BÀN VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ROCKEFELLER FOUNDATION
“Re-Constructing
Identity and Place
in the Vietnamese Diaspora”
Do William Joiner Center
thuộc trường
đại học Massachusetts Boston
thực hiện
Nguyễn Hữu Luyện
Dùng
một số tác phẩm văn học xuất bản tại hải ngoại, William Joiner Center
(WJC) thuộc University of Massachusetts Boston (UMB) thực hiện một
chương trình nghiên cứu toàn diện về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng
Sản nhằm mục đích
"tạo ra sự hòa hợp giữa người tỵ
nạn Cộng sản và chế độ Cộng sản
tại Việt Nam ngàch nay".
I. Giới thiệu chương trình:
Chương trình nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản do WJC/UMB đặt tên là
"ReConstructing Indentity and Place in the Vietnamese Diaspora và cũng
do WJC/UMB dịch ra tiếng Việt là Diễn Trình (Tái) Xây
Dựng Diện Mạo Và Quê Hương Của Người
Việt Ở Nước Ngoài".
Theo tập tài liệu Rockefeller Foundation Humanities Fellowship -
UMass Boston Program Plan (Grant Proposal) và nói một cách đại
cương, chương trình này sẽ viết những
vấn đề sau đâi
1. Khảo sát việc xây dựng và diễn giải lịch sử Việt Nam. Ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử như cuộc chiến tranh chống Pháp, tù
cải tạo sau 1975, Vùng Kinh Tế Mới, và vượt
biên đối với Người Việt Tỵ Nạn
Cộng sản trong vấn đề tái xây dựng đặc
trưng của mì cải
2. Khảo sát nền văn học, ngôn ngữ, văn hóa và vai trò của nhà văn, nghệ sĩ, đặc biệt là những tiếng nói đang nổi lên của nền văn học hải ngoại trong vấn đề tái xây dựng nơi cư trú, gia đình và những đặc trưng của cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản.
3. Khảo sát về những
tác động của chính sách đổi mới, khuynh hướng thiên về nền kinh tế thị
trường của nhà nước Cộng Sản Việt Nam đối với cộng đồng Người Việt Tỵ
Nạn Cộng sản.
II. Nhận xét về nghĩa của chữ và mạch văn (semantics & contextual meanings) trong đề tài
"“ReConstructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora".
1. "Diaspora" lấy từ chữ Hy lạp, có
nghĩa là rải rác, phân tán. Chữ Jewish Diaspora
được dùng lần đầu tiên vào năm 586 trước
Công nguyên để chỉ người Do Thái bị đày
ải lên thành Babylonia. Trong suốt chiều dài lịch
sử của Do Thái, cho tới sau thế chiến thứ
hai, được trở về lập quốc, chữ
Diaspora chỉ người Do Thái sống bên ngoài lãnh
thổ Palestine và bây giờ là Israel (Theo Encarta ® 97
Encyclopedia). Diaspora còn có nghĩa là một nhóm người
sống rải rác bên ngoài lãnh thổ của mình (World
Book History). Tập tài liệu "UMass Boston Program Plan"
định nghĩa "Diaspora" khác với "Immigration"
vì "Diasporra" là những người bị lịch
sử ngược đãi, có lòng mong đợi ngày
hồi hương, và không gì có thể thay thế
được sự ngự trị của quê hương
củ trong tâm hồn họ. (ReConstructing Identity and Place in
the Vietnamese Diaspora, p 4). Hoàn cảnh chính trị của người
Do Thái ngày xưa và của cộng đồng Người
Việt Tỵ Nạn Cộng sản ngày nay không khác nhau.
Do đó, chữ "Vietnamese Diaspora" contextually và
semantically phải dịch là "cộng đồng Người
Việt Tỵ Nạn Cộng sản" vì trên 99% người
Việt sống ở nước ngoài ngày nay là người
tỵ nạn Cộng sản. Hoa kỳ cũng như toàn
bộ các quốc gia khác của thế giới tự do,
sau sự kiện tháng tư 1975, đã đón nhận người
Việt Nam vào quốc gia của họ dưới danh nghĩa
"tỵ nạn chánh trị hay là 1. “Diaspora” lấy
sản".
Nếu dịch như UMass Boston là "người Việt
sống ở nước ngoài", người đọc
có thể hiểu là những công dân của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam đang
sống ở nước ngoài, và vào cuối thế
kỷ 20, không hề có cuộc ra đi ồ ạt và vĩ
đại nhất trong lịch sử tỵ nạn và
đấu tranh của nhân loại. Như vậy là chương
trình đã đi ra ngoài mục đích tài trợ của
Rockefeller Foundation - nghiên cứu về nền văn học
của cộng đồng Người Việt Tỵ
Nạn Cộng sản, một nền văn học rất
đa dạng và hoàn toàn khác biệt với nền văn
học trong nước. Văn học hải ngoại
thực chất là văn học VNCH sau hơn một
phần tư thế kỷ tiếp xúc trực tiếp
với nền văn học phương Tây, và đã có
những biến thaiù quan trọng cần được
nghiên cứu: đó là mục đích của Rockefeller
Foundation khi đứng ra bảo trợ chương trình này.
Cách dịch hoàn toàn sai trái của UMass Boston không thể nào
chấp nhận được về mặt dịch
thuật, chưa nói tới mặt chá ?người Việt
Di
sản văn hóa của miền Nam Việt Nam đã được những người tỵ nạn mang ra
hải ngoại sau sự kiện lịch sử 1975. Đảng Cộng sản đã thực hiện thống
nhất văn học ngay sau khi thống nhất vể chánh trị và quân sự. Các văn
hóa phẩm kể cả âm nhạc đã bị gom lại và đốt hết. Cộng sản dùng pháp
luật để trừng phạt những ai còn lưu dụng các tác phẩm văn học, âm nhạc
của VNCH. Hát
nhạc vàng là nhạc của VNCH bị ghép tội "văn
hóa đồi trụy" và bị đưa đi
tập trung cải tạo. Bài này sẽ trình bày và
dẫn chứng WJC/UMB nhìn nền văn học Việt Nam
hải ngoại dưới góc độ nào? và đã
đặt nền tảng cho việc thực hiện chương
trình nghiên cứu này dưới nhãn quan nàt
2. Identity and Place là hai terminologies dùng trong ngành "Nhân
văn Humanities". Nếu hiểu 2 chữ này theo nghĩa
thông thường của từ điển thì sẽ không
dịch
được cái nghĩa mnh nó bao hàm trong khuôn khổ của chương trình nghiên
cứu. Vì Việt Nam, từ thời VNCH cho tới nay, chưa có Hàn Lâm Viện Ngôn
ngữ nên những chữ này rất khó để có sự đồng nhất về cách dịch giữa chúng
ta. Trong giai đoạn gần đây, kể từ khi chúng ta phản đốiWJC/UMB, đã
thấy xuất hiện trên báo chí và
"network" nhiều cách dịch khác nhau, mặc dù cách
dẫn giải có thể không khác nhiều. Chữ "identity"
đã được dịch là "căn cước",
"bản sắc", "bản chất", "đặc
tính", và trường UMass Boston dùng chữ rất táo
bạo là "diện mạo". Chữ "place"
được dịch là "nơi cư trú", "nơi
sinh sống", "mảnh đất tạm dung",
"vị trí", và UMass Boston thì dịch táo bạo hơn
là "quê hương". Bài viết này trình bày về
ý nghĩa mà "identity" và "place" bao hàm trong kuôn
khổ của khoa nhân văn, và được dùng trong chương
trình nghiên cứu nà “network”
"Identity" trong cuốn Dreams in the Shadow, Mandy
Thomas (Tiến sĩ Nhân Chủng Học) có bàn về "identity"
như “Identity” trong cuốn “Dreams in the Shadow”,
· Identity liên quan tới sự biểu hiện của bản thân, và những định nghĩa về bản thân được gắn liền với không gian (trong khái niệm về thời gian và không gian củasự việc)
· Identity là một quá trình xây dựng và thực hành của bản thân. Các quá trình này không bao giờ hoàn tất và hình thành trong phạm vi của sự biểu hiện.
· Bản chất của Identity là hay thay đổi.
Qua 3 khái niệm trên, chữ Identity có thể dịch ra là "đặc
trưng" vì "Identity" chỉ biểu hiện nét
đặc biệt nào đó và luôn luôn thay đổi theo
điều kiện của không gian. Mỗi người
đều có rất nhiều "identities": "identity
về học vấn", "identity về nghề
nghiệp", "identity về giới tính: bisexuality;
homosexuality; heterosexuality" v.v. Trong một buổi hội
thảo về "identity", một cô người
Mỹ có chồng là người Na Uy kể một câu
chuyện về American identity của cô như sau: trong
một khu shopping sang trọng của thủ đô Na Uy, không
khí thật là yên tĩnh và trang nghiêm, cô chợt thấy
một nhóm du khách người Mỹ rất trẻ,
vừa đi vừa đùa giỡn, xô đẩy nhau
ồn ào lớn tiếng có vẻ như coi thường
người chung quanh. Cô thấy nhiều người nhìn
nhóm thanh niên Mỹ đó với con mắt khó chịu. Cô
chợt thấy hổ thẹn và cầu xin sao cho những
người chung quanh cô sẽ không một ai biết
rằng cô là người Mỹ. Vài ngày sau, khi thăm
viếng Viện Vật Lý Na Uy, tại đây đang có
một chương trình nghiên cứu do Mỹ bảo
trợ. Khi đi vào sảnh đường, cô thấy lá
cờ Mỹ được đặt ở một vị
trí trang nghiêm trong phòng. Cô thấy rất tự hào
rằng mình là người Mỹ, và cô thầm ước
mong rằng mọi người sẽ biết cô là người
Mỹ. Cô rất sung sướng với cái American identity
của cô. Theo đó thì "Identity" lệ thuộc và
thay đổi theo không gian. Do đó, "identity" không
thể là bản chất, đặc tính, bản sắc và
cũng không thể là diện mạo như UMass Boston đã
dịch. Diên mạo không thể thay đổi, trong khi
đó thì "identity" thay đ ?đặc
"Place:" Theo Mandy Thomas thì sự xây dựng
lại đặc trưng của mình sau khi nhập cư có
một ý nghĩa quan trọng về không gian, bởi vì người
nhập cư [di dân và tỵ nạn] luôn luôn có cảm giác
bị lạc lõng cho nên họ cố gắng tạo cho mình
một cảm giác thoải mái trong cái "place" mới
của mình như ở quê nhà. Đây chính là qúa trình
hội nhập vào nền văn hóa mới (acculturation hay là
adaptation), trong đó người nhập cư đa
mặc nhiên xây dựng lại identity của mình. Qua
nhận định này, chữ "place" chỉ nơi mà người
tỵ nạn cư trú. Nếu gặp không khí chánh
trị, kinh tế và xã hội thích hợp với sự
mong đợi, thì người tỵ nạn sẽ có
cảm giác ấm cúng như ở quê cũ. Một thí
dụ khác liên quan đến place: xé“Place”: Theo "identity Thomas thì sự xây dựng"
thì
khi còn ở trong nước (place: Việt Nam) là phục tùng chồng, lo việc nội
trợ, săn sóc con cái, ít hoặc không tham dự công việc xã
hội. Khi "place: Việt Nam" thay đổi thành
"place: Hoa Kỳ" thì "identity của phụ nữ
Việt Nam" là bình đẳng với chồng trong
việc phân công trách nhiệm gia đình, ra ngoài làm
việc có income như chồng, tham dự công việc xã
hội nhiều hơn là khi còn ở Việt Nam. Sự
việc này nhấn mạnh thêm rằng "place" bao hàm
nghĩa "nơi cư trhội.".
III. Tuyển nghiên cứu viên:
Chương
trình kéo dài 3 năm. Năm thứ nhất đặt nền tảng nghiên cứu cho 2 năm
còn lại (UMass Boston Program Plan, p.2) và chọn 4 học giả để nghiên
cứu. Hai từ Hà Nội tới là Ông Hoàng Ngọc Hiến, nguyên là Giám Đốc
trường dạy viết văn Nguyễn Du Hà Nội, trường này của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Người thứ hai là Ông Nguyễn Huệ Chi, nguyên là chủ nhiệm Ban
Nghiên Cứu và Lý Luận Văn Học thuộc Viện Văn Học Việt Nam tại Hà nội.
Người thứ 3 là cô Michele Janette, tiến sĩ Mỹ da trắng, khoảng ngoài 30
tuổi. Người thứ tư là cô Carolin Kiều Linh, người Mỹ gốc Việt, theo gia
đình di tản sang Mỹ năm 1975, lúc đó mới có 4 tuổi. Hai cô này viết
những vấn đề không quan trọng. Riêng 2 học giả Cộng sản thì WJC công bố
là sẽ viết những vấn đề sau đây:
"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu văn
phong, chủ đề và các nguồn sáng tác hãi ngoại,
với sự chú trọng đặc biệt vào tình yêu và
sự gắn bó với tổ quốc [Việt Nam]. Ông
Nguyễn Huệ Chi sẽ thu thập và phân tích các tác
phẩm phê bình về văn hóa cổ của Việt Nam -
sự nối tiếp, thay đổi và biến thái trong môi
trường hải ngoại" (Thông cáo báo chí của
WJC/UMB ngà “Ông Hoàng
Vì cả Hoàng Ngọc Hiến lẫn Nguyễn Huệ Chi đều không am hiểu gì về nền văn học và đời
sống
hải ngoại nên đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng khi chọn các tác
phẩm để nghiên cứu. Hai học giả này không hề phân biệt được tác phẩm
nào là tiêu biểu cho tuyệt đại đa số người Việt tỵ nạn, tác phẩm nào chỉ
thể hiện quan điểm của một thiểu số không đáng kể, hoặc chỉ là những
tiếng nói lẻ loi mà không tiêu biểu cho một khuynh hướng nào ở hải ngoại
hết. Sự nhầm lẫn vì không có một chút hiểu biết nào về đời sống thực
tế của người Việt hải ngoại đã dẫn đến cách mô tả cực kỳ thê thảm khi
Hoàng Ngọc Hiến viết về thế hệ trẻ hải ngoại với lời nhận xét của ông ta
xen lẫn vào phần trích dẫn như sau:
"Trong bài thơ Nguyễn Bính của Nguyễn Bá
Chung [Giám Đốc chương trình nghiên cứu], hai
câu thơ: "Nữa đời mới biết công danh hão
- Giày cỏ, gươm cùn đến trắng tay" có
thể hiểu với ý nghĩa thời sự là tác
giả mượn thân phận của nhà thơ giang
hồ họ Nguyễn để cảm khái tâm trạng
vỡ mộng của mình và những chàng trai cùng thế
hệ hiện đương long đong nơi đất
khách quê người. (Việt Báo OnlineMục Lục Lưu
Trư õ “Trong.
