Friday, January 19, 2018

https://vietbao.com/a236900/mot-bi-an-can-tiet-lo-trong-chuyen-buc-tu-mien-nam-nam-1975 Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975 27/04/201512:29:00(Xem: 13327) Trần Viết Đại Hưng MỘT BÍ ẨN CẦN TIẾT LỘ TRONG CHUYỆN BỨC TỬ MIỀN NAM NĂM 1975 (Cập nhật hóa 03/04/2005) Miền nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản đến nay cũng đã hơn 25 năm. Biết bao nhiêu cuốn sách đã viết để nói lên sự thất trận của miền nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại làm sao một quân đội gồm một triệu quân binh hùng tướng mạnh như thế lại có thể sụp đổ chỉ trong vòng có 55 ngày. Có phải quân cộng sản miền Bắc quá tài giỏi chăng? Chắc chắn là không phải như vậy, quân miền Nam đã đương đầu ngang ngửa với miền Bắc trong suốt bao nhiêu năm trời. Quân đội miền Nam đã từng tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay Bắc quân, từng giữ vững An Lộc trong khi bị mỗi ngày từ 8000 đến 10000 trái đạn pháo, thế thì tại sao miền Nam lại sụp đổ quá mau chóng trong trận chiến năm 1975. Phải chăng có một âm mưu bức tử miền Nam? Câu hỏi này đã có nhiều người nói đến nhưng chưa ai trưng ra được bằng chứng cụ thể về chuyện bức tử miền nam. Bài viết này nhằm tiết lộ một bí mật lịch sử nhằm trả lời cho câu hỏi đó. Tôi đến Mỹ năm 1980 . Tình cờ đi thuê phòng ở gia đình một người Việt Nam trong vùng Los Angeles thì gặp được người chủ nhà người Nam tên HTH. Ở chung nhà với nhau anh có kể cho tôi nghe chuyện anh ra khỏi Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1975 như thế nào và những lời anh kể đúng là chứng liệu lịch sử giúp người Việt nhìn lại biến cố 1975 với tất cả những sự thật trần trụi, phũ phàng của nó. Anh H kể rằng lúc Đà Nẵng bị tràn ngập thì anh tìm cách đi xà lan ra khơi để cặp vào tàu lớn.(Anh vốn là một thanh tra hành chánh, đang làm công việc thanh tra tại Đà nẵng vào những ngày chiến trận sôi động tại Đà Nẵng.) Lúc lên tàu thì anh gặp được Trung tướng Ngô quang Trưởng đang ở trên tàu. Theo như anh nghe lại những người trên tàu kể lại là lúc tướng Trưởng lên tàu, ông bị ngất xỉu. Ông được một bác sĩ quân y tên Ngô quang Nghiêm chích cho một mũi thuốc khỏe và tướng Trưởng tỉnh lại. Lúc gặp anh H bạn tôi trên tàu, tướng Trưởng có nói một câu như thế này " Tôi không ngờ tình tình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự." Có thể giải thích câu nói này một cách đầy đủ là " Sự sụp đổ quá nhanh chóng của vùng 1 là do sự dàn xếp chính trị chứ tình hình quân sự không thể nào diễn tiến tồi tệ đến như vậy". Tướng Trưởng hiện nay định cư tại Virginia và Bác sĩ Ngô quang Nghiêm hiện đang ở tiểu bang Texas. Ai muốn tìm hiểu sự trung thực của câu chuyện kể trên, xin liên lạc để kiểm chứng với tướng Trưởng và Bác sĩ Nghiêm. Trung tướng Ngô quang Trưởng là một trong những tướng lãnh giỏi và xuất sắc nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tài nghệ dụng binh của ông đã để lại những câu chuyện trở thành huyền thoại. Năm 1968, cộng sản chiếm thành phố Huế trong vòng 25 ngày. Ông Trưởng lúc ấy đóng tại đồn Mang Cá tại Huế. Những cuốn sách của Cộng sản xuất bản sau 1975 nói về trận đánh Huế cho biết Cộng sản đã nhiều lần cho quân xung phong để chiếm cho được đồn Mang cá do Ngô quang Trưởng chỉ huy nhưng lần nào cũng thất bại và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều. Ông Trưởng giữ vững đồn Mang Cá cho đến khi thành phố Huế được quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm trở lại. Đại tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, một anh hùng của Mỹ trong trận chiến vùng vịnh với Saddam Hussein, sau khi về hưu có viết một cuốn hồi ký tên " It does not take a hero " ( Không cần có một anh hùng) kể lại cuộc đời binh nghiệp của ông từ nhỏ cho đến khi ông về hưu. Ông không quên nhắc đến tướng Ngô quang Trưởng với sự thán phục về tài điều khiển hành quân của tướng Trưởng . ( Lúc qua Việt Nam, tