Tuesday, September 12, 2017

 




NGHĨA QUÂN



nguoiviettudo


– Rất vui được nói chuyện với chú. Chú có thể cho biết tên tuổi, cấp bậc, đơn vị...

– À, tôi tên Nguyễn Văn Ba, Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân, sáu mươi sáu tuổi.

– Ngày 30/4/75 chú còn ở trong quân đội?

– Tới ngày 6/5/75…

– Nghĩa là chú vẫn cầm súng sau 30/4/75?

– Tụi tôi vẫn chiến đấu mặc dù đã biết có lệnh đầu hàng.

– Chú nghĩ gì về cuộc chiến tranh Việt Nam?

– Rất đơn giản: bên mình (VNCH) phải tự vệ vì bị bên kia (VC) tấn công. Hễ buông súng là chết...



– Chú có thể giải thích rõ hơn một chút!

– Tụi nó đánh mình, phá hoại nhà cửa đất nước mình, bổn phận mình là phải chống trả để tự vệ. Cũng giống như bị cướp vào nhà, mình không muốn vợ con bị hại thì mình phải chống lại.

– Nhiều người cho rằng chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ý thức hệ, chú nghĩ sao?

– Ý thức hệ cái con mẹ gì. Lính VNCH chiến đấu để tự vệ, chiến tranh ý thức hệ là sản phẩm của mấy cha mấy mẹ trí thức chồn lùi, sa lông. Mấy cha mấy mẹ muốn chứng tỏ mình học giỏi, thông minh hơn người khác nên chế ra vụ ý thức hệ để hù con nít...

– Vậy đánh nhau giữa Bắc Việt và Nam Việt không phải do ý thức hệ?

– Để tôi cho em một thí dụ dễ hiểu: Nếu Cộng sản miền Bắc (CSMB) không xúi dục đám Giải Phóng Miền Nam (GPMN) và không đưa lính vào phá miền Nam liệu chiến tranh có xảy ra hay không?
Nếu tụi nó cứ ở yên ngoài đó mà xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản, dân miền Nam có đi lính không? Trả lời được câu này em sẽ thấy chẳng ý thức hệ con mẹ gì hết!

– Có người lại cho rằng chiến tranh Việt Nam là nội chiến, chú đồng ý không?

– Theo suy nghĩ của tôi – nội chiến là người cùng một nước đánh nhau vì tranh giành hay bất đồng gì đó. VNCH và VNDCCH (CSMB) là hai nước độc lập đâu phải anh em trong nhà.

– Nói về anh em trong nhà lại có người cho rằng miền Nam và miền Bắc đánh nhau theo kiểu huynh đệ tương tàn. Chú nhận xét thế nào?

– Đó là ý nghĩ của đám trốn lính. Tụi này là thứ hèn nhát sợ chết nên phải chế ra vụ huynh đệ tương tàn để từ chối đi lính. Tụi nó nại cớ không muốn bắn vào anh em.

– Một người viết cho rằng VNCH điên cuồng chống Cộng. Tác giả này còn đưa ra hình ảnh của hai nhân vật mà tác giả gọi là đại diện của hai quân đội. Một anh tên Lưu Quang Vũ lính miền Bắc, và Nguyễn Bắc Sơn của VNCH. Tôi xin phép đọc thơ của cả hai cho chú nghe (đọc thơ)…

– Đ M thằng nào viết ngu vậy?

– Chú có vẻ tức giận? Xin cho biết lý do…

quận Hòa Đa năm 1971 (photo GCH LuKe) – VNCH mà điên cuồng chống Cộng thì đâu có chính sách chiêu hồi, đâu có bắt tù binh cả trăm ngàn nuôi ăn cho mập rồi trao trả? Thằng cha này chắc chưa bao giờ cầm súng! Cũng chưa bao giờ biết rõ về Việt cộng. Chú em về biểu chả đọc bài của Trần Đức Thạch, cựu lính trinh sát Việt cộng về vụ thảm sát ở miền Đông. Hèn gì VNCH mất sớm chỉ vì còn có nhiều người quá khờ khạo và ngu xuẩn. Cha tác giả này chắc không biết vụ Tết Mậu Thân, Đại Lộ Kinh Hoàng… Tui nói cho chú biết Việt cộng được chính huấn là – đằng trước mũi súng của tụi nó kể cả con gà con chó đều là kẻ thù. Cho nên chúng giết dân vô tội không gớm tay. Được bao nhiêu người trong lính Việt cộng giống như ông Lưu Quang Vũ nào đó? Còn thằng cha Nguyễn Bắc Sơn làm thơ để giải sầu chứ đâu có sĩ quan nào đem bi-đông rượu đi hành quân. Lính khát nước cần nước chứ đâu cần rượu, hơn nữa giữa trận tiền mà say rượu thì chỉ huy sao được? Mạng sống của lính nằm trong tay mình, đâu có giỡn được?

– Xin phép hỏi chú câu khác: Chú có thể kể lại diễn biến những ngày cuối cùng tại sao chú vẫn còn cầm súng cho tới sau 30/4?

– Tôi là Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân. Nhiệm vụ của tôi là đóng đồn ở địa phương. Có mười tám anh em dưới quyền tôi. Ngày đầu hàng tôi biết tụi du kích sẽ không tha mạng nếu bị bắt sống, do đó tôi ra lệnh anh em giải tán về nhà. Còn tôi thì xách cây M16 vô rừng. Tôi tính thí mạng cùi nếu bị phát giác trước sau gì cũng chết vậy nên chọn cái chết cho đáng. Trong số mười tám anh em có sáu thằng tình nguyện theo tôi.

– Rồi sau đó thì sao?

– Khi thấy êm êm tôi nói tụi nhỏ giải tán, trốn đi xứ khác đừng trở về nhà…

– Vậy là chú không trở về nhà? Chú có ân oán gì với du kích địa phương không?

– Thì chiến tranh mà, tránh sao được….

– Vậy có lần nào chú bắn tù binh khi bắt sống không?

– Để tôi kể cho em nghe vụ này: một lần lính đi phục tóm được du kích dẫn về trình diện tôi. Thằng du kích cỡ khoảng mười bốn mươi lăm tuổi, nhìn đã thấy ngờ ngợ. Tới chừng hỏi ra mới biết là con trai của thằng Ba Cội…

– Ba Cội là ai vậy?

– Bạn cùng quê, lớn lên nó theo Việt cộng… Nó là Đội Trưởng du kích, tụi tôi thỉnh thoảng cũng chạm nhau...

– Rồi chú xử con Ba Cội ra sao?

– Xử gì, con nít mà…. tôi đá đít, bạt tai nó mấy cái rồi đuổi về. Tôi biểu nó: Nói với tía mày 'có ngu thì ngu một mình đừng xúi dại con mình đi theo'… Vụ này ban Hai Chi Khu làm hồ sơ chuyển tôi lên Quận. Cũng may ông Quận biết tánh khí tôi nên vỗ vai cười rồi cho tôi về. Ổng biếu tôi chai rượu nói: Tôi biết anh mà anh Ba….

– Sau này chú gặp lại Ba Cội không?

– Không, Ba Cội chết rồi. Bị Thám Sát Tỉnh dứt…

– Còn con Ba Cội?

– Nghe nói nó qua Công An bây giờ làm lớn lắm. Thời gian tôi trốn, nó có ghé nhà vợ tôi hỏi thăm. Có cho mấy chục ký gạo. Nghe nói nó có cám ơn tôi…

– Rồi chú ra trình diện hay bị bắt?

– Bị bắt. Trốn hoài mệt quá, cũng mấy năm sau nhớ vợ con mò về thăm…

– Chú bị bao lâu?

– Sáu năm, tám tháng, mười bốn ngày!

– Vậy sao chú không xin đi HO?

– HO gì tôi, mình đâu phải sĩ quan, mà chữ Anh chữ U mình đâu có biết gì…

– Sau khi trở về nhà chú có bị khó dễ gì không?

– Nói thiệt chú nghe, Việt cộng nó ghét lính Tổng Trừ Bị (ND, TQLC, BDQ...) một, nó ghét tụi tôi mười. Lính Trừ Bị đánh giặc xong rồi rút đi. Còn tụi tôi, nơi đây là nhà cửa, tài sản, vợ con, xóm giềng, địa phương mình... nên tụi tôi sống chết cũng cố thủ, tụi nó đánh hoài mà không chiếm được. Nó đì tôi sói trán, nhưng mình thua rồi thì cứ làm câm làm điếc mà sống.

– Chú có cơ hội nào gặp lại mấy anh em dưới quyền?

– Có, hai thằng em giờ nghèo lắm, còn ba thằng đi vượt biên. Tội nghiệp! Huynh đệ chi binh thỉnh thoảng hùn tiền gởi về cho mấy đứa nghèo.

– Họ có giúp chú không?

– Có, mà tôi không nhận. Vợ con buôn bán cũng sống được, để dành cho mấy đứa em khổ hơn mình.

– Xin phép chú được hỏi một câu về chính trị: Có vài người đang hô hào hòa hợp hòa giải với Việt cộng chú nghĩ sao?

– Tôi cảm ơn chú em đã tôn trọng mà hỏi tôi, cỡ Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân học hành bao nhiêu. Nhưng như tôi đã nói hòa hợp hòa giải là anh em trong nhà có chuyện xích mích mới ngồi xuống mà nói chuyện. Còn đàng nầy nước mình (VNCH) bị nước khác (VNDCCH, CSMB) đánh chiếm thì làm sao mà có chuyện đó. Tôi hỏi chú em: Tầu lục địa đánh chiếm Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ… liệu dân mấy nước đó có chịu hòa hợp hòa giải với Tàu không?

– Bây giờ nói chơi cho vui một chút, chú biết Nguyễn Tấn Dũng chớ?

– Biết…

– Thí dụ nếu ngày xưa chú đi kích bắt được Nguyễn Tấn Dũng thì chú làm sao, cha này nghe nói trước đây cũng là du kích mà...

– Nguyễn Tấn Dũng cũng cỡ tuổi tôi. Hồi đó có bắt được chắc cũng bợp tai đá đít vài cái rồi gởi về cho ban Hai.

– Nếu chú biết trước Nguyễn Tấn Dũng sẽ là Thủ Tướng sau nầy chú tính sao?

– Làm sao biết được? Nhưng như chú em nói nếu có thiên lý nhãn thấy được vị lai tôi sẽ tính cách khác!

– Cách nào chú có thể cho biết…

– Bí mật quân sự mà chú em, làm sao cho biết được… thì cũng cỡ như Người Nhái Mỹ với Osama Bin Laden vậy thôi.

(cười..)

– Vậy chớ bây giờ hỏi vui chú em điều này: Đố chú em biết đám mới về hưu kỳ rồi (Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng…) đang làm gì?

Bí hả? Tụi nó đang viết kiến nghị! Thằng cộng sản nào về hưu cũng giỏi viết kiến nghị hết.

(cười...)

– Cụng ly cái chú Ba...

– Tôi thấy chú lớn tuổi rồi và cũng đã cống hiến phần vụ của mình cho Tổ Quốc. Giả sử bây giờ nếu đất nước (VNCH) cần, chú dám cầm súng trở lại không?

– Già rồi, giờ chỉ nghỉ ngơi vui với con cháu. Nhưng nếu phải chiến đấu để lấy lại đất nước VNCH từ bất cứ ai chết tôi cũng chịu chú à. Cầm súng không nỗi thì cầm dao, bất cứ cái gì….

– Chiến tranh qua rồi giờ nghĩ lại chú có thấy căm thù lính bên kia không?

– Không, lính chỉ biết theo lệnh. Căm thù là căm thù đám lãnh đạo. Đám này đã lừa gạt lính của nó vào trong nầy chết cả triệu. Cả triệu gia đình ngoài kia mất người thân đến nỗi không có cái xác mà chôn. Hồi đó thiếu gì dịp bắn chết tù binh rồi quẳng xuống sông phi tang mà mình làm không được, ngoài chiến trường bắn nhau thì OK; nhưng bắt tù binh rồi tôi chuyển qua cho ban Hai thẩm vấn coi như mình xong nhiệm vụ. Cũng là con người với nhau cũng có gia đình, cha mẹ, vợ con... sung sướng gì bắn người đã ngã ngựa?

– Theo chú những người cộng sản có nghĩ như vậy không?

– Tôi đã nói rồi, tụi nó được chính huấn coi mỗi thứ trước đầu súng là kẻ thù cần phải giết hết. Thương binh của nó nó còn giết phi tang huống hồ gì lính mình. Bởi vậy mình thua nó vì phía bên mình còn nhân đạo quá!

– Dạo này có nhiều cuộc biểu tình về môi trường mà lượng người tham gia không đông. Có vẻ như dân Sài Gòn rất thờ ơ cho chính tương lai của đất nước và của gia đình họ. Chú có ý nghĩ gì không?

– Giỡn hoài chú em mày! Để tôi nói cho chú em mày rõ: dân Sài Gòn thứ thiệt thì hoặc là ở nước ngoài hoặc là chết tù chết biển hết. Còn dân “Sài Gòn” bây giờ đa số toàn tụi Ba Ke 75. Tụi nầy thừa hưởng biết bao quyền lợi từ “bác” và “đảng” đâu có ngu gì chống! Cỡ phân nửa Sài Gòn bây giờ là dân nguyên thủy VNCH thì Việt cộng hết nước sống!

– Chắc chú biết chuyến thăm của Obama. Ổng còn ghé ăn bún chả rồi thăm chùa Tàu gì đó ở Sài Gòn…

– Biết chớ, có điều tổng thống của chú em đi lộn chỗ! Đáng lẽ ổng phải ghé mấy cái quán “phở chửi” “cháo mắng” để biết văn hóa của Xã Hội Chủ Nghĩa. Thay vì viếng chùa Tàu.
Ổng nên đi thăm Nguyễn Trường Tộ và Sầm Đức Xương (mấy thằng cô hồn các đãng môi giới và mua trinh nữ sinh) để ổng học thêm về “đỉnh cao trí tuệ của loài người”…

– Chú Ba vui quá!! Cảm ơn chú về cuộc nói chuyện này. Chú có muốn nhắn gì với anh em không?

– Ai?

– Những người lính cùng chung chiến tuyến ngày xưa.

– À, vậy thì tôi xin có chút lời:

Thưa anh em tôi Nguyễn Văn Ba, Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân xin có lời chào hỏi anh em mình: Tôi chỉ muốn nói là tôi hãnh diện từng chiến đấu dưới cờ của VNCH như anh em. Tuổi trai trẻ của tụi mình đã không phí phạm. Tôi cũng có nhiều dịp gặp anh em thương binh thỉnh thoảng ngồi uống cà phê, hút điếu thuốc. Anh em coi vậy chớ hãnh diện lắm vì đã cống hiến phần thân thể mình cho đất nước. Khổ thì có khổ, nhưng tới ngày chết tụi tôi còn ở trên quê hương không bao giờ mất đi niềm hãnh diện từng là người lính VNCH: 'Đi dân nhớ ở dân thương' phải không các chiến hữu?

CHÚ THÍCH: Đã xóa rất nhiều chữ Đỗ Mười (và tiếng khề khà rượu đế chưng cất tại nhà, rượu hạng nhất) để bài viết dễ đọc hơn. Chú Ba vẫn còn sống ở Việt Nam, những lời chú tâm sự là từ đáy lòng bởi tin tưởng nhau hơn hai chục năm trời giữa chú và tôi.

Cảm ơn chú Ba. Đ M VC hả chú Ba? Ô Kê Sa Lem chú Ba!

nguoiviettudo

https://baovecovang2012.wordpress.com/2016/06/08/nghia-quan-nguoiviettudo/

 

Photo: Khanh Nguyen and other veterans participated as dozens of Vietnamese community members marked the 42nd anniversary of the Fall of Saigon with a solemn Black April ceremony at the James P. McEntee Plaza at the County Government Center in San Jose, Calif., Saturday, April 29, 2017. (Patrick Tehan/Bay Area News Group)

Người lính Địa Phương Quân năm xưa

 


Photo:



Photo



 



QUA NHỮNG TRẠI TÙ CỘNG SẢN...

- CAO HOÀI SƠN
quận Hòa Đa năm 1971 (photo GCH LuKe) Mười hai giờ trưa ngày 30/4/75. Tổng thống VNCH Dương Văn Minh đọc trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, ra lệnh cho Quân Lực VNCH buông súng, chờ giao chính quyền cho Cộng Sản. Như cơn sét đánh bên tai, tôi bàng hoàng trong giây lát. Miền Nam mến yêu đâu còn nữa, qua bao năm chiến đấu tốn không ít máu xương, giờ phải chịu buông súng đầu hàng?