Chỉ
cần nêu lên một điểm: Nếu tuổi trẻ hải ngoại mà như vậy, thì lấy đâu ra
tiền mà gửi về Việt Nam mỗi năm hàng hai, ba tỷ đô la. Hậu quả của sự
lưa chọn nghiên cứu viên một cách
"bừa bãi" của WJC/UMB đã dẫn đến
kết quả tai hại, chỉ vì người nghiên
cứu về cộng đồng Người Việt
Tỵ Nạn Cộng sản lại là đảng viên cao
cấp của Đảng Cộng sản nên mới có
nhầm lẫn giống như một người mù,
sờ tai con voi rồi mô tả "con voi giống cái
quạt". Đoạn trích dưới đây chứng
minh rõ ràng Hoàng Ngọc Hiến không hiểu gì về Ngưch ?bừa bãi” của WJC/UMB đã
Trong truyện Tật Nguyền của Nguyễn Ý Thuần (16), sau 5 năm ở Mỹ, nhân vật xưng
tôi có cảm tưởng chung về trạng thái nhân
thế trong cộng đồng người Việt ở
Mỹ
như sau: Năm năng vật lộn với đủ thứ nghề và lang thang trên những vùng
đất xa lạ, tôi đâm ra ngán ngẩm sau khi tiếp xúc với một số cộng đồng
tỵ nạn. Hầu hết đều khoác lên người một thứ gì đó - như lớp quần áo
giấy - để sống. để khỏi khuất lẫn vào đám đông. Bằng quá khứ cũng có,
bằng chức vụ hay bằng cấp. Nhưng tựu trung chỉ nằm trong vòng thỏa mãn
tự ái cá nhân hay khỏa lấp mặc cảm. Nói cho cùng, tôi vẫn gặp một số
người sống bằng cả tấm lòng. Ở thiểu số này, ranh giới giữa suy nghĩ
riêng tư và cuộc sống ở đây hoàn toàn cách biệt. Họ âm thầm thực hiện
hoài bảo. Như những đốm lửa lạc loài trong đểm văn minh quá mức. Với
họ - những đốm lửa nhỏ nhoi đó - điểm ra đi là nơi
trở về (Đọc Văn Học Hải Ngoại
của Hoàng Ngọc Hiến do Nguyễn Quốc Trụ
giới thiệu và đăng trên Việt Báo OnlineMục
Lục Lưi trở 7/31/2001).
Đối với chúng ta thì đây chỉ là những mẩu chuyện nói năng lãm nhảm, nhưng những thế hệ sau, khi cần nghiên cứu về chúng ta, sẽ vào các thư viện nghiên cứu và các văn khố để sao lục và dùng những tài liệu NGUYÊN THỦY (PRIMARY SOURCES) như thế này để viết lại và khuếch tán hơn nữa để nói về chúng ta thì quý vị nghĩ sao? Con cháu của chúng ta sẽ nghĩ gì về cha ông chúng? Sẽ nghĩ gì khi biết rằng chúng đả được sinh ra bởi những hạng người như chúng ta (theo cách mô tả của Hoàng Ngọc Hiến như mẩu chuyện trên)? Thật ra không ai trách Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi, người phải chịu trách nhiệm về những sai trái này là WJC/UMB, cơ quan đã mời 2 học giả Cộng sản để viết về người tỵ nạn Cộng sản là một đề tài mà họ hoàn toàn không có một sự hiểu biết nào hết.
Sự khờ dại và ngây ngô của Nguyễn Huệ Chi còn buồn thảm hơn nữa. Ông Chi được WJC chỉ định nghiên cứu về cổ văn hải ngoại. Vậy mà Ông Chi cũng nhảy vào giới văn học hiện đại để thưcï hiện chủ trương hòa hợp văn học mà Hà nội và WJC đã cấu kết với nhau từ khi viết kế hoạch đề nghị xin ngân khoản của Rockefeller Foundation. Đây là đoạn trích của bài viết của Nguyễn Huệ Chi đăng trong tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác - một tác giả có sách xuất bản tại Việt Nam.
... thì đông đảo
các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê ghi lại vô
vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương
mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách đặt
câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa
nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi
mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ ,
chủ động lên
tiếng hợp lưuđể cùng với dòng văn
học đổi mới từ trong nước hợp
chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài
trong sự cảm thông giữa những người
cầm bút (Văn Học, số 184, thán tiếng ?hợp lưu?để
Trước
khi sang Mỹ, Hoàng Ngọc Hiến đã thận trọng dùng quyền lực của Đảng và
nhà nước, dạy các thế hệ cầm bút phải viết những gì và viết như thế nào
để duy trì nền tảng triết học duy vật và
thực hiện lời dạy của "Hồ Chủ
Tịch". Ông Hiến đã xuất bản cuốn sách
nhan đề : "VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN" dày
277 trang, do nhà xuất bản Văn Học Hà nội phát hành
năm 1999, liền trước khi sang Mỹ để nghiên
cứu về nền văn học hải ngoại. Ra
hải ngoại thì hai học giả "cò mồi" này
lại lớn tiếng kêu gọi hải ngoại hòa
hợp với nền văn học đổi mới
ở trong nước. Học giả Cộng sản cũng
không thoát khỏi bản chất lừa bịp của
chế độ. Ba đoạn trích sau đây chứng
minh 2 học giả này là ai và họ đã lừa bịp
trắng trợn như thế nà thực
1. Cứ như Hồ chủ tịch trình bày về mục đích viết của mình thì mục tiêu của người nghệ sĩ cách
mạng trước hết phải hướng về sự cải tạo cách mạng xã hội, mục tiêu đó phải trở thành
nguyện vọng thiết tha, ham muốn tột bậc
của người nghệ sĩ (Văn Học và
Học Vănh nguyện vọng thiết
2. Văn học là sự phản ảnh thực tế. Tìm hiểu quan điểm tiếp cận thực tế của Hồ chủ tịch có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan điểm tiếp cận văn học của người. (Văn Học và Học Văn, trang 11)
3. Văn học xã hội lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở triết học (Văn Học và Học Văn, trang 13)
Như
vậy mà Kevin đã trả lời phỏng vấn của báo The Boston Globe ngày
26-10-2000, rằng nếu họ [Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi] là những
học giả trực tiếp với đường lối của đảng, thì Kevin đã không mời họ. Như
vậy Kevin không hiểu gì về Hoàng Ngọc Hiến hay là Kevin cố tình lường
gạt dư luận? Thái độ của WJC/UMB đối với việc thực hiện chương trình
nghiên cứu về cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng sản như thế nào, chọn ai
để viết chương trình này, đã bộc lộ rõ ràng trong đoạn trích dưới đây.
trong toàn
bộ tập "Grant Proposal", không hề có một
chữ nào nói tới việc dự tính mời các nhà văn
và n bộ tập “Grant
"Trong suốt ba năm[của chương trình
Rockefeller] chúng tôi chủ trương kết hợp càng
nhiều càng tốt, các chương trình đang thực
hiện với các nhà văn và các học giã từ
Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm
kiếm các phương tiện thích hợp để
xuất bản và phổ biến những bài viết,
những phản ảnh của các học giả này trên báo
chí, và các phương tiện điện tử ở
khắp nơ“" Trong suốt ba năm[của chương trình
Một hành động rất "ngộ nghĩnh" là trong
tập "UMass Boston Program Plan" WJC/UMB mời Ngụy
Ngữ từ Hà nội sang Mỹ và giới thiệu
Ngụy Ngữ là tiêu biểu của QLVNCH. Trên thực
tế thì Ngụy Ngữ là một chuẩn úy thuộc
QLVNCH đã đào ngũ theo Cộng sản và đang
phục vụ trong guồng máy tuyên truyền của Hà
nội. Khi WJC/UMB mời đại tá Lê Lựu, một nhà
văn "lỗi lạc" (nguyên văn) của quân
đội Cộng sản sang Mỹ, và WJC/UMB muốn có
một nhà văn của QLVNCH cùng hiện diện với Lê
Lựu nên đã gắn danh hiệu QLVNCH cho Ngụy
Ngữ, để cùng hiện diện với Lê Lựu cho
có đủ màu sắc của cả hai miền Nam và
Bắc. Đoạn trích dưới đây vạch rõ thái
độ rất "hài hưộng" rất ?ngộ
Trung tâm (WJC) đã bảo trợ cho việc trao đổi các nhà văn, nghệ sĩ, học giả và giáo giới của Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1987, khi đó còn ít cơ quan lưu tâm tới Việt Nam - với cuộc thăm viếng lịch sử của Lê Lựu, [nhà văn quân đội Cộng sản cấp đại tá] và Ngụy Ngữ [chuẩn úy QLVNCH, dào ngũ theo CS] , hai nhà văn quân đội lỗi lạc của miền Bắc và miền Nam, thuộc Quân Đội Nhân Dân và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... (UMass Boston Program Plan, p. 7)
Đây rõ ràng là WJC/UMB đang làm trò "qủy thuật"
chứ không phải là nghiên cứu đại học
(Academic research)! Tại sao WJC/UMB không mời một nhà văn
quân đội thực sự là quân nhân thuộc Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, đang sống tại Hoa
Kỳ và đang kêu gọi WJC cho giới viết văn
hải ngoại được tham gia hội luận
quốc tế hàng năm do WJC tổ chức với tư
cách là hậu qủa chiến tranh Viet Nam, vì WJC/UMB chỉ
mời có CSVN mà thôi. Một mặt, WJC làm ngơ trước
lời kêu gọi của giới viết văn hải
ngoại thuộc QLVNCH, mặt khác WJC đem Cộng
sản từ Hà nội qua và giới thiệu là nhà văn
quân đội thuộc QLVNCH! Thật không còn có một trò
lừa bịp nào trắng trợn hơn hành động nà ?qủy thuật? chứ
Còn
một vấn đề quan trọng trong chương trình này chưa được nêu ra, nhưng vì
khuôn khổ của một bài viết trong tạp chí không thể dài hơn được nửa.
