Cỏ hoang mọc tràn lối đi giữa mỗi hàng cây, ngọn lá se sắt cúi đầu cầm giữ chút hơi sương chực thoắt bay theo cơn ngày đang tới.
Thời gian gần đây, hàng ngày, tù binh từ các trại cải tạo được lệnh xâu kéo nhau đi lao động ngoài, ở những khu rừng cao su thiếu người chăm sóc quanh vùng. Dù sao thì cũng đỡ hơn gồng gánh phân người lên dốc đồi quanh trại chăm tưới từng luống rau vùng canh tác. Một chu kỳ sinh dưỡng héo hon. Một trăm lá rau lang luộc trong lon gô ăn độn với bo bo. Dãy nhà cầu và thùng phân chưa kịp biến thể. Những luống rau lang tốt màu lục diệp...
Trên khoảng đường hơn ba cây số từ trại đến rừng cao su, đoàn người đi qua khu chợ nhỏ và một quãng ngắn quốc lộ. Những đôi mắt đoái nhìn nhau, ái ngại xót thương. Những mái đầu cúi xuống, quay đi, ngăn che dòng lệ. Đoàn người như xâu chuỗi dài lê thê, im lìm bước theo nhau đi vào trong màu xanh mờ đục của lá rừng.
Bước chân tiếp bước chân, hững hờ, vô tưởng, như từng hạt tràng đen lần đi khôn tận trên ngón tay vị sư già chìm sâu trong cơn thiền định. Họ được chia thành từng nhóm nhỏ đi vào giữa hai hàng cây cao su cỏ lan khuất lối mòn. Chiếc nón cối màu xanh bạc của vài người vệ binh loắt choắt nhấp nhô trên tầng ngọn cỏ, súng vươn cao hơn đầu. Mấy chục năm trước có lẽ là chiếc nón cối màu vàng đất sét của gã mộ phu lêu khêu bên đoàn công nhân cạo mủ. Cánh rừng cao su bạt ngàn, giống nhau từng thân cây oằn nặng tang thương giọt nhựa. Thực dân. Cộng sản. Ở giữa, bên dưới, là thân phận con người Việt oan nghiệt truân chuyên.
Nhóm lính tù cuối cùng đứng lại ở bìa rừng. Họ cười rộ lên khi một người cất giọng xuống xề câu hát cải lương có lá rừng đan kín đường về phồn hoa.
Hát xong anh đảo mắt nhìn quanh đám cỏ hoang, tìm kiếm.
- Tao chỉ ngại lá rừng che kín không cho thấy xà lách xon thôi. Mẹ! Vạt rừng ngày hôm qua đã thiệt.
Một người lính tù cao lớn, râu vểnh ngang tàng, ngồi tựa lưng gốc cao su. Anh lấy chiếc điếu cày làm bằng ống nhôm đạn trái sáng, châm thuốc, rít sâu rồi phả một hơi dài, làn khói thơm vướng quyện lên ngọn cỏ. Anh nhìn quanh, nói nhỏ.
- Khỏi lo. Tao sắp có tiếp tế rồi. Bà xã tao ở Sài Gòn lên, ở lại nhà người bà con gần chợ mấy ngày. Lúc nãy, vừa thoạt thấy bả, tao mừng quá suýt nhảy ra ôm đại. Tao dặn nhờ người nhà đi theo cho biết chỗ rồi chờ đến trưa lén vào. Hắn nháy mắt, cười đểu. Tụi mày ráng canh me vệ binh cho kỷ, bà xã tao cám ơn.
Anh bạn tù hát cải lương ngẩng mặt nhìn trời, lớn giọng thở than, trêu chọc.
- Than ôi... Cô bé choàng khăn đỏ sắp bị... trùm poncho... bởi con quỷ râu xanh rồi mà nàng vẫn hí hửng bước chân vào cánh rừng cạm bẫy...
Họ cùng cười với nhau rồi bắt đầu làm việc thật nhanh. Nắng bắt đầu lên. Tia nắng len lỏi qua trần lá xanh kín, cắm xiên lên mặt đất những luồng sáng bừng lên kỳ ảo.
