Sunday, May 9, 2021
Dân hải ngoại lại rơi vào cái bẩy của Việt cộng về vụ cờ vàng - cờ đỏ
Các đại học California bị chi phối bởi đảng cộng sản Bắc Kinh chỉ vì tiền
TIN CẬP NHẬT 2/7/2021:
https://youtu.be/ntYBFWAkZrk
Dân hải ngoại lại rơi vào cái bẩy của Việt cộng về vụ cờ vàng - cờ đỏ
CT ĐẶC BIỆT CHỦ NHẬT 9/5/2021:
https://youtu.be/ltpic_jVVMg
Xã hội cộng sản Việt Nam là con đẻ… một bản sao chính xác của xã hội Trung cộng trong cái xã hội mà người dân chỉ là một thứ công cụ hay là một phương tiện người ta lợi dụng để đat được mục đích cuối cùng con dân được hợp quần trong những tổ chức đen [BÓNG MA] trong vòng kềm tỏa chỉ đạo của một chuyên ngành đặt biệt không ai dám đụng vào kể cả pháp luật được kết thành một khối theo luật ma-fia tuyệt đối trung thành với chủ nhân có thể ví cái xã hội đó như một tảng băng mà phần nổi là chính phủ của một nhà nước độc lập với phần chìm là một khối đen khổng lồ bao gồm các tổ chức hoạt động ngấm ngầm trong bóng tối để bảo vệ và giữ vững nhà nước đó cùng với thế lực đen [bóng ma] của các nước anh em cộng sản tiếp tục con đường giải phóng nhân loại tiến vào thế giới đại đồng…
Vào cuối thế kỷ 20 các nước cộng sản… liên xô và đông âu lần lược bị sụp đổ chỉ còn lại Trung Quốc và vài ba nước chư hầu trước sự kiện nguy cơ bị tan rã dây chuyền nên Trung Quốc đã ráo riết cùng với bọn chư hầu tay sai phát triển các tổ chức ma-fia ra rộng khắp thế giới bằng các con đường di dân kết hôn, tệ nạn buôn người v. v… ngấm ngầm cài căm người vào các chức vụ quan trọng trong cơ quan công quyền của các nước hoạt động phi pháp, lấy tài chính cho tổ chức hoạt động giăng mồi cài bẩy mua chuộc đủ mọi tầng lớp từ thấp đến cao nhằm thu lượm tin tức trong nội bộ hiện tình của các nước về kinh tế, chính trị, quân sự… phục vụ cho ý đồ thâu tóm thế giới trong một tương lai gần và cuộc chiến ngầm của Trung Quốc cùng với đám đàn em chư hầu tay sai, đã tỏ ra vô cùng hiệu quả trong kế hoạch và mưu đồ vô cùng sâu hiểm thâm độc với một lực lượng khổng lồ nhũng tổ chức hoạt động trong bóng tối với vô vàn bàn tay đen và hoa hồng đen trung thành tuyệt đối theo luật ma fia đã thực sự hữu dụng đem lại kết quả tuyệt vời trên mọi lĩnh vực với sức mạnh khủng khiếp của các thế lực ĐEN có thể khuynh loát chính trị, kinh tế, quân sự của một đất nước theo chiều hướng có lợi cho những kẻ giấu mặt đang âm thầm chỉ đạo trong bóng tối.
VÀ NỘI VỤ trong nước bảo đảm chỉ có những thành phần tự do, dân chủ cuội được đảng đạo diễn dàn dựng cho phép diển kịch để lừa bịp che mắt thế giới… kể cả mọi hoạt động phi phàp buôn lậu mãi dâm v. v... tất tần tật mọi thứ đều phải theo sự chỉ đạo phân công của KẺ ĐIỀU HÀNH đạo diễn muốn xã hội yên ổn hay bán yên ổn hay bất cứ xã hội nào dưới hình thức gì miễn che mắt được thế giới để chúng dể dàng tạo được vỏ bọc bên ngoài vô hại… thân thiện… yêu hòa bình ghét chiến tranh, nhân bản, trí đạo, nhân hiền… nhằm đánh lừa nhân loại khiến họ mất cảnh giác không mảy may nghi ngờ hiểm họa cộng sản để chúng dễ dàng ngấm ngầm rúc rỉa ăn luồn ăn sâu làm phân rã hoàn toàn tất cả đối thủ…
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma-fia csvn đang chỉ có những kẻ cam tâm làm súc vật cho chúng sai khiến mới được phép tồn tại để phục vụ chiến đấu không ngừng nghỉ cho lý tưởng và mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của bọn quan thầy tâm thần hoang tưởng - mao, mác, lê... chúng sẳn sàng triệt hạ và tiêu diệt cứ ai dân tộc nào đất nước nào đi ngược lại mục tiêu và lý tưởng của bọn chúng, chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm sâu độc và tàn ác nào lũ ác quỹ đội lốt người.
1960 - so sánh tổng sản lượng của miền nam VN, miền bắc VN, Nam Hàn và Trung cộng Lúc này Mỹ chưa đưa quân vào miền nam. 1965 quân đội Hoa Kỳ và đồng minh mới đem quân vào miền nam tham chiến vi cường độ du kích VC luồn theo đường mòn HCM xâm nhâm vào miền nam gia tăng.
Hồi 1951, Việt cộng "đánh Mỹ", mà hồi đó có Mỹ nào tại Việt Nam? Sau khi phát động chiến tranh, Việt cộng đánh rát khắp vùng ven Sài Gòn, kéo dài ròng rã mãi đến 1965, thì quân đội Mỹ và đồng minh mới vào giúp, giống như quân đội đồng minh vào giúp Nam Hàn chống Bắc Hàn xâm lăng nam Hàn trước đó.
“Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền Diệm - Thiệu ác ôn".
Pháo M-46 130 mm là loại lựu pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Liên Xô thiết kế và chế tạo vào thập niên 1950. NATO nhận được thông tin về loại vũ khí này vào năm 1954, nên đặt tên mã cho nó là M1954. Năm 1959, Trung Quốc được cấp phép chế tạo thứ vũ khí này và đặt tên là Kiểu 59-1. Chiều dài nòng pháo bằng 52 lần cỡ nòng (caliber) - dài lạ thường so với các loại pháo đương thời, pháo bắn rất xa, xấp xỉ 27,5 km đối với đạn thường.
Không có đại bác 130 ly vào VN bắn phá khắp nước TRƯỚC HÀNG CHỤC NĂM, thì làm gì có quân Mỹ vào.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1o_130mm_M46
Sài Gòn - Những hình ảnh thời 1960 - 1964
1954 chia đôi hai miền đất nước theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội, bên quốc gia Việt Nam không ký, nhưng đành chấp nhận sự yêu cầu từ phía công sản bắc Việt.
1954 tới năm 1964 trong 10 năm, miền nam xây dựng kinh tế, đặt thủ đô tại Sài Gòn.
Miền nam vừa xây dựng kinh tế đất nước vừa phải chống trả những cuộc vượt Vĩ Tuyến 17 xâm lăng của công sản bắc Việt càng lúc càng gia tăng và khốc liệt.
Khi miền nam có nguy cơ bị tiêu diệt, quân đội Hoa Kỳ và quân đội đồng minh trong SEATO mới vào cứu nguy cho miền nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 mới có những bước chân đầu tiên của quân đội Mỹ đặt lên miền nam Việt Nam.
Dưới đây là những hình ảnh miền nam trong 10 năm xây dựng kinh tế 1960 - 1964 trước khi quân đội Hoa kỳ đổ bộ trên miền nam.
Đài truyền hình Sài Gòn vào năm 1960
Tòa Đô Chánh Sài Gòn / Saigon 1964 - City Hall
Sài Gòn 1964 - Đại Lộ Thống Nhất
Saigon 1964 - Caravelle Hotel - VIP - good restaraunt at top
Saigon 1964 - Rex Movie Theatre - only escalator in Vietnam
Saigon 1964 - Parking Lot
Saigon 1964 - Caravelle Hotel Top - Saigon River View
Saigon 1964 - ARVN General Joint Chief of Staff
Saigon 1964 - Tan Son Nhut
Saigon 1964 - Tan Son Nhut - helicopters with armament
Saigon 1964 - British Embassy Embassy
Lò Nguyên tử ở Đà Lạt
Chiêu Đãi Viên Hàng Không Sài Gòn 1960
Thiếu nữ Sài Gòn 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960
http://namrom64.blogspot.com/2013/06/hinh-xua-ngay-phu-nu-3031960-tai-sai.html
http://honngocviendong.vn/hinh-anh/ngay-phu-nu-viet-nam-nam-1960
Ngày lễ Hai Bà Trưng / Ngày phụ nữ Việt Nam năm 1960
1
2
3
4
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/09/1960-so-sanh-tong-san-luong-cua-mien.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)2tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-2526220338450539361Sat, 20 Sep 2014 23:02:00 +00002014-10-05T14:26:51.438-07:00ương Trắng Miền Quê Ngoại" sẽ vĩnh viễn là một bí mật trừ phi có thêm chứng cớ mới đáng tin cậy.
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/09/ suong-tra-mie-que-ngoa-cao-tua.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7042307105878688723Sun, 31 Aug 2014 00:39:00 +00002014-09-03T22:45:10.353-07:00
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa
Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Tổng quát
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4]
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6]
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4]
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.[1]
- Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
- Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
- Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]
- Bài chi tiết: Hệ thống giáo dục kỹ thuật thời Việt Nam Cộng hòa
- Trung học đệ nhất cấp
- Trung học đệ nhị cấp
- Trung học tổng hợp
- Trung học kỹ thuật
- Bài chi tiết: Hệ thống các trường Bồ đề và Hệ thống các trường Quốc gia Nghĩa tử
- Các trường tư thục và Bồ Đề
Mục tiêu giáo dục
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[9] | ||
---|---|---|
Niên học | Số học sinh | Số lớp học |
1955 | 400.865 | 8.191 |
1957 | 717.198[10] | |
1959 | 1.115.000[11] | |
1960 | 1.230.000[10] | |
1963 | 1.450.679 | 30.123 |
1964 | 1.554.063[12] | |
1970 | 2.556.000 | 44.104 |
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?