Nghiên cứu về việc làm của WJC/UMB mà chưa xét
tới phần "Tiểu Luận về Khái niệm
về chương trình Học Bổng Nhân Văn của
Rockefeller Foundation" của WJC/UMB thì chưa thấy
được nền tảng triết lý của chương
trình này như thế nào. Do đó chưa thấy
được những âm mưu đen tối của
WJC/UMB khi dự trù xin ngân khoản để thực
hiện chương trình nghiên cứu này nhằm mục
đích xóa sạch tội ác chánh trị của Việt
cộng trước sự phán xét của lịch sử.
MẶT TRÁI CỦA CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NHÂN VĂN ROCKEFELLER
Rockefeller Foundation tài trợ $250,000 cho UMass Boston để thực hiện một chương trình nghiên cứu mang tên:
"Tái Xây Dựng Đặc Trưng và Nơi Cư Trú
của Người Việt Tỵ Nạn Trên Khắp
Thế Giới". Chương trình kéo dài 3 năm và năm
thứ nhất sẽ đặt nền tảng cho sự
triển khai của 2 năm còn lại. (UMass Boston Program
Plan, trang 2) vì vậy năm thứ nhất có tầm quan
trọng trọng hơn và có ý nghĩa quyết định
cho toàn bộ chương trình, và đã được
thực hiện xong bởi 2 học giả của đảng
CS là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi. Hiến
nguyên là giám đốc trường dạy viết văn
Nguyễn Du Hà nội. Khác với chúng ta ở đây,
những nhà văn có uy tín ở Việt Nam phải là
những người xuất thân ở trường này vì
đây là trường Đảng. Nguyễn Huệ Chi là
chủ nhiệm Ban nghiên cứu và lý luận văn
học của Viện Văn Học Việt Nam tại Hà
nội. Tiến sĩ Kevin Bowen khẳng định rằng
chỉ có một mình Hiến là đảng viên thôi. Chúng
ta không thể nào thẩm tra được lời nói này.
Tuy nhiên, đây là một kinh nghiệm về thủ đoạn
của Việt Cộng. Trước đây, tại hội
nghị Paris năm 1972, khi báo chí Pháp hỏi bà Nguyễn
Thị Bình về Đảng Tịch, hay nói nôm na là bà có
phải là đảng viên đảng CS không, thì bà Bình
thề sống thề chết rằng bà không phải là
đảng viên, và bà còn đưa ra nhiều lý luận
để đảm bảo lời đã nói. Nhưng
mới đây, khoảng hai, ba năm trước, báo chí
ở trong nước và cả các hệ thống thông tin
khác cũng đều loan báo là bà Nguyễn Thị Bình
đã được trao tặng huy chương cao
nhất nhân dịp kỷ niệm 40 năm tuổi đảng
của bà. Nguyễn Huệ Chi ngồi ở ghế CHỦ
NHIỆM ỦY BAN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN VĂN HỌC
là vị trí chủ chốt của guồng máy khống
chế tư tưởng của cả nước mà
lại không phải là đảng viên thì thật là
buồn cư:
Đem 2 viên chức cao cấp trong guồng máy tuyên truyền của nhà nước CS Việt Nam sang Mỹ để MÔ TẢ người Việt tỵ nạn CS là một nghịch lý chưa từng thấy trong lịch sử văn học của thế giới. Bản thông cáo báo chí của WJC/UMass Boston đề ngày 15-4-2000 đã xác định:
"Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn
phong, chủ đề, các nguồn viết văn hải
ngoại với sự chú trọng đặc biệt vào lòng
yêu nước và sự gắn bó với tổ quốc
[Việt Nam] của ngư“Ông Hoàng Ngọc Hiến sẽ nghiên cứu về văn phong,"
Đã
hơn một năm qua, đồng bào ta đã liên tục đấu tranh để bảo vệ phẩm giá
của cộng đồng người Việt tỵ nạn. Chúng ta cương quyết không cho
WJC/UMass Boston thực hiện mưu đồ đen tối của họ. Tài liệu do UMass
Boston viết để xin ngân khoản của Rockefeller Foundation cho thấy rằng
Hà Nội đã trực tiếp chi phối chương trình nghiên cứu này từ khi còn
trong trứng nước. Đoạn
trích sau đây nói rõ vấn đề này:
Mới đây các học giả ở Việt Nam cũng bắt đầu chú ý tới cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Ngoài việc đánh giá tiềm lực kinh tế trong nước - do bởi ưu tiên tối hậu dành cho việc tái thiết đất nước bị chiến tranh tàn phá, và vì lập trường chống đối chính phủ một cách gay gắt của nhiều người tỵ nạn sống trong cộng đồng hải ngoại. Nhưng tình hình đang thay đổi... (Re-constructing identity and Place in the Vietnamese diaspora, p.4)
Bọn CS Hà nội nhận định rằng tinh thần chống Cộng của đồng bào hải ngoại đang
thay
đổi có lợi cho bọn chúng, nên chúng đã cấu kết với WJC/UMass Boston để
dựng lên cái gọi là HÒA HỢP giữa người tỵ nạn CS với CS Hà nội. Đoạn
trích sau đây để lộ âm mưu của chúng:
...đồng thời cũng nối những nhịp cầu nhận thức và tập quán với ngành Việtnam Học [của UMass Boston]nhằm thiếp lập những hinh thức linh hoạt để giải thích những thực tế phức tạp trong nhiều mối quan hệ tình cảm của người Việt lưu vong và tạo ra những khả năng hòa hợp không những giữa người Việt lưu vong và tổ quốc của họ, mà còn .... (Re-Constructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora, trang 4).
Tập tài liệu xin ngân khoản
được viết bởi một nhóm tiến sĩ của trường UMass Boston, nhưng thật tình
không ai có thể hiểu tại sao họ lại có thể nặn ra một kế hoạch để phản
lại sự hiểu biết căn bản và tối thiểu về việc nghiên cứu văn học. Những
ai đã từng biết sơ qua về việc nghiên cứu đều hiểu rằng: Nghiên cứu là
tìm ra sự thật nhằm trả lời câu hỏi được đặt ra cho chương trình nghiên
cứu. Ở đây câu hỏi là:
"ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI TỴ NẠN".
Nhưng UMass Boston KHÔNG TRẢ LỜI CÂU HỎI MÀ LẠI
"TẠO RA NHỮNG KHẢ NĂNG HÒA HỢP",
một khi đã cố tạo ra một cái gì đó trong
quá trình nghiên cứu thì chương trình này không còn mang
tính chất nghiên cứu nữa. Đây hiển nhiên là
UMass Boston đang âm mưu thực hiện một kế
hoạch HÒA HỢP của Cộng sản Hà ?ĐẶC
Mở
một chương trình nghiên cứu về cộng đồng tỵ nạn Cộng sản, UMass Boston
chỉ nói tới việc mời các học giả CS từ VN, mà không có một lời nào về
học giả tỵ nạn CS. Như vậy làm sao chương trình này có thể phản ảnh
trung thực về đời sống của cộng
đồng người Việt tỵ nạn? Đoạn trích sau đây để lộ âm mưu của UMass Boston:
"Trong suốt ba năm [ của chương trình
Rockefeller nghiên cứu về người Việt lưu
vong], chúng tôi chủ trương kết hợp càng
nhiều càng tốt, các chương trình đang thực
hiện với các nhà văn và các học giả từ
Việt Nam tới với chương trình Rockefeller và tìm
kiếm các phương tiện thích hợp để
xuất bản và phổ biến những bài viết,
những phản ảnh của các học giả này trên báo
chí, và các phương tiện điện tử ở
khắp nơ“Trong" suốt ba năm [ của chương
Khi nguồn tin về vụ WJC được phát giác, các tổ chức Cộng Đồng tại khắp nơi, các đoàn thể và rất nhiều cá nhân, trong đó có nhiều người Mỹ đã gửi kháng thư ồ ạt về Rockefeller Foundation (nơi cung cấp tiền cho chương trình nghiên cứu này), viện trưởng viện đại học UMass Boston và WJC.