Tôi chào từ biệt vị Tiểu Đoàn Trưởng TD/229/ÐP Nguyễn Hữu Tiến và anh em trong đơn vị, tìm đường trở về quê Chợ Lầu, Phan Rí thăm mẹ già và vợ cùng hai con. Tôi băn khoăn mãi không biết nên đi bằng đường bộ hay bằng ghe và khi về thì phải trình diện ở đâu. Chợ Lầu tuy là quê tôi nhưng mà tôi đã gây ân oán giang hồ với Việt cộng nằm vùng rất nhiều, vì khi còn ở Đại Đội 118/Ðịa Phương Quân. Tôi đã chỉ huy binh sĩ làm cỏ bọn du kích nằm vùng nhiều quá, có thể chưa kịp nhìn thấy vợ con thì đã bị trả thù cũng có.
Tôi cũng vừa nhận được tin ba tôi đã tự tử chết tại nhà, mãi đến ba ngày sau ông ngoại tôi lên xã xin đem chôn mới được “Cách Mạng” đồng ý.

Ngày 17/4/75 sau khi Bắc Bình Thuận bỏ ngỏ. Việt cộng từ trong rừng tràn về chiếm chánh quyền, Ba tôi không chịu trình diện tại Xã để chúng sai khiến. Tối đó ông quyết định uống độc dược quyên sinh. Trước khi chết ông dùng sơn viết lên tường nhà hàng chữ để lại cho các con. “ba thà làm phân xanh cho cây cỏ còn hơn sống chung với Cộng Sản.”

Chúng kết tội ông là CIA phản động. Với chức vụ nhỏ nhoi là phụ tá cho Chi Chiêu Hồi Hòa Ða, chính quyền vừa cướp được lấy làm tức tối, vì có một tên cực kỳ phản động dám công khai dùng cái chết để phỉ nhổ vào mặt chúng.

Thế là cả bọn kéo đến đầy nhà, lục soát lấy đi những gì mà không thuộc về chúng, như một lũ kên kên cướp cạn, chỉ thiếu một điều là không ăn xác chết. Và tôi cũng nhận được tin Th/sĩ Nguyễn Thìn, Cảnh Sát Ðặc Biệt Chi Khu Phan Lý Chàm bị chúng bắt trói đem vào rừng giết man rợ còn hơn thời Trung Cổ.

Cuối cùng tôi quyết định dùng ghe từ Long Hải để về Phan Rí Cửa và trình diện tại đây, dầu sao cũng đỡ hơn tại Chợ Lầu, nơi cạm bẫy đang rình rập tôi, muốn một lần nhìn lại người thân rồi thì thân xác này có bị ra sao thì mặc. Tôi biết Việt cộng sẽ trả thù lên thân xác, và gia đình những chiến sĩ QLVNCH, trong đó có tôi.

Sáng sớm ngày 3/5/75 tôi đã về đến nhà bình yên. Tôi đi trình diện ngay theo lời khuyên của gia đình ở Thôn Song Thanh, nằm trong Trường Tiểu Học Thanh Lộc. Những lời chửi bới của tên Kỷ Thôn trưởng mà sau mấy mươi năm còn văng vẳng bên tai, trước đây hắn là cơ sở nằm vùng vừa mới ngoi lên mấy ngày nay. Chúng để tôi yên ổn cho đến sáng ngày 5/5/75 thì cho một du kích nguyên trước đây là Nhân Dân Tự Vệ dưới quyền chỉ huy của tôi đến thông báo là trưa nay trình diện tại Thôn lúc 1 giờ để đi học tập.

Tôi không có nghe bảo đem cơm gạo, chỉ nhận lệnh tập trung. Vì nghĩ là đi học tập nên cần gì phải đem đồ nhiều, cần gì thì sau này người nhà sẽ mang cho, từ giã vợ con tôi lên đường nhưng thực tâm biết rõ là khó có ngày về. Hơn 12 giờ trưa tôi đã có mặt tại thôn với một ít hành trang. Tên thôn Trưởng sai du kích đem nhốt tôi vào trong một lớp học, ánh sáng lờ mờ qua khe cửa. Một lúc sau thì có mặt đầy đủ khoảng mười người.
quận Hòa Đa năm 1971 (photo GCH LuKe)

Ðiểm danh sơ qua tôi thấy có Ấp Trưởng Song Thanh là Nhu, Tr/Úy Tăng Văn Ðồng Tr/Ban 5 Chi Khu Hòa Ða, Th/úy Trần Văn Xuân Trưởng ban Nhân Dân Tự Vệ/H Ð, tôi Cao Hoài Sơn Đại Đội Trưởng/Đại Đội 4/Tiểu Đoàn/229/Ðịa Phương, số còn lại là nhân viên xã ấp và Cảnh Sát viên.

Trong lúc chờ đợi xe đến chở đi, tôi được người thân báo cho biết qua khe cửa sổ, có một nhóm định đánh chúng tôi khi trên đường ra xe. Khi tên Thôn Trưởng có mặt tôi liền phản đối thì được hắn trả lời là nhân dân phẫn nộ không can thiệp được. Thì ra chính bọn này mang danh "nhân dân" để tổ chức đánh chúng tôi. Thật quá ư là hèn hạ, chỉ có chế độ cộng sản "ưu việt" mới sản sinh ra giống người này, chuyên môn đánh người ngã ngựa.

Lúc này dân chúng đến xem chật cả sân trường, chỉ chừa một lối đi nhỏ. Nhìn ra không phân biệt được bạn thù, trong số này cũng có rất đông thân nhân đang ra sức ngầm bảo vệ cho chúng tôi lên đường.

Xe đã đến nhưng chúng tôi không ai chịu đi cả, cuối cùng Trưởng Ấp Nhu thí mạng già đi đầu, đám đông chỉ chen lấn. Tôi có ngay quyết định là phải chạy thật nhanh ra xe. Vừa được nửa đường thì vòng vây khép lại, bất chợt một tên chen vào đấm vào mặt tôi, với giỏ xách trên tay, tôi phản ứng nhanh bằng cách quất mạnh vào mặt nó thật mạnh. Một tên khác giơ cao cái mõ lếch loại lớn nhắm đầu tôi đánh xuống. Không còn cách nào khác đành ném cái túi xách giơ hai tay bảo vệ cái đầu. Nhát đánh thật mạnh, làm bầm cả tay và trượt xuống trúng đầu sưng một cục lớn.

May mắn cho tôi, người nhà can thiệp kịp thời bảo vệ lên xe. Nhìn xuống bên dưới một cảnh hỗn loạn xảy ra, hai anh Xuân và Ðồng bị tràn ngâp trong đám đông, kẻ đánh người đạp đến chừng lên được xe thì máu me đầy mình, đấy là nhờ có thân nhân bảo vệ không thi có lẽ khó mà toàn mạng.

Lúc này bên dưới có hai phe đánh nhau kịch liệt, một bên gồm thân nhân chúng tôi ra sức bảo vệ, bên còn lại cố đánh chúng tôi cho bằng được theo lệnh. Bọn du kích phải bắn chỉ thiên loạn xạ để giải tán. Ngày ra đi như vậy, tôi hình dung ra một ngày về thật ảm đạm.

Nhưng mà còn đỡ hơn mấy anh em ở Chợ lầu. Ngày ra đi bị một nhóm lão già có con bị phơi xác cho Bác và Ðảng quang vinh chận xe lại leo lên xe dùng gậy đánh vào đầu từng anh một, cho đến khi mệt lừ mới thôi. Ðây mới thật sự là nhân dân phẩn nộ.

Việt cộng đã trưng dụng các xe chở hàng để chở chúng tôi. Xe của các Thôn Giang Hải, Hải Tân, Phú Ninh, Phú Hải đã tập trung về đầy đủ trước Thôn Song Thanh. Bọn du kích 30/4 hăm hở, đạn lên nòng áp giải chúng tôi lên đường. Tôi còn nhớ nét mặt tên Thôn Trưởng Song Thanh, tên KỶ đã hân hoan đưa tiễn chúng tôi đi như vừa lập được chiến công hiển hách.

LAO XÁ PHAN THIẾT

Ðoàn xe đi về hướng Phan Thiết và dừng lại trước Lao Xá. Chúng tôi bi lùa vào tập trung ở sân lớn để điểm danh và học nội quy. lúc này, tôi thấy có đầy đủ các sĩ quan, cảnh sát, Xã, Ấp trưởng và hầu hết các Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân. Tôi chợt thấy Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh, cựu Dân Biểu VNCH, người đã thiên về Việt cộng chống lại chính quyền miền nam, đã từng đâm sau lưng chiến sĩ. Người đã dày công tranh đấu chống lại chính quyền Miền nam qua chiêu bài đối lập cuội, làm lợi cho chế độ bạo tàn, đang ngồi bó gối trước một phòng nhỏ gần sân tập trung. Ðó là ân huệ duy nhất mà đảng đã ban phát, ông ta khỏi phải bị nhốt chung trong những dãy nhà tập thể chật chội. Không biết lúc đó và sau này tới khi qua đời, ông ta nghĩ gì và có thấm thía cho cuộc đời lầm lạc đã qua không?

Dãy nhà trước đây thời VNCH chỉ nhốt 50 người, nay thì chứa hơn 120 người, nên vô cùng chật chội và nóng. Hàng ngày chúng tôi chỉ mặc độc nhất cái quần đùi, khi nào ra sân ăn cơm mới mặc đồ vào. Ngày được cách mạng/Việt cộng cho ăn ba lần, mỗi lần một chén cơm với muối hột. Buổi chiều được cho ra sân tắm ở giếng nước.

Tôi thấy có mặt Th/Tá Thổ Thêm người hùng Bình Thuận, Trung Tá Diệp Sắn Cảnh Quận/CKT Hải Ninh và hầu hết những sĩ quan trình diện ở Bình Thuận. Tôi nghe anh em nói Ð/Ú Lê Văn Trò Ðại Ðội trưởng Trinh Sát Tỉnh bị bắt đem lên Tân Ðiền, khi anh vừa mới từ Sài Gòn trở về. Sau khi đọc bản án trước cái gọi là tòa án nhân dân, anh bị đem đặt lên vĩ sắt nướng cho chết. Sau đó thi thể lại bị Việt cộng đâm nát bấy và dìm xuống ruộng, mấy ngày sau nhờ các em chăn trâu phát giác, thân nhân mới xin đem về chôn. Không biết có phải anh đã chết thảm khốc như vậy không? Nếu sự thật như vậy thì không còn gì để nói.

TRẠI TÙ CÀ TÓT

Ngày 10/5/75 chúng tôi được tập trung tại sân lao xá, phân chia thành hai nhóm Ngụy quyền và Ngụy quân. Không biết tại sao anh Tăng Văn Ðồng lại được sắp xếp vào nhóm Ngụy quyền mặc dù anh là TR/Úy Trưởng ban 5 CK/Hòa Ða. Chỉ it ngày sau anh chết tại Cà Lon vì vết thương của trận đòn thù khi đưa tiển lên đường và bệnh sốt rét.

Ðoàn xe chở chúng tôi gồm 105 người rẽ vào Tỉnh Lộ 8 hướng về Ma Lâm Thiện Giáo. Ra khỏi Ma Lâm đi theo Tỉnh Lộ 8 về hướng tây chừng chục cây số. Xe rẽ trái vào con đường sỏi đá. Ðường càng đi độ dốc càng cao, phía trước mặt là núi thấp, rừng lim. Con Sông Quao hay sông Cái phát nguyên từ Di Linh nằm bên phải đường, tới đây dòng sông bi mất hút vì rặng núi Bà che khuất. Vùng này là rừng già đầy tre nứa, và cây lớn. Bao trùm luôn cả Quận Tánh Linh, Hoài Ðức của Tỉnh Bình Tuy. Vùng này có nhiều mật khu Việt cộng, nhờ ẩn nấp kín đáo trong rừng tre bạt ngàn, che kín những con đường mòn chằng chịt chạy dọc theo con sông La Ngà lên tới đèo Chuối trên Quốc Lộ 20 tại Quận Ðịnh Quán (Long Khánh )

Có tiếng thì thào chuyền cho nhau nghe CÀ TÓT. Ðoàn xe GMC chở chúng tôi dừng lại ở một lán trống, tất cả xuống xe chuẩn bị đi bộ. Ðoàn người đi hàng một trong im lặng. Súng AK của du kích áp tải chỉa lăm lăm vào đoàn người. Tội nghiệp cho TR/Úy SÉT là thương phế binh bị mất một chân quá gối phải đi chân giả, một mắt đui, mắt còn lại chỉ thấy lờ mờ, làm sao anh có thể đi theo kịp đoàn người. Vì vậy anh bị chửi bới thậm tệ và chúng hăm bắn bỏ. Anh Sét trước đây đã từng là một Ðại Ðội Trưởng oai hùng. Năm 1969 anh là Ðại Ðội Trưởng/Ðại Ðội/118/Ðịa Phương Quân đóng quân tại xóm Châu Hanh bên kia Sông Lũy, bên này là Bò Phèn.

Việt cộng đã đem Trung Đoàn 820/Ðịa Phương của chúng, quyết san bằng đại đội này với một đoàn Xây Dựng Nông Thôn đang công tác tại đây. Trực thăng võ trang đã đến chi viện kịp thời, và pháo binh của Mỹ tại Lương Sơn đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch. Theo tin tình báo lúc đó cho biết địch chết 80 tên và tên chỉ huy trận đánh bị cách chức. Có lẽ mối hận chưa nguôi, nên giờ này mặc dù anh đã bị tàn phế vẫn còn bị hành hạ. Một tên du kích đi sau với anh.

Trong đoàn có một Tr/Sĩ tên On người Phan Rí thành (Hòa Đa), không biết vì có thù oán gì với các quan chức cách mạng Việt cộng địa phương mà được các ngài phong lên TR/Úy nên cũng bị bắt theo chúng tôi lên đây, sau này anh bị bệnh gần chết. Mãi hơn 10 giờ đêm đoàn người mới tới được trại. Qua ánh đèn dầu leo lét chúng tôi chả thấy được gì. Chúng tôi được tập trung ngoài sân để nghe thủ trưởng lên lớp.

Thủ trưởng ở đây tên Hoa, người Ðức Nghĩa Phan Thiết, tươm tất trong bộ quân phục với nón cối dép râu, khẩu K54 đeo ngang hông và mang quân hàm Thiếu Tá. Một lần nữa, Thủ trưởng Hoa chửi bới chúng tôi không còn lời lẽ gì để nói. Những danh từ xấu xa nhất được gán ghép cho đám tù binh VNCH. Nào là ôm chân đế quốc, ăn bơ thừa sữa cặn, lũ giết người không gớm tay... Sao không chạy theo chủ MỸ lại quay về đây. Cá đã nằm trên thớt biết làm sao đây, giờ chúng tôi thấy hối hận vì tin lời Việt cộng ra trình diện.

Sau khi đọc danh sách 105 ngụy quân chúng tôi, hắn chợt bắt gặp tên Thổ Thêm. Ngó thẳng vào hàng quân quát lớn “Anh nào là Thổ Thêm bước ra khỏi hàng”, trong đầu tôi nghĩ nhanh chắc là tụi nó thanh toán ông Thêm ngay tại đây để trả thù đây.

Từ trong hàng Th/Tá Thổ Thêm nói “có” và bước ra khỏi hàng, hắn dùng đèn Pin rọi từ đầu đến chân để coi thật kỹ con người đã đi vào huyền thoại này. Hắn không tìm ra được một chút nào bơ thừa sữa cặn, ôm chân đế quốc, trên thân thể gầy guộc của ông mà hắn vừa chửi khi lên lớp. Không nói tiếng nào, hắn phất tay cho ông Thêm về hàng.

Cũng nên nói thêm về ông. Th/Tá Thổ Thêm đã giãi ngũ gần hai năm. Những ngày tháng 4/75. ông về sống tại Xã Hậu Quách. Ngày 17/4 sau khi làm chủ Bắc Bình Thuận. Chúng lo thanh toán ân oán giang hồ với những người cho là Ác ôn của chế độ cũ. Ông bị giam vào lao xá từ đó đến nay, đói khát triền miên, nên con người vốn ốm o lại càng hóc hác.