Những quy định trong hiến pháp
Điều 26, Hiến pháp năm 1956: "Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận."[13] Điều 10, Hiến pháp năm 1967: "1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật." Điều 11 phát biểu: "1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục."[2]
Giáo dục tiểu học và trung học
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học | |
---|---|
trước 1970 | sau 1970 |
lớp năm | lớp một |
lớp tư | lớp hai |
lớp ba | lớp ba |
lớp nhì | lớp tư |
lớp nhất | lớp năm |
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp | |
lớp đệ thất | lớp sáu |
lớp đệ lục | lớp bảy |
lớp đệ ngũ | lớp tám |
lớp đệ tứ | lớp chín |
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp | |
lớp đệ tam | lớp mười |
lớp đệ nhị | lớp 11 |
lớp đệ nhất | lớp 12 |
Giáo dục tiểu học
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[14] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[15] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra hai ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[16] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[17] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[18]
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[19] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[20] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[21] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[22]
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[16] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[17] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).[18] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)... Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[23] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai "lục cá nguyệt" (hay "học kỳ"). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[24] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[25] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[26] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[27]
Số liệu giáo dục bậc trung học[9] | ||
---|---|---|
Niên học | Số học sinh | Số lớp học |
1955 | 51.465 | 890 |
1959 | 132.529[11] | |
1960 | 160.500[10] | |
1963 | 264.866 | 4.831 |
1964 | 291.965[12] | |
1967-68 | 471.000[16] | |
1968-69 | 554.000[16] | |
1969-70 | 632.000[16] | 9.069 |
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[28] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[29] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[30] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[31] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[32] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng "tối ưu" hay "ưu ban khen" (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng "ưu" (16/20 điểm trở lên); "bình" (14/20); "bình thứ" (12/20), và "thứ" (10/20).[33] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[34]
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v... nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[35] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ ở Long Xuyên.[36]
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.[37] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[38], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[37][39]
Các trường tư thục của Quốc Gia Nghĩa Tử Giáo Hội Công Giáo và hệ thống trường Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[40] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[41] Các trường tư thục nổi tiếng như
Cô Gái Việt
Sáng tác: Hùng Lân
Trình bày: Đoàn Thanh Niên Sinh Viên Bát Nhã
Lời sông núi…
Bừng vang bốn phương trời,
Giục chúng ta,
Đường phụng sự quyết tiến.
Triệu Trưng xưa
Đẹp gương sáng muôn đời
Dòng máu thiêng
Còn đượm nồng vạn trái tim
Dẫu không cùng tài trai vui tranh đấu
Gánh sơn hà còn trọng hơn xương máu
Dù thành thị hay thôn trang ai ơi!
Lòng hẹn lòng bạn gái ta xây đời.
Chị em ơi!
Quê nước chờ mong.
Ta sớm lập công,
Tô thắm giang sơn Việt Nam
Ngoài những phút quán xuyến tề gia
Hãy hướng lòng ta
Đến những ai đang cơ hàn
Kìa cô nhi không chút tình thân,
Đây lớp tàn nhân,
Năm tháng đau thương thầm trôi.
Cùng cương quyết!
Góp sức đồng tâm,
Muôn dân vui một đời vàng sáng tươi.
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/hung-ca-nhac-au-tranh-va-quan-ca-i.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7155195415605059056Fri, 15 Aug 2014 07:27:00 +00002014-10-28T19:16:22.658-07:00 Quân Sử VNCH
|
Người Lính Nghĩa Quân Trong Tim Tôi Nguyễn Thanh Thủy Năm tôi được 10 tuổi, gia dình tôi bỏ ruộng vườn vào ở trong khu Ấp Chiến Lược, được bao bọc bởi một vòng thành kiên cố có kẽm gai, có hào sâu chung quanh. Ở hai đầu ấp có hai cái đồn Nghĩa Quân nhỏ. Ba má tôi thỉnh thoảng trở về nhà làm ruộng, gặt lúa ban ngày, rồi ban đêm vào xóm ở. Ấp Chiến Lược là một công trình chiến lược dùng để cô lập Việt Cộng ra khỏi dân chúng. Việt Cộng hay trà trộn trong dân và bắn giết dân chúng và quân lính Việt Nam Cộng Hòa. Lúc nầy Việt cộng bắt đầu nổi dậy mạnh ở miền Tây, thâu thuế, giết hại dân thường, ám sát Xã Trưởng, Ấp Trưởng của VNCH gây kinh hoàng cho dân chúng, gây mất ổn định cho xã hội miền Nam đang sống trong thanh bình. Việt cộng bịt mắt, chặt đầu hay chôn sống bất cứ người nào họ nghi ngờ là đang cộng tác với chính quyền VNCH. Khu ấp chiến lược tôi ở được bảo vệ bởi một trung đội Nghĩa Quân, gồm có ba tiểu đội. Các chú lính hay ở trong đồn, còn vợ con họ sống trong các căn nhà nhỏ trong xóm. Nhà tôi ở gần nhà ông Tiểu Đội Trưởng, tôi kêu là chú Tấn. Canh giữ xóm làng. Lúc mới vào ấp tôi chỉ là một đứa con gái nhỏ quê mùa ngơ ngác. Nhưng lần lần tôi cặp bè bạn chơi với mấy đứa bạn, gái có, trai có, lớn tuổi, lanh lợi hơn, tôi học được nhiều thứ mới mẻ. Tôi biết cả tên cây súng nào là cây Carbine, cây nào là Garant, Thompsom, cây nào là cây súng phóng lựu. Tôi biết tên hầu hết các chú lính nghĩa quân trong tiểu đội của chú Tấn, nào là chú Tường, chú Sanh, chú Đúng, chú Quít, chú Mực... Các chú rất hiền và chú nào cũng nghèo. Bộ quân phục được các bà vợ vá nhiều chỗ. Tôi hay lân la đến nhà các chú chơi với con của họ. Với đồng lương Nghĩa Quân khiêm tốn, các chú ăn uống rất đạm bạc, thường là cá linh, cá lòng tong kho, với rau lang luộc hoặc chút ít canh bí, canh bầu. Hầu như chú nào cũng có vợ và vài ba đứa con. Khi rảnh rỗi tôi thấy các chú hay giúp việc nhà cho vợ buôn bán chút đỉnh kiếm thêm tiền. Có chú giữ con cho vợ ngồi bán rau ngoài chợ. Có chú xay bột cho vợ làm bánh tầm, bánh bò bán cho dân trong xóm. Một người lính bộ binh trẻ. Chú Tấn còn trẻ, nhưng ít nói. Thím Tấn là một người đàn bà hiền lành, có đôi mắt đẹp, to và dễ khóc. Chú hay xay đậu nành làm thành bánh đậu hủ cho thím ủ chao, ủ tương, rồi thím đem bán vào những buổi chợ rằm, chợ ba mươi cho người ta ăn chay. Chú thím Tấn có hai đứa con. Thằng Dũng được 6 tuổi, con Lan 3 tuổi. Khi bận bán tương, chao, thím Tấn hay gởi hai đứa nó nhờ tôi giữ dùm. Tôi hay chơi đùa và coi chúng nó như em. Tụi nó cũng rất thương tôi. Rất ít khi dân trong xóm gặp các chú Nghĩa Quân ra đi hành quân, các chú lặng lẽ ra đi khi trời sụp tối để giữ bí mật. Họ âm thầm canh gác đâu đó dọc theo bờ thành ấp chiến lược, sáng sớm mới trở về. Họ đi về im lặng như những cái bóng mờ. Có những sáng tôi hay gặp các chú trở về, thường thì chỉ có cái áo khô, quần các chú ướt đẫm, sình bùn lên trên đùi. Các chú thường đi dép hay đi chân không, chẳng mấy ai có được đôi giầy. Có khi đang đêm, tôi nghe súng nổ giòn rã. Sáng hôm sau các chú lính quen thuộc mang về hai cây súng chiến lợi phẩm của Việt cộng cùng với vài trái lựu đạn. Các chú kể cho mọi người trong xóm nghe là đêm rồi một toán Việt cộng băng qua ruộng phá hàng rào định đột nhập vào ấp chiến lược thu thuế và bắt dân đi làm dân công, qua sự hướng dẫn của một tên giao liên là người trong ấp. Các chú bắn chết hai tên, thây còn bỏ ngoài bìa ấp. Chúng tôi rủ nhau đi coi xác Việt cộng. Có lần các chú bắn chết cả một xuồng Việt cộng đang băng qua sông. Nhờ các bác ghe chài vớt lên, được nhiều súng. Sáng hôm sau ông Quận Trưởng bất ngờ đến đồn Nghĩa Quân xóm tôi, khen ngợi và thưởng tiền mua một con heo quay thật lớn. Các chú được dịp ăn nhậu vui vẻ. Mấy đứa con các chú Nghĩa Quân cũng hí hửng được dịp ăn thịt heo quay. Một ngày nọ tôi đi học về thấy cả xóm nhốn nháo lên, mấy thím vợ lính hớt hãi lo lắng. Thím Tấn nước mắt quanh tròng. Tôi hỏi thì thím cho tôi hay Trung đội Nghĩa Quân vừa bị tấn công và hai chú Nghĩa Quân hiền lành của xóm tôi vừa hy sinh, đền nợ nước. Chú Mực mà tôi quen thì bị đạp mìn Việt cộng gãy giò. Thật là một cái tang lớn cho cả xóm tôi. Linh cửu của hai chú được quàng tại chùa, vợ con lối xóm khóc lóc tỉ tê. Đến chiều thì người ta chôn hai chú ngoài bờ rào ấp. Một hàng 6 chú Nghĩa Quân đứng chào trên bờ huyệt. Quan tài hạ xuống, các chú bắn 6 loạt đạn điếc tai. Mặt các chú rất đau khổ, gầm lại khác hẳn các khuôn mặt hiền từ hàng ngày mà tôi thấy. Vợ con hai chú đòi nhảy xuống huyệt chết theo chồng. Nhiều người phải xúm lại kéo các thím lên, khó khăn lắm mới dẫn được họ về nhà. Bọn chúng tôi và mấy đứa con trai ngày thường hay chạy nhảy, phá phách, la hét, mà giờ cũng đứng im ru. Tôi không biết Việt cộng là ai, nhưng tôi lờ mờ hiểu rằng họ là người không tốt, vì họ bắn phá mà gia đình tôi phải bỏ thôn xóm vào đây. Giờ họ còn theo định đột nhập vào cái ấp chiến lược nầy làm chi nữa? Lính VNCH hành quân. Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Việt cộng bắt đầu tấn công miền Nam ở cấp số lớn hơn. Họ đặt mìn giật xe chạy trên quốc lộ, họ giật xập cầu, bắt dân chúng đi đắp mô cản đường xe chạy. Có khi họ giật mìn chết cả một chiếc xe đò. Nhiều người chết có cả đàn bà và trẻ em, thịt xương văng tung tóe. Có lúc họ pháo kích hay đặt mìn giật xập trường học của học sinh miền Nam. Tiểu đội của chú Tấn phải đi kích liên miên. Thím Tấn lo âu thấy rõ. Trung đội Nghĩa Quân lập được nhiều chiến công. Nhưng các chú Nghĩa Quân mà tôi quen biết cũng vơi dần. Họ đã âm thầm ra đi như những người chiến sĩ vô danh và trở về im lìm, trong những chiếc chiếu, những cái poncho, trong cái cảnh da ngựa bọc thây. Rồi cái ngày đau thương của thím Tấn và hai đứa con dại đã đến Chú Tấn và một chú Nghĩa Quân nữa hy sinh trong một cuộc đụng độ dữ dội với Việt cộng năm 1965. Xác chú được khiêng để trên bộ ván trong căn nhà nhỏ của chú. Khi tôi đi học về, tôi thấy người ta đang tắm rửa thay đồ rồi để một nải chuối lên bụng chú, ngọn đèn dầu leo lét được thắp trên đầu nằm có để một chén cơm và một cái trứng vịt. Đầu chú được băng bông trắng. Máu còn rỉ ra bên màng tang. Vợ con chú vật vã khóc than, đau đớn không thể nào kể xiết. Tôi đến mắm tay hai đứa nhỏ. Thằng Dũng thỉnh thoảng hỏi tôi: “Bộ Ba em chết rồi hả chị?” Tôi chỉ ừ, không biết trả lời làm sao! Lính VNCH dừng quân. Đến khi chôn chú Tấn, hàng loạt đạn đưa tiễn vang rền. Thím Tấn chết lên chết xuống, bộ đồ tang trắng bê bết bùn sình. Người ta phủ lên cái mã đất của chú Tấn một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa thật dài. Bốn phía có cắm bốn lóng trúc có gạo và muối. Tôi phải dẫn con Lan và thằng Dũng về nhà. Nước mắt tôi tuôn rơi. Cuộc sống chúng tôi đang êm đềm hiền hòa, thì tại sao người ta phải tấn công thôn ấp, giết hết người nầy người nọ. Để làm gì? Miền Nam độc lập tự chủ, có ai chiếm đóng miền Nam đâu, mà phải giải phóng chúng tôi. Cuộc đời dân miền Nam không hạnh phúc, sung sướng gấp chục lần dân miền Bắc hay sao? Tại sao các người phải giết chú Tấn của chúng tôi để cho cuộc đời mẹ con thằng Dũng từ đó ảm đạm, sa sút hẳn đi. Thím Tấn khóc hoài không dứt... Năm sau, gia đình tôi dời đi chỗ khác. Tôi ít được gặp lại Thím Tấn, thằng Dũng và con Lan. Năm năm sau, tôi mới được về thăm ấp cũ, tôi mừng rỡ gặp lại thím Tấn và hai đứa con. Bây giờ ngày nào thím cũng phải ra chợ bán tương chao nuôi con. Thằng Dũng vẫn còn nhớ tôi nhưng con Lan thì không nhận ra tôi nữa. Sau nầy tôi có dịp tiếp xúc với nhiều binh chủng oai hùng khác của quân lực VNCH, nhưng lòng tôi vẫn còn nhớ về các chú Nghĩa Quân hiền lành mà tôi đã biết năm nào. Hơn phân nửa các chú đã nằm xuống để bảo vệ làng xóm, quê hương tôi. Số còn lại có người gãy chân, có người cụt tay, sống đời tàn phế. Việt Cộng đã chà đạp lên Hiệp Định Hòa Bình Paris mà họ vừa ký kết năm 1973, cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, đưa cả nước xuống 10 tầng địa ngục. Một cảnh Huynh đệ chi binh, dìu bạn bị thương. Thân tôi giờ xa xứ xa quê, đã hiểu được ý nghĩa sự hy sinh cao cả của các anh, các chú quân nhân quân lực miền Nam, thỉnh thoảng tôi nhớ lại các chú lính Nghĩa Quân tôi quen biết mà thấy lòng thương lắm. Cùng với bao nhiêu binh chủng khác của quân đội, các chú âm thầm lặng lẽ hy sinh, cho dân chúng trong ấp tôi được sống trong yên bình. Các chú đem xương máu ra bảo vệ nền tự do, dân chủ mới được thành hình trên miền Nam yêu dấu. Các chú đã nằm xuống - bỏ lại con thơ, vợ dại - để ngăn cản bọn quỷ đỏ hung tàn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam, áp đặt cả nước trong một chế độ độc tài, hung bạo, không lối thoát. Các chú đã đem sinh mạng, xương máu của mình, để ngăn cản bọn bán nước buôn dân đày đọa cả dân tộc, và đưa đất nước Việt Nam đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại. Các chú đã anh dũng hy sinh, ngăn cản bọn CSVN chiếm đoạt đất nước làm tài sản riêng tư cho đảng, rồi tự ý dâng hiến đất đai, hải đảo của tiền nhân cho quan thầy Trung Cộng. Hỡi cô bác, hỡi anh chị ơi! Nếu vị nào may mắn, có cuộc sống bình yên xin đừng quên các chú lính Nghĩa Quân đang sống đời tàn phế. Xin đừng quên các chú Nghĩa Quân đã lặng lẽ hy sinh để bảo vệ tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Xin đừng quên vợ con họ, bị bỏ lại sau lưng với cuộc đời đau khổ. Nguyễn Thanh Thủy (Bài nầy được viết dựa vào những sự kiện có thật. Vì sự an toàn của một số người còn kẹt lại, tác giả tạm thời không đề cập đến những địa danh và tên người cần thiết trong bài nầy. http://www.vietlist.us/VietHistory/nguoilinhnghiaquan.shtml |
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Xin tặng tất cả những người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân VNCH
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/nguoi-linh-nghia-quan-trong-tim-toi.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7101263988578045996Wed, 13 Aug 2014 03:40:00 +00002014-08-12T20:40:29.677-07:00
• ĐẠI HỘI 35 NĂM NGÀY CÁM ƠN ỦY BAN CAP ANAMUR CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN
Hôm nay Cộng đồng người Việt tị nạn toàn nước Đức nói chung cũng như nhiều người đã đi định cư ở những quốc gia trên thế giới này, đã trở về đây mừng ngày kỷ niệm đúng 35 năm để nói lên lời tri ân từ trái tim, cám ơn Dân tộc Đức nói chung và đặc biệt mừng vị đại ân nhân 75 tuổi nói riêng là ông Dr. Neudeck. Ông là hình ảnh của người Samaria nhân hậu xưa. Không chỉ riêng với 11.300 người Việt Nam đã phải rời bỏ quê cha đất tổ ra đi tìm tự do, vì không thể sống nổi dưới chế độ cộng sản cai trị hà khắc vào bậc nhất thế giới này. Những mạng người đang trôi nổi, lênh đênh trên biển cả, trên những con thuyền mong manh, thô sơ, mà phần chết rất nguy hiểm đang chờ chực phía trước họ. Ông cũng còn là người luôn mở rộng trái tim yêu thương đồng loại tới tất cả những nơi con người đang bị bạc đãi khắp nơi trên thế giới nữa. Vâng! ông chính là người Samaria nhân hậu.
Ông cũng chia sẽ tóm tắt lại đoạn đường chông gai 35 năm về trước lúc đó ông 40 tuổi đời sau bao nhiêu trăn trở trong lòng với những hình ảnh xảy ra với người Việt Nam trên biển đông, cuối cùng ông quyết định liều để thuê con tàu Cap Anamur ra khơi cứu người Việt nam tị nan trên biết đông, mặc dù chưa biết khi cứu được họ rồi sẽ ra sao? Khi đó chính phủ Đức thì chưa có chương trình nhận những người Việt Nam chúng ta. Nhưng mà cứu người là chính nên cứ lên đường cứu người cái đã rồi mọi sự tiếp theo sẽ tính sau. vì tình yêu thương đồng loại mạnh hơn tất cả những cái khác. Ông cũng nhắc đến một người mà luôn bênh đỡ những người tị nạn chúng ta và cũng có mặt hôm nay đó là kí giả truyền hình Franz Alt.
Đây là những vị ân nhân của chúng ta vì lúc bây giờ mà không có những bài báo của ông là người rất có uy tín và ông đã đưa lên truyền hình kêu gọi người dân Đức, và từ đây nhân dân Đức với biết đến và giúp đỡ tài chánh để con tàu có tiền và thực phẩm thuốc men để đi cứu chúng ta nhiều hơn.
Tường thuật và ghi hình
Popular Posts
- 130 Người Việt Vượt biển bị VC Thảm sát trên đảo Trường Sa by Nguyễn Nhân Chứng Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 13...
- CHỜ MONG TỜ ĐIỆN TÍN Nguyễn Thị Thanh Dương Sau 1975 những người còn ở lại miền Nam Việt Nam không biết những ai đã nghĩ ra và những ...
- http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/ai-hoi-35-nam-ngay-cam-on-uy-ban-cap.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-1241606027743787474Mon, 11 Aug 2014 07:34:00 +00002014-10-11T22:59:09.082-07:00Tội ác và con sốĐẠI HỘI 35 NĂM NGÀY CÁM ƠN ỦY BAN CAP ANAMUR CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN Ngày hội trùng dương rộn tiếng cười Tim ta cảm tạ nở hoa tươi C...
Thiện mà đi theo cộng sản thì là do họ không hiểu cộng sản, họ cố gắng xây dựng đất nước trong vô vọng và không biết rằng mình đang tiếp tay cho kẻ ác. Nếu ta đồng lõa với hành động tiếp tay cho kẻ ác; cũng có nghĩa ta đang thừa nhận sự phi nhân, thừa nhận cái ác. Bị dẫn dắt vào con đường phi nhân, nó hủy hoại tính tốt của con người của cộng sản Việt Nam.
Hãy tự giải phóng tinh thần khỏi những ràng buộc, áp đặt, định hướng do ai đó muốn đưa vào đầu mình, nhằm mục đích điều khiển và thống trị...
Không ai có thể 'giam cầm' được tư tưởng của bạn, trừ khi chính bạn muốn như vậy và tự nguyện như vậy!
Những tội ác của Chủ Nghĩa Cộng Sản giết chết gần 100 triệu người.
- Số nạn nhân của hai cuộc Thế Chiến I và II cộng lại cũng không bằng số nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản...
- Xương nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản chất cao thành núi, máu nạn nhân cộng sản chảy thành sông. Tội ác của Chủ Nghĩa Cộng Sản giết chết gần 100 triệu người.
- Tại Trung Quốc hơn 60 triệu
- Nga hơn 30 triệu
- Bắc Hàn vài triệu
- Việt Nam vài triệu người,
- Đông Âu vài triệu người.
Khủng khiếp hơn phát xít Đức nhiều...
Bốn biến cố tội ác cộng sản gây ra tại Việt Nam:
1) Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam 1954 hàng vạn nông dân-địa chủ có công với Việt Minh chống thực dân Pháp bị đảng cộng sản Việt Nam chôn sống, xử bắn...
2) Biến cố tết Mậu Thân 1968 hàng nghìn người dân vô tội tại Huế bị bộ đội cộng sản Việt Nam chôn sống, xử tử......
3) Đại lộ kinh hoàng mùa hè 1972 hàng nghìn thường dân vô tội Quảng Trị trốn chạy cộng sản Việt Nam bị pháo, đạn cộng sản Việt Nam bắn máu thịt rơi khắp đoạn đường 10Km từ Quảng Trị vào Huế.