Trong giai đoạn này có 2 sự kiện đáng chú ý là:
1/
Cuộc họp giữa phái đoàn đại biểu của Cộng Đồng Việt Nam tại
Massachusetts và WJC vào ngày 14-8-2000 nhằm đề nghị WJC phổ biến
chương trình của họ để các
học giả, nhà văn Việt Nam tại
Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới có thể tham dự, vì chương trình
nghiên cứu về cộng đồng người Việt tỵ nạn CS mà lại đem Cộng sản từ Việt
Nam qua để viết thì không thể chấp nhận được. Nhưng cuộc họp đã thất
bại vì thái độ ngoan cố và ngạo mạn của WJC/UMass Boston.
2/
CĐVN tại Massachusetts đã tổ chức một cuộc biểu tình vào ngày
26-10-2000 gồm khoảng 300 đồng bào tham dự. Báo chí Mỹ, đài truyền hình
Boston, và Fox News đã loan tin này. Nhưng chẳng những WJC tiếp tục làm
ngơ mà còn cho một người VN
mang danh nghĩa tỵ nạn và đang làm việc cho WJC viết những bài biện bạch đưa lên mạng lưới với những lời lẽ láo xược.
Trước tình cảnh quá đáng đó, một nhóm gồm 12 người là các ông:
1. Ông Bùi Diễm, nguyên Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trước 1975
2. Ông Nguyễn Tú, ký giả đã từng viết cho tờ Chính Luận tại Saigon
3. Cô Theresa Vương Ý Như, Tiến sĩ, Giáo sư Đại học tại Philadelphia
4. Ông Nguyễn Đạt Thịnh, nhà văn quân đội, nguyên Trung tá QLVNCH
5. Ông Lê Phước Sang, Tiến sĩ, nguyên Thượng Nghị Sĩ và Viện Trưởng Viện Đại Học Hòa Hảo tại An Giang
6. Ông Nguyễn Tường Bá, Luật Sư, nguyên Tổng thư Ký Luật Sư Đoàn của VNCH trước 1975
7. Ông Trần Minh Xuân, nguyên giáo sư Đại học tại Việt Nam
8. Nhà văn Phan Nhật Nam, nguyên sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù
9. Ông Lê Thanh Quang, chủ nhiệm nhật báo Thời Mới tại Philadelphia
10. Ông Nguyễn Thanh Liêm, tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục
và Thanh Niên.
11.
Ông Nguyễn Văn Chức, nguyên Luật sư Tòa Thương Thẩm Saigon, nguyên Chủ
tịch Ủy Ban Tư Pháp Định chế Thượng Viện VNCH, nguyên Tổng Thư Ký Liên
Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
12. Ông Nguyễn Hữu Luyện,
nguyên là sinh viên Cao Học tại UMass Boston đã đứng đơn dùng tố quyền
tập thể (class action) để khởi tố WJC/UMass Boston, và tới nay thì đơn
khởi tố đã lên tới tòa Thượng thẩm của tiểu bang Massachusetts.
Khi Cộng Sản kêu gọi hòa hợp là lúc chúng đang muốn cho người quốc gia đút đầu vào cái thòng lọng của chúng. Cộng sản Hà Nội đang âm mưu tạo ra một hình thức HÒA HỢP VĂN HỌC để hậu thế nghĩ rằng không có vấn đề tỵ nạn Cộng sản ở thế kỷ 20, để rửa sạch tội ác của chúng trước sự phán xét của lịch sử. Trước 1975, Việt cộng kêu gọi HÒA HỢP DÂN TỘC để làm suy yếu tinh thần chống cộng của người dân miền Nam. Nhưng sau 1975, chính những người đã buông súng để mong HÒA HỢP đã bị Cộng sản đưa vào nhà tù từ 10 tới 20 năm.
Chính Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi
đang đóng vai trò HAI MẶT TRÁI NGƯỢC NHAU. Ở trong nước thì hai người
này dùng quyền lực của Đảng và nhà nước để thúc ép giới việt văn duy trì
triết lý DUY VẬT BIỆN CHỨNG, và
viết theo lời dạy của "Hồ chủ
tịch". Nhưng khi ra hải ngoại thì rêu rao về
cái gọi là nền văn học đổi mới, và kêu
gọi nền văn học của người Việt
tỵ nạn CS HÒA HỢP với cái gọi là văn
học dân tộc của chúng. Một khi đã hòa hợp
với bọn CS Hà nội rồi thì còn đâu là tư cách
tỵ nạn CS của đồng bào ta nữa? Như
vậy chúng ta lấy gì để giải thích cho con cháu
chúng ta hiểu vì sao chúng lại sinh ra trên mảnh đất
này? Lấy gì để giải thích về nguyên nhân
của sự ra đi trong muôn ngàn đau đớn,
hiểm nghèo và thống khổ của 3 triệu người
Việt sau năiết theo
Cộng
đồng người Việt tỵ nạn CS cương quyết ngăn chặn bàn tay tội ác của
WJC/UMass Boston bởi vì hòa hợp với CS Hà nội có nghĩa là phản bội hơn
nửa triệu sinh linh đã chết trên biển cả, phản bội hàng chục ngàn thường
dân đã chết trong cuộc thảm sát tết Mậu thân, và các cuộc thảm sát trên
nhìn từ điểm đầu thế kỷ XXI (3-34) của
Nguyễn Huệ Chi. Đoạn trích sau đây cho thấy
Nguyễn Huệ Chi đã thủ vai trò như WJC/UMass Boston
đã nêu lên trong UMass Boston Plan là tạo khả năng HÒA
HỢP giữa văn học quốc nội và văn
học hải ngoại như thế nàầu
...thì
đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mải mê
ghi lại vô vàn cảnh ngộ lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi
quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết
mới, cách đặt câu xếp chữ tân kỳ, cách ẩn dụ bằng biểu tượng cho văn
chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước
luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc
cảm quá khứ , chủ động lên
tiếng "hợp lưu" để cùng với dòng văn
học đổi mới từ trong nước "hợp
chung thành một dòng văn học Việt có trong, có ngoài
trong sự cảm thông giữa những người
cầm bút" (Văn tiếng ?hợp lưu? để cùng
TÓM LƯỢC VỤ KIỆN WJC/UMASS BOSTON
Thủ tục "hành chánh" của vụ án WJC/UMass
Boston đã xong, có nghĩa là MCAD đã kết thúc giai
đoạn điều tra. MCAD (Massachusetts Commission Against
Discrimination) là chữ viết tắt của HỘI ĐỒNG
BÀI TRỪ KỲ THỊ của tiểu bang Massachusetts.
HỘI ĐỒNG XÁC NHẬN KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ
KỲ THỊ trong vụ án này. Tuy gọi là điều
tra,
nhưng sự thật thThủ hội đồng chỉ căn cứ vào lời khai của hai bên nguyên
và bị để ra quyết định mà không hề điều tra để xác định xem lời khai là
thực hay gian. Chúng ta đã có đủ chứng cớ về lời khai gian của WJC/
UMass Boston. Theo luật thì chỉ sau khi Hội Đồng tuyên bố quyết định,
thì bên nguyên đơn mới được phép đệ đơn khởi tố vào tòa án. Luật sư
Keane nói rằng quyết định của MCAD hoàn toàn không ảnh hưởng gì tới sự
xét xử của tòa án. Nhưng theo thủ tục tố tụng, thì những vụ án nào liên
quan tới vấn đề kỳ thị thì phải qua Hội Đồng này.