Từ khi là Ðại Đội Trưởng Đại Đội/888/Ðịa hương Quân và là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn/230/Địa Phương hoạt động tại Thiện Giáo. Ông là một thiên tài về quân sự. Từ cấp nhỏ nhất lên cấp Th/tá, ông đã trãi qua bao trận đánh kinh hồn. Chỉ có thắng chứ chưa hề chiến bại. Ông có hai Bảo Quốc Huân Chương và hơn 80 Huy Chương đủ loại. Cộng quân nghe đến đơn vị ông là chỉ có đường chạy. Mật khu Tam Giác Sắt và Cà Tót này, đơn vị ông chi huy đã giẫm nát nhiều lần, gây cho địch không biết bao nhiêu thương vong. Nếu không phải là người Chàm chắc ông đã bị tử hình.

Tối hôm đó, chúng tôi nằm ngủ ngay trên nền đất ẩm ướt. Muỗi rừng như trấu vãi tấn công chúng tôi không thương tiếc. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa hừng sáng, chúng tôi thấy lố nhố ở ba dãy nhà hình chữ U giữa là một sân rộng. Có khoảng trên 4000 ngàn người ăn bận lôi thôi lếch thếch, nhiều người phải chống gậy mới đi nổi. Cách đó 40m là con suối lớn, hàng ngày tù binh tắm giặt ở đây.

Ðược biết Tỉnh Ủy Bình Thuận của Việt cộng đặt tại đây, trong ba túp lều núp dưới tàn cây lớn để trốn máy bay của ta. Bộ Chỉ Huy chỉ le que vài mạng, không đủ người canh đám tù, nên môt trung đội du kích thành lập hồi 30/4 được điều động lên đây canh giữ. Trung đội này mấy ngày đầu thì hùng hổ, chửi bới chúng tôi không tiếc lời, qua chừng 20 ngày không còn thằng nào đủ sức lếch đi vì bị bệnh sốt rét.

Nhìn xung quanh rừng núi âm u, không gian vắng lặng một cách đáng sợ. bốn bề là núi cao, trại nằm trong một thung lũng chết. Ðây là nơi tử địa chứ nào phải nơi học tập lao động như lời chúng nói ở Lao xá. Thì ra dã tâm của bọn Việt cộng là muốn giết toàn bộ chúng tôi nhưng sợ thế giới lên án là bọn đồ tể, giống như tụi khờ me đỏ. Nên đem lên đây mượn tay sốt rét rừng, cùng bỏ đói khát cho chết lần mòn để trả thù rửa hận.

Chừng 8 giờ sáng, chúng lục soát tịch thu tất cả mền mùng võng. Tóm lại những gì có liên quan tới quân đội là bi tich thu. Chúng thấy cái mền Poncho light là chộp ngay làm của riêng, không nghĩ những người tù họ đắp bằng gì giữa trời lạnh giá của núi rừng nghiệt ngã... Thực phẩm, thuốc men ít ỏi mang theo cũng bị vét sạch. Giày dép bình đựng nước tập trung lại một đống lớn, khi nào đi lao động mới cho mang. Chỗ ở thì sơ sài lợp bằng cỏ tranh. Giường nằm là những thanh tre được bện lại bằng dây mấu. Dưới chân giường là hàng cùm bằng gỗ như thời trung cổ. Ba dãy nhà hoàn toàn không có vách che, mặc cho gió rừng lạnh buốt xuyên qua.

Những đêm mưa bão bùng. Gió đập phành phạch như muốn thổi tung mái lá. Cây rừng ngã đổ, may mà không đè lên mái. Gió lạnh buốt thổi từng cơn qua những hình hài tàn tạ, đang co ro trong những chiếc mền mỏng còn sót lại. Bữa ăn thì toàn khoai mì với ít gạo ẩm mốc. Ðọt khoai mì, măng rừng nấu với muối hột là món ăn chính. Không ai có thể sông quá ba tháng nếu bị ngã bệnh rét rừng. Nơi đây thật sự là địa ngục trần gian.

Ngay ngày hôm đó gần như toàn bộ hạ sĩ quan, binh sĩ, nghĩa quân, cảnh sát, nhân viên xã ấp... Bị bắt khi di chuyển từ Lâm Ðồng về Phan Thiết vào đầu tháng 4/75, cùng cán bộ hành chánh của Bình Thuận cấp thấp được thả về. Bị bắt chưa đến một tháng mà hình hài quá đỗi tang thương, anh em dìu nhau đi giũa rừng núi âm u mà lòng buốt giá. Ôi thê thảm xiết bao! Mạng người đâu phải cầm thú, hỡi những tên dã man không tánh người mang danh cách mạng/cộng sản.

Trong ngày 11/5/75 tại Cà Tót chỉ còn lại khoản 1000 người. Cấp bậc cao nhất là Thiếu tá, Chỗ ở trở nên rộng rãi , Những người bị bắt trước đã bắt đầu ngã bệnh nằm la liệt , không thuốc men gì cả . Ðến cuối tháng toán 105 người chúng tôi lên từ Lao xá đã có người bị bệnh sốt rét.

Ngày nào cũng có người chết, tôi không biết tên vì là từ các đơn vị khác từ Lâm Đồng chạy về theo Tỉnh Lộ 8. May mắn cho chúng tôi là vợ đã tìm được đường lên thăm. Thật là vất vả gian nan cho các chị. Qua hai ngày lội suối băng rừng, tối đến các chị phải leo lên cây ngủ vì sợ cọp.

Cuối cùng nhờ sự chỉ đường của các người Thượng, các chị mới tìm được đến nơi. Lúc đãu tên Trại trưởng không đồng ý cho gặp chồng. cuối cùng chúng tôi được gặp các Bà vợ vào lúc hoàng hôn và chỉ một tiếng đồng hồ. Chúng tôi nhận được một số thuốc trị sốt rét cùng thực phẩm, áo quần... Nhất là gặp lại người vợ mà chỉ tưởng thấy trong mơ. Qua hai đêm ở rừng Cà Tót, mười một chị lên thăm chồng trở về tất cả đều ngã bệnh sốt rét nhưng may mắn không ai chết. Chỉ có chị vợ của Anh Xã Ngọc ở Phan Rí Cửa lên thăm anh ở Cà Lon về bị bệnh chết.

Ngày 19/6/75, chúng chọn ngày Quân Lực của VNCH, toàn bộ sĩ quan còn sót lại, kể cả giáo chức biệt phái, được Việt cộng gọi là Giáo gian. Tất cả bị hốt hết lên đây, không ít anh em có cha chú nằm vùng có ám số, là liệt sĩ, và con em gia đình có công với cách mạng. Trong số này có nhà văn Quân Đội Hải Triều (Lê Văn Hai). Ðây là một cố tình bôi nhục ngày quân lực của ta.

Lúc này số người tăng lên hơn 3000 người, trong số này có hơn 10 vị Bác Sĩ Quân y tài ba nhưng cũng đành bó tay vì không có thuốc. Chúng tôi được phân thành Tổ Ðội. TH/Tá Ðỗ Phương Gia đại diện trại viên để nhận lệnh từ BCH trại. Ð/úy Lâm Sĩ quan trợ y của CK/Thiện giáo coi về y tế . Th/úy Trần văn Xuân nhận trưởng bếp lo việc ăn uống cho toàn trại . Tôi và sáu anh em khác được phân công vào toán đào khoai mì, sắn măng, hái rau rừng cho toàn trại . Còn lại làm các công việc linh tinh như làm cỏ hai đám bắp, chặt tre , gỗ tu sửa lán trại, ngoài ra không có việc gì để làm .Ngoài việc làm bản khai Lý lịch , phải khai ba đời và tội ác đã gây ra với nhân dân và Cách mạng .

Ðại úy Thông Ngộ (người Chàm) Ðại Đội Trưởng DD/888/ÐPQ lừng danh, Thay thế ông Thêm khi lên nắm Tiểu đoàn Trưởng 230/ÐP . Không biết anh khai lý lịch thế nào mà bi chúng kêu lên chửi bới thậm tệ và bắt cùm trên sạp tre . Hai tay còn bị cột chặt xuống vạt tre 2 ngày, mặc cho muỗi mòng thiêu đốt , thật tàn bạo hết nói . Ðại úy Thông ngộ đã vượt trại ở Hàm trí và mất tích từ đó đến nay cùng Ð/úy Ðặng Phiên .

Nhiều người khác cũng bị kêu lên làm đi làm lại nhiều lần cho đến khi gọi là “Ðạt “. Trong thời gian này, Huyện ủy Mười Trung về làm trại trưởng . Thấy chúng tôi bệnh chết nhiều quá nên cũng cảm thấy ít nhiều ân hận . Hàng ngày thường xuyên xuống chỗ anh em đang bệnh nằm, khuyến khích đứng dậy đi tập thể dục.

Ðám tù già như Thổ Thêm, Nguyễn Văn Thứ cho vào tổ xay lúa, sàng gạo lấy cám cho heo ăn. Lâu quá rồi chưa có miếng thịt nào vào bụng nên thèm vô cùng. Thấy ông Thêm đứng nhìn mấy con heo, tôi lại gần thì ông hỏi. Sơn mày có muốn ăn thịt heo không? Tôi cười cười đáp, thịt ở đâu mà ăn, Ông chỉ và mấy con Bồ Cạp đang bò ở vỏ cây gần đó. Tôi chợt hiểu và nói khẽ, cẩn thận chú, nó biết được thì mệt.

Hôm sau chúng tôi có thịt heo ăn, tôi biết ngay đây là tác phẩm của ông Thêm. Một hôm nọ, tay Th/sĩ Việt cộng tên Hợi đi bắn được một con khỉ đột thật lớn vác về quăng giữa sân, hắn nói anh nào muốn ăn thì lấy về làm thịt. Tôi cùng vài anh bạn đem về làm thịt ăn, hầu hết rất đói đều muốn ăn nhưng ngại thịt khỉ thành ra còn lưỡng lự. Tay đang cầm cái đùi khỉ vừa nướng chín, tôi nghe tiếng thì thào gọi tên tôi. Sơn cho anh một miếng, quay lại thấy Th/Tá Phạm Minh Trung Tâm Trưởng /TT/TVYT/BT, ngày 4/4/75 tôi đã cùng anh cầm vòi rồng cứu chợ Phan Thiết và Phố Gia Long.

Anh đang nằm trên sạp tre đi không nỗi vì cơn sốt rét. Tôi đưa cho anh ngay cái đùi khỉ, mãi đến hôm nay tôi không quên hình ảnh đó. Còn Th/tá Trịnh Vĩnh Bình đang nhăn nhó vì con đau bao tử đang hành hạ, ông chết khi bị chuyển ra Bắc tại trại Vĩnh Phú năm 1977.

Lúc này chúng tôi đã sức tàn lực kiệt vì cơn bịnh sốt rét, ngày nào cũng có người chết. Trong số bạn bè thân có ba người ra đi. Tr/úy Ðặng Văn Hai TD/229, Tr/úy Nguyễn Văn Biên Trưởng ban 5/CK/ Tuy Phong. Th/Úy Pháo Binh Nguyễn Phong người Chợ Lầu.

Các anh đã chết đi trong cô lạnh, thân thể được quấn trong cái mền và bảy nẹp tre, chôn bên gốc cây, không mộ bia. Trong gần 100 ngày sống ở đây đã có hơn 40 người nằm xuống. Nếu không về Sông Mao kịp thời chắc chúng tôi phải bỏ mạng tại đây.

Những tiếng thét đầy ma quái vang lên đột ngột trong đêm vắng , đánh thức mọi người trong cơn ngái ngủ. Tiêng rên rỉ, tiếng run lập cập của người bạn nằm bên, cho ta cái cảm giác rờn rợn... Cái chết tới thật bất chợt không ai ngờ. Hai nguyên nhân chính dẫn đến những cái chết đau thương là sốt rét và đói triến miên.

Cuối tháng 6/75 cấp Thiếu tá được chuyển ra Bắc, từ Ðai Úy đến chuẩn úy còn ở Cà Tót. Không hiểu lý do gì giữa tháng 8/75 Việt cộng đã chuyển chúng tôi về Sông Mao. Cấp chuẩn Úy được cho về học tập và quản lý tại địa phương. Trong số anh em lên ngày 19/6/75, tôi quen với một trung sĩ cảnh sát, trước đây anh làm việc ở vùng Bình An, Bình Lâm. Anh có biệt danh là Tư Búa, một hôm anh nói nhỏ với tôi, chắc tụi nó tử hình tôi nay mai thôi, vì dân Việt cộng ở đó chúng lập tòa án nhân dân kết án tôi rồi. Mặc dù biết cái chết sẽ đến trong nay mai nhưng anh vẫn xem thường. Quả thật sáng hai ngày sau anh bị trói thúc ké dẫn đi, gặp tôi anh gật đầu chào như một lời giả biệt Giữa tháng 8/75, tức là sau khi bị nhốt ở Cà Tót chừng một trăm ngày, không biết vì lý do gì tất cả chúng tôi được lệnh chuẩn bị rời trại. Thật quá đổi vui mừng vì thoát khỏi địa ngục này.

Ðoàn xe chở chúng tôi đậu cách BCH trại chừng 1 km, nhưng đám người chúng tôi đa số đi không nỗi, phải chống gậy quần áo tả tơi tê hơn đám ăn mày. Ðể khỏi mất măt vì sợ nhân dân thấy cảnh đối xử tàn tệ với tù binh. Chúng ra lệnh cho chúng tôi phải quăng gậy gộc mới cho ra đi. Vì muốn thoát khỏi địa ngục này càng nhanh càng tốt, nên anh em người còn mạnh dìu người yếu cố dìu nhau đi trong tang thương. Hình ảnh này đã không phai nhòa trong tâm tri tôi cho đến hết cuộc đời.

TỔNG TRẠI 8 SÔNG MAO

Tổng trại 8 Sông mao lấy căn cứ của Trung Đoàn 44/Sư Đoàn 23/BB làm trại tù. Khu gia Binh thì nhốt khối B (trung úy) và khối C (thiếu úy) ngăn đôi bởi một hàng rào kẽm gai. Khối A từ Ðại Úy trở lên nằm tại khu nhà tiền chế, trước đây TD/229/ÐP dùng làm doanh trại

Tổng trại 8 do Trung đoàn 482 của Việt cộng Bình Thuận quản lý, thuộc Quân khu 6 với chính trị viên là Trung Tá Loan. Trại A có 4 khối. Khối 1 dành cho cấp thiếu tá không đi bắc. Khối 2 Bình Thuận khối 3 Bình Tuy, Khối 4 dành cho Lâm Đồng, Ninh Thuận, Tuyên Ðức. Chúng tuyển lựa đám có dây mơ rễ má, có cha là nằm vùng, Liệt sĩ, hoặc có công với cách mạng làm khối trưởng, đội trưởng. Nhà văn quân đội Hải Triều Lê Văn Hai là một trong số khối trưởng, nên ở trại rất ít ngày và về sớm nhất, chỉ thua Đại Úy Lê Dũng (Bình Tuy) là cháu gọi Lê Duẩn là cậu ruột.

Trại B Trung Úy được chia làm 5 khối. Khối 1 Lâm Đồng, Khối 2 Bình Tuy, Khối 3 Ninh Thuận, Khối 4 Bình Thuận Khối 5 Tuyên Đức và Ðà Lạt. Cũng có vài người ở lẩn lộn. Khối trưởng khối 4 là Nguyễn Văn Tánh, có cha là huyện ủy Việt cộng. Khối 5 là nhà giáo Lưu Hữu Ðược có cha là Huyện ủy đã chết khi kháng chiến chống Pháp.

Trại tù ở Sông mao so với Cà tót là thiên đường. Tôi nhớ ngày mới về, tối đó được cho ăn cơm trắng với cá khô, dù không được no lòng nhưng tôi cứ tưởng trong mơ. Những ngày đầu tất cả còn ở chung với nhau tại khu gia binh. Chúng tôi tự bầu lấy người chỉ huy trong lao động. Tôi được các anh bầu chọn làm người coi về phân công lao động vì thành tích trước đó ít ngày dám bạt tai giáo gian con một huyện ủy VC được VC chỉ định quản lý nhà kho, vì tên này dám ỷ thế coi thường chúng tôi.

Khi Tôi từ Cà Tót về đây thì trại này đà có trên vài ngàn. Các anh từ Lâm Đồng, Bình Tuy, Phan Rang, Ðà Lạt... đã tập trung về đây. Không biết chính xác nhưng ước lượng ba trại có khoảng 5000 ngàn người. Thân nhân những người tù từ Cà Tót hàng ngày lên đứng ngoài vòng rào kẽm gai dòm vào tìm xem thân nhân của mình còn hay mất.