Trong nhóm bạn tù bốn người, chỉ mình Hổ có gia đình ở Sài Gòn. Hai bạn độc thân quê ở nơi xa nhất của vùng Lục Tỉnh. Người lính tù có gia đình tận ngoài Trung vẫn thường kể cho bạn nghe về thành phố quê hương bên bờ vịnh biển. Thành phố anh và cô học trò chung lớp đã lớn lên theo từng mùa phượng rực rỡ bến nước Hàn giang. Họ thành đôi vợ chồng, long đong theo vận nước điêu linh. Đứa con đầu lòng ra đời trong cha con đành đoạn chia lìa. Con gái sắp sửa thôi nôi thế mà bố chỉ mới thấy mặt qua vài tấm hình mẹ gởi vào. Anh vẫn thường chăm chú nhìn theo mỗi bóng dáng mẹ bồng con thơ trên những chiếc xe đò tốc hành chạy trên quốc lộ để rồi luyến tiếc ngẩn ngơ. Hổ là phi công chiến đấu. Anh cưới vợ vào tuần cuối tháng Tư. Để chính thức mà đưa nhau đi. Số phận đã dành cho cô gái vừa tròn đôi mươi sớm biết nỗi buồn cô phụ.
Cơn nắng trưa rực rỡ xuyên qua tàng lá, chạm trổ lên lối đất bụi đỏ từng miếng nắng vàng tươi nôn nao mời đón từng bước chân người vợ xao xuyến tìm chồng. Người đàn bà trẻ còn nét thẹn thùng con gái. Khuôn mặt nàng hồng lên, chẳng biết vì nắng đường xa hay vì cơn sóng hạnh phúc đang rợn ngợp lòng nàng. Nhóm lính tù chia nhau cất giấu quà tiếp tế cho bạn. Họ mừng rỡ nâng niu cặp gà trống mái vừa lớn bằng nắm tay đang chiêm chiếp gọi nhau.
Rừng trưa im vắng, thì thào cơn gió nhẹ luồn bay trong lá, rời rợt tiếng chim. Xa xa lính canh tù nằm biếng lười trên những chiếc võng treo dưới tàng cây, đong đưa giấc ngủ trưa hấp háy bụi nắng chao rụng theo nhịp võng. Vùng cỏ tình son cũng động lòng chăn chiếu, cuống quýt rạp mình cho thèm khát mở toang. Bao trằn trọc nhớ nhung ấp ủ trong mường tượng bơ vơ của một suốt thời gian xa cách đang níu ngập vào nhau. Mắt ríu lại cho trưa hè chợt buông đêm nguyệt tận. Đêm chật ních không gian, thảng thốt môi gào...
Thời gian người đàn bà ở lại lén thăm chồng, mỗi buổi rừng trưa là mỗi đợt sóng hừng hực cơn hạnh phúc trào dâng. Cỏ bồng ngả nghiêng trì níu dòng cảm giác thống lộng, nhấp nhô theo từng cơn xúc động như sóng vỡ bờ. Ngày Hổ nhận thư vợ báo tin mừng hắn vui sướng hả hê. Hổ ôm chầm lấy cặp gà nựng nịu khiến hai con gà đang trổ mã hoảng sợ gáy la inh ỏi. Nhìn cặp gà lúc thúc theo nhau tìm ăn trong dải đất trống ranh giới giữa trại tù và khu nhà quản giáo, Hổ mơ màng chuyện tương lai. Hắn hi vọng không lâu sau ngày đứa bé ra đời, Hổ sẽ được trả tự do. Cặp gà lúc đó đã lủ khủ một bầy con và Hổ sẽ mang về làm quà cho đứa con đầu lòng của mình.