Ngày 28-09-2001, Luật sư James P. Keane & Alice J. Klein đã đưa vụ án này ra trước Tòa Thượng Thẩm (Superior Court) của tiểu bang Massachusetts. Đồng thời cũng đệ đơn lên Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp của tiểu bang Massachusetts để xin mở cuộc điều tra về hành động vi phạm luật pháp của WJC/ UMass Boston. Nội dung đơn xin mở cuộc điều tra như sau:
Đầu năm 2000, WJC/UMass Boston bổ nhiệm hai người Cộng sản vào chương trình nghiên cứu do Rockefeller Foundation tài trợ. Sự bổ nhiệm n ày là một vi phạm rõ ràng vào Luật của tiểu bang Massachusetts, chương 264, đoạn 20. Đính kèm đây là một bài của báo Far Eastern Economic Review, số ra ngày 30 tháng 9, 2000, trong đó Kevin Bowen, Giám đốc WJC nhìn nhận rằng một trong 2 người đã bổ nhiệm là đảng viên đảng Cộng sản. Bộ luật của tiểu bang Massachusetts đã xác định rõ ràng rằng đảng Cộng sản đã được công bố là một tổ chức có tính cách lật đổ và gây bạo loạn, do đó cấm gia nhập đảng (membership prohibited) và cấm thuê mướn các đảng viên (appointment to employment prohibited) chiếu th eo bộ luật M.G.L. a. ch. 264, sec.16 A, 17, 19 et al.
Trong đơn xin điều tra về hành vi phạm pháp của WJC/UMass Boston, Luật sư Keane có đưa ra một bằng chứng về tư cách đảng viên đảng Cộng sản của Hoàng Ngọc Hiến. Bằng chứng này là 3 đoạn trích dẫn lấy từ cuốn sách VĂN HỌC VÀ HỌC VĂN của Hoàng Ngọc Hiến, xuất bản năm 1999, ngay trước khi ông được WJC/UMass Boston mời sang Mỹ để viết về cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Ông Hiến nguyên là Giám Đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội. Đó là trường của Đảng.
Về phía các luật sư của chúng ta thì tôi nhận thấy rõ là từ sau ngày Đại Hội Yểm Trợ Vụ Kiện WJC/UMass Boston, vào ngày 26-8-2001 tại Boston, cả 3 Luật sư đang phụ trách vụ án này đều tỏ ra rất phấn khởi. Trong cuộc họp báo tại văn phòng của Luật sư Keane, các báo chí, truyền hình và radio từ các tiểu bang về đông đến nỗi chỉ có một nửa đứng trong phòng họp, còn một nửa phải đứng ngoài, và có cả tờ The Boston Globe là tờ báo lớn nhất của tiểu bang Massachusetts cũng tới dự. Sau buổi họp báo đó thì văn phòng này mới thấy rõ là họ đang biện hộ cho cả 3 triệu người tỵ nạn.
Khi
chuyển vụ án này ra tòa Thượng thẩm, tôi có nói với luật sư Keane rằng
nếu ông thấy cần thiết, ông hãy mời những luật sư nào nổi tiếng nhất
nước Mỹ để phụ giúp ông. Chúng tôi có 3 triệu người tỵ nạn CS, không một
ai trong chúng tôi lại có thể ngồi yên để cho bọn CS mượn tay một
trường đại học lớn, mượn danh nghĩa một Foundation để dùng công trình
nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế này để làm nhục chúng tôi. Chúng tôi
không thể để con cháu chúng tôi nhìn hình ảnh của cha ông chúng qua
những nét bút của bọn Việt cộng. Ba triệu người tỵ nạn cộng sản, mỗi
người chỉ bỏ ra $1 là chúng
tôi có thừa tiền để đưa vụ kiện này tới
bất cứ nơi nào, bất cứ cấp nào vì tuy gặp khó khăn vì thế lực của trường
UMass Boston rất mạnh tại tiểu bang Massachusetts, nhưng chúng tôi cũng
vẫn tin tưởng vào luật pháp Hoa kỳ. Luật sư Keane trả lời tôi rằng ông
không cần bất cứ một ai khác.
Khi tôi hỏi về thời gian chờ đợi xét xử, thì Luật sư Keane cho biết trong vòng một năm. Tôi nhấn mạnh (insist) rằng thời gian là một yếu tố hoàn toàn bất lợi cho cộng đồng người Việt. Chúng tôi đã bị ghìm ở trong Hội Đồng bài trừ kỳ thị mất một năm rồi. Còn 2 năm nửa, nếu chương trình nghiên cứu của UMass Boston làm xong, và khi họ đã công bố và cho xuất bản rồi thì dù có án lệnh của tòa án cũng không thâu hồi lại được. Như vậy trong lúc chờ đợi xét xử, chúng ta có đủ bằng chứng về sự gian lận và phạm pháp của trường UMass Boston rồi thì có thể xin án lệnh đình chỉ việc nghiên cứu để chờ phán quyết của tòa án được không?
Luật sư Keane trả lời rằng chỉ khi nào ra trước tòa, sau khi đã trình bày rõ mọi vấn đề thì mới xin tòa đình chỉ chương trình để đợi án lệnh thì mới được. Chưa có phiên xử thì không thể làm gì được hết. Tôi nhấn mạnh vào thời gian chờ xét xử để nhờ Luật sư Keane SPEED UP ngày xử bằng tất cả những biện pháp chuyên môn mà ông có thể làm được. Luật sư Keane hứa sẽ thúc đẩy việc xét xử trong vòng 6 tháng, và khuyên tôi không nên nóng nảy quá, để ông ấy lo, và nhờ tôi nói lại với đồng bào là ông ấy rất thông cảm với cộng đồng người Việt vì ngày xưa ông ấy đã sang Việt Nam chiến đấu rồi..