4) Hàng triệu thuyền nhân tìm tự do chạy trốn chế độ cộng sản trên những chiếc thuyền con trên Đại Dương hàng vạn người dân Việt Nam đã chết trên biển cả, nơi rừng sâu Camphuchia.
* Tù Cải Tạo và đi vùng Kinh tế mới, một hình thức mượn dao giết người.
Thiện mà đi theo cộng sản thì là do họ không hiểu cộng sản, họ cố gắng xây dựng đất nước trong vô vọng và không biết rằng mình đang tiếp tay cho kẻ ác. Nếu ta đồng lõa với hành động tiếp tay cho kẻ ác; cũng có nghĩa ta đang thừa nhận sự phi nhân, thừa nhận cái ác. Bị dẫn dắt vào con đường phi nhân, nó hủy hoại tính tốt của con người của cộng sản Việt Nam.
Hãy tự giải phóng tinh thần khỏi những ràng buộc, áp đặt, định hướng do ai đó muốn đưa vào đầu mình, nhằm mục đích điều khiển và thống trị...
Không ai có thể 'giam cầm' được tư tưởng của bạn, trừ khi chính bạn muốn như vậy và tự nguyện như vậy!
Những tội ác của Chủ Nghĩa Cộng Sản giết chết gần 100 triệu người.
- Số nạn nhân của hai cuộc Thế Chiến I và II cộng lại cũng không bằng số nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản...
- Xương nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản chất cao thành núi, máu nạn nhân cộng sản chảy thành sông. Tội ác của Chủ Nghĩa Cộng Sản giết chết gần 100 triệu người.
- Tại Trung Quốc hơn 60 triệu
- Nga hơn 30 triệu
- Bắc Hàn vài triệu
- Việt Nam vài triệu người,
- Đông Âu vài triệu người.
Khủng khiếp hơn phát xít Đức nhiều...
Bốn biến cố tội ác cộng sản gây ra tại Việt Nam:
1) Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam 1954 hàng vạn nông dân-địa chủ có công với Việt Minh chống thực dân Pháp bị đảng cộng sản Việt Nam chôn sống, xử bắn...
2) Biến cố tết Mậu Thân 1968 hàng nghìn người dân vô tội tại Huế bị bộ đội cộng sản Việt Nam chôn sống, xử tử......
3) Đại lộ kinh hoàng mùa hè 1972 hàng nghìn thường dân vô tội Quảng Trị trốn chạy cộng sản Việt Nam bị pháo, đạn cộng sản Việt Nam bắn máu thịt rơi khắp đoạn đường 10Km từ Quảng Trị vào Huế.
4) Hàng triệu thuyền nhân tìm tự do chạy trốn chế độ cộng sản trên những chiếc thuyền con trên Đại Dương hàng vạn người dân Việt Nam đã chết trên biển cả, nơi rừng sâu Camphuchia.
* Tù Cải Tạo và đi vùng Kinh tế mới, một hình thức mượn dao giết người.
-------------------------
Và con số này mới ghê nè do tờ báo Ba Lan vạch trần tội ác của tên tội đồ dân tộc hcm: Những nhân vật của Polska Time như sau: Đây là tài liệu của Ba Lan * 1 – Ismail Enver, Thổ Nhĩ Kỳ, cầm quyền 1913-1918, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,1 đến 2,5 triệu người; tội ác lớn nhất: diệt chủng người Armenia * 2 – Kim Nhật Thành, Bắc Triều Tiên, cầm quyền 1948-1994, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,6 triệu người; tội ác lớn nhất: chiến tranh Triều Tiên * 3 – Hồ Chí Minh, Việt Nam, cầm quyền 1945-1969, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người; tội ác lớn nhất: chiến tranh Việt Nam *4 – Pol Pot, Campuchia, cầm quyền 1975-1979, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 – 2,4 triệu người; tội ác lớn nhất: diệt chủng ở Campuchia * 5 – Saddam Hussein, Irad, cầm quyền 1969-2003, chịu trách nhiệm về cái chết của 2 triệu người; tội ác lớn nhất: diệt chủng người Kurd *6 – Yahya Khan, Pakistan, cầm quyền 1969-1971, chịu trách nhiệm về cái chết của 2 đến 12 triệu người; tội ác lớn nhất: diệt chủng ở Bangladesh *7 – Hideki Tojo, Nhật Bản, cầm quyền 1941-1944, chịu trách nhiệm về cái chết của 4 triệu người; tội ác lớn nhất: hành quyết thường dân trong chiến tranh thế giới thứ II. * 8 – Vladimir Lenin, Nga, cầm quyền 1917-1924, chịu trách nhiệm về cái chết của 4 triệu người; tội ác lớn nhất: nội chiến ở Nga * 9 – Hoàng đế Hirohito Nhật Bản, cầm quyền 1926-1989, chịu trách nhiệm về cái chết của 6 triệu người; tội ác lớn nhất: thảm sát ở Nam Kinh * 10 – Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc, cầm quyền 1928-1949, chịu trách nhiệm về cái chết của 10 triệu người; tội ác lớn nhất: thảm sát tại Đài Loan vào năm 1947 * 11 – Adolf Hitler, Đức, cầm quyền 1933-1945, chịu trách nhiệm về cái chết của 17-20 triệu người; tội ác lớn nhất: Holocaust * 12 – Joseph Stalin, Nga, cầm quyền 1924-1953, chịu trách nhiệm về cái chết của 40-62 triệu người; tội ác lớn nhất: Trại tập trung Gulag * 13 – Mao Trạch Đông, Trung Quốc, cầm quyền 1943-1976, chịu trách nhiệm về cái chết của 45-75 triệu người; tội ác lớn nhất: nạn đói lớn và Cách Mạng Văn Hóa. Jul 2, 2013 Việc Việt cộng tuyên truyền bịp bợm từ khi đảng cướp Cộng sản Việt Nam thành lập do sự chỉ đạo của Nga sô cho tới nay, thành tích lừa bịp để bán nước, hại dân đã không ngừng nghỉ mà ngày càng thêm chồng chất. Sau 38 năm xâm lăng và cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa, CSVN vẫn không ngừng nghỉ gia tăng lừa bịp các thế hệ sinh sau đẻ muộn và thế giới bằng những hình ảnh, bằng những chứng liệu ngụy tạo nhằm vu khống, bội nhọ chính nghĩa của chính quyền nước Việt Nam Cộng Hòa nói chung và của Quân Lực VNCH nói riêng trong cuộc chiến tự vệ, chống lại cuộc xâm lăng của làn sóng Đỏ, mà Hồ chí Minh cùng đồng bọn đã nhận súng đạn, vũ khí của Nga, Tàu về khởi chiến. Đảng CSVN đã ngụy tạo nhiều khu gọi là "di tích lịch sử chiến tranh"... , ngày 15/3/2013, Việt cộng đã cho khánh thành khu "di tích lịch sử Phú quốc : Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam". Nhưng những hình tượng mà chúng ngụy tạo, đã không lừa bịp được người dân Việt cũng như thế giới khi đối chiếu với một số hình ảnh thực tế về cuộc sống của các cán binh Việt cộng bị bắt làm tù binh tại Phú Quốc, khi chúng xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa đã được ghi lại dưới đây. Việc bôi xóa lịch sử, cố lừa bịp hòng giành chính nghĩa, lẽ phải về chúng bằng mọi hình thức, phương tiện, bất kể thủ đoạn đê hèn nào, lần lượt được đảng CSVN đem ra thực hiện, nhằm cho việc "cha truyền con nối" như Tàu cộng, Bắc Hàn đang theo đuổi. Đó là ý đồ đen tối và việc làm của đảng CSVN! Còn chúng ta, những người dân Việt yêu nước chân chính, bổn phận phải tiếp nối việc bảo tồn sự thật lịch sử trong sáng của tiền nhân. Trại tù binh Phú Quốc 1973: Từ 1975 đến 1987 CSVN đày đi tù cải tạo: 1,040,000 người. Chết trong tù cải tạo: 95,000 người. CS tử hình: 100,000. Từ 1975 đến 1987CSVN đày đi tù cải tạo: 1,040,000 người. 100,000. 95,000 Chết trong tù cải tạo : 95,000 người. CS tử hình 100,000. Từ 1975 đến 1987 CSVN đày đi tù cải tạo: 1,040,000 người. Chết trong tù cải tạo : 95,000 người. CS tử hình 100,000. Vượt biên chết trên biển 500,000. Tổng số vào khoảng 750.000 người Việt chết vì Cộng Sản sau khi "hòa bình" Ahaha, Thằng cs Nhật quay một ít còn csVN lấy và đóng lại rồi ghép lại đi tuyên truyền xảo trá, ai còn lạ gì, thôi dẹp ba cái trò đó đi, tời đại thông tin toàn cầu bây giờ ko như thời bao cấp đâu mà con bịp bợm, đúng là bị ccs đầu độc lâu ngày nên u mê tăm tối cũng phải.