Không ai được biết tin gì cả. Tất cả Chuẩn Úy được cho về đều bị cảnh cáo trước không được tiêt lộ tin tức chết tai Cà Tót. Không biết tại sao tin anh Ðặng Văn Hai bị chết lại đến tai vợ anh. Gia đình lên Xã Chợ lầu hỏi thì bị chối phăng. Họ nghi ngờ anh Chuẩn Úy Nguyễn Hai tiết lộ, vì nhà anh sát nhà vợ anh Hai. Thế là anh Nguyễn Hai phải lãnh đủ, thiếu điều bắt nhốt anh. Việt cộng thật hèn hạ, đã có gan giết người lại còn muốn bưng bít, qua 35 năm chứng nào tật ấy vẫn còn. Thôi thì để lịch sử phán xét vậy.

Chúng tôi chiều chiều ra đứng trên các hồ chứa nước bằng xi măng rất cao để thân nhân nhìn thấy biết mình còn sống. Chỉ được vài ngày , BCH Trại quyết định chấm dứt tình trạng này , bằng cách điều toàn bộ chúng tôi lên phi trường Sông mao cách đó hơn 1 km khiêng loại vĩ sắt làm phi đạo về rào kín mít , đến nỗi gió cũng bị cản lại . Sông mao là địa danh có tiếng nóng nhất Bình thuận , nay như cái lò lửa . Tình trạng khô hạn không đủ nước sinh hoạt , mặc dù chúng tôi đã đào hàng trăm giếng nước . Một tuần một lần được lên đập É Chiêm ở trên con sông mao tắm giặt.

Cuộc vượt trại đầu tiên xảy ra trong tháng 9/75, do ba anh em ở khối C (thiếu úy) thực hiện. Cầm đầu nhóm là Thiếu Úy Tám, biệt danh Tám đặc công, trước đây anh là một đặc công Việt cộng hồi chánh, được mang cấp bậc Th/Úy của QLVNCH, và là trưởng toán Thám Báo tại Chi khu/Hòa Đa. Nhân việc đi khiêng vĩ sắt về rào khu trại, anh đã lôi kéo anh Trần Văn Xuân và một số anh em khác cùng trốn vào rừng lập chiến khu.

Nhưng cuối cùng chỉ có anh Ðoàn tiến Xe (người Chàm thuộc Ðại Đội 118/ÐPQ) và anh Bá Tự là Bá Lé người Phan Thiết là vượt thoát. Hai anh Xe và Bá, bị bắt lại, riêng anh Tám đặc công là một người có võ nghệ cao cường, lại từng là đặc công Việt cộng, nên anh trốn thoát dễ dàng và cướp súng của du kích địch, hoạt động tại vùng phía tây Hòa Đa. Anh đánh phá Việt cộng hơn một năm làm cho chúng nhiều tổn thất, cuối cùng anh bị Việt cộng bao vây bắn chết kéo xác về cho dân chúng Hòa đa coi.

Nguồn an ủi duy nhất là chiều về leo lên hồ nước để hy vọng nhìn thấy vợ con nay chấm dứt Khối A Ð/úy chuyển lên khu nhà tiền chế. Tổ đội khối được thành lập để chuẩn bị học tập. Trước khi học tập, toàn trại làm bản Tự khai lý lịch.Lần này có kinh nghiệm ở lần làm trên Cà Tót,tôi chép lại y chang nên thông qua trước tổ và trại dễ dàng. Một số rất đông cứ làm đi làm lại hoài mà không được thông qua.

Chỉ tội cho nhóm giáo chức biệt phái và các anh làm việc văn phòng, không biết lấy tội ở đâu ra mà nhận, đành phải bịa ra những tội thật ngớ ngẫn để được thông qua. Hơn nửa tháng trời mới xong phần lý lịch và được phát giấy đặc biệt cùng mực Cửu Long để chép vào đem nộp. Tôi nghiệm ra một chân lý, trong nhà tù cộng sản tay nào nói dốc hay thì được đánh giá là học tập tốt, nhưng ở tù lâu hơn.

Trước khi bước vào học tập chính trị gồm cả thảy 10 bài. BCH trại quyết định cho chúng tôi thăm nuôi để lên tinh thần. Khu rạp hát cũ kế lầu nước được chọn làm chỗ thăm nuôi. Anh em tôi hăng hái tình nguyện xin đi ra đó quét dọn mục đích được ngắm cảnh người qua lại và tìm người quen.

Nhà tôi chỉ cách đây 3km nên rất nhiều người quen biết. Nhiều lúc họ lén ném thuốc lá vào cho vì khu này chỉ cách con đường Tự Do một hàng rào kẽm gai thấp. Ðang quét dọn, tôi bỗng nghe một tiếng nổ lớn, quay lại thì thấy anh Trần Quang Ảnh (em ruột dược sĩ Trần Quang Tuấn), Trưởng ban 4 CK/ PLC nằm ngã bên cạnh. Môt bàn chân đã bị nát, máu me cùng mình, tôi vội sốc anh lên lưng cõng chạy về trại cấp cứu. Anh được chuyển đi bệnh viện và sau đó về luôn nhà.

Sau gần 5 tháng mới gặp lại người thân, thật vui mừng không kể siết. Một giờ thăm nuôi quá ngắn ngủi nhưng có còn hơn không. Nhờ gia đình tiếp tế đầy đủ các vật cần thiết, nhất là thuốc trị sốt rét nên sức khỏe có khá hơn trước.

Ngày đầu tiên được học tập ai nấy cũng hâm hở, áo quần nghiêm chỉnh, giấy bút đầy đủ để ghi chép. Tôi hoàn toàn thất vọng khi biết ban giảng huấn là ai. Trưởng ban là Ðại Úy Việt cộng tên Phong người Phan Rí, Trước khi tập kết là giáo viên trường làng. Chính trị viên Tiểu Ðoàn... anh em đặt cho biệt danh là Phong gió, vì tài nói phéc có hạng. Phụ tá cho chính trị viên Phong người Xuân Hội, Chợ Lầu cũng mang cấp bậc Ð/Úy. Tôi quên mất tên chỉ nhớ biệt danh “LÀ” mà anh em lén đặt. Chúng tôi gọi hắn là Đại Úy Là, bởi vì ăn nói cà lăm và trong hai tiếng lên lớp tôi thấy hắn dùng chữ Là cũng có trên vài trăm lần. Thường trong khi lên lớp chúng tôi thường đếm hôm nay y nói bao nhiêu tiếng Là. Nguyên gốc của hắn xuất thân từ chăn trâu cho gia đình phú hộ. Sau bị dụ dỗ vào bưng tập kết ra bắc nay trở về làm ông lớn, nhưng cái gốc dốt nát làm sao chửa được nếu không được đi học. Không biết tại sao Việt cộng lại chọn một người có trình độ như vậy làm chính trị viên, hèn nào cấp dưới tay nào cũng đạt trình độ siêu nhân...

Thành phần quản giáo đa số là người địa phương đi tập kết ra Bắc nay trở về. Gồm Tr/Úy Thanh người Chợ Lầu, Th/Úy Cảnh Phan Rí, Th/Úy Tùng Phan Rí, Th/Úy Bảng người Hà Nội. Chuẩn Úy Xây trước đây là lính Sư Đoàn/22/BB nội tuyến, sau chạy theo Việt cộng lập nên công trạng được phong cấp bậc chuẩn úy. Nhin chung vì là người địa phương nên cũng đôi chút dễ dãi, chỉ phải vì sống, hoc tập chung lâu ngày với cộng sản nên tiêm nhiễm cái tật cố hữu của cán binh cộng sản là bốc phéc không chê vào đâu được.

Ngày học đầu tiên, chúng tôi bị ngay tên CTV Phong gió phán một câu nghe nhức nhối. Các anh chưa phải là thành phần Trí thức, các anh chỉ tạm thời là người gọi là có học. Ðây là đòn đánh phủ đầu để che giấu cái dốt của bản thân hắn, vì rất nhiều trong chúng tôi biết gốc gác tam đời cổ đại nhà hắn. Ngồi phía dưới chúng tôi ngơ ngác không hiểu hắn nói gì. Trong chúng tôi quy tụ cả tinh hoa miền nam. có cả Bác sĩ, luật sư, cao học. người nào ít nhất cũng là ông Tú, đủ sức dạy dỗ tất cả các tên cán ngố như hắn.

Những đầu đề các bài học nghe thật kêu , nhưng đầy lố bịch và rỗng tuếch

_ Ðế quốc Mỹ là tên Xâm lược và là Sen Ðầm quốc tế .

_ Ngụy Quân ngụy quyền là tay sai của Ðế quốc Mỹ

_ Xã hội chủ nghĩa nhất định thành công .

_ Hồ chí Minh Vỹ đại, vị cha già cứu tinh của dân tộc

_ Ðảng cộng sản việt nam quang vinh , đời đời sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.

_ Chính Sách khoan hồng của Ðảng và Nhà nước trước sau như một ..

Ðại loại những bài như vậy, trong học tập phải đào sâu tư tưởng, Phát biểu đúng trọng tậm Sau khi lên lớp về thảo luận ở tổ gồm 18 người cho thật nhuần nhuyễn. Mỗi bài chúng tôi phải thảo luận bốc phéc trong một tuần. Trong học tâp khi thảo luận phải nghiêm chỉnh, tự đánh giá bản thân là người có tội, được cach mạng khoan hồng tha chết, đem về đây cho cải tạo thành người hữu ích mai sau. Ðể đền ơn Bác và đảng. Chúng tôi phải học tập tốt, lao động tôt. Sẵn sàng tố giác bất cứ ai có hành vi cử chỉ, lời nói chống lại chính quyền cách mạng. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách của đảng.

Vì căng thẳng quá nên có một anh ở Lâm đồng tối ngủ cắt đứt mạch máu tự tử chết. Lúc đi vệ sinh trong giờ giải lao, anh Nguyễn Hoành biệt kích nói móc họng “ tụi mày nhớ đái cho đúng trọng tâm “. Có vậy thôi mà anh bị kiểm điểm trước tổ rồi đội. Anh Lê văn Vinh trong lúc đánh Domino với chúng tôi, vô tình nói “đừng nghe lời mấy thằng Việt Cộng”. Thế là mang đại họa vào mình. Thời gian hoc tập chỉ có hai tháng rưỡi, nhưng cảm thấy nó dài vô tận, đầu óc như mụ mẫm vì phải vắt óc nói láo theo đơn đặt hàng. Thế rồi cũng qua cơn gây go, chờ ngày đi lao động.

Trong một đêm tháng 11/75 vào khoảng 11 giờ đêm, cả trại đang ngủ. Bỗng hốt hoãng vì những tràng đạn bắn như sát bên tai. Một bóng người từ cửa sau lao vào leo lên sạp nằm kế bên tôi, chuyện gì đã xảy ra? Chừng mười phút sau. Quản giáo và vệ binh ập vào phòng chúng tôi bắt đi anh Vinh. Thì ra anh đã cùng một nhóm ở Lâm đồng tổ chức Vượt trại. Trong khi vượt rào kẽm gai, bị phát giác nên cảnh vệ trên chòi canh bắn chết một anh, số còn lại may mắn chạy được vào phòng. Tổng cộng số người chết ở Sông mao vì di chứng của Căn bệnh Sốt rét ở Cà Tót lên đến hơn 20 chục người.

Sau khi học tập xong, Một số đông trên 1000 ngàn người được cho về. Hầu hết là các anh có thân nhân có công với cách mang. Có cha chú tập kết trở về bảo lãnh, hoặc giữ những chức vụ không gây nợ máu với nhân dân, trong lần này có nhà văn quân đội Hải Triều (Lê Văn Hai) và hầu như những anh em có thân nhân đi tập kết trở về đều được cho về.

Cái tết đầu tiên đến với tù cải tao trong buồn tẻ, người nhà lại được phép thăm nuôi. Chúng tôi được lệnh tổ chức đêm văn nghệ thật “hoành tráng” để đón xuân. Về thể thao thì có các đội bóng chyền ở Chợ Lầu và Hải Ninh được phép vào thi đấu. Với Tuyển thủ từ Bốn quân khu về đây, Ðội bóng chuyền tổng trại 8 đã hạ dễ dàng các đối thủ vô trại thi đấu.

Về văn nghệ, Trại B phối hợp với trại C, cùng tổ chức đêm văn nghệ ngoài trời. Tất nhiên chương trình phải được thông qua trước. Với sự tham dự của toàn thể trại viên cùng ban quản giáo. Hầu như tất cả vệ binh và gia đình đều có mặt để xem cái tụi ngụy quân này trình diễn ra sao. Ðêm văn nghệ rất thành công về mặt nghệ thuật. Cán bộ quản giáo phải thừa nhận trong tù cải tạo có nhiều nhân tài. làm cái gì cũng hay cũng giỏi. Những vở kịch, mặc dù đã kiểm duyệt trước, nhưng khi trình diễn mấy anh đã cương vào nói xỏ siêng vào chính sách, nên ngày hôm sau toàn bộ nghệ sĩ và trưởng ban văn nghệ Khối phải làm bản kiểm điểm.

Ngoài ra chúng tôi còn có tờ bích báo, nội dung rất súc tích, trong đó có những bài viết có những ẩn ý sâu xa, nhưng vì trình độ cán bộ kiểm duyệt quá thấp, không thấy được nên cho đăng. Về ăn uống, tuy có thiếu thốn nhưng nhờ có thăm nuôi nên cũng tạm đủ, chúng tôi tận dụng. tất cả đất trong khu gia binh còn trống để trồng thêm rau xanh, trong những tháng có mưa.

Ðể chuẩn bị đi lao động, chúng tôi lại phải học thêm bài lao động là vinh quang. Sau tết, toàn bộ chúng tôi rời sông mao để bước vào cái gọi là lao động quang vinh. Chả thấy quang vinh ở chổ nào chỉ thấy chúng nó vắt kiệt mồ hôi của người tù cải tạo, sau khi đã bẻ gãy bằng tinh thần qua các buổi học tập. Ðại bộ phận làm việc tại Nông trường Bông vải Lương Sơn. Nông trường này kéo dài từ Ðập Ðồng mới tới Suối Nhum, chạy sát với sông Lũy và nằm bên kia bờ. Khu vực này trước đây thời Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa còn làm Tỉnh Trưởng đã khai quang phát đất cho dân Quảng Ngãi vào định cư ở xã Nghĩa Thuận nằm sát Ðập Đồng mới.

Hai trăm người, trong đó có tôi di chuyển đến đóng quân tại Dốc Bà Chá. Nơi đây trong đêm 16 rạng 17/ 4/75. DD/1/212/ÐP của Ðại Úy Vĩnh đã gài địch vào trận địa mìn chống chiến Xa. Tiêu diệt bảy chiếc làm rối loạn hàng ngũ địch, tiêu diệt bảy chiếc tank, và chậm bước tiến của địch trên đường tiến về Phan Thiết. Chúng còn bỏ lại tại chỗ ba chiếc, bên bờ sông chúng tôi dùng làm nhà cầu. Nhiệm vụ của Ðội chúng tôi là đắp một con đường bằng đất rải đá từ Quốc Lộ1 đến bờ sông có bến phà qua sông, mục đích là chuyển số bông thu hoạch khi mùa mưa đến.

Làm việc thật nặng nề, lúc đầu vừa cuốc đất vừa khiêng về đổ. Sau được tăng cường một xe chở đất. Chúng tôi phải đi xuống đồi đá ở xóm nùng Ðập đồng mới để cuốc đá sỏi. Sau ba tháng làm việc nặng nhọc, con đường hoàn thành. Một việc đáng tiếc xảy ra là một quả mìn chống chiến xa đã phát nổ, một em bé chăn bò đã biến mất trước mắt chúng tôi. Trước khi chyển chỗ khác chúng tôi được cho thăm nuôi.

Chúng tôi tập trung về nông trường Bông để thu hoạch cho đến gần tết. Trại C (thiếu úy) một số anh em khoảng 20 người tổ chức vượt trại, Trưởng nhóm là Th/úy Trần Văn Xuân và các anh Hoàng Văn Toàn, Nguyễn Phương, Phạm Thời v. v... Công việc bị Việt cộng phát hiện vì có ai đó mật báo, các anh vừa lội qua Sông trong đêm để qua Lương Sơn định phân tán mỏng, thì lọt vào ổ phục kích của Vệ binh trại do Chính trị viên Hồng dẹo chỉ huy. Các anh toàn bộ bị bắt, may mà không có ai bị bắn chết. Anh Trần văn Xuân chủ chốt nên bị bắt cùm một năm tại Giếng triềng, Tà dôn, mãi khi về đến Hàm trí mới được thả ra đi lao động.