Sử thuyết Hùng Việt không phải là cuốn sử ký mà là tập hợp những bài nghiên cứu về nước Hùng Việt , người viết đã sắp xếp thứ tự bài viết bám sát tiến trình lịch sử hầu tạo nên cái nhìn mới dù chỉ là những nét sơ phác về 1 đất nước đã bị xóa tên trong ký ức nhân loại . Vì thế Sử thuyết Hùng Việt chỉ đề cập đến những sự kiện cần làm sáng tỏ , cần sửa đổi để trả lại sự chân xác cho lịch sử không dám coi là viết lại cuốn sử mới cho dân tộc văn minh và quốc gia lâu đời bậc nhất trên hành tinh này . Sự nhìn nhận của ‘Sử thuyết họ HÙNG” về Trung hoa rất rõ ràng : Trên mảnh đất gọi là Trung quốc ngày nay có 2 thành phần dân cư chính là HOA và HÁN , 2 thành phần này khác nhau hoàn toàn từ nhân chủng đến văn hoá và Lịch sử , mãi đến thời Nguyên vua mông cổ vẫn chia dân Trung Hoa thành người Hán và người Nam , thực ra từ Hán chỉ là biến âm của ‘Hãn’ có nghĩa là vua theo ngôn ngữ của người Mongoloid ; người Hán là người gọi vua là HÃN thuộc chủng Mongoloid , người Nam thuộc dòng Mongoloid phương nam gọi vua là LANG ký âm hán tự sai thành NAM . Người Nam chính là phần lớn người Bách Việt xưa còn gọi là người HOA cùng với người VIỆT là chủ nhân đích thực của nền văn hóa văn minh Trung hoa cổ xưa , Hán tộc chỉ là kẻ xâm lăng và chiếm đoạt . Mục đích của Sử thuyết họ HÙNG là làm sáng tỏ nguồn gốc lịch sử và nền văn minh Bách Việt trong đó tiền nhân người Việt nam xưa thuộc chi Lạc Việt có vai trò suối nguồn . . – Ngày nay hầu như mọi người đều tưởng dân tộc và văn minh Trung hoa xuất phát từ bờ Hoàng hà như thế đương nhiên công nhận chủ thể lịch sử và văn minh trung hoa là Hán tộc , Sử thuyết họ Hùng đưa ra quan điểm ngược lại , người Hoa và người Việt gọi chung là người họ Hùng mới là chủ thể đích thực của lịch sử và văn minh Trung hoa , nơi xuất phát cuả dân tộc và nền văn minh ấy là miền bắc – trung Việt ngày nay , vùng đất có núi Đọ sông Cả sông Chu và sông Mã . Từ căn cứ xuất phát này dần dà qua từng triều đại người họ HÙNG mở rộng lãnh thổ , hướng Bắc (ngày nay) là hướng tiến chính , tới đời ÂN lãnh thổ đã vượt bờ Hoàng hà ở bắc tỉnh Hà nam trung quốc ngày nay nơi có kinh đô đã được khảo cổ học khám phá , đời Tần mở rộng tới vạn lý trường thành . Dân tộc Hán hiểu như cộng đồng người gọi vua là Hãn thì chỉ mới xuất hiện trên qủa đất vào đầu công nguyên sau cuộc nổi loạn của bọn ‘lục lâm thảo khấu’ còn gọi là bọn giặc cỏ , Lưu Huyền Canh thủy đế là Khả Hãn đầu tiên khai sinh ra 1 Hãn quốc ở vùng Hoàng hà , có Hãn quốc mới có Hãn dân , Hán tộc nên cội nguồn Hán tộc không liên quan gì đến cổ sử Trung hoa , toàn bộ lịch sử thời thái cổ là sự ghi chép qúa trình khai sinh dân tộc và dựng nước của người họ HÙNG đã bị các sử gia Hán tôc ‘đánh cắp’ ; chính vì vậy nếu đi tìm vết tích những triều vua huyền thoại như Nghiêu -Thuấn ở vùng Hoàng hà thì chỉ mất công toi …kết qủa chỉ là sự vênh lệch không hiểu nổi….vì những gì tìm thấy chỉ là những vết tích còn lại của thời thiền vu Tổ, thiền vu Cố , thiền vu Ông Cha gì đó …mà thôi . (Thiền vu Man ngữ nghĩa là tù trưởng ). Khúc rẽ lịch sử xảy ra Từ những năm đầu công nguyên , Hán tộc dưới 2 triều Tiền và Hậu của nước Hãn trong vòng một nửa thế kỷ vùng dậy không những chiếm lại hết vùng Hoàng hà mà thừa thắng chiếm luôn gần hết đất của con cháu dòng họ HÙNG phía nam tới tận đất Việt ngày nay đặt phần lớn con cháu dòng họ Hùng dưới móng ngựa của họ hơn 500 năm . . Việc tráo trở lừa gạt lớn nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu ngay từ thời này với việc Mã Viện thu trống đồng để đúc ngựa …( trống đồng là biểu tượng của nền văn minh họ HÙNG , con Ngựa là biểu tượng của nền văn minh Mongoloid Hoàng hà ).và còn được tiếp nối liên tục dưới thời các Khả hãn tiếp sau đặc biệt khốc liệt – triệt để nhất là Mãn thanh dưới thời 3 bố con Khang Hy – Ung Chính – Càn Long ; như vậy bề dày lịch sử của sự tráo đổi cộng lại cũng có trên ngàn năm , sau cơn đại hồng thuỷ văn hóa ‘Tứ khố toàn thư’ do Cuồng long ( Càn ) tạo ra thì ta không còn nhận ra ta nữa …. Chính vì lẽ này mà việc phục nguyên lịch sử và văn minh Trung hoa đích thực ngày nay đã trở nên …thiên nan vạn nan…nhưng không lẽ đành ‘bó tay’ sao ? Tôi nghĩ …. Bất cứ việc gì dù khó tới đâu cũng có thể làm được miễn có sự đồng tâm hiệp lực cộng với sự bền bỉ ,chắc chắn một ngày nào đó mọi chuyện sẽ sáng tỏ . Phương cách tiến hành công việc cụ thể của tôi là dựa vào 1 số dữ kiện đã thu thập ban đầu có thể là chưa đầy đủ để xây dựng nên 1 sử thuyết , công đoạn này đã xong , ‘Sử thuyết họ HÙNG’ đã trình làng ;tiếp đến giai đoạn sau là củng cố lập luận bằng các chứng liệu chắc chắn được chấp nhận theo các tiêu chí của khoa học lịch sử , giai đoạn này hy vọng rằng sẽ nhận được ý kiến của đông đảo bạn đọc , với sự phản bác , sửa chữa , bổ sung, củng cố …cứ như thế lập đi lập lại ….dần dần lịch sử chân xác sẽ hiện ra rõ ràng không thể phủ nhận được nữa tức mục tiêu theo đuổi đã đạt đến . Sử thuyết họ HÙNG đã : -xác định nguồn gốc tổ tiên ông bà của người Việt hiện nay để thờ cúng theo đạo hiếu , gột rửa đi tội ‘chửi cha mắng mẹ’ mà xưa nay do bị bịt mắt lừa gạt nên đã lỡ phạm …( như nguyền rủa Hoàng đế vì …tội đã đánh Viêm đế chiếm nước của tổ tiên Việt ….) -khôi phục sự Hùng Tráng trong con cháu họ HÙNG đúng như tầm cỡ mà cha ông đã dùng mồ hôi và xương máu tạo dựng nên . tương lai …không thể có cộng đồng Việt HÙNG TRÁNG nếu không có người Việt Hùng tráng. -tạo nên cái nhìn mới về các sắc tộc ở Việt nam và Đông nam á để anh em nhìn nhau trong tình máu mủ ruột thịt , liên kết chặt hơn xẻ chia nâng đỡ nhau nhiều hơn . -Minh định trước nhân loại những thành tựu trí tuệ của tiền nhân người Việt , xác định chủ nhân của nền văn minh hiện đang được biết tới dưới tên gọi văn minh trung hoa để từ đó người Việt kế thừa và phát huy khiến nó ngày một tỏa sáng hơn nữa , quyết tâm chống lại sự tái ‘chiếm đoạt’ như đã từng xảy ra trong qúa khứ .