Giấc mơ không hề thành sự thật. Tai họa đổ ụp xuống kiếp người vắn số. Trong buổi lao động dọn dẹp khai quang cái đầm nước trước khu nhà quản giáo cho dịp lễ đầu tháng Chín, Hổ đạp nhằm trái lựu đạn còn sót lại từ thời chiến tranh. Ba người bạn tù trong nhóm tình cờ đứng cách một mô đất nên chỉ bị xây xát nhẹ. Khuôn mặt Hổ bị cắm nhiều miểng đạn và phần bụng bị miểng cày nát toang. Nhìn vết thương quá trầm trọng, viên y sĩ bộ đội với lòng tự trọng tối thiểu đã trao dao kéo cho người tù bác sĩ giải phẫu của Quân Y Viện Cộng Hòa trước 75. Sau hai ngày cố gắng hết lòng, người thầy thuốc đành gạt lệ vuốt mắt cho bạn tù. Ông ngao ngán nhìn căn phòng trống, vải trắng giăng quanh, được dùng làm phòng giải phẫu. Hổ nằm đó yên lặng muôn đời trên chiếc bàn ping-pong phủ khăn trắng. Chai nước biển bạn tù quyên góp nằm chúc đầu khô cạn, ống chuyền cao su treo hờ hững buông lơi. Giấc mơ nhỏ nhoi mang bầy gà cho đứa con ngày trở về chỉ còn lại lời trăng trối rời rạc. Ngón tay lơi thả xuôi vĩnh cửu lúc môi khô mấp máy tên gọi người thân trước hơi thở cuối cùng.
Ban quản giáo trại không muốn bị bận rộn phiền phức, đã cho chôn cất Hổ ngay buổi chiều hôm đó. Quan tài đóng vội bằng gỗ vỏ thùng đạn đại bác. Tấm hình Hổ trong quân phục bay được lén đặt lên quan tài, nhỏ nhoi sau vòng hoa khoai màu tím kết chung với nhiều dây hoa súng trắng hái lên từ đầm nước oan khiên. Đám tang thì buồn. Toàn trại tù đứng lặng yên, nuốt ngược dòng nước mắt thương hận. Họ nhìn Hổ giây phút cuối. Giọng nói đều đều bài bản của viên quản giáo như những tiếng động vô nghĩa, lả tả rụng rơi không một âm vọng. Còn lại nụ cười tươi của người lính tỏa rạng, lan xa, tiếp chuyền với tiếng cười hạnh phúc trong khu rừng trưa giòn tan bóng nắng. Còn lại giấc mơ đời người mà sao cuộc trở về đã chợt vĩnh chung.
Nhóm lính gánh bạn đi theo người tù tuyên úy về phía ngọn đồi bên trên khu canh tác phía ngoài rào trại. Tay ôm tấm hình người lính có nụ cười tươi và ngọn đèn dầu chai thay nến leo lét cháy, ông cúi đầu chậm rãi bước trong chiều hôm. Cơn mưa thay mùa đêm trước làm lối dốc đất đỏ nhão mềm. Từng bước chân khổ ải bấm vào đất đỏ như máu rịn tươm đi về phía huyệt mộ. Lời kinh cầu khản nghẹn cơn đau thương trầm thống như heo may về đan kín ngày tháng muộn phiền. Người lính tù đứng lặng nhìn ánh đèn chuyến xe tốc hành trên quốc lộ chạy về phía quê hương. Ngọn đèn xa xăm như vì sao băng trễ nải muộn màng. Giấc mơ anh nơi đó. Gia đình vợ con, chắt chiu trong hồn anh đằm thắm thiết tha, sao chợt xa xôi như tận cuối một tinh cầu.
Cặp gà lớn nhanh trong sự săn sóc của nhóm lính tù. Dải đất trống phía ngoài rào trại vui mắt hơn với hình ảnh cô cậu gà trổ mã dẫn nhau đi tìm ăn. Chiếc đuôi sặc sỡ của chú gà trống cong dài, láng mượt, lôi cuốn cô gà mái lông màu vàng mơ bươn bả theo sau như bóng với hình. Chú gà thường đắc chí vỗ xành xạch đôi cánh vũ óng ánh màu đỏ tía rồi cất tiếng gáy rồ rồ cụt ngủn như cậu con trai vừa bể giọng. Chú chăm chỉ luyện giọng nên chẳng mấy chốc mà tiếng gáy đã sắc sảo uy nghi. Mỗi sáng sớm, chú nhảy ra khỏi góc bếp, bay qua rào rồi bươn chạy ra dải đất trống phía cổng trại, cất tiếng gáy chào đón bình minh. Một buổi sáng, đoàn tù cuốc xẻng trên vai theo nhau bước qua cổng trại ra vùng canh tác lao động. Không hẹn mà họ cùng dừng chân, xúc động nhìn con gà trống đứng hùng dũng trên nóc pháo tháp xác chiếc T54 hoen rỉ, cháy nám, loang lổ vết đạn. Chú oai vệ vỗ cánh, cổ vươn cao cất tiếng gáy sang cả uy nghi. Cảm giác bồi hồi nghe chân mình dõng dạc bước đi trong tiếng gáy uy vũ vang vọng chiến thắng đã mang lại cho người lính tù chút giây phút ấm lòng mỗi sáng bước qua cổng trại tù.