Gần tết một nhóm khá đông gần 400 người được cho về, gây cho chúng tôi thêm niềm hy vọng dù mong manh. Tết 1976 lại đến chúng tôi lại tổ chức văn nghệ vui xuân, lần này Quản ca Hoàng bị làm kiểm điểm vì cho rằng dám ví quản giáo như con cò ngóng cổ nghe trong câu hát ca dao sau đây “Ở đây không hát thì hò. hò lơ. Chẳng phải con cò mà ngóng cổ nghe”.

ÐẬP TRÀN SÔNG LŨY

Trước khi đi Làm việc ở chỗ khác chúng tôi được cho biết là cố gắng lao động tốt sau ba năm sẽ được cho về. Vì vậy niềm hy vọng tăng thêm, tin tưởng ngày về đã gần kề. Sau khi ăn tết xong vài ngày, Ðại bộ phận đi ngược dọc con sông lũy lên đầu nguồn, qua đêm ở trong rừng ngày hôm sau đến vị trí đóng quân. Chúng tôi mới biết nhiệm vụ mới là làm con Ðập tràn trên thượng nguồn Sông lũy, và đào con mương dẫn nước về tưới cho cánh đồng Bông Lương Sơn. Một bộ phận vài trăm người đến Giếng Triềng gần núi Tà Dôn để khai khẩn ruộng, sản xuất lúa gạo nuôi quân.

BCH chỉ cho một ngày để làm chỗ ở, may mà chúng tôi qua thời gian làm việc nặng nhọc đã chân cứng đá mền mới làm kịp. Cán bộ thủy lợi Ðoàn 8 chịu trách nhiệm thiết kế, đo đạc. Tù cải tạo chịu trách nhiệm thi hành. Việc khảo sát địa chất vùng này được thực hiện vội vã, hay sự bất tài của kỹ sư thiết kế dự án mà khi đào mương gặp phải lớp đá nằm dưới mặt đất chừng một mét. Không thể nào đào bằng dụng cụ thông thường và bằng sức người. Quân khu 6 tại Ðà Nẵng phải cung cấp chất nổ để chúng tôi đánh đá đào mương. Làm kéo dài thời gian và không hoàn thành được.

Con Ðập đã làm xong nhưng nước thì cứ bị rò rỉ, nước không tràn qua được. Ngày khánh thành con dập đã đến, các Kỹ sư trách nhiệm bí quá đành phải hỏi ý kiến chúng tôi xin giúp đỡ. Sau khi hội ý chúng tôi giải quyết trong một đêm , bằng cách lặn xuống đáy dùng đá nhỏ chèn lại các lổ rò rỉ, nước tràn qua đập. Ngày hôm sau Ðại tá Sư trưởng đến khánh thành đập, hết lời tán dương đoàn 8, nhưng quên nhắc đến công lao đám tù cải tạo đã đổ mồ hôi, thậm chí cả máu để hoàn thành đúng kỳ hạn con đập.

Mặc dù chúng tôi đã có nhiều sáng kiến như chế tạo cần cẩu theo nguyên tắc đòn bẩy để chuyển đá lên bớt cực nhọc, và năng xuất tăng rất cao, nhưng vì con mương nằm trên vĩa đá, nên đến giờ này con Ðập thì làm xong nhưng con mương không hoàn thành được. Uổng công cho chúng tôi đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, công sức. Ðúng với câu “nước sông công tù”. Gần đó đám Thanh Niên Xung Phong được đưa lên đây làm không được đành bó tay. Các em than thở là bị bắt buộc đi Thanh Niên Xung Phong. Một số lớn đã trốn về nhà vì không chịu nỗi công việc nặng nhọc và cái nắng nóng như thiêu như đốt.

Ðoàn quay phim của nhà nước lên quay đám này về làm phim tài liệu tuyên truyền, nhưng có khúc nào mà đám thanh niên xung phong làm ra hồn, nên tới mượn chỗ chúng tôi làm để quay về tuyên truyền. Tù cải tạo thì bắt trốn kỷ vào rùng, thật xảo trá hết chỗ chê.

Thấm thoát Tết lại đến. Hơn chín tháng không được thăm nuôi, lại làm việc trong điều kiện quá tồi tệ. Ngày thì nắng cháy da người, đêm thì lạnh buốt xương. Ăn uống đói khác, nên ai nấy đều hóc hác thấy rõ. Có lần phải ăn củ nần bị trúng độc xém chết cả đội. Ðể chuẩn bị ăn tết, Ban Chỉ Huy trại cho Tù Cải tạo thăm nuôi, để thân nhân tiếp tế thực phẩm cho tù cải tao có thêm thực phẩm mà có sức cày tiếp.

Ngày thăm nuôi thật rộn rịp. Bên bờ sông, từng gia đình quây quần trên bãi cỏ ăn cơm. Một anh bạn Ðai Úy viết một lá thư trao cho vợ gởi về cho mẹ bị cán bộ quản giáo bắt được. Tối đến bức thư được đem ra đọc cho toàn trại nghe, vì lâu quá nên tôi chỉ nhớ đại ý. Ðầu thư là gởi lời thăm gia đình sau đó có đoạn viết than thở về sự cực khổ ở đây. Ðồng thời cho biết là có hy vọng là sẽ được về nay mai. Trong thư có đoan viết “Ðêm thì trăng sao, ngày thì nắng rọi. Con nay đã ở cuối đường hầm, con đã thấy vài tia sáng le lói ở cuối đường.” Cả đám tù như lặng câm, cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, ngồi im lặng và càng thấm thía cho kiếp tù, giận thay lũ Việt cộng ngu xuẩn, đem cảm xúc ý nghĩ thành thật của một tù nhân ra làm trò đùa... Bức thư này được cho là phản động, nên bắt anh phải kiểm điểm nhận lỗi.

Tết năm đó ăn tết trong buồn tẻ. Mai rừng nở rộ tô điểm cho rừng hoang thêm sắc màu. Nhưng lòng người càng ảm đạm. Càng ngày mương dài ra và gặp toàn đá, công trình bị châm lại, không biết bao giờ mới xong. Sau tết hơn 200 tù cải tạo được về. Không biết vì lý do gì toàn bộ rút về Hàm Trí. Các anh em làm ruộng ở Giếng Triềng cũng tụ hết về đây.

HÀM TRÍ LONG HOA

Ngay trước đồn NORA Long Hoa có con đường đất nối liền QL 1 với Hàm Trí chừng 3km . Vùng này khô cằn đất đai không được màu mỡ , cách chỗ trại đóng chừng 2 km mới có vài ngôi nhà và có một giếng nước. Trong phạm vi trại có con suối cạn chảy qua . Khi có mưa thì có nước hết mưa thì khô can . Chúng tôi phải làm đập chận nước lại mà phải đào giếng dưới lòng suôi cũng không có nước .

Trại A ở cách trại B + C một quãng đường ngắn, nhưng ít khi thấy nhau. Hai trại được rào lại bằng cây rừng cao 3 mét. Mỗi trại được lệnh phải cất một hội trường. Không có dụng cụ và đinh để đóng tole. Bộ Chỉ Huy trại điều một đội khối Ðại úy ra đồn Nôra lấy Concertina về chặt làm đinh. Sáng hôm đi như đi vào cõi chết, đoàn người phải mang theo võng để khiêng người, có thể có người chết vì vòng rào Ðồn toàn mìn , may mà không ai có việc gì. Việt cộng đã coi mạng những người Tù cải tạo VNCH không ra gì, thua mấy cây đinh.

Tại đây, chúng tôi phá rừng làm Rẫy, trồng bắp, Cao lương, Lúa, Ðậu phụng, Ðậu xanh... Một đội lên rừng lấy gỗ về cưa xẻ thành từng miếng đóng sạp cung cấp cho Quân Khu 6. Nói chung, Trại trung úy và thiếu úy có phần dễ dãi. Bên đại úy bị kềm kẹp một cách tàn độc.

Toán đầu tiên vượt trại là nhóm của Ðại Úy Nguyễn Văn Ba, Thông Minh Xê (gồm bốn người). Sau đó không lâu, nhờ sự giúp sức của gia đình thêm một Ðại úy vượt trại thành công, gây tức tối cho Bộ Chỉ Huy trại, các anh càng bị khe khắt hơn.

Trung tuần tháng 3/78. Một toán đại úy khoản 20 anh vai mang ba lô đi ngang qua trại B, gặp lúc chúng tôi đang làm việc sát đường nên hỏi các anh đi đâu đó, các anh cho biết là đi chặt tre. Tôi thấy trong toán có những người tôi quen như Ðại Úy Nguyền Văn Ngư. Thông Ngộ, Ðặng Phiên.... Hôm sau thì nghe tin các anh vượt trại thành công. Riêng Ðại úy Ngư trở về Ðồng trên Sông mao giả làm thầy Chang làm ruộng. Vì bị tố giác nên anh bị bắt nhốt tại Ðồn Công an Bắc Bình (tại CK/ Hải Ninh) năm 1981.

Sau đó Trại B cũng tổ chức vượt trại nhưng bất thành, các anh bi bắt cùm chân biệt giam cho đến khi được chuyển ra A30 Phú Khánh. gồm Hoành Biệt kích, Lê quang Nồng, Trác, Qúy...

Ðể răn đe, BCH trại cho tập họp toàn thể trại viên để nghe lời Thú tội của Ðại tá Ngô Tấn Nghĩa gởi đến toàn thể Quân Dân Cán Chính Tiểu Khu Bình Thuận . Thât là láo khoét, lúc này Ðại tá Nghĩa đã vượt biên được qua Thái Lan và đang định cư tại Mỹ . Không biết Ðai tá Nghĩa nào đây . Qua giọng nói rè rè nghe không rõ . Giọng Ðại tá dõm , kêu gọi tất cả mọi người an tâm học tập . Chính bản thân ông cũng đang được nhà nước khoan hồng cho cải tạo .

Ðai úy Thông minh Xê , người thượng vượt trại trước đó về sống ở buông thượng trên Buôn mê thuộc bị bắt lại đem về dằn mặt chúng tôi . Lúc này Cộng sản VN đã tấn công và chiếm Cam Bốt. Kế tiếp là chuẩn bị đánh nhau với Trung công, anh em môi hở răng lạnh dạy cho VN bài học . Chúng tôi được lên lớp cho biết bọn Bá quyền Tàu đỏ xâm lăng nước ta . Không còn tình hữu nghị gắn bó Môi hở răng lạnh như trong lúc học tập mà đảng đã rêu rao .

Ðầu năm 1979, còn một tháng nữa là Tết Âm lịch . Không phải ngày Lễ mà trại làm bò cho ăn . Chắc có chuyện gì đây , và quả nhiên như vậy . Sáng sớm tất cả mang toàn bộ hành lý tập trung ngoài sân .Danh sách đọc chia làm 3 nhóm . Một trăm người được cho về, 400 đi trại Sông cái Phan Rang .Số còn lại hơn 600 lên xe ra quốc lộ 1 trực chỉ về Bắc cùng với trại A đai úy . Ðây toàn là thành phần cực kỳ ác ôn còn sót lại sau bao lần sàng lọc .theo lời kết tội của VC.

TRẠI A 30 PHÚ KHÁNH

Qua một ngày môt đêm di chuyển liên tục , cửa bửng sau của xe tải bị khóa chặt . Mỗi xe 50 người ngồi thờ thẫn trong thùng xe . Tiểu tiện trong những thùng mang theo . Ðiều oái âm , không biết vô tình hay cố ý , Món thịt bò ăn hôm ra đi , làm chúng tôi tiêu chảy khủng khiếp . nếu muốn nhân lúc này chạy trốn cũng không nỗi .

Khuya hôm đó , xe dừng lại ở đỉnh đèo cả cho đi vệ sinh với sự canh phòng nghiêm ngặt . Ðến Tuy hòa , xe quẹo trái trên Tỉnh lộ 7B (đại lộ kinh hoàng ) . Chừng 10km , phía bên phải đường là xã Thạch Thành . Bên trái là trại A 30 Phú Khánh khét tiếng. Phía trên chừng 2km là Ðập Ðồng Cam lớn nhất miền trung . Trại nằm sát bờ Sông Ba . cách đó 3km dọc theo sông là Phân trại Bình Sơn .

Trước 75 khu này là Ðồn điền trồng mía của người Pháp . Hê thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại , đất đai phì nhiêu . VC dùng nơi này làm nông trường cho trại tù .Quá mệt mõi vì lái xe liên tục, một xe chở tù lủi xuống mương nước , may không ai bị chết , xe vào trại lúc 9 giờ sáng , chúng tôi được bàn giao cho công an quản lý . Tiêu chảy làm toàn bộ đuối sức, không còn đứng nỗi để tập họp bàn giao . Anh em kéo ra ngồi tiêu chật kín cả hai đám ruộng lớn .

Trại A30 là một trại khét tiếng về mức độ tàn ác dã man của CSVN . Chúng dùng tù hình sự làm toán trật tự đàn áp thẳng tay các vụ chống đối . Ðứng đầu nhóm này là tên Ghe , trước đây là Xã đội trưởng VC .Y đã lạm dụng quyền lực giêt chết người nên vào tù . Phụ tá là tên Bình , tên Ðức , tên Sơn...Phân trại Bình Sơn dùng nhốt tù Hình sự và phản động. Trại được chia theo các đội ngành nghề gồm có Ðội Rau xanh , Ðội Mộc , Ðội cưa xẻ , Ðội gạch ngói , Ðội xây sát.....

Ðặc biệt có hai đội nữ hơn 400 chị em, tội phản động vượt biên hình sự đều nhốt chung. Có hai đội nam, tuổi các em còn rất nhỏ có em chỉ 17 vì can tội vượt biên. Một nhà kỷ luật trang bị gông cùm chuyên nhốt những tù chính trị cứng đầu. Bên cạnh đó là nhà giam các Linh Mục. Tôi thấy có ba vị bị nhốt tại đây, trong một nhà riêng có rào bao quanh không cho ai được tiếp xúc. Bên các sư Phật giáo có vài Sư Tuyên Úy nhưng cho ở chung với thường phạm nhưng phải để tóc.

Chừng nửa tháng sau, các anh em của tổng trai 5 cũng bị dồn về đây. Số người tại đây tăng lên hơn 6000 người. Quả là kinh hoàng, nhưng cũng nhờ sống chung đụng như vậy mà tôi ghi nhận được nhiều điều lý thú về chế độ tàn bạo này.

Nhà ở chật chội, tối ngủ phải nằm nghiêng mới ngủ đươc. Ăn uống rất kham khổ, mà lao động làm theo chỉ tiêu nên chúng tôi có phản ứng mạnh. Ðại tá Phó Trưởng Ty công an Phú khánh phải đến trấn an ngọn lửa phản kháng gần như công khai qua các buổi họp đội có quản giáo tham dư. Chúng tôi có đặt thẳng những câu hỏi như: Cách mạng có nói láo hay không khi hứa với chúng tôi sau 3 năm lao động tốt sẽ cho về. Ðại Tá công an tim cách lẫn tránh, giải thích rằng tình hình biến chuyển bên ngoài rất khó khăn, các anh ở đây an toàn hơn.

Lúc ở Tổng trại 8 cách xưng hô có phần tôn trọng phẩm giá con người, Dùng ANH và TÔI để xưng hô. nay phải xưng hô thưa cán bộ, Ban trưởng. Thằng công an cảnh vệ quèn cũng phải đứng cách ba bước trình với thưa vì thế chúng tôi rất bực mình nên nổ ra các cuộc vượt trại. Gần 500 người của trung úy và thiếu úy và một ít đai úy được chuyển lên Bình Sơn, vì tại đây mới được tân trang mở rộng. Ðội Nữ chủ yếu là vượt biên cùng các em trai mang tội vượt biên, già thì cho về, trẻ thì tống vào Thanh Niên Xung Phong.

Gần 600 mạng khi đến nơi giao quân chỉ còn mấy mạng vì sợ không dám nhảy xe, hoặc vì lý do gì đó không dám trốn, số còn lại trốn mất làm Ban trưởng Tr/ Tá Hạnh điên lên. Mới ra đây hơn tháng, Gặp bão lớn ập vào, nước sông Ba lên cao, chúng tôi phải chạy lụt ra xã Thạch thành. Ðội chúng tôi được ở chung với nhà Kỷ Luật trong một ngôi trường. Phòng bên hơn 40 người bị xiềng chân lại với nhau. Người gầy gò xanh xao hóc hác trông rất thương tâm. Trong đó có một nữ tù nhân. Tôi hiểu ngay đây là những người tù chính trị, theo cách gọi của đảng là phản động. Những ai chống lại chế độ, Không ca tụng Bác Hồ vĩ đại đều là phản động.