( hiện người Tàu đã ngang nhiên gọi đông y là Trung y và họ đang muốn đăng ký độc quyền nhãn hiệu trên toàn cầu…) Và sau cùng là chút mong manh dành cho những đứa con đang lầm lạc…hãy mau quay về tìm nhận tổ tiên đích thực của mình ….không có gì báo đáp công ơn tiền nhân thì chí ít cũng đừng táng tận lương tâm….rước ‘ngựa’ về dày mả tổ , xin hãy quay lại …nước mắt mẹ cha bao giờ cũng chảy xuống … Thưa các bạn , Sử việt nam và Trung quốc ngày nay vì đứng trên 2 quan điểm khác nhau nên có những Giai đoạn lịch sử khác nhau bên cạnh giai đoạn Trùng nhau hay nói khác đi chỉ là một . Trung quốc ngày nay là 1 hợp chủng quốc do nhiều dân tộc hợp thành trong đó con cháu người Bách Việt vùng Hoa nam có vai trò trung tâm bên cạnh các tộc người khác là Hán, Hung, mông ,mãn .v.v. Sử Việt là lịch sử thuần của dòng Bách Việt mà chi duy nhất còn lại là Lạc Việt tiền nhân của người Việt nam ngày nay . Những giai đoạn trùng nhau là thời kỳ người Bách Việt làm chủ thiên hạ vì lúc này Sử Trung quốc và sử Việt cùng là sử của người Bách Việt . Giai đoạn khác nhau là thời ngoại nhân làm chủ , con dân Bách Việt là nô lệ : – *Sử trung quốc với quan điểm ‘hợp chủng quốc’ vẫn coi đó là 1 triều đại chính thống . -*Sử Việt trên quan điểm thuần nòi giống Việt coi đó là thời lệ thuộc ngoại bang thường gọi là thời bắc thuộc . Chính vì có những thời 2 dòng sử trùng nhau đã nêu trong Sử thuyết họ HÙNG khiến có bạn đọc nói là …lấy sử Tàu làm sử ta …. xin bạn đọc kỹ Sử thuyết họ HÙNG và Văn minh họ HÙNG để biết rõ hơn về từng thời kỳ và đặc biệt là không gian sống của dòng Việt trong thời kỳ lịch sử ấy , lãnh thổ của người Việt đã có thời vô cùng to lớn chứ không phải chỉ bó hẹp trong diện tích lãnh thổ hiện nay . Còn bạn có thể hỏi tại sao lại chỉ trùng nhau về đại thể còn chi tiết thì không giống chút nào …. – Như tôi đã nhiều lần trình bày …ở Trung quốc sau ‘Tứ khố toàn thư’ thì chẳng còn gì hoàn toàn thật , trong tất cả sách vở những gì không có lợi cho sự cai trị của nhà Mãn thanh đều đã bị cạo sửa…, sách sử cũng không ngoại lệ nên trong sử Trung quốc ngày nay thật giả lẫn lộn…chúng hoà trộn vào nhau để tạo thành 1 pho sử mang dấu ấn …‘Càn long chế phẩm’.trong đó nét chính là ….sự độc tôn của Hán tộc ; toàn bộ lịch sử và văn minh người Trung quốc xuất phát từ bờ Hoàng hà…, Hoa nam chỉ là vùng được Hán tộc khai hoá sau này . – Còn ở Việt nam thì sau thời cai trị của giặc Minh sử liệu chúng ta chẳng còn gì , với mục tiêu rõ rệt là : xoá bằng sạch mọi dấu tích về nguồn gốc người Việt , Minh Thành tổ đã ra lệnh cướp sạch ,đốt sạch , đập sạch ,phá sạch …., phải nói thật lòng : Lịch sử Việt ngày nay là lịch sử khôi phục từ ký ức mà ký ức dân gian qua khoảng thời gian gần ngàn năm thống khổ cùng cực lúc nào dao cũng kề cổ thì làm sao còn có thể nhớ lại đầy đủ chính xác mọi chi tiết cả 5000 năm lịch sử dân tộc ., tệ hại hơn sau này nguồn sử liệu duy nhất có thể tham khảo , đối chiếu lại là ….‘tứ khố toàn thư’ … nên đã khó càng thêm khó. Với lý do như trên mà 2 dòng sử Việt nam và Trung hoa dù cùng viết về 1 giai đoạn lịch sử của người Bách Việt vẫn có các chi tiết khác nhau như chúng ta đang thấy ; cũng chính vì điều này để có được lịch sử dòng giống Việt chân xác- rõ ràng -chi tiết thì cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian …, thực …. thiên nan vạn nan ! Thưa các bạn . – Tôi chỉ là người khơi gợi nên một ý hướng , trải đầu óc mình ra trang giấy và mời gọi mọi người tham gia luận bàn ,sửa chữa ,bổ sung …trên tinh thần Trung thực ,tôn kính tiền nhân và tôn trọng lẫn nhau xin các bạn cứ viết thoải mái ….tôi nghĩ lịch sử dân tộc , đất nước chúng ta còn muôn vàn điều phải tìm biết …nếu không chấp nhận lối hiểu ….Giao chỉ là ….2 ngón chân cái bẹt ra khi đứng giao với nhau….hoặc Văn lang là nước ‘cau sọc’, Hùng vương là anh thợ săn đã bắt được con gấu nên được tôn là Hùng trưởng (hùng = gấu) , hay những điều truyền tụng ở vùng nam Trung hoa …: ông Hạ vũ biến thành con gấu (hùng) vợ thấy vậy lăn ra chết biến thành hòn núi đá ̣(Đồ sơn thị)…. Chúng ta đã có chính sử từ lâu …nhưng xem ra cái biết về lịch sứ nước nhà vẫn còn lơ mơ lắm ngay với những điều căn bản gốc gác cũng chưa biết đích xác …như : Việt nam nghĩa là gì ? quốc hiệu Việt nam có từ bao giờ ….? chưa biết đích xác . Ai cũng biết ta là con cháu Hùng vương nhưng Hùng nghĩa là gì ?…còn đang tranh luận , 18 Hùng vương nằm ở quãng thời gian nào trong lịch sử ? …chưa biết đích xác . Hàng lọat từ là cốt lõi của Việt sử như Giao chỉ – Việt thường , Hồng bàng , Nam bang , Văn lang .v.v. …còn đang tìm hiểu suy đoán …. Đất nước mà có tới 4 đời vua gốc “Tàu” mà lại toàn là những thời lừng lẫy…. thì còn gì là sử ‘nước ta’̣…? thực là sai 1 ly đi 1 dặm …đúng ra những ông vua khai sáng 4 triều đại :Lý Bôn , Hồ quý Ly, nhà Trần và Hồ Thơm phải viết là người gốc ‘Bách Việt’, … Sử gia mà không biết phân biệt Tàu và Bách Việt thì hỏng to … – Những điều lớn đã vậy những điều ‘nhỏ’ còn kỳ quái hơn như chuyện giặc Nùng : Nùng trí Cao ….năm 1052 xưng Là Nhân Huệ hoàng đế tổ chức triều chính đặt quốc hiệu là Đại nam sau thất bại trong nỗ lực ngoại giao …, tiến công chiếm Quảng đông- Quảng tây Trung quốc , bình định vùng chiếm đóng và chuẩn bị nhân tài vật lực và tiến công Ba Thục ….chống trả đánh bại các cuộc phản công của quân binh nhà Tống….sau cùng thất trận trước danh tướng Địch Thanh phải trốn chạy vào tháng 10 năm 1053…( có tư liệu chép cuộc chiến của dư đảng họ Nùng chỉ bị dập tắt hoàn toàn vào năm 1055 ) tất cả những việc long trời lở đất như thế xảy ra chóng vanh trong thời gian chỉ có 1 năm …? đọc đoạn sử trên tưởng như đùa , 2 tỉnh Quảng Đông Quảng tây chắc cỡ 2 phường của thành phố Hồ chí Minh…. không cần đầu óc thông thái gì ta cũng biết trong thực tế diễn biến sự việc không thể nào xảy ra như thế được trừ khi Nùng trí Cao là Tề thiên đại thánh …hô biến một cái là xong. Đó là chuyện xưa …còn đây là chuyện gần tính theo thời gian thì còn nóng hôi hổi … Người Việt có mấy ai biết con cháu họ Hùng trước thuộc lãnh thổ Đông chu (Việt nam ), nước Yên ( Chiêm thành ) , Tề ( Phù nam ) ,Lỗ ( Lão qua ) đã quây quần tụ hội thời nhà Nguyễn …vương triều sau cùng của Đại Việt Nam mà biên giới phía tây xa tới tận Thái lan – Miến Điện , ( Đại nam nhất thống toàn đồ ) Viên Chăn và Chân Lạp chỉ là 2 thuộ̣c quốc nằm trong Đại Nam tổ quốc chung của con cháu họ HÙNG , khi lập bản đồ Đông dương người Pháp đã ‘ ngang nhiên ’ cắt cả 1 vùng rộng lớn thuộc tây bắc Việt Nam ( Trấn ninh ) nhập vào nước Lào …nay nhắc lại sự thực lịch sử này không khéo bị khối kẻ chửi bới là đầu óc đế quốc …. Muôn vàn điều còn phải tìm …nếu chúng ta làm rõ được một vài điều thậm chí chỉ một điều trong cái muôn vàn ấy thì công sức cả đời chúng ta cũng đã là không uổng phí . Ở thời đại văn minh này dù muốn hay không mọi người phải chấp nhận thực tế lịch sử nên : -Chúng ta không đòi đất cũng chẳng đòi người hay của cải vật chất nhưng kiên quyết dành lại những điều vô giá kết tinh của trí tuệ bao đời dòng giống HÙNG…. -Chúng ta chẳng tìm kiếm gì ngoài một mạch sống xuyên suốt từ qúa khứ đến hiện tại để sẵn sàng cho tương lai. Vài lời quê mùa thô kệch xin thưa cùng bằng hữu . Hùng lịch 23 / 05 / 4886 Dương lịch 07 / 07 / 2007 Âm lịch 23 / 05 / Đinh Hợi Văn Nhân – Nguyễn quang Nhật