0000000000000000000000000000
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/blog-post_11.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-984005095983726212Mon, 11 Aug 2014 04:39:00 +00002014-08-10T21:39:01.898-07:00
Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người
Vương Mộng LongK20Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương.Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư : - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?- Có phải người của "moa" đâu? Việt-Cộng đó!- Việt-Cộng à?- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?- "Moa" thấy đùi của anh ta bị quấn "garô" sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?- Tụi "moa" vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.- "Toa" biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi "Xuân ơi! Xuân ơi!" Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm . Tôi gật đầu, tán đồng,- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn. Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên: " Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…"Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành: "Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ "X" xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, "Két! Két! Cột! Cột!" thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều... Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra .Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm. "Bục!" thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!"Here it is!" Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ. Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: "Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby..."Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:- Thank you!Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!- Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.-Thuốc của đế quốc, không thèm hút!- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,- Take it! It's good for you!Tôi chêm thêm,- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,- May you tell him to take it?Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm. - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy! Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ. Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị "tó" vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.- E mấy?- Hăm Tám (28 )Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.- Cấp chức gì?- Trung úy Đặc-Công.- Quê ở đâu?- Hải ..."Rương- Làng nào?- Hỏi gì mà lắm thế?- Thôi không hỏi nữa!Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi: "Này! Này!"Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?Tôi ngạc nhiên- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà, - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: "Chẳng lẽ chính ủy nói sai?" tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi. - Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò. - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch."Don't throw it away! Keep it for memory!" bà dặn dò.Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng. "Take care! Good bye! My son!" phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run. Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: "Her son was a Ranger like you!"Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một "Ranger" như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình***Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?- Đạo lý làm người mà Long! "Moa" cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.- Sau này anh có còn gặp lại y không?- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?Tôi nhắc anh Tư.- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?- "Moa" không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.Anh Tư gật gù.- Có khi hai người là bà con cũng nên?Tôi cũng gật gù theo.- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là "cốt nhục tương tàn". Anh Tư phụ họa.- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản "cội" đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh "nồi da xáo thịt" này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!***Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là "Dũng Điếu Cày".Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn "lách cách!" vừa gọi nhau ơi ới: "Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!"Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: "Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân."Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là "Thượng Sĩ Buồn" đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!"Thượng Sĩ Buồn" là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là "Thượng Sĩ Buồn".Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông "Ba Gà Mổ", tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng "hiền hết xẩy" nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông "Ba Gà Mổ" có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau "ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ "hiền hết xẩy" tôi cũng mừng.Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.Có một vị tù cải tạo nào đó đã "phịa" ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa "rê" thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.- Từ mai, "moa" bỏ thuốc! "Toa" cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! "Moa" chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả! Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố "bỏ thuốc", chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm "garô" cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:"Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,- Lẹ lên! Lẹ lên!Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có línhcanh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra."Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư.."Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, "Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!..." Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:"Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!..."Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, "Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!..." nhỏ dần.Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng... rồi đi vào.Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương. Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn.Một điểm quan trọng mà nhiều người, nhất là phe cộng sản, quên, là miền Bắc là kẻ xâm lăng trong khi miền Nam chỉ phòng thủ. Người lính VNCH có gia đình, cha mẹ, vợ con, và họ phải bảo vệ những người thân yêu. Sức mạnh của họ không phải là tấn công giết giặc, mà là tình yêu. Chính tình yêu giúp họ mạnh mẽ và chiến đấu chống trả quân thù. Do đó âm nhạc miền Nam trước 1975 phản ảnh cái sức mạnh đó. Gọi tình yêu cha mẹ, vợ con, người tình ủy mị yếu đuối là thiếu hiểu biết, mất cá tính nhân bản. Quân đội Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, không coi trọng cái tình yêu đó. Họ bi tẩy não chỉ biết phục vụ Đảng cộng sản Việt Nam và yêu thương Bác Hồ hơn cả cha mẹ, vợ con. Ngược lại, những người lính VNCH lúc nào cũng có tình yêu thương gia đình. Bản nhạc "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" thể hiện tình thương yêu mẹ của anh lính trẻ một cách nồng ấm. Tình yêu thương đó được bộc lộ chân thành qua chi tiết cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng, ấp ủ hình ảnh những sợi tóc mẹ bay nhảy theo cơn gió thoảng trong suốt mười mấy năm.Đinh Miên Vũ, dù là Đinh Miên hay Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình, lúc sáng tác bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" chỉ là một người lính trẻ ở tuổi đôi mươi. Kinh nghiệm viết nhạc coi như không có vì bài này là bài duy nhất được sáng tác trước năm 1975. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" cho thấy mức sáng tạo thật cao, có những kỹ thuật viết thật điêu luyện. Một lần nữa, bài này là một thí dụ cho thấy xã hội và thể chế tự do của VNCH đã giúp phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật trong miền Nam trước 1975.Kết Luận"Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là bản nhạc duy nhất của Đinh Miên Vũ trong kho tàng âm nhạc miền Nam trước 1975 và là một trong những bài hay nhất, nếu không muốn nói là bài hay nhất, về tình yêu thương mẹ.Tuy có nhiều bài về tình yêu mẹ dành cho con, rất it bài nói về tình yêu con dành cho mẹ. Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" còn xuất sắc ở cách diễn tả độc đáo qua một cảnh tượng bình thường, đem lại cảm xúc mạnh cho người nghe. Cách diễn tả độc đáo đó và khía cạnh tha thiết của nhạc điệu khiến người nghe quên đi vài khuyết điểm trong lời nhạc.Một lần nữa, "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bằng chứng hùng hồn cho mức sáng tạo phong phú trong xã hội tự do của chính thể VNCH và sức mạnh của nền âm nhạc miền Nam trước 1975. Chúng ta lắng tai nghe bài hát, thưởng thức nhạc điệu và lời ca ru hồn; nhưng chúng ta không quên cảm thấy xót xa cho nền âm nhạc của miền Nam trước 1975.Cảm tạTôi xin có lời cảm tạ anh Vũ Đông Hà và các bạn dân lành, Sài gòn, PHO, binh, Cau Ho, buồn cho tiếng Việt của trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của Sài gòn.
____________________________________http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/suong-trang-mien-que-ngoai.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/09/suong-tra-mie-que-ngoa-cao-tua.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-7042307105878688723Sun, 31 Aug 2014 00:39:00 +00002014-09-03T22:45:10.353-07:00
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.[1]Mặt tiền tòa nhà hành chánh Viện Đại Học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa
Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.Tổng quát
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4]
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6]
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4]
Triết lý giáo dục
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.Năm 1958, dưới thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
- Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.[1]
Mục tiêu giáo dục
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[9] Niên học Số học sinh Số lớp học 1955 400.865 8.191 1957 717.198[10] 1959 1.115.000[11] 1960 1.230.000[10] 1963 1.450.679 30.123 1964 1.554.063[12] 1970 2.556.000 44.104 Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?
- Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
- Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
- Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]
Những quy định trong hiến pháp
Điều 26, Hiến pháp năm 1956: "Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận."[13] Điều 10, Hiến pháp năm 1967: "1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật." Điều 11 phát biểu: "1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục."[2]
Giáo dục tiểu học và trung học
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học trước 1970 sau 1970 lớp năm lớp một lớp tư lớp hai lớp ba lớp ba lớp nhì lớp tư lớp nhất lớp năm Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp lớp đệ thất lớp sáu lớp đệ lục lớp bảy lớp đệ ngũ lớp tám lớp đệ tứ lớp chín Tên các lớp trung học đệ nhị cấp lớp đệ tam lớp mười lớp đệ nhị lớp 11 lớp đệ nhất lớp 12 Giáo dục tiểu học
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[14] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[15] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra hai ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[16] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[17] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[18]
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[19] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[20] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[21] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[22]
- Bài chi tiết: Hệ thống giáo dục kỹ thuật thời Việt Nam Cộng hòa
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[16] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[17] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).[18] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)... Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
- Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[23] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai "lục cá nguyệt" (hay "học kỳ"). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[24] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[25] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[26] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[27]
Số liệu giáo dục bậc trung học[9] Niên học Số học sinh Số lớp học 1955 51.465 890 1959 132.529[11] 1960 160.500[10] 1963 264.866 4.831 1964 291.965[12] 1967-68 471.000[16] 1968-69 554.000[16] 1969-70 632.000[16] 9.069 - Trung học đệ nhị cấp
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[28] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[29] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[30] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[31] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[32] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng "tối ưu" hay "ưu ban khen" (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng "ưu" (16/20 điểm trở lên); "bình" (14/20); "bình thứ" (12/20), và "thứ" (10/20).[33] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[34]
- Trung học tổng hợp
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v... nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[35] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ ở Long Xuyên.[36]
- Trung học kỹ thuật
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.[37] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[38], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[37][39]
Các trường tư thục của Quốc Gia Nghĩa Tử Giáo Hội Công Giáo và hệ thống trường Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
- Bài chi tiết: Hệ thống các trường Bồ đề và Hệ thống các trường Quốc gia Nghĩa tử
- Các trường tư thục và Bồ Đề
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[40] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[41] Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.[42] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie-Curie, Colette, và Saint-Exupéry.[43] Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.[44] Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).[45]
- Các trường Quốc gia Nghĩa Tử
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia Nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia Nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[46][47] Vì vậy trường Quốc gia Nghĩa tử khác trường Thiếu Sinh Quân. Sau năm 1975, các trường Quốc Gia Nghĩa Tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học
Số liệu giáo dục bậc đại học Niên học Số sinh viên 1959 7.500[11] 1960-61 11.708[48] 1962 16.835[12] 1964 20.834[12] 1970 50.000[16] 1974-1975 166.475[50]
http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-111
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/giao-duc-viet-nam-cong-hoa-to-chuc-va.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-6293512938212711028Thu, 28 Aug 2014 01:12:00 +00002014-10-12T21:33:21.693-07:00Quân Sử VNCH
Câu chuyện của KingBee man/Phi Đoàn 219 Long Mã Biệt Đoàn SOG, bị sa vào tay giặc cộng
Như Chuyện Không Tưởng
Chung Tử Bửu
Khi cánh cửa phòng giam trại thẩm vấn tù binh Ngã Tư Sở, Hà Nội, đóng lại cài then khóa chặt phía ngoài vào buổi chiều ngày 9 Tháng Ba năm 1971, mọi dự tính trốn thoát của tôi trở thành vô vọng. Tụi ma giáo nầy sẽ giở trò quỉ quái gì đây? Bao giờ thì mình sẽ bị đưa lên các trại khổ sai nơi thâm sơn cùng cốc? Mình sẽ chịu nổi các đòn tra tấn tới mức nào? Bao giờ thì chúng sẽ đem mình đi thủ tiêu? Có khi nào mình sống sót trở về gặp lại bao người thân yêu nhất không?KingBee/Phi Đoàn 219 Long Mã
phi công Chung Tử Bửu và Ernest
Mỗi lần nhìn thấy hai người đàn em của tôi cùng bị bắt tại mặt trận, Thiếu Úy Khánh và Thiếu Úy On bị giam khác phòng, nhưng cùng một dãy là tim tôi nhói lên vì thương các đàn em của mình. Các cậu mới ra trường được vài tháng, bay hoa tiêu phó cho tôi một thời gian, chưa dạn dày chiến trận đã bị lôi theo con chim đầu đàn gãy cánh. Trong số mười sáu sĩ quan tù binh bị bắt trong cùng một trận đánh, tuy hai cậu ấy là người gần gũi nhất của tôi, nhưng nếu hỏi rằng tôi biết gì về tánh tình, khả năng, tài vặt, hoặc đời tư của hai chàng, thì tôi cũng mù tịt. Tôi chỉ cảm nhận một điều, mình phải có bổn phận khích lệ và an ủi hai người em cùng phi đoàn. Năm tháng bị thẩm vấn căng thẳng rồi cũng quen, nhưng cái loa điện tổ chảng chĩa thẳng vào mấy cửa sổ cao sát trần nhà phòng giam phát tiếng the thé của đài nói dối Việt Nam; nào là buổi trưa hát bài chòi, giữa đêm hát chèo, với lại mấy thứ nhạc lai tàu bắt chước giọng Liên Sô hát nhanh như ma đuổi, cộng thêm đủ thứ bản tin phịa thứ thiệt đẳng cấp thế giới, thì chịu không thấu bà con ạ!