Qua tìm hiểu tôi biết chị tên HỒNG. Sau ngày 30 tháng 4 chị gia nhập phục quốc, thư ký cho nhóm Phục Quốc Quân tai Nha Trang. Giáo sư Tháo Trường Võ Tánh Nha Trang làm Chủ Tịch Ðảng. Năm 1976 bị bắt ra tòa ở tòa án Nha trang. Giáo sư Tháo bị kêu án 20 năm. Riêng chị tám năm. Sau khi bị kết án, quan tòa cho phép chị nói lời cuối cùng. Ðứng dậy, chị chỉ thẳng vào mặt tên quan tòa nói lớn. “Liệu chế độ của các ông có tốn tại tám năm nữa hay không mà các ông kêu án tôi chừng đó” Ðây mới là Anh thư của thời đại. Bọn cò mồi lập tức tuyên án chị lên 20 năm, và chị bị cùm tại nhà kỷ luật A30 Phú Khánh một năm. Sau khi được thả ra đội nữ, Chị tiếp tục kêu gọi chị em trong đội không tham gia lao động và tỏ ra khinh miệt bọn công an. Chúng lại tiếp tục đem chị vào cùm cho đến hôm nay.

Riêng giáo sư Tháo bị giam ở Bình Sơn trong Ðội phản động. Khi được chuyển về Bình Sơn tôi ở chung với đội Phản Ðộng này. Cái Tết 1978 đến trong lặng lẽ, ngày tết hoặc lễ lớn, khẩu phần ăn của tù cải tạo có thêm miếng thịt bằng ngón tay. Anh em sông được là nhờ cải thiện thêm khi đi lao động và của gia đình thăm nuôi.

Ban trưởng là trung tá công an Trần Ðức Hạnh. người Bình Định, quê mùa dốt nát không biết sao lên được trung tá, nghe cách ăn nói thì đủ biết. Tay này rất thích hát bội, nên đội văn nghệ trại có thêm gánh hát bội. Thật khổ sở cho đám tù cải tạo chúng tôi vô cùng. Hễ có quan chức nào đến thăm viếng là mỗi lần gánh hát bội phải hát và khán giả là đám tù mệt mõi. Có tuồng hát đến chục lần, đó là tuồng Ngũ Hổ Bình Tây. Nhân vât chính là tên tướng Tàu Ðịch Thanh đời nhà Tống. Một tên đã từng cầm quân xâm lược nước ta, vậy mà y không biết lại hết lời ca tụng tên Ðịch Thanh là hiếu nghĩa vẹn toàn.

Ban Hạnh ưa Trình Diễn nên trại có đủ các bộ môn, Báo chí Thể thao, văn nghệ. Có một đêm Ban ta ghé nhà thăm nuôi được các chị nói sao không biết. Ban ta quyết định cho tất cả ai có thân nhân trong đêm đó được ra nhà thăm nuôi ngủ với gia đình. Vì nặng phần trình diễn nên Ban nhà ta tổ chức đám cưới rình rang cho một cặp ở ban văn nghệ. Trong ban văn nghệ có chi Hồng, ca sĩ đài Truyền hình Nha trang, chị hát rất hay, nên Ban Hanh rất cưng. Chị xin về Nha trang chữa bệnh viêm mũi và trốn vượt biên luôn .

Hai anh thuộc diện phản động vượt trại thành công nhưng sau một tuần bi bắt lại môt anh. Ngay lập tức một tòa án được lập ra để xét xử Nguyễn Ðỏ tại hội trường trại. Thành phần tham dự được giới hạn . Anh Nguyễn Ðỏ lúc bấy giờ chừng 22 tuổi bị cái tòa án quái gỡ kết án tử hình (án trước của anh là 20 năm vì tham gia phục quốc). Ba ngày sau anh bị đem ra bắn tại chân Ðèo cả.

Trong nhóm Ðại Úy từ tổng trại 8 ra đây, các anh đã có kế hoạch vượt trại chỉ chờ thời cơ. Nhân khi đi làm, các anh cướp súng đánh và đầu tên cảnh vệ và đào thoát. Vụ này gây chấn động trong trại. Bọn vệ binh trở nên sợ sệt và có lễ độ hơn với anh em. Trong toán vượt trai hôm đó có Ðại Úy Trương Đức Tuấn (em ruột bà Trương Đức Nghi vợ Thiếu Tá Trịnh Vĩnh Bình) và Ðại Úy Dậu.

Tháng sau nghe tin các anh bị bắt lại Khi tính vượt qua biên giới Lào. Các anh bi giải về lại A30. Nhốt trong nhà kỷ luật, những tên trật tự trại đánh các anh dã man, nhất là Đại Úy Tuấn. Riêng Tr/úy Lương Hải người Chợ Lầu. Trong lúc đi rừng chặt cây anh đã có hẹn với gia đình đưa bằng Honda về Sài Gòn. Ðược một năm sống không có hộ khẩu, lại không đủ tiền chung cho công an khu vực, nên anh bị bắt giải lai A30. Ngày anh ra nhà Kỷ luật, tôi thấy anh như một thây ma biết đi. Khi qua được Mỹ theo diện HO. anh chêt năm 1995 vì vết thương của đòn thù năm nào.

Tôi được ở chung đội với các anh tù chính trị, VC gọi là phản động vì tham gia lực lượng Phục Quốc. Ngoài giáo sư Tháo ra còn có thêm 40 anh hùng, án từ 8 năm đến 20 năm. Có một giáo sư dạy pháp văn mà tôi quên tên đã gần 80 tuổi. Bác Quang, chú Triển. Ðăc biệt Th/sĩ Biệt kich Sạc lai... nhiều lắm những chiến sĩ vô danh cấp bậc chỉ là Tr/sĩ, hạ sĩ, binh nhì mà có tinh thần yêu nước một cách nồng nàn. Tôi tự thấy hổ thẹn cho bản thân vì không bằng được một phần của các anh.

Một tù nhân đặc biệt, khi em vào đây chỉ mới 15 nay 18 tuổi. Ðược em kể lại lý do vào đây, tôi càng cảm phục. Khi Việt cộng tiến chiếm Quận Diên Khánh Khánh Hòa. Tuy em mới 15 tuổi, nhưng em căm thù Việt cộng vô cùng. Em giấu lại một khẩu carbin M1 với vài băng đạn. Khi Phong trào tham gia Phục Quốc lan rộng. Em cùng với một sô lính VNCH lên rừng chống lại Việt cộng. Bị bao vây tất cả giơ tay đầu hàng giặc nhưng em thì không. Em đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và bị thương bất tĩnh. Việt cộng nghĩ em đã chết nên không bắn bồi. Khi xác em được khiêng về thì em tĩnh lại. Nếu em trưởng thành chắc đã lãnh án tử hình vì có vài công an đã bỏ mạng trước mũi súng của em.

Với án tập trung cải tạo, không có ngày về. Còn nữa Anh Sơn, anh Doan biệt kích cũng là những chiến sĩ kiêu hùng. Trên đường đi về sau khi lao động, hai anh đã lẫn vào đám cỏ biến mất. Vài người có biết nhưng không ai báo cho quản giáo. Ðến khi điểm danh vào cổng mới thấy thiếu hai anh. Nừa tháng sau, nghe tin hai anh đã bị bắt lại nhốt vào nhà Kỷ luật, khỏi phải nói hai anh lãnh đủ mọi đòn thù. Ða số các anh trong nhóm phản động này đều xanh xao, và ho ra máu. Các anh cho biết bi công an tra tấn khi bị bắt vì tham gia phục quốc.

Vì vượt trại quá nhiều, ddể trấn an và tìm kế hoạch chận đứng. Ban trưởng Hạnh cho triệu tập một cuộc họp gồm tất cả Quản giáo, Ðội trưởng, đội phó và Thư ký đội (Trại có 54 đội) ngoài ra còn có nhiều tổ biệt lập... Mở đầu, Ban Hạnh yêu cầu tất cả mọi người cho biết sự thật, lý do tại sao gấn đây lại vượt trại nhiều. Ông ta hứa danh dự là không bắt tội vì nói sự thật, có đụng chạm với Ban Chỉ Huy trại.

Sau gần năm phút im lặng, một anh xin phát biểu như sau: Thưa Ban và Quản giáo. Không có gì khó hiểu cả, lúc còn ở Tổng trại 8 có hứa là sau ba năm sẽ giải quyết cho về. Nay trên không giữ lời hứa. Là con người, chúng tôi có tình cảm. Vợ con ở nhà nheo nhóc, đói khát. Có chị phải bán thân trong tuổi nhục mà nuôi con chờ chồng. Ban có biết không. Các anh Ðại Úy nhìn thấy Th/Úy, Tr/Úy chưa về thì đến bao giờ các anh mới được về đây? Chỉ còn con đường vượt trại. Nếu một năm nữa mà không được về chắc bản thân tôi cũng phải tự ra đi. Ban Hạnh đánh rầm một cái xuống bàn quát im ngay. Sau đó ông ta hứa là sẽ cứu xét, đề nghị cho về, và đề nghị Trại viên an tâm, chấm dứt việc vượt trại. May mắn sau đó Ban Hạnh giữ lời hứa không truy cứu người phát biểu hôm đó.

quận Hòa Đa năm 1971 (photo GCH LuKe) Cái Tết năm 1979 lại qua trong lặng lẽ tại phân trại Bình Sơn. Những đợt về thì nhỏ giọt tượng trưng vài chục mạng. Lao động càng ngày càng gian nan, nên tiếp tục có những cuộc vượt trại.Tại Phân trại Bình Sơn, Tr/Úy Hoành Biệt kích, hẹn cùng Quý người Ðà Lạt cùng vượt trại. Ðây là nhóm hai người vượt trại ở Hàm Trí. Không biết lý do gì anh Quý thất lạc với anh Hoành, nên chỉ mình anh Hoành ra đi, còn anh Quý lẫn quẩn trong đêm bị công an trại truy đuổi bắn chết khiêng về bỏ nằm trước trại cho tất cả thấy để dằn mặt.

Nhờ sư đấu tranh của Tù cải tạo mà Tháng 10/80. Năm trăm người được thả về. Sau đó tháng 12 lại thả về vài trăm. Giừa năm 1981 coi như gần hết các anh em ở tổng trại 8 Sông Mao đươc về. Người Tù có cấp bậc cao nhất tai đây là Ðại Tá Lương, Ông ta đã bị cô lập không cho chúng tôi tiếp xúc. Luôn luôn bị đám Trật tự rình mò theo dõi, Không biết ông về thời gian nào.

Ra khỏi nhà tù nhỏ, bước chân vào nhà tù lớn hơn. Tất cả Chiến Sĩ Quân Lực VNCH bị đầy đọa về thể xác lẫn tinh thần. Hận thù triền miên do cộng sản tiếp tục gây ra biết đến bao giờ chấm dứt.

Ghi lại đây một đoạn đời bi thảm, không phải để kể lễ hay kêu than cho số phận của người lính, người dân Miền Nam bị bán đứng, đến nổi phải nát cửa tan nhà. Tất cả những dòng chữ trên đây đều là máu và nước mắt của không riêng tôi mà là của tất cả bạn bè đồng đội đã cùng bước vào cổng thiên đường xã nghĩa và một số may mắn trong số này có tôi đã trở về để làm một nhân chứng trước lịch sử dân tộc. Mục đích cũng chỉ thế thôi!

CAO HOÀI SƠN
Cựu Trung Úy QLVNCH
Lính Già 229/TKBT


http://vongngayxanh-vongngayxanh.blogspot.com/2015/03/qua-nhung-trai-tu-cong-san-cao-hoai-son.html





 

KIẾP TÙ

(Tâm sự của người Lính Nghĩa Quân QL/VNCH)

Tác giả Duy Xuyên

 photo Chacircn dung Ngi Liacutenh Ngha Quacircn ca Quacircn Lc VNCH.jpg

Chân dung Người Lính Nghĩa Quân của Quân Lực VNCH

Tôi sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá. Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.

Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn:

– Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.

Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.

Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi. Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.

Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi. Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên - một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.

Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng này. Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.

Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.

Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.

Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp, ngụy trang, che giấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.

Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh ta.

Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du kích.

Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất. Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của chúng tôi.

Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân. Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng hai cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã. Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.

Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:

– Đặt xác nó tại đây đi!

Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị… mưa ướt.

Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:

– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!”

rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó.

- “Trời ơi là trời!”

Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy. Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…

Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!

Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân Viên. Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?

Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:

– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?

Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:

– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!

Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi. Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ nàyđâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng… gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.

Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về. Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng ba năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại tù. Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.

Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.

À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi… Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!

Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.

Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy… ra làm sao.. Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào.. nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khỏe mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ bốn con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.

Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được ba lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.

Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi. Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh trán, một ít mắm ruốc kho… Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.

Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.

Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười. Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ chúng. Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh - đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.

Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét… Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh. Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.

Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi: “Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà. Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.

Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về. Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.

– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về. Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu. Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.

Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.

Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi, không thương yêu nó. Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.

Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!

Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!

Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của con Thanh…

quận Hòa Đa năm 1971 (photo GCH LuKe) Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên… Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng của con Thanh. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buộc một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào.

Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi: “Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.

Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó:

- “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn.”

Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh. Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.

Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh. Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh. Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi:

- “Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?” Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu. Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.

Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho tôi. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.

Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của một chế độ mà người bốc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống..”

Duy Xuyên


https://baovecovang2012.wordpress.com/2015/04/02/kiep-tu-duy-xuyen-tacoma/

 

 

 

Địa Phương Quân & Nghĩa Quân của QLVNCH
Cờ Bảo Quốc An Dân
của Địa Phương Quân & Nghĩa Quân

Mục đích:

Bài nầy viết để vinh danh những “Anh Hùng Vô Danh” Địa Phương Quân và Nghĩa Quân trong cuộc chiến 1954-1975, họ là những người chịu nhiều đau thương nhất, tổn thất cao nhất so với các binh chủng khác trong QLVNCH, đồng thời họ chịu nhiều sĩ nhục từ phiá Cộng sản.


Vì chính CSVN xem họ là kẻ thù nguy hiểm nhất qua 2 câu vè tuyên truyền của VC thời đó:


“Ngàn hai bắt được thì tha.

Chín trăm bắt được đem ra chặt đầu”


(1200 đồng là lương hàng tháng của quân dịch Chủ lực quân, 900 là lương của Dân Vệ/Nghĩa Quân) thực tế CSVN chỉ tuyên truyền vậy thôi, thời kỳ chiến tranh 1945-1975 chúng bắt được ai thì hầu hết đều bị thủ tiêu chớ làm gì có tha ai đâu.


 photo regional212.jpg
Chân dung Người Lính Nghĩa Quân của Quân Lực VNCH


Giới thiệu lược:

Địa phương quân, thời kỳ đầu được gọi là Bảo An đoàn, là lực lượng vũ trang địa phương của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.


Bảo an đoàn được thành lập năm 1955 trên cơ sở thống nhất các lực lượng Bảo chính đoàn, Nghĩa dũng đoàn, Việt binh đoàn do Pháp bàn giao lại, thu nạp thêm một bộ phận các tín đồ Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Trong thời gian từ năm 1955 đến 1964, lực lượng Bảo an đoàn trực thuộc Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự trị an ở từng địa phương.


Từ 1964, Bảo an đoàn được chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa và đổi tên thành Địa phương quân. Địa phương quân tổ chức thành các đại đội (khoảng 100 người). Trong thời gian từ 1968 đến 1972, lực lượng này phát triển mạnh từ 895 lên 1.823 đại đội, tương ứng với số quân 132.000 lên 301.000. Cuối 1972, một số đại đội Địa phương quân được gộp lại thành tiểu đoàn. Phần lớn các đồn lớn là của Địa phương quân, do tiểu khu và chi khu điều khiển. Các đồn nhỏ do phân chi khu (xã), giao cho Nghĩa quân phụ trách. Bộ chỉ huy Quận hay còn gọi là Chi Khu thông thường do lực lượng Nghĩa Quân bảo vệ.


Chi khu trưởng và ban tham mưu chi khu là những cấp chỉ huy xuất sắc của Chủ Lực Quân đưa sang nên họ đã huấn luyện, hướng dẩn các đơn vị ĐPQ/NQ những phương thức hữu hiệu để tiêu diệt Cộng sản mà họ đã có được kinh nghiệm khi còn chỉ huy các đại đơn vị tinh nhuệ như Nhảy Dù, Biệt Động, Thủy Quân Lục Chiến v.v… Do đó có nhiều trung đội Nghĩa Quân đánh giặc hữu hiệu không thua gì các đơn vị chủ lực. Chính hai thành phần này mới là những người bám rễ giữ đất, chịu nhiều gian khổ và thương vong nhất trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ.