Buổi sáng, lần đầu tiên nhóm lính tù chứng kiến cảnh con gà trống đạp mái là một ngày vui trọng đại. Những lời phê phán, đùa bỡn qua lại, ồn sặc trong khói thuốc lào gắt nồng. Đây là lần chúng nó bị bắt quả tang đang "dĩnh" phao câu, còn bao nhiêu lần chùng lén trước mình không biết thì sao? Như vậy là tiền dâm hậu thú, không được. Lo mà cưới hỏi cho tụi nó gấp đi. Không thấy thằng Tía mặc áo mưa gì cả, sớn sác mà con Mơ chình ình cái bụng lên thì mang tiếng với xóm giềng chết...
Thế là nhóm lính tù chia hai, làm sui. Đàng trai đàng gái xúm lại làm đám cưới cho thằng Tía, con Mơ. Tiệc cưới cũng rình rang lắm. Chè bí đường tán, chè long tu, cà phê gạo rang, nước rể tranh, thuốc lào, thuốc điếu... Mọi người vui vẻ suốt buổi sáng cuối tuần hôm đó.
Cuộc hôn nhân cũng trải qua những thử thách gay go. Không lâu sau ngày cưới, một con gà mái lạ thỉnh thoảng mon men vào trong sân tìm trống. Chỉ sau vài chạng vạng kín đáo theo dõi gã vệ binh hối hả nuôi con gà mái vừa sở hữu, nhóm lính tù đã dò biết được lý lịch của o gà bộ đội. O được người vệ binh có giọng nói sệt nặng miền ngoài bồng theo về sau lần thăm quê mới đây. Khoảng đất trống màu mỡ có lắm cái ăn, mà o gà bộ đội lại lắm từng trải bon chen nên o mập ra và láng lẩy nhanh đến trông thấy. Gã vệ binh rất nóng lòng trong việc tăng gia cải thiện. Hắn chong chuốc nghĩ tới bầy gà con, rồi bầy gà lớn lên, tiếp tục sanh sôi, làm lòng hắn cứ bấn lên khoan khoái. Mỗi lần nhác thấy bóng chú gà trống đi thơ thẩn trong sân là hắn vội vàng xua gà chui qua rào, miệng hăm hở thúc giục răn đe. Con gà mái của gã vệ binh lật đật bước quanh sân, lông xù ra, từ chiếc mỏ phát ra tiếng rù rúc gọi tình. O tiến tới trước mặt con Tía, rùn người xuống, lông đuôi sừng dựng lên chờ đợi.
- Đây là thế "bành kê dụ địch", rất là gay cấn. Để coi thằng Tía xử sự ra sao. Đang hồi hộp theo dõi từng diễn biến trên khoảng sân trống, nhóm lính nghe người bạn tù trẻ dí dỏm diễn nghĩa, không nén được tiếng cười. Con Tía nghểnh cổ nhìn vội o gà mái quá thì lang chạ. Hắn cất tiếng gáy gọn lảy chê bai rồi chạy theo con Mơ đang kiêu sa bước về phía rào trại. Có tiếng gã vệ binh bực dọc gọi gà về chuồng. Tiếng quát tháo phát ra từ phía bụi chuối bên kia khoảng sân trống chìm dần trong bóng tối cuối ngày.
3.
Hai người lính tù bước ra khỏi nơi kiên giam. Họ được thả sớm một ngày nhờ gia đình Hổ lên dời mộ, ban quản trại cho phép đến thăm để nhận di vật của chồng. Lối vào trại nắng chói chang, có lẽ vì suốt tuần lễ qua họ mãi nằm trong bóng tối. Mẹ Mơ đã bỏ ổ, theo bố Tía, dẫn con đi ăn trong khoảng sân quen thuộc. Họ đứng lặng người nhìn cảnh gia đình đầm ấm của đàn gà. Con gà trống tuy chậm chạp vì vết thương chưa lành, đôi chân vẫn bận rộn bươi xới tìm mồi. Bầy gà con như những nắm tơ vàng óng, ríu rít quẩn quanh dưới đôi cánh mẹ xù lên bảo bọc. Con gà mái tơ hôm nào, bây giờ là bà mẹ hiền thảo, sẵn lòng liều chết vì con. Một lát nữa đây đàn gà sẽ được trao lại cho gia đình người bạn tù. Điều nhỏ nhoi sót lại từ giấc mơ của một đời người. Còn niềm hạnh phúc lớn lao của cuộc trở về thì đã ngàn thu.