Một hôm đi ngang qua cửa phòng Khánh và On, Khánh cầm hai hột nhãn lượm ngoài sân ra dấu bảo tôi hãy lấy hột nhãn, rửa sạch, nút lỗ tai để đỡ phải nghe. Bao đêm khuya canh vắng suy nghĩ về tương lai đen tối của mình, có một câu hỏi vấn vương không rứt ra được: “Nếu thật có thiên đàng, hỏa ngục và linh hồn, khi mi chết hồn mi sẽ đi đâu? Lên hay xuống?” Sau một số ngày thành thật suy nghĩ thì câu trả lời rất rõ ràng là sẽ đi xuống! Tại sao? Bởi vì mặc dù có đạo, nhưng giữa tôi với cõi thiên đàng chẳng có mối liên hệ chặt chẽ nào bảo đảm một vé đi lên. Nhìn lại mặt đạo đức của mình thì chỉ toàn là những điều xấu hổ. Ðúng là đầu xanh mà vô số tội! Bị đối diện với sự thật nghiệt ngã, tôi mới nhận ra rằng dù có biết, có tin, có là đạo vòng vòng, chẳng thứ nào tạo được tình liên hệ thân ái với Ðấng Tối Cao là Ðấng sẽ ban quyết định cho mình lên hoặc xuống. Lấy lẽ công bằng mà nói, thần nào, cõi thánh thiện nào chịu chứa chấp một thằng có đủ thứ tội lỗi xấu xa như tôi? Ðứng trước số phận vĩnh cửu của mình, tôi không thể khinh suất đặt niềm tin vu vơ vào những điều chỉ nghe người ta truyền lại chứ chưa bao giờ biết rõ. Trong cõi nhân loại có nhiều niềm tin tôn giáo khác hẳn nhau, thì không thể nào mọi niềm tin đều là chân lý. Nếu có anh đúng thì phải có nhiều anh sai. Làm thế nào biết được ai đúng ai sai? Hoàn cảnh bấy giờ không phải là lúc lý sự về Ðấng Tạo Hóa hiện hữu hay không hiện hữu, vì chẳng ai giải thích được nguồn gốc sự sống, trật tự tuần hoàn của cõi thiên nhiên, và sự hình thành vũ trụ bao la.Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Hành Khúc
http://youtu.be/jdDZAGNQv4Y
Ðối với tôi, đứng trước số phận chắc chắn là hẩm hiu và bất hạnh, bản năng khôn ngoan của con người là tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh bế tắc, chẳng ai gàn dở ngồi lý sự về những điều không chứng minh nổi. Vì thế, nỗi trăn trở của tôi ngoài việc suy tính phương cách đối phó với những cuộc hỏi cung diễn ra suốt 6 ngày mỗi tuần, còn là nghĩ cách tìm ra lời giải đáp cho thắc mắc làm thế nào tạo được mối liên hệ thân ái với cõi thần linh trên thiên đàng. Ðể rồi đây, nếu có phải sớm qua thế giới bên kia thì mình cũng còn có chút hy vọng! Trong hoàn cảnh tuyệt vọng và cấp bách, tôi muốn biết vấn đề cách rõ ràng rành mạch, vì sự biết lõm bõm chẳng giải quyết được gì. Càng suy nghĩ càng hối tiếc, vì từ khi còn nhỏ tôi đã được tiếp xúc với Thánh Kinh là quyển sách nói về vấn đề nầy, nhưng tôi đã thờ ơ với số phận vĩnh cửu của mình.
Tôi nhớ đến một lời tuyên bố của Ðức Chúa Giêsu trong sách phúc âm nào đó được nhắc tới trong các bài giảng về đức tin mà tôi đã nghe, rằng: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hột cải, sẽ khiến núi nầy đời đi, thì nó sẽ dời đi...” Như vậy có phải là với chút lòng tin thì sẽ được ban cho quyển Thánh Kinh không? Ðối với tôi, lời tuyên bố chắc nịch thì một là thật, hai là dỏm, chứ không thể có kiểu lừng chừng. Làm sao ai có nổi thứ đức tin cỡ đó? Nếu tôi có chút đức tin nào thì giỏi lắm nó chỉ lớn cỡ bằng hột bụi bay vơ vẩn là tối đa! Giống như lênh đênh giữa biển bao la, vớ được cái gì làm phao thì cứ bám lấy. Thứ mà tôi cần nhất lúc nầy là quyển Thánh Kinh. Nhưng nhìn lại thực tại của mình trong nhà tù cộng sản thì vô cùng thối chí. Bọn nầy thù ghét Cơ-đốc-giáo hơn mọi thứ trên đời, làm sao nó cho phép mình có được quyển Thánh Kinh, nếu có? Thế còn lời tuyên bố của Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng thì sao? Lấy cái gì để chứng minh? Nếu Thiên Chúa không trị nổi bọn cộng sản thì có gì đáng tin? Chẳng lẽ Ðấng Tối Cao không đủ quyền phép buộc tụi xảo quyệt nầy phải cho tôi quyển Thánh Kinh hay sao? Muốn biết có thật hay không thì phải thử là cách tốt hơn hết. Từ hôm đó tôi đã bắt đầu cầu xin như thế nầy: “Kính lạy Thiên Chúa, nếu Ngài hiện hữu và toàn năng, xin ban cho con một quyển Thánh Kinh trong nhà tù cộng sản nầy.” Thật vậy nếu Thiên Chúa có thật và toàn năng thì sá gì mấy thằng Việt Cộng láo toét. Tôi cung kính dâng lời khẩn cầu của mình mỗi ngày hai lần vào buổi sáng thức dậy và buổi tối trước khi ngủ.
Cùng thời gian đó, có một tên đại tá đến thẩm vấn tôi suốt một tuần về các vấn đề xã hội, thông tin báo chí, văn hóa văn nghệ của Miền Nam. Hắn ba hoa khoác lác về vấn đề tự do tín ngưỡng ở miền Bắc rồi khoe về các nơi thờ tự hiện đang có tại Hà Nội. Tôi hỏi móc một chuyện:
- "Thưa ông, mặc dù tôi không được ra ngoài để thấy cuộc sống xã hội ở miền Bắc nầy, nhưng tôi đoán là vấn đề tự do tín ngưỡng như ông nói chắc không có. Vì tôi nghe phía bên ngoài tường rào có tiếng dân chúng đi lại sinh sống quanh đây rất nhiều. Mà đa số người Việt Nam theo đạo Phật. Có dân ắt phải có chùa. Có chùa ắt phải có chuông. Có chuông thì tôi phải nghe. Nhưng mấy tháng nay tôi chẳng bao giờ nghe tiếng chuông chùa cả, chỉ nghe toàn là tiếng kẻng thôi. Tại sao vậy?"
Hắn trả lời:
- “Anh nhầm rồi! Chùa ở ngoài nầy không dùng chuông mà gõ kẻng anh ạ!”
Biết là hắn phịa, nhưng tôi không có cớ nào để bẻ hắn. Tuy vậy, sau một tuần thẩm vấn xong hắn hỏi một câu:
- “Anh có nguyện vọng gì không? Tôi có thể giúp anh được gì không?”
Tôi trả lời:
- “Dạ có, tôi muốn có một quyển Thánh Kinh để đọc.”
Hắn giãy như đỉa phải vôi:
- “Ô ô ô ô... cái... cái... cái đó thì không được! Vì chúng tôi không tin, không cho phép, và cũng chẳng đào đâu ra để có cho anh.”
- "Ông nói các ông không tin, và không cho phép; tôi tin ông nói đúng. Nhưng về việc ông nói là không có để cho, thì tôi nghĩ là ông nói dối đấy!"
Tôi nói.
- "Sao... sao anh lại dám nghĩ là tôi nói dối? Anh biết cái... cái... cái gì ở ngoài nầy? Anh lấy lý do nào nào?"
Hắn la lên:
- "Thưa ông, mới hồi nãy ông khoe cạnh phố Hàng Da gần Cửa Nam vẫn còn nhà thờ Tin Lành, vẫn có mục sư, và tín đồ vẫn được đi nhà thờ dự lễ. Có phải vậy không ạ? Thế mà ông nói là không đào đâu ra Thánh Kinh. Chẳng nhà thờ Tin Lành nào mà không có sẵn Thánh Kinh cả. Nếu nhà thờ ấy có thật, ông cứ đến xin một quyển là họ biếu ông ngay." Tôi nói.
- "Tôi đã nói là không được." Hắn nói.
- "Vì ông hỏi nguyện vọng của tôi thì tôi thật lòng nói rằng đó là thứ tôi cần. Chứ có bao giờ các ông theo nguyện vọng của tôi trả tự do cho tôi trở về Miền Nam đâu." Tôi nói.
- "Anh đừng đòi hỏi những gì mà tôi không thể giúp." Hắn ta nói.
- "Vậy xin cảm ơn ông đã quan tâm." Tôi nói.
Không ai biết rằng tôi sẽ phải tiếp tục ở tù thêm 12 năm nữa, và cái Tổng Cục Chính Trị đó cũng không nghĩ rằng họ sẽ nhốt tôi thêm mười hai năm nữa. (Cho tới cuối năm 1978, khi tôi bị cái đói hành hạ dai dẳng ở trại cải tạo Nam Hà. Một đêm tôi nằm trách móc Chúa tại sao Ngài để cho tôi bị đói như thế nầy, bỗng cuốn phim ký ức về con gà mái xổng khỏi lồng làm trì hoãn đoàn xe chở tù binh vào ngày 16 tháng 4, 1972, diễn ra rõ mồn một trong trí. Có tiếng hỏi rất nhỏ nhẹ vang trong trí “Nếu ngày ấy Ta không tháo cho con gà xổng ra ngoài, trì hoãn đoàn xe để cứu cả đoàn khỏi bị máy bay bắn cháy, liệu ngày nay con còn sống sót để nằm đó trách móc Ta chăng?” Một tuần sau tôi “bị” điều động sang đội nấu bếp mới thành lập). Chuyện đời tù của tôi quá dài không thể kể hết trong một bài viết ngắn.
Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái. Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973.…Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm.Trong những ngày phải đi rừng đốn gỗ, chặt nứa, chặt chổm, của hai năm 73 và 74, biết bao ký ức của thời quân trường, thời du học các trường bay ở Mỹ cuồn cuộn kéo về trong tâm khảm. Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm. Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua. Ôi quê hương ra sao bây giờ? Trên đất Bắc dong chân qua những miền đất lạ, người xử người dã man nghiệt ngã. Bọn cáo chồn lộ nguyên hình tàn độc, bỉ ổi, và man trá. Quyển Thánh Kinh, cái gai trong mắt tụi coi trại, là nguồn an ủi vô biên của người tù binh trong những ngày gian khổ.
Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua...
Chung Tử Bửu
MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM
http://youtu.be/bx1wYg3kf_4
Một ngày Tháng Sáu 1974, chúng tôi được tin 4 anh trong đám đông đã vượt ngục. Ôi! Vui chi kể xiết, dù chúng tôi bị gò bó nhiều hơn. Tụi Việt Cộng gửi tới Yên Bái một sư đoàn tập trận để lùng bắt cho bằng được những người tù binh đã bỏ trốn. Ba tuần trôi qua, bóng các anh vẫn biệt mù tăm cá, tôi hứng chí làm bài thơ “Tiếng Rừng Xôn Xao” (với bút hiệu Phù Vân) tặng các bạn mình. Nói làm sao hết nỗi tự hào của các chiến sĩ Cộng Hòa hiên ngang bất khuất. Niềm tin càng ngày càng vững trong gian lao, dù ngày về quê hương vẫn còn xa mờ mịt.