Phiá Cộng sản xem họ là kẻ thù nguy hiểm, nhưng báo chí Miền Nam Việt nam thời đó cũng tỏ ra có nhiều ngộ nhận không ít về họ. Có báo thì cho là lính ma, lính kiểng, có báo thì cho là binh chủng lạc hậu và đặt tên là “Con Ruà chậm tiến” chỉ vì họ không được trang bị hiện đại bằng các binh chủng khác, luôn luôn được trang bị chậm và thiếu các loại vũ khí tối tân như M16, M79 phóng lựu và thông thường phương tiện di chuyển hay hành quân họ thảy đều dùng đôi chân của mình chớ không có phương tiện cơ hữu như quân xa, máy bay. Họ đánh giặc theo kiểu nhà nghèo. Lương thì ít ỏi không đủ sống, vì vậy đôi khi NQ còn được trợ cấp thực phẩm, có 2 câu thơ truyền miệng:


“Dân Vệ Đoàn vì dân trừ bạo

Hai bao gạo một thùng dầu’’

(chú thích: Gạo của Hoa Kỳ trợ cấp loại 10 ký / bao,dầu là loại dầu ăn hột cải 4 lít)


Nhận định về người lính ĐPQ/NQ thuộc QLVNCH xin đơn cử một số nhận định sau đây:


Quân lực Việt Nam Cộng Hoà 1968-1975 Bài của nhà nghiên cứu về Việt Nam Bill Laurie:


Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006.


Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đạy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ.


Sử gia Bill Laurie đã có nhận định như sau về ĐPQ và NQ:


“Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội.


“Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh.”


2- Bài Xác Định Giá Trị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà của Tiến Sĩ Lewis Sorley (phần nói về ĐPQ/NQ) - Tiến sĩ Lewis Sorley tốt nghiệp Cử Nhân năm 1956 tại U.S. Military Academy, West Point ; M.A. năm 1963 tại University of Pennsylvania; M.P.A năm 1973 tại Pennsylvania State University; Và Tiến Sĩ (PhD) năm 1979 tại Johns Hopkins University ông đã chia xẻ về những nhận xét ĐPQ/NQ như sau:


“Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc bình định”.


Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam thì quân lực VNCH gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra còn có những lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) phụ trách an ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đã có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.


ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, Điều tôi quan tâm nhất là vai trò của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đã lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho quân địch nhiều đòn chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân thì đây mới là phần việc lớn”!


Cùng một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này. Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không? Nếu có thêm nhân số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa (ĐPQ/NQ) này có lợi hơn”.


Cuối năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, thì QLVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đã xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”.


Một người trong cử tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!


Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết quả”!


Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.


Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ĐPQ và NQ đã gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”. “NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”!


Các sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng:


“Các ĐPQ và NQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng và đã được các nhân vật bình luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng: “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”!


Ưu điểm:

Sở trường của ĐPQ/NQ là đánh du kích, là triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch, trong chiến dịch Phượng Hoàng họ là binh chủng cung cấp tin tức tình báo nhiều nhất, chính xác nhất, đồng thời cũng là đơn vị trực tiếp triển khai hành quân, thanh lọc, phục kích để tiêu diệt du kích Việt Cộng và lực lượng địa phương huyện, xa4 của địch. Vì sống gần dân (ĐPQ) trong dân (NQ) nên họ nhận được nhiều tin tức tình báo quý giá, những báo cáo về sự thâm nhập của quân CS vào trong xả ấp, những thói quen di chuyển của VC nên các cuộc đột kích, phục kích của ĐPQ/NQ rất dể thành công.


- Trong thế phòng thủ đôi khi đối đầu với chủ lực CS,các chiến sĩ NQ/ĐPQ cũng đã đánh nhiều trận ngoạn mục bẻ gảy các cuộc tấn công bằng xe tăng có pháo binh yễm trợ cuả chủ lực CS Bắc Việt.


-Trong công tác Bình Định Phát Triển họ là thành phần xuất sắc góp phần trong các chính sách của Quốc Gia như rào ấp chiến lược, ấp tân sinh,l uật Người Cày Có Ruộng v.v…


-Trong quốc sách Chiêu Hồi mà kết quả trên 200.000 cán binh VC về hồi chánh để trở về với đại gia đình Dân Tộc thì ĐPQ/NQ là có thành tích cao nhất trong việc kêu gọi cán binh VC trở về với chính nghĩa quốc gia.


-Trong công cuộc trường kỳ kháng chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bão vệ Miền Nam chống lại sự xâm lăng ồ ạt của quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự phá rối trị an của Du Kích Cộng sản còn gọi là Việt Cộng (VC). Lực lượng Diện Địa bao gồm Điạ Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) đãm nhận trọng trách lớn lao là bảo vệ làng, xả, thị xả, tỉnh lỵ, đô thị, trường học, cầu cống, quốc lộ, tỉnh lộ, trục lộ giao thông nông thôn, đường sắt, các công trình quan trọng (như Đập Thủy Điện Đa Nhim, Nhà Đèn Chơ Quán v.v…)


Có bảo vệ an toàn nơi tuyến đầu là nông thôn thì chốn hậu phương thành thị mới yên ổn để phát triển và xây dựng, thất bại ở nông thôn là mất hậu cứ căn bản sẽ bị cộng sản bao vây và khủng bố. Chúng ta thử nghĩ hậu cứ của các đại đơn vị cuả QLVNCH tại thủ đô Sài Gòn, Huế, Cần Thơ v.v… sẽ ra sao nếu không có vành đai nông thôn do lực lượng ĐPQ/NQ bão vệ an toàn bao bọc.


Ngoài ra hàng ngàn công trình xây dựng của Quốc Gia sẽ ra sao nếu không có sự bão vệ ngày đêm của lực lượng diện địa ĐPQ/NQ để cho chủ lực quân rảnh tay hành quân lưu động tảo trừ quân chính quy CS xâm nhập Miền Nam. Nhưng thật bất công cho họ trước 1975 báo chí VNCH gần như quên lảng họ, báo chí Hải Ngoại sau 1975 cũng vậy, xem họ như con ghẻ ,hay nhẹ hơn là xem họ như những đơn vị thứ yếu trong Quân Lực VNCH!!!


Hảy nghe lời nhận định của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh Sư Đoàn 5 BB/QLVNCH (lúc đó đang là đại tá Trung Đoàn trưởng TĐ8/SĐ5) trả lời phỏng vấn cuả Chuẩn Tướng Haig/QĐ Hoa Kỳ ngày 24.1.1970: Ông giải thích sự sấp xếp này chỉ cho thấy cần yểm trợ thêm cho NQ/ĐPQ trong các cuộc hành quân của các đơn vị này vì hiện giờ pháo binh của QLVNCH phải yểm trợ cho các đơn vị chính quy và địa phương quân trong vùng hành quân của Trung Đoàn 8….


…. “Chỉnh đốn lại cấu trúc của tất cả các vị trí phòng thủ của NQ/ĐPQ theo tiêu chuẩn của SĐ 1 BB HK để loại bỏ mọi yếu điểm hiện có trong các vị trí này. Rất nhiều vị trí hiện hữu, lô cốt và công sự phòng thủ được thiết kế và xây cất một cách yếu kém và sẽ không chống nổi bất cứ một loại tấn kích nào.” “Nhưng ông nói nếu NQ/ĐPQ không chu toàn được phận vụ bảo toàn an ninh cho các trung tâm đông dân cư, các đơn vị QLVNCH sẽ buộc phải rút về bảo toàn an ninh cho các vùng đó và rồi các đơn vị QLVNCH trở lui lại vị thế của năm 1966.”…” Cần có yểm trợ pháo binh trực tiếp cho NQ/ĐPQ.”


Nhiệm vụ của ĐPQ/NQ thật nặng nề đó là bão vệ an ninh cho đồng bào sống an lành trong các thôn ấp, đồng thời bão vệ các thành thị, tỉnh lỵ, quận lỵ được an bình và chống lại những vụ pháo kích bừa bải của Cộng Nô vào các vùng đông dân cư. Trong khi đó thì chủ trương cuả Cộng Sản Việt Nam là dùng nông thôn bao vây thành thị, phá hoại an ninh tại nông thôn bằng hàng trăm hình thức khủng bố, sát hại, thủ tiêu, bắt cóc, bắt thanh niên từ 14,15 tuổi trở lên bổ sung cho lực lượng VC, cho các mật khu, du kích và chủ lực tỉnh, huyện. ĐPQ/NQ đã triệt hạ các ý đồ của Cộng Quân là làm cho nông thôn bị mất an ninh để đồng bào chạy về khu thành thị, để từ đó chúng dùng nông thôn bao vây thành thị trong chiến lược thôn tính Miền Nam theo chủ trương của Quốc Tế Cộng Sản.


Nhược điểm:

- Một khi đã chấp nhận nhiệm vụ diện địa thì phải có mặt thường xuyên trên địa bàn cố định, đồng thời phải liên tục tuần tiểu xa và gần để bảo vệ cứ điểm như đồn bót, chợ búa v.v…. Lực lượng diện địa thường cố định quân số, ví du bão vệ cầu trên quóc lộ thì từ cấp tiểu đội đến trung đội (từ 10 đến 30 quân nhân). Quân số ít thay đổi do đó dể bị CS điều nghiên đem lực lượng mạnh gấp 3,5 lần để tấn công. Quân dụng thiếu thốn, nhất là vật liệu để xây dựng hệ thống phóng thủ, hầm hố rất thiếu thốn so với chủ lực quân nên khó có thể cầm cự khi bị địch ồ ạt tấn công.


- ĐPQ/NQ sống trong quần chúng, nhận nhiều tin tức tình báo từ dân cư địa phương nhưng đồng thời cũng dể bị rò rỉ thông tin cho Cộng sản tấn công, dể bị cài nội tuyến đánh úp đồn bót.


- Gánh nặng trách nhiệm, huấn thị phối hợp của Bộ Tổng Tham Mưu đã minh định rỏ ràng là ĐPQ/NQ lực lượng bão vệ lãnh thổ (cố định), nhưng lại được trang bị yếu kém so với chủ lực quân. Đó là 3 yếu tố căn bản giải thích lý do tại sao lực lượng nầy chạm địch thường xuyên và chịu tổn thất gấp rưởi hay gấp 2 lần so với chủ lực quân (bao gồm các sư đoàn Bộ Binh và TQLC, Nhảy Dù, BĐQ cộng lại) theo bảng thống kê tổn thất sinh mạng hàng năm do Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đúc kết.


- Trong khi đó nhiệm vụ của Chủ Lực Quân là hành quân lưu động lùng và tiêu diệt chủ lực quân của CSVN, nhờ yếu tố di động thường xuyên nên họ ít bị địch tập trung tấn công hơn so với ĐPQ/NQ. Ngoài ra lực lượng Tổng Trừ Bị gồm các Sư Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thường hành quân lưu động với quân số từ cấp Tiểu Đoàn,Trung Đoàn trở lên, đây là các đai đơn vị tinh nhuệ, có hoả lực không quân và pháo binh cơ hữu cũng như tăng phái yễm trợ tối đa khi lâm chiến nên CSVN thường tránh né các đại đơn vị nầy mà tìm cách đánh các đơn vị nhỏ của ĐPQ/NQ. Chứng tỏ trong cuộc chiến VN áp lực địch luôn đè nặng lên ĐPQ/NQ. Ngoài ra tấn công vào các vị trí như tỉnh lỵ, đô thị thì CSVN dể dàng cướp đoạt tài sản dân chúng, chứ tấn công các đơn vị chủ lực thì vừa dể bị thiệt hại và chẳng có tài sản gì để cướp ngoài vũ khí.


Những trận đánh chưa ai kể đến cuả ĐPQ/NQ trong cuộc chiến Việt Nam:


Có thể nói rất nhiều kể sao cho hết những chiến công hiển hách cuả anh em chiến sĩ ĐPQ/NQ trên toàn thể Miền Nam từ 1954-1975, tôi chỉ lược ra đây một số những chiến công của ĐPQ/NQ chưa hề được ai nhắc tới:


- Trần Văn Tựu một chiến sĩ Nghĩa Quân quận Long Điền, chức vụ trung đội trưởng, trước kia là một đại đội trưởng du kích huyện Long Đất, nhưng sau khi trở về với chính nghiã quốc gia, anh đã lập nhiều chiến công hiển hách. Từng hướng dẩn lực lượng quận vào đột kích mật khu Tam Phước, Minh Đạm như chổ không người. Đánh giặc đối với Tựu là một cái thích thú, không hề than van cực nhọc, được đi hành quân là vui, không thích nhiệm vụ canh gát. Tỉnh Đội Bà Rịa, huyện đội Long Đất từng bao lần treo giá anh nghĩa quân nầy còn cao hơn sĩ quan trong Chi Khu. Vì tất cả thói quen, đường đi nước bước cuả VC trong vùng anh thảy đều thuộc nằm lòng. Trên đường đột kích mật khu Minh Đạm năm 1965, xuất phát lúc nửa đêm, trung đội của anh nhận nhiệm vụ dẩn đường, lực lượng Quận khoản 4 trung đội NQ theo sau. Anh là trung đội trưởng vừa là khinh binh đi đầu. Còn độ 500 thước nửa đến mật khu. Nhìn dấu chà chôm (chổi bằng cành cây trong rừng) vừa mới quét, anh biết ngay là sắp vào mật khu, ra lệnh cho anh em dừng lại để anh đích thân bò đi đầu tháo gở mìn bẩy, anh đã áp sát và hạ thủ tên du kích gát giặc dể dàng không tiếng động, kế đó 1 tên vừa ra suối đánh răng cũng bị anh hạ thủ nhẹ nhàng. Ra thủ hiệu cho thuộc cấp bò theo, lần lượt mỗi anh NQ đứng kế bên mỗi chiếc vỏng của kẻ thù, bằng 1 thủ hiệu kế tiếp tiểu đội anh đã đồng loạt thanh toán gọn trên 10 tên VC cỏn đang ngủ trên vỏng bằng lưởi lê mà không hề nổ 1 phát súng. Sau đó cắt người canh gát thay cho VC, lục soát các hầm trú ẩn, xong rồi mới báo cáo cho Quận đem quân vào thanh toán phá huỷ căn cứ địch.


Có đi bên cạnh anh thì mới biết khả năng tác chiến trong rừng của anh rất cao, đầy khôn khéo. Mỗi hành động đều có tính toán nhanh như sao xẹt, phản ứng rất nhanh và chính xác.Một lần đang đi cùng tiểu đội đi đến điểm phục kích đêm, anh vô tình đi ngang qua một cửa sổ có 1 tên du kích đang về thăm nhà, ngoài ra còn có 2,3 đồng bọn canh gát ngoài xa. Tên du kích thoáng thấy dáng anh la lên hỏi: ”ai?”.Anh bình tỉnh đi chậm lại, không quay đầu, không hấp tấp trả lời: ”mình đây mà!” rồi tiếp tục đi bình thường. Tên du kích mắc lừa tưởng đồng bọn, không nổ súng, vừa qua khỏi vách nhà anh xoay ngang trả lời bằng 1 tràng tiểu liên Thompson kết liểu tên VC trong nhà. Bởi vì nếu anh tỏ ra hấp tấp hay chạy thì tên nầy sẽ nổ súng trước anh và sẽ hạ anh dể dàng.


Còn hàng trăm chuyện lớn, chuyện nhỏ của anh trong đời lính đẹp như ciné, lính trong quận thi nhau kể về anh như thế! Nhưng hể có tài thì lại có tật, trong bất kỳ cuộc hành quân nào, dù cấp chỉ huy có ra lịnh, lục soát bi đông cuả anh cẩn thận đến đâu, hể đi ngang qua xóm nhà dân thì anh chàng mua bidon rượu đế lúc nào không ai biết, rồi vừa đi vừa lén uống từ từ!