Anh nghĩ tới người đàn bà trẻ sống trọn vẹn với chồng những buổi rừng trưa năm trước, bây giờ là một người mẹ. Anh tự nhủ sẽ không quên hỏi tên đứa con nàng ẵm theo trong ngày dời mộ cha. Anh đã biết, anh vẫn nhớ, bởi đó là tên giấc mơ của người cha đã sống động trong từng hơi thở, tiếng gọi mỗi ngày. Anh chỉ muốn được một lần nghe lại âm thanh trìu mến đó, từ người mẹ, như sự an ủi cuối cùng cho người lính tù tuẫn nạn. Cho anh. Để nhủ lòng mà sống qua cơn mộng dữ.
Phan Thái Yên
https://vnthuquan.net/mobil/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnnnvn2ntn31n343tq83a3q3m3237nvn
Nguồn: https://vnthuquan.net/mobil/tacpham.aspx?tacgiaid=1510
000000000000000000000000000000
1
2
3
4
5
6
Special Force
|
<
========================================================
Ba mươi sáu kế
_ BS. Đỗ Hồng Ngọc –
Saigon bây giờ không thấy có người đẹp nữa! Xưa ra đường cứ thấy người ta vừa chạy xe vừa… ngoái đầu lại để nhìn gái, phụ nữ! Bây giờ hết rồi!! Bây giờ ra đường người con gái nào cũng trùm kín mặt, mang vớ dài tay, găng tay kín mít, áo khoác sùm sụp, đầu đội mũ bảo hiểm, chỉ chừa hai con mắt lom lom qua kính bảo hộ…
Ở trên cao nhìn xuống người người dày đặc, từng luồng từng luồng cuồn cuộn trôi đi, lâu lâu cụng mũ bảo hiểm một cái rồi mạnh ai nấy đi, cứ như đàn kiến… Đi bộ trên đường nhiều khi gặp người chào hỏi thân thiện mà chẳng biết ai là ai, đến lúc như chợt nhớ ra họ mới gỡ khẩu trang cười lỏn lẻn. May thay, con gái Saigon bây giờ tuy che mặt mà lại hở đùi! Họ mặc quần short thật ngắn ra đường bất kể sáng trưa chiều tối. Nhờ đó mà cũng có thể nhìn ra người đẹp! Có điều hơi nguy hiểm cho giao thông công cộng vì đường sá không thông thoáng như xưa.
Áo dài thì khó mà tìm thấy nữa rồi- trừ trên sân khấu và sàn diễn thời trang. Con gái vì thế mà không còn yểu điệu, dịu dàng, tha thướt nữa. Ngay cả những ngày lễ tết, ở đường hoa Nguyễn Huệ rực rỡ vậy mà cũng khó tìm thấy một tà áo dài.
Năm nay chợ Hoa Tết đã dời về đường Hàm Nghi, nhưng mà bị ế ẩm thê thảm. Áo dài kiểu, áo dài thời trang chỉ thấy ở một số đền, chùa và mấy địa điểm chọn lựa để quay phim ảnh xã hội, thời trang, ca nhạc để lôi cuốn dụ dỗ dân chúng.
Mọi người trở nên hấp tấp, vội vã, căng thằng hơn bao giờ hết. Cái lý do vì sao mất áo dài rồi phải trùm kín mít cả người như vậy thì ai cũng biết. Bụi khói mù trời. Không khí hừng hực, ô nhiễm… Môi trường đô thị ngày càng xấu đi….. Cây xanh tàn rụi. Cao ốc vùn vụt bốc lên!