Từ ngày được tin Phước Long, rồi Ban Mê Thuột thất thủ, tôi xem những lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu Ước và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh. Ngày 11 tháng 4, 1975, tôi bị đưa về tạm giam tại nhà tù Hỏa Lò. Ngày 25 tháng 4 bị đưa trở lại Ðông Khê, Cao Bằng. Trại giam năm xưa bây giờ trở thành trại kỷ luật. Tôi gặp lại 4 anh vượt ngục đã bị bắt lại và bị đưa lên đây trừng trị từ nhiều tháng trước. Bốn chục thằng Việt Cộng lo trông coi và hành hạ chỉ có 11 người tù binh. Ôi! Buồn không chi tả xiết! Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa. Tôi tưởng chừng lòng mình đã thành chai đá. Nước mắt không còn để khóc. Quyển Thánh Kinh bị tịch thu vì là trại kỷ luật. Bị giam riêng một mình ở tòa nhà đá trên đầu dốc, tôi chỉ còn là cái xác không hồn.Lưu Đày - Lê Tâm
http://youtu.be/K4e9R4JUfcE
Cuối năm 1975, chúng tôi được cho phép viết thư về nhà lần đầu tiên. Tôi quyết định không viết. Có lẽ gia đình tôi chẳng còn ai. Còn vợ tôi, nếu nàng đã đi bước nữa mà nhận thư tôi chỉ khiến nàng thêm bẽ bàng. Thôi, tôi tự xem mình như đã chết. Và tôi cũng muốn gia đình tôi đừng biết tin tôi còn sống. Tôi sẽ ở tù không có ngày ra. Bọn Việt Cộng đã tuyên bố vậy. Báo tin tôi còn sống chỉ làm người thân đau khổ thêm một lần nữa, ích lợi gì! Nhưng Thiếu Úy Chờ, người bạn cưa xẻ với tôi, theo tôi năn nỉ khuyên nhủ suốt mấy ngày. Ðể làm vừa lòng bạn, tôi viết qua quít một thư cho mẹ tôi, mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ tới, vì có lẽ mẹ và các em tôi đã được đưa đi Mỹ rồi.
… và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh.
… Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa…
Chung Tử Bửu
Mùa Ðông năm ấy rét chưa từng thấy. Ban ngày nhiệt độ trung bình là 2 độ C. Ban đêm 5, 6 độ âm. Vẫn phải lao động, cưa gỗ, đẵn củi, đập đá, đắp đường. Bụng lúc nào cũng đói, cái đói triền miên hành hạ không nguôi. Nếu không có bãi cỏ hắc âu làm thuốc, có lẽ, tất cả chúng tôi đã gục ngã vì bệnh thấp khớp sưng đầu gối. Rau dấp cá mọc hoang trở thành nguồn lương thực cứu đói chánh yếu của chúng tôi. Cỏ gì xực được là bứt. Tôi lại vận dụng trí não làm một bài thơ tựa đề là "Mùa Ðông Thạch An" thuộc nằm lòng chứ không bao giờ ngu viết ra giấy. Khoảng ba tháng sau, nhằm mùa Xuân, một buổi trưa rất bất ngờ, thằng cai tù tên là Tòng đem đưa cho tôi thư nhà gửi ra, thật dày. Tôi rất bình thản mở thư ra xem. Trong thư có rất nhiều ảnh chụp. Tấm hình màu nằm trên cùng là ảnh hai đứa con gái của tôi khoảng 4, 5 tuổi. Ôi! Chúng xinh đẹp và dễ thương làm sao. Tôi chợt òa khóc không thể nào ngưng. Bao nhiêu nước mắt và nỗi lòng thương nhớ bị đè nén từ lâu đầy ngập trong linh hồn, nay tràn ra như nước vỡ bờ. Một mình giữa xà lim vắng lặng, tôi nghe tiếng khóc hu hu của mình trộn lẫn tiếng nấc. Khi thấy lại hình ảnh của những người thân yêu nhất, mọi cảm xúc bỗng bừng sống dậy, dạt dào... Từng lời thư yêu thương của vợ làm tôi quá hối hận vì đã nghi ngờ lòng chung thủy của nàng. Ôi em! Ôi hai con! Vâng, sẽ có ngày... sẽ có ngày tôi được gặp lại người xưa.
Tháng 6 năm 1976, tôi được trả lại quyển Thánh Kinh, được ra khỏi trại kỷ luật và bị đưa đi trại Sơn La vùng Tây Bắc. Chẳng phải vì chúng tôi đã mãn hạn, nhưng vì bọn Việt Cộng dùng trại Ðông Khê để trừng trị những người chiêu hồi bị chúng tóm lại được. Ở Sơn La, tù nhân lao động quần quật hai năm rưỡi, lội khắp các cánh rừng của bản Mường Thải rồi về trại Ba Sao Nam Hà ở ba năm rưỡi nữa. Sau đó chuyển về trại Z30C Hàm Tân thêm hai năm 7 tháng. Suốt thời gian ấy, tôi được báo trước trong những giấc mơ đủ thứ chuyện sẽ xảy ra, thì đều diễn ra y như tôi đã thuật lại cho các bạn cùng phòng. Trong gần 14 năm trôi nổi gian truân và cả sau nầy, bàn tay bảo vệ và gìn giữ của Thiên Chúa vẫn theo tôi không bao giờ rời xa. Ôi, Thiên Chúa đầy yêu thương đã đoái đến một con chiên ghẻ bướng bỉnh.
Không món quà nào trong thời khổ đau quý hơn món quà quyền phép giúp tôi biết mình luôn được bảo hộ, được chỉ dẫn cho biết con đường chân lý. Suy gẫm về những ngày gian khổ đó, tôi luôn biết ơn Ðấng đã che chở bảo vệ tôi, thậm chí một cái tát cũng đã không xảy ra, mặc dù tôi là người tù bị bọn Việt Cộng ghét nhất trại. Có lẽ tôi là người duy nhất thuộc khóa 65 Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã trải qua những kinh nghiệm như đã kể. Có người bạn như vậy kể cũng “hãnh riện” lắm chứ, phải không các bạn!
Chung Tử Bửu
LTS: Chung Tử Bửu là học sinh Trung Học Lê Lợi Di Linh gần Đà Lạt, hiện làm Mục Sư tại Texas
Nguồn: http://www.anhdao.org/D_1-2_2-66_4-328_5-4_6-2_17-80_14-2_15-2/#nl_list_bookmark-----------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------- Chuyến Bay Tử Thần Vào Đồi 31 Hạ Lào
Chuyện về Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển “Trận Hạ Lào năm 1971″, rồi nhà văn Nhảy Dù - Lê Ðình Châu đại úy đại đội trưởng. Đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển “Ðôi Mắt Người Tù Binh”, và anh Nguyễn Văn Long, thiếu úy sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu. Ở đây, tôi (Bùi Tá Khánh) chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.
Kingbee Bùi Tá Khánh
Binh sĩ VNCH tại Khe Sanh đang chờ để được trực thăng bốc vào
đất Lào lúc mở đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, ngày 8-2-1971
Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong Phi Đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I Không Quân trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của Biệt Đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế, tất cả phi cơ của Phi Đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi.
Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt Hóa chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của Không Lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hỏa lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị Không Quân trực thuộc Sư Ðoàn I Không Quân trong đó có Phi Đoàn Long Mã 219.
Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong ba lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm hai hoặc ba chiếc H-34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hỏa lực 29, 30, 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất “hot”, nhưng “sôi nổi” nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù bốn ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.
Đồi 31 - Lam Sơn 719 - Hạ Lào
Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có hai phi cơ do anh Chung Tử Bửu lead, tôi co-pilot và Nguyễn văn Em là mê-vô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội Tác Chiến Điện Tử Dù cùng với 18 chiếc máy “sensor” vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12 ly 7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA-7 nữa.
Về không trợ thì có hai chiếc Gunship của Phi Đoàn 213 do Trung Úy Thục bay trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M-60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến Landing Zone anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của Trung Úy Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy “Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây”. Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.
Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hỏa, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy “Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy”.
Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa” trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ Đại Úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù “trên đây nè thiếu úy, tụi tôi bắn yểm trợ cho”. Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, Thiếu Tá Ðức trưởng ban 3, Đại Úy Trụ phụ tá ban 3, Đại Úy Nghĩa sĩ quan liên lạc Không Quân, Trung Úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Thiếu Úy Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có Trung Tá Châu tiểu đoàn trưởng và Đại Úy Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại Tá Thọ mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “ông” nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.
Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Trung Úy Nguyễn Hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến Không Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có hai phi tuần F-4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.
Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với ba chiếc H-34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc hai phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận “tiền pháo” dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ!”.
Binh sĩ VNCH bị quân Bắc Việt bắt trong trận đánh Lam Sơn 719
Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được hai chiếc T-54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn Văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau hai xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần hai chiếc F-4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm hai xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H-34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.
Về phía Không Quân, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các sĩ quan và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ ba các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả hai chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ hai tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.
Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại hai phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của hai phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 33 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.
Kingbee Bùi Tá Khánh
hung-viet.org
http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=8828
Tác giả/Nhân vật: Bùi Tá Khánh |13-07-2011|
"Các Ông Chỉ Có Một ĐƯỜNG BINH…”
Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp Ước Liên Minh Quân Sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh Sát Biển.
Hôm trước khi ra sân bay về nước, đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm.
Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:
- Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?
Đại diện CSVN cười và giải thích:
- Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.
Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:
- Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?
Đại diện CSVN phá lên cười:
- Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?
- Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975.
Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?
Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:
- Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở.
Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa Án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi không?
- Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.
- Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?
- Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ.
Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.
- Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam đã có xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?
- Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.
- Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?
- Đúng! Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!
Đại diện CSVN cười sặc sụa:
- Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi.
Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa. Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:
- Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ước buôn bán” và “chủ quyền”.
- Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.
- Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai.
Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi. Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.
- Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?
- Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền.
Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:
- Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập đển chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói: “Có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”.
Đại diện Mỹ cười rồi nói:
- Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền… TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?
- Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!
- Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH. Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:
- Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có “khôn lâu”.
- Ý ông là?
- Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không.
Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác: “Khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.
Đại diện CSVN mỉa mai:
- Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?
- Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế…
- Huề tiền!
- Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân…
Đại diện CSVN phá liên cười:
- Ông khôi hài quá, thế mà lại dạy “ngoại luộc trứng” Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:
- CSVN ký công hàm Phạm Văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958, nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó ị trước. Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ. Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.
Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:
- Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không? Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:
- Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không? Rồi, ông nói tiếp:
- Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm Văn Đồng, vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.