Một lần đi hành quân qua vùng An Ngải, ta và địch chạm súng bất ngờ, địch khai hỏa trước làm cho ta bị thương 2 NQ, địch có cây cối bao che, bên ta trống trải nên đành nằm bẹp để chịu trận. Quân ta dàn hàng ngang chờ đợi vì địch đang có chướng ngại vật bao che, có gốc cây lớn làm điểm tựa, địch bắn sẻ chứ chưa dám xung phong vì hai bên ngang ngửa. Thình lình anh chàng Tựu nổi nóng vì nảy giờ phải mọp bên bờ ruộng, từ từ cởi súng, đạn ra để 1 bên chỉ đeo dây ba chạt đầy lựu đạn M26, không nói 1 lời, không xin phép cấp chỉ huy. Đứng dậy vụt chạy cực nhanh thẳng vào vị trí địch, trong khi đồng đội thảy đều bất ngờ. Anh ta chạy có kỹ thuật chử chi hẳn hoi, hai tay 2 quả lựu đạn, còn cách khẩu thượng liên 10 mét, tông 2 quả lựu đạn xong rồi nằm chờ. Hai tiếng nổ long trời vừa nổ chưa hết khói là lúc anh ta phóng mình chạy vô lượm súng và thanh toán địch bằng chính AK cuả địch.Tới đó thì trung đội còn lại mới giật mình mà xung phong theo anh. Trận đụng độ chớp nhoáng nầy ta hạ sát được 4 tên VC, số còn lại hoảng quá chạy hết. Anh chàng Tựu đứng lên cười ha hả làm cho chúng nó nín thở mà chạy, bỏ lại khẩu thượng liên và 2 khẩu AK. Diển tả thì dài dòng mà diến tiến ngoài mặt trận thì nhanh như chớp mắt, không ai ngờ anh Tựu lại thanh toán địch nhanh đến như vậy!


Tức mình vì anh nầy làm càn không xin phép, sỉ quan Chi Khu kêu anh lại quở trách. Anh chàng trả lời tỉnh bơ “thiếu úy ơi, em đâu có ngu, em bỏ súng lại, chạy mình không vô tụi nó, chơi cho tụi nó 2 quả, lở thời tụi nó bắn giỏi thì cùng lắm là chết mình em, chúng nó đâu lấy được súng em đâu!” Rồi cười hề hề làm sao mà nổi nóng với anh chàng ba gai nầy được!


Một lần VC phát loa, gần bên hông dinh Quận chừng trăm thước, chắc có lẻ độ tiểu đội du kích bò vô, phát loa tuyên truyền chừng 5, 10 phút rồi sẽ bỏ chạy, trong quận thì chưa biết phản ứng ra sao vì VC đang nấp bên nhà dân, bắn ra thì sợ trúng dân, không bắn thì cũng kẹt. Anh chàng Tựu giơ tay tình nguyện: ”Xin ông thầy cho em ra lấy cái loa, đừng bắn ra tui nó, coi chừng trúng em, em hưá bắt gọn lấy cái loa nộp ông thầy mà “Với cây tiểu liên bá xếp anh bò ra ngoài bằng cổng hậu rồi lần mò ra tới nơi tên phát loa, đứng dậy bắn 1 phát lấy cái loa chạy vô quận, tụi du kích còn lại bắn theo nhưng không kịp với con sóc nhanh nhẹn nầy. Diển tiến chưa đầy 10 phút thì anh đã thanh toán xong mục tiêu! Với kích thước nhỏ con độ chừng 1m55 thôi nhưng anh chàng NQ gan dạ nầy làm cho bọn VC trong vùng kinh hồn tán đởm.


- Ở chi khu Đất Đỏ cũng có vài anh NQ gan cóc tiá, y hệt anh Tựu. Anh nầy tên gì tôi quên rồi, chỉ còn nhớ sự việc như vầy: khoản năm 1967 VC bao vây Chi Khu Đất Đỏ ngay giửa ban ngày, vòng vây chưa thắt lại gần, chúng đã xâm nhập vào 2 xả Phước Thạnh và Phước Hoà Long cách BCH Chi Khu độ 2 cây số đường chim bay, chúng bắn cầm chừng nhưng lực lượng thâm nhập vô quận lỵ rất đông, có lẻ để chờ đánh lực lượng tiếp viện của Tỉnh. Quân số chúng độ khoản trung đoàn. Những toán quân tuần tiểu cuả ta đụng độ lẻ tẻ với địch nhưng phải rút về Chi Khu vì quân số địch quá đông. Được tin tình báo của dân và vợ lính cho biết VC đang đóng quân nhiều nơi, trong đó có 1 chổ đặt Bộ Chỉ Huy gần nhà dân, muốn phối kiểm tin tức để có thể sử dụng pháo binh đánh chính xác điạ điểm vì sợ lầm nhà dân, ông Chi Khu Trưởng đích thân tập hợp trung đội NQ thám báo Chi Khu để tìm 1 người tình nguyện đi ra ngoài, vào tận nơi để xem xét tình hình. Cuộc đi nầy muôn vàn nguy hiểm vì vậy ông Chi Khu Trưởng cần 1 người tình nguyện. Trong vòng 5 phút giải thích lý do, có đến 3 anh NQ tình nguyện! Anh chàng được chọn vì anh viện cớ có vợ chưa có con, có gì thì nhờ 2 bạn kia lo giùm vợ con. Anh giả trang người đi cày vác cuốc, mặc aó bà ba, lận lựu đạn trong người. Lấy cớ đang cày bừa, nghe nổ súng nên chạy về nhà. Anh qua mặt du kích gát dể dàng, xâm xâm đi vào vùng địch kiểm soát, đi về hướng BCH trung đoàn địch với cây cuốc trên vai! Qua mấy xóm nhà dân, gần đến BCH thì địch khả nghi, hô đứng lại, anh vụt chạy thẳng vô căn nhà VC đóng BCH nên chúng chưa dám nổ súng sợ trúng cấp chỉ huy. Anh xông tới gần, ném 2 quả lựu đạn rồi chạy ra ngoài sau khi nổ xong, tiêu diệt trọn ổ BCH Việt Cộng. Sau đó anh chạy thoát được ra ngoài vì chúng hoảng loạn, mãi gần 4 giờ đồng hồ sau anh mới về đến được Chi Khu, hoàn thành nhiệm vụ tình báo!!! Nhờ tin tức chính xác Chi Khu sau đó đã bắn pháo binh vào đúng tọa độ anh NQ nầy cho, đồng thời lợi dụng lúc địch đang bối rối vì BCH bị thiệt hại nặng, Chi Khu đã nhanh chóng điều động lực lượng ĐPQ phối hợp NQ giải toả vòng vây. Địch bỏ chạy, rút hết vì đã lộ kế hoạch.


- Đồn Bờ Đập thuộc xả Hội Mỷ quận Đất Đỏ do 1 trung đội thuộc Đại Đội 612 ĐPQ đãm trách, tối đi phục kích 2 tiểu đội, còn 1 tiểu đội ở nhà giử đồn. Vợ lính cũng cắt gát 1 vọng vì thiếu quân số. Đêm đó (khoản năm 1967) VC sử dụng 1 tiểu đoàn chính quy, có súng phun lửa, DKZ, B40 cộng thêm dân công ước độ vài trăm người tấn công biển người với cái đồn nhỏ chỉ độ 10 người lính với 15 bà vợ lính, 2 tiểu đội đi phục kích bên ngoài cũng không về tiếp ứng được, các bà vợ lính đã chiến đấu dủng cảm, con nít thì tiếp tế đạn, lựu đạn, họ đã cầm cự đến sáng Chi Khu mới đưa quân đến tiếp ứng kịp thời, sau đó thu gom xác VC chết chung quanh đồn gần 60 tên, mượn xe pulldozer uỉ 1 cái hố chôn chung mấy tên “sinh bắc tử nam” nầy chung 1 hố có cấm bảng lớn ghi rỏ ràng:”Mồ chôn Cộng Phỉ”. Không hiểu sau 75, VC có đào đi cải táng không thì không rỏ. Phần nầy chắc chúng không dám ghi vào quân sử vì tủi hổ quá 10 đánh 1, mà một lại thắng! Mấy bà vợ lính sau đó có được Tỉnh tặng bằng khen, có truyền hình từ Saì Gòn đến quay phim làm lại trận giả, quay lại trận đánh để đời nầy, không rõ chiếu được mấy lần!


Sau trận nầy có 1 chi tiết đứng tim. Đó là khi trên Tiểu Khu đến nghiên cứu trận liệt có 2, 3 sĩ quan cấp tá đến xem xét, suýt chút nửa là to chuyện, vì có 1 tên VC quá sợ trốn trong bụi cây ôm khẩu AK, trời sáng bét mới giơ khẩu AK đứng lên đầu hàng, làm ai nấy 1 phen hú hồn vì nó mà còn can đảm quơ 1 băng AK chắc phải có 2, 3 sĩ quan chết vì tên nầy!


Lính NQ ở các quận nói chung rất gan dạ, chiến đấu trường kỳ không hề than van, họ có ưu điểm sống gần nhà, gần quê quán nên không dám làm gì sai quấy sợ bà con chê cười. Trong khi đó lực lượng chủ lực xa nhà, xa quê, nếu cấp chỉ huy không kiểm soát kỷ dể có tình trạng kiêu binh làm mất lòng dân. Anh em ĐPQ/NQ rất sợ mất lòng dân nên họ giử gìn kỷ luật rất giỏi. Đây chỉ là nhận xét chung chung, không có ý so sánh với các binh chủng đàn anh. Bởi vì các trận đánh lớn binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân v.v.. xứng đáng bậc đàn anh vang lừng trong quân sử còn NQ/ĐPQ chỉ sở trường những trận nhỏ không tên mà thôi.


- Trong trận chiến sau cùng tại Chi Khu Long Thành ngày 24 tháng 4 năm 1975 tôi đã mục kích những người lính Nghĩa Quân Long Thành bắn cháy 4,5 chiếc T54 qua những màn xáp lá cà còn hay hơn phim ảnh Mỹ!!! Ai có dịp đi ngang quốc lộ 15 đoạn quận lỵ Long Thành sau ngày 30.4.75 chắc đã thấy 5,7 xác T54 của VC cháy còng queo trước quận lỵ Long Thành, đó là chiến công của Nghiã Quân Long Thành đánh tăng T54 bằng M72 và M79 chống tăng rất giỏi. Trung Tá Sáu Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng đã đánh một trận khiến cho Cộng Quân nhớ đời. Trung Tá Sáu trong trận đánh đã đi từng vị trí của NQ để động viên binh sĩ, đồng thời ông cầm nón sắt đi xin các binh sĩ nào còn lưụ đạn để đính thân ông đem ra cổng chánh cho binh sĩ ném vào các chiến xa địch đang tràn vào, một chiếc T54 bị đứt xích 1 bên vì trúng M72 quay vòng vòng trước cổng chi khu sau đó đã bị 1 chiến sĩ NQ phóng lên thảy 1 trái lựu đạn vào buồng lái kết thúc cuộc đời của “con cua” gảy càng nầy. Hành động can đãm nầy cuả anh NQ đã trả giá bằng chính bàn tay của anh, vì thế TT Sáu đã xin trực thăng tản thương anh chiến sĩ can trường nầy trong khi 2 bên còn đang đánh nhau dử dội! Sau nầy nghe kể lại còn có 1 trung đội NQ đồn trú trên Quốc lộ 15 gần quận lỵ Long Thành, hết ngày 2 tháng 5 trung đội NQ nầy vẫn kiên trì chống CS tới viên đạn cuối cùng, vừa bắn nhau vừa kéo chuông nhà thờ kêu gọi quyết tử!!!


Ðốt Cháy Thân Nên Ngọn Lửa bài của Phan Nhật Nam.


Ở Vùng 4/Chiến Thuật cũng vậy, chẳng những chồng đánh giặc mà vợ, con trong đồn cũng đánh giặc luôn Chị Nguyễn Thị Thàng vợ của Nghĩa Quân trưởng đồn Giồng Trôm, Kiến Hòa đã cùng những đứa con, bên cạnh xác chồng, nỗ tung trái lựu đạn cuối cùng tại giờ phút đau thương oan nghiệt của sáng 30 tháng Tư, 1975. Năm 1802, để thực hiện lời nguyền “báo thù cho tiên đế ba đời”, Nguyễn Vương Gia Long xử tử tất cả triều đình Tây Sơn bằng những biện pháp hành hình gớm ghê man rợ nhất. Nữ Tướng Bùi Thị Xuân trước giờ vĩnh quyết ở pháp trường, đã quắt mắt, bật tiếng hét oai vũ khiến con voi trận (đem đến dày lên con gái nhỏ của bà) phải tung xiềng chạy trốn, và chỉ chết khi thân thể bị xử lăng trì- đốt cháy bởi sợi bấc tẩm dầu cắm sâu vào thịt. Nữ Tướng không tiếng kêu than nhận cái chết để bày tỏ lòng trung nghĩa với chồng, Thái Úy Trần Quang Diệu và Tiên Vương Quang Trung. Chị Nguyễn Thị Thàng chết cùng lần với chiếc đồn bị bộ đội cộng sản tràn ngập, người chồng vừa tử trận. Ðồn Giồng Trôm, Kiến Hòa ở nơi đâu? Chị Nguyễn Thị Thàng là ai? Tổ quốc, quốc gia, chính phủ, cộng hòa, dân chủ… hẳn là những chữ nghĩa không nằm trong ý niệm của người đàn bà bình thường ấy. Nhưng quả thật, Người Ðàn Bà Việt Nam tên gọi Nguyễn Thị Thàng đã sống- chiến đấu- chết về một điều đơn giản không bao giờ diễn giải, nói ra lời: Sống-Chết Tự Do - Trọn Nghĩa Vợ Chồng.


Tổng kết:

ĐPQ/NQ là lực lượng “Sinh sau đẻ muộn” của QLVNCH, có nhiều sở trường cũng như nhiều sở đoản, nhiệm vụ được giao thì nặng nề, nhưng trang bị, yểm trợ lại yếu kém do đó có nơi thì hoàn thành xuất sắc, có nơi thì chỉ trung bình. Tuy nhiên qua những điều vừa phân tích có nhiều bất công đối với họ, kể cả những bất công chung của QLVNCH bị nhóm truyền thông bất lương bôi bẩn có mục đích thương mại và chính trị, bị đồng minh xem thường và phản bội, vậy phải trả lại “Công Đạo” cho họ. Họ là những anh hùng vô danh, không có ai cậy nhờ để phục hồi danh dự, nhưng họ cũng không xin xỏ và luôn ngẩng cao đầu mà đi vì xét cho cùng họ đã đóng góp xương máu của mình nhiều nhất cho Quốc Gia và Dân Tộc.


Vì tôi chỉ quanh quẩn trong vùng III Chiến Thuật nên chỉ mục kích những sự việc trong khu vực, nhưng chắc chắn còn nhiều, nhiều lắm những tấm gương can đãm, những trận đánh để đời của binh chủng khiêm nhường nầy. Người viết được biết trong các vùng chiến thuật, các tiểu khu, các chi khu còn rất nhiều đơn vị ĐPQ/NQ xuất sắc nhưng chưa được ai biết đến. Kính mong quý chiến hữu viết nhiều bài về các đơn vị ĐPQ/NQ anh hùng để mai sau lịch sử còn biết đến các đơn vị vô danh đã góp nhiều máu xương trong công cuộc bảo vệ Miền Nam Việt Nam trong suốt 20 năm trường chiến đấu gian khổ.


Trong thời điểm từ 1972 đến 1975, sự sai lầm về chiến lược trong việc sử dụng các sư đoàn bộ binh và các sư đoàn tổng trừ bị vào nhiệm vụ bão vệ lãnh thổ, thay vì sử dụng lực lượng ĐPQ/NQ là nổ lực chánh trong phòng thủ diện địa để các sư đoàn bộ binh và các lực lượng tổng trừ bị Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến rảnh tay hoàn toàn lưu động 100% để tiếp ứng chiến trường bất cứ nơi nào cần. Khốn thay cuối năm 1974 và đầu năm 1975 chúng ta đã không còn lực lượng tổng trừ bị nào cả khi Cộng Sản dốc toàn lực tấn công!


Nhưng trận chiến 1975 chưa phải là trận chiến sau cùng. Những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà và toàn dân Việt Nam kiêu hùng sẽ giành lại quyền tự quyết, lật đổbạo quyền để xây dựng lại quê hương và bảo vệ biên cương trướcmưu đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp từ Phương Bắc và thái độ hèn hạ dâng đất, dâng biển cho Tàu Cộng của bè lũcộng sản Việt Gian.

 


 

Đọc thêm về Địa Phương Quân và Nghĩa Quân

 



 photo Viết Tặng Người Lính Tôi Quen
https://caybut2.blogspot.com/2016/02/viet-tang-nguoi-linh-toi-quen.html



 photo Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
https://caybut2.blogspot.com/2017/02/ia-phuong-quan-va-nghia-quan.html

 

 

No comments:

Post a Comment