Một số Việt Kiều và các công ty ngoại quốc nhào vô, chạy về đầu tư xây các cơ sở và các cao ốc như điên……. Năm nay đã có khoảng chừng Một Triệu Việt Kiều theo lời dụ dỗ ngọt ngào, gian trá nên đã đua nhau về ăn Tết, hưởng xuân hoan lạc ở Việt Nam, nên họ đã đem tiền ngoại tệ về nuôi cho dân Sai-Gon được béo bổ, mập phì ra……..
Ai cũng biết fastfood tới đâu thì các bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, huyết áp… theo tới đó. Mà bệnh tật càng tăng nhiều thì… càng tốt chớ sao. Thuốc men, thực phẩm chức năng, quảng cáo ồn ào thì kinh tế càng phát triển. Thức ăn thức uống toàn là hương liệu, hoá chất, bột nêm độc hại…. thế nhưng các thứ đó làm cho chuyện bếp núc trở nên đơn giản……
Có một số quán ăn, tiệm ăn bình dân, công cộng lại có các nàng tiếp viên, tiếp thị và các nàng phục vụ chạy bàn…. khỏa thân 100 % trần truồng như nhộng để câu khách…. Thế là Việt Kiều và các du khách ngoại quốc rủ nhau, kéo nhau về VN để hưởng các cảnh hoan lạc, thú vui nhục dục của thiên đường hạ giới Sai-Gon.
Cứ xem TV thì biết. Người nào người nấy già trẻ lớn bé mặt mũi bóng lưỡng, hí hửng chụp giựt nước uống thức ăn, nhảy nhót mừng vui tưng bừng mọi nơi mọi lúc!
Saigon bây giờ cận thị quá trời! Trẻ con nứt mắt đã cận thị. Mẫu giáo tiểu học cận thị tùm lum.Tiệm kiếng mở ra tràn ngập, góc nào cũng có…
“Chỗ nào rẻ hơn trả lại tiền!”. Ấy cũng nhờ vi tính, game online, TV… các thứ ngày càng hấp dẫn. Thế giới nhỏ trong lòng bàn tay. Trẻ con sướng như tiên. Đồ chơi trên trời dưới biển khắp hang cùng ngõ hẹp….. Thỉnh thoảng kêu có hóa chất độc hại. Khi biết thì mọi thứ đã muộn rồi…. Kể cả thuốc “cam” nổi tiếng một thời nay gây ngộ độc chất chì không thuốc chữa. Lạ là người ta vẫn cứ tin và vẫn cứ nhắm mắt uống càn, uống ẩu tả, mặc kệ nó!
Các loại sữa “thông minh” dành cho trẻ con ngày càng nhiều, khiến các bà mẹ không muốn cho con bú sữa mình nữa. Rõ ràng các thế hệ trước đây không được uống sữa thông minh nên có vẻ kém… thông minh!
Saigon bây giờ loãng xương hơi nhiều. Đi ngoài đường thấy người ta lố nhố, tụ tập, tưởng gì, hóa ra đang túm tụm đo xương! Có người tử tế, vì sức khỏe cộng đồng, đem máy đo mật độ xương ra ngoài đường đo cho ông đi qua bà đi lại.
Ai cũng loãng xương kẻ ít người nhiều! Sau đó ai cũng mua một vài hộp sữa, một vài loại thuốc chống loãng xương là xong.
Saigon bây giờ đua nhau sửa sắc đẹp. Ai cũng sửa được, không cần phải học. Ai cũng nên sửa, từ cô hoa hậu đến ca sĩ, người mẫu, cô hàng xén, anh doanh nhân.
Bơm vú bơm mông, cắt mắt, xẻ mũi, chẻ cằm rào rào…..
Ai cũng thành người mẫu , ca sĩ nam Hàn. Nhan sắc rộ lên khiến các nhà thơ bí lối, bí nguồn cảm hứng, không còn làm thơ được nữa! Saigon bây giờ trẻ con bỗng dậy thì sớm…
Không dậy thì sớm cũng uổng ! Mọi thứ kích thích nhục dục , tình dục cứ rần rật chung quanh. Phim ảnh, internet, sách báo , phim dâm , phim con heo xxx , xxxx… các thứ đầy dẫy khắp nơi …… Thức ăn thức uống béo bổ các thứ. Khí hậu nóng lên , nhiệt khí cơ thể lúc nào cũng nóng sôi lên , đòi hỏi , thèm khát tình dục ….. Bởi vậy tỷ lệ phá thai của các vị thành niên gia tăng một cách đáng lo ngại…..
[b] Các thanh thiếu niên phần nhiều đua nhau sống cuồng, sống vội, sống ẩu tả, bừa bãi, vô văn hóa, vô giáo dục, sống lăng loàn, ma túy, bất cần đời……..Tình trạng vô sinh cũng nhiều. Ly dị cũng gia tăng nhiều và mau. Người ta đua nhau mổ đẻ cho đúng giờ hoàng đạo. Các trẻ sanh non, suy hô hấp, thiếu dưỡng khí não, thiếu chăm nom, săn sóc tốt nên lớn lên bị các chứng bệnh tâm thần cả đống, cũng bộn!
Tóm lại, sức khỏe và các đường lối các phương cách giáo dục cộng đồng ở Saigon bây giờ có nhiều điều đáng suy gẫm…… Sài Gòn đẹp lắm nay còn đâu!!!![b]
đầu đội mũ bảo hiểm, chỉ chừa hai con mắt lom lom qua kính bảo hộ!
Ở trên cao nhìn xuống người người dày đặc, từng luồng từng luồng cuồn cuộn trôi đi, lâu lâu cụng mũ bảo hiểm một cái rồi mạnh ai nấy đi, cứ như đàn kiến… Đi bộ trên đường nhiều khi gặp người chào hỏi thân thiện mà chẳng biết ai là ai, đến lúc như chợt nhớ ra họ mới gỡ khẩu trang cười lỏn lẻn. May thay, con gái Saigon bây giờ tuy che mặt mà lại hở đùi! Họ mặc quần short thật ngắn ra đường bất kể sáng trưa chiều tối. Nhờ đó mà cũng có thể nhìn ra người đẹp! Có điều hơi nguy hiểm cho giao thông công cộng vì đường sá không thông thoáng như xưa.
Áo dài thì khó mà tìm thấy nữa rồi- trừ trên sân khấu và sàn diễn thời trang. Con gái vì thế mà không còn yểu điệu, dịu dàng, tha thướt nữa. Ngay cả những ngày lễ tết, ở đường hoa Nguyễn Huệ rực rỡ vậy mà cũng khó tìm thấy một tà áo dài.
Năm nay chợ Hoa Tết đã dời về đường Hàm Nghi, nhưng mà bị ế ẩm thê thảm. Áo dài kiểu, áo dài thời trang chỉ thấy ở một số đền, chùa và mấy địa điểm chọn lựa để quay phim ảnh xã hội, thời trang, ca nhạc để lôi cuốn, dụ dỗ dân chúng.
Mọi người trở nên hấp tấp, vội vã, căng thằng hơn bao giờ hết. Cái lý do vì sao mất áo dài rồi phải trùm kín mít cả người như vậy thì ai cũng biết. Bụi khói mù trời. Không khí hừng hực, ô nhiễm…. Môi trường đô thị ngày càng xấu đi….. Cây xanh tàn rụi. Cao ốc vùn vụt bốc lên!
Một số Việt Kiều và các công ty ngoại quốc nhào vô, chạy về đầu tư xây các cơ sở và các cao ốc như điên……. Năm nay đã có khoảng chừng Một Triệu Việt Kiều theo lời dụ dỗ ngọt ngào, gian trá nên đã đua nhau về ăn Tết, hưởng xuân hoan lạc ở Việt Nam, nên họ đã đem tiền ngoại tệ về nuôi cho dân Sai-Gon được béo bổ, mập phì ra.
Ai cũng biết fastfood tới đâu thì các bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, huyết áp… theo tới đó. Mà bệnh tật càng tăng nhiều thì… càng tốt chớ sao. Thuốc men, thực phẩm chức năng, quảng cáo ồn ào thì kinh tế càng phát triển. Thức ăn thức uống toàn là hương liệu, hóa chất, bột nêm độc hại…. thế nhưng các thứ đó làm cho chuyện bếp núc trở nên đơn giản……
Có một số quán ăn, tiệm ăn bình dân, công cộng lại có các nàng tiếp viên, tiếp thị và các nàng phục vụ chạy bàn…. khỏa thân 100 % trần truồng như nhộng để câu khách…. Thế là Việt Kiều và các du khách ngoại quốc rủ nhau, kéo nhau về VN để hưởng các cảnh hoan lạc, thú vui nhục dục của thiên đường hạ giới Sai-Gon.