- Không còn cách nào hết sao?
- Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.
- Cách gì ông nhắc lại đi.
- Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.
- Làm cách nào?
- Ngay ngày mai… Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa. Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó. Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ. Có như thế thì trước diễn đàn thế giới, VNCH chỉ VẮNG MẶT 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” vì tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra. Trời Việt lại… HỪNG ĐÔNG.
Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:
- Chỉ đơn giản thế thôi sao?
Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó. Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:
- All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã). Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH. Cầm bài chi lâu cho nó… ƯỚT.
Sưu tầm
--------------------------------
Học giả Trung Quốc phản biện những lập luận của Việt Nam về Công Hàm Phạm Văn Đồng?
Nguyên văn bài phản luận của thằng "học giả" TC.
1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về căn bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.
Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên Bố Lãnh Hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich (t ính hợp lý), là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên Bố Lãnh hHải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mỹ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mỹ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mỹ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công Hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.
Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mỹ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lý do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!
3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc.
Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng. Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.
Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài. Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lý của nước Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử lý đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn nguyên tắc căn bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa? ! Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã ký Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lý do rằng hiệp định này được ký kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định.
Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ. Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.
6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công Hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.
Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công Hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lý do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich (hợp lý) pháp luật, sự thực lịch sử. Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về căn bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình. Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lý được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kỳ của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.
Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.
Ngô Viễn Phú
http://dannews.info
Nào, "mời các học giả Việt cộng, các sử gia XHCN của nước Việt cộng", các nhà nghiên cứu tư tưởng của tên đảng cướp HCM, tham gia phản biện.
Đây là lý do chính mà CHXHCNVN không hề dám kiện vì... ngọng miệng rồi! Chỉ có VNCH mới có đủ quyền & tư cách đòi lại các vùng đất, biển đã mất vào tay TC mà thôi.
http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=7672&page=1955
Cái kẹt là, VN thống nhất nên công hàm tặng không của Phạm Văn Đồng mới có giá trị, chứ nếu còn VNCH như là một quốc gia như Trung Quốc đã phân tích thì công hàm lập tức vô giá trị vì - anh không thể cho không ai đó một tài sản mà anh không phải là sở hữu chủ!
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/chi-co-vnch-moi-co-chinh-danh-thua-kien.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-9188028671274164851Sat, 23 Aug 2014 00:02:00 +00002015-08-24T16:14:50.505-07:00
Nguồn: http://bongsonbui.blogspot.com/2014/08/trieu-phong-chien-ia-loang-mau_99.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/h-o-i-ky-cu-o-c-o-b-o-trong-long-i-ch.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-2216734687355076190Fri, 22 Aug 2014 21:22:00 +00002014-08-22T14:25:21.744-07:00
Chuyện bây giờ mới kể: Bức tượng “Thương Tiếc”
***
Bình luận trên Facebook:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2014/08/chuyen-bay-gio-moi-ke-buc-tuong-thuong.html
http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/chuyen-bay-gio-moi-ke-buc-tuong-tiec.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-478637319946919807Tue, 19 Aug 2014 22:57:00 +00002015-08-25T01:00:41.505-07:00Quân Sử VNCH
Trần Đình Tự
Đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc. Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tuyến.
NÓ VÀ TÔI Viết cho Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự,
Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tá Trần Đình Tự đã hy sinh vì Tổ Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Còn tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân của Tự từ thủa thiếu thời, hiện đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại Lợi. Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm 1954.
“Tôi, Nó sinh ra nhằm chinh chiến, Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đã đến bến bờ Tự Do, chỉ còn nhớ là từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đình tôi đã được đưa về Trường Nữ Trung Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi học, nhưng các học sinh đều được tạm nghỉ để trường học biến thành những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia đình tôi được phân phối một khoảng trống ở gầm một cái cầu thang nào đó của trường. Di cư vào Nam bằng “Tầu Há Mồm” Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần thì Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phụ Thọ, Gò Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đã đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài Gòn nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đình chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đình chúng tôi được chia một góc của lớp học. Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối thực phẩm và gạo nước để tự nấu ăn lấy. Mỗi tuần cũng được phát thêm một ít tiền tiêu vặt. Trường học có hàng rào bao chung quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi trường Tiểu Học này, chưa hề biết gì về dân bản xứ miền Nam cả. Ở được vài tuần lễ thì trung tâm tỵ nạn đóng cửa, mỗi gia đình được cấp một số tiền nhỏ để tự tìm nơi ăn chốn ở lấy. Số còn dư thì làm vốn sinh nhai. Những ai là công chức và giáo chức đều được tái tuyển dụng. Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp thuận cho mở một trường mới, dậy ngay tại khuôn viên của trường Tiểu Học hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là “Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ Tây II”. Trường chính thì học hai buổi: Buổi sáng, từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiều. Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ trưa. Bố tôi là một trong những Giáo Viên được tuyển dụng dậy ở trường này, nên gia đình chúng tôi đã mướn một căn nhà ở vùng “Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho Sở Thú ở sát bên (Vì Sở Bông sát cạnh sông Thị Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đã lập doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn Văn Nho). Tôi và Tự cùng được xếp vào học Lớp Nhì (Bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc gọi là Grade 4). Cô Giáo đầu tiên của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học trò gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi khác nhau: Lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nhì thì bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài, gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối lớp. Giờ bắt đầu học và tan học được báo hiệu bằng một hồi trống dài. Lớp Nhì Và Lớp Nhất được giao nhiệm vụ đánh trống báo hiệu. Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó, được coi là rất quan trọng, học sinh nào . . . có thớ lắm mới được giao nhiệm vụ này, cả trường cùng nhìn vào cái trống và người đánh trống. Tự cầm dùi trống tiến tới, nhìn quanh, thấy ai cũng đang ngừng chơi nhìn vào mình, thì . . . hơi rét, thay vì đánh ngay một hồi trống, thì nó lại rụt rè, đưa dùi trống lại cho tôi mà nói: - “Mày . . . đánh trống đi, tao . . . giữ cái trống cho nó khỏi quay!” Vì không thể nhì nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi học của cả trường được, nên hai đứa đồng ý cùng hợp lực với nhau mà đánh. Hồi trống của lớp Nhì vang lên không giống ai, vì được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó, chúng tôi quen nhau. Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen với đám con nít Nam Kỳ để học những trò chơi lạ mắt của họ. Trò chơi hấp dẫn nhất vào thời đó là chơi “Tạt Lon” mà cả hai đứa không thể nào phát âm theo đúng giọng của đám con nít người Nam được: “Tạc loong”. Khởi đầu, đứa chủ chốt sẽ vẽ một vòng tròn ở giữa khoảng đất được chọn làm sân chơi. Những đứa khác sẽ chạy ra hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa vòng tròn khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéo. Luật chơi sẽ như sau: Đám con nít còn lại sẽ chia ra làm hai phe, đứng ở phía sau lằn mức đã vẽ, có nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau từ đầu này qua đầu kia. Đứa giữ lon sẽ đứng kế bên vòng tròn để giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy đổi chỗ cho nhau. Để khỏi bị đứa giữ lon bắt và giao lại vai trò giữ lon, cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái lon mà tạt cho nó văng ra khỏi vòng tròn. Đứa giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon, đặt trở lại trong vòng tròn thì mới có thể bắt những đứa chạy ngang được. Bắt rất khó, vì cả chục đứa tạt tràm vào lon, không đứa này thì cũng có đứa khác tạt trúng cái lon văng ra xa. Vừa mới lượm được cái lon đặt vào vị trí cũ thì lại có đứa khác tạt cái lon văng ra nữa. Đứa nào nhanh thì vẫn có thể bắt đứa khác chạy ngang được. Đứa nào chân tay vụng về, bị bắt lượm lon đổ mồ hôi hột. Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi trưa mới thông thuộc cách thức chơi. Sáng hôm sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực sự là để đi vòng vòng kiếm cho ra mấy miếng ngói bể, gõ gõ mài mài cho nó trở thành một cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới trường. Tan học, hai đứa đi vòng vòng xem đám nào ít người chơi thì nhào vô chơi ké: - “Tụi bay . . . cho tao chơi chung với!” Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần thì Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phụ Thọ, Gò Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đã đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài Gòn nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đình chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đình chúng tôi được chia một góc của lớp học. Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục, đứng nhìn tụi nó chơi một lúc rồi bỏ cục tràm vào cặp, đi chỗ khác. Hôm sau, tôi và Tự tìm ra chân lý: Trong trò chơi tạt lon này, đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơi. Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy gì mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn tình xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ chơi. Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon sữa bò ở những quán bán cà phê hủ tíu của mấy chú Hoa Kiều. Rình cả buổi trời mới lượm được một cái lon sữa bò mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày mai. Hôm sau, tan buổi học, hai đứa ôm cặp đi vòng vòng tìm dịp may. Dịp may đây rồi: Một đám con nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra tới giữa đường bị xe vận tải cán dẹp lép. Cả bọn xìu như cái bong bóng bể, mặt đứa nào đứa nấy xẹp còn hơn cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon sữa bò đưa cao lên: - “Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn đó!” Thế là Nam Bắc đã chung một nhịp cầu rồi đấy! - “Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ lên! Không trả, tao . . . uýnh thấy . . . mẹ mầy đó!” Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôi. Và cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng Niểng”. Chúng tôi không mê tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội bộ qua rạp hát, nhìn thấy cái bảng quảng cáo to tướng, đề hai chữ Zoro là đã mê rồi, vào lớp kể cho Tự nghe. Hiệp Sĩ Zoro trừ gian diệt bạo cứu dân lành Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất đầu tiên: Người lớn, con nít đứng chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau trình vé vào cửa. Bán vé thì chỉ có môt người, xoát vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp với lớp người đông nghẹt rạp. Tự xúi tôi: Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, tìm dịp che cho tôi chui vào rạp. Bất ngờ, tôi gặp gia đình một thằng bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửa. Tôi mừng quá, kề tai nó nói nhỏ: - “Cường, cho tụi tao . . . vào chung nhe!” Tôi và Tự ngồi xem đã đời rồi mới đi về. Tới đầu ngõ, tôi dặn Tự: Được vài lần, ông xoát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng, mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha khác nhau để đi theo vào xem hát. Có lần, ông đã nắm cứng tôi lại mà hỏi người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành đứng ngoài nhìn hình thôi. Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ Thất trường công. Hồi đó, trường công ít lắm, vỏn vẹn có vài trường: Từ ngoài Bắc di chuyển vào, cho con trai thì có trường Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái thì có độc nhất một trường Trưng Vương mà thôi. Trường của phe người Nam đã có từ lâu là Võ Trường Toản, Petrus Ký và Gia Long. Tự và đa số đám học sinh Bắc Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân Định, thi vào trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia đình tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt tận Chợ Lớn. Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9), cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung Học Đệ Nhất Cấp”. Tự gặp tôi, tâm sự: |