Cứ xem TV thì biết. Người nào người nấy già trẻ lớn bé mặt mũi bóng lưỡng, hí hửng chụp giựt nước uống thức ăn, nhảy nhót mừng vui tưng bừng mọi nơi mọi lúc!
Saigon bây giờ cận thị quá trời! Trẻ con nứt mắt đã cận thị. Mẫu giáo tiểu học cận thị tùm lum. Tiệm kiếng mở ra tràn ngập, góc nào cũng có…
“Chỗ nào rẻ hơn trả lại tiền!”. Ấy cũng nhờ vi tính, game online, TV… các thứ ngày càng hấp dẫn. Thế giới nhỏ trong lòng bàn tay. Trẻ con sướng như tiên. Đồ chơi trên trời dưới biển khắp hang cùng ngõ hẹp….. Thỉnh thoảng kêu có hóa chất độc hại. Khi biết thì mọi thứ đã muộn rồi…. Kể cả thuốc “cam” nổi tiếng một thời nay gây ngộ độc chất chì không thuốc chữa. Lạ là người ta vẫn cứ tin và vẫn cứ nhắm mắt uống càn, uống ẩu tả, mặc kệ nó!
Các loại sữa “thông minh” dành cho trẻ con ngày càng nhiều, khiến các bà mẹ không muốn cho con bú sữa mình nữa. Rõ ràng các thế hệ trước đây không được uống sữa thông minh nên có vẻ kém… thông minh???
Saigon bây giờ loãng xương hơi nhiều. Đi ngoài đường thấy người ta lố nhố, tụ tập, tưởng gì, hóa ra đang túm tụm đo xương! Có người tử tế, vì sức khỏe cộng đồng, đem máy đo mật độ xương ra ngoài đường đo cho ông đi qua bà đi lại.
Ai cũng loãng xương kẻ ít người nhiều! Sau đó ai cũng mua một vài hộp sữa, một vài loại thuốc chống loãng xương là xong.
Saigon bây giờ đua nhau sửa sắc đẹp. Ai cũng sửa được, không cần phải học. Ai cũng nên sửa, từ cô hoa hậu đến ca sĩ, người mẫu, cô hàng xén, anh doanh nhân.
Bơm vú bơm mông, cắt mắt, xẻ mũi, chẻ cằm rào rào …..
Ai cũng thành người mẫu, ca sĩ nam Hàn. Nhan sắc rộ lên khiến các nhà thơ bí lối, bí nguồn cảm hứng, không còn làm thơ được nữa! Saigon bây giờ trẻ con bỗng dậy thì sớm…
Không dậy thì sớm cũng uổng! Mọi thứ kích thích nhục dục, tình dục cứ rần rật chung quanh. Phim ảnh, internet, sách báo, phim dâm, phim con heo xxx, xxxx… các thứ đầy dẫy khắp nơi…… Thức ăn thức uống béo bổ các thứ.
Khí hậu nóng lên, nhiệt khí cơ thể lúc nào cũng nóng sôi lên, đòi hỏi, thèm khát tình dục….. Bởi vậy tỷ lệ phá thai của các vị thành niên gia tăng một cách đáng lo ngại…..
[b] Các thanh thiếu niên phần nhiều đua nhau sống cuồng, sống vội, sống ẩu tả, bừa bãi, vô văn hóa, vô giáo dục, sống lăng loàn, ma túy, bất cần đời……..Tình trạng vô sinh cũng nhiều. Ly dị cũng gia tăng nhiều và mau. Người ta đua nhau mổ đẻ cho đúng giờ hoàng đạo. Các trẻ sanh non, suy hô hấp, thiếu dưỡng khí não, thiếu chăm nom, săn sóc tốt nên lớn lên bị các chứng bệnh tâm thần cả đống, cũng bộn!
Tóm lại, sức khỏe và các đường lối, các phương cách giáo dục cộng đồng ở Saigon bây giờ có nhiều điều đáng suy gẫm…… Sài Gòn đẹp lắm nay còn đâu!!!![b]
No comments:
Post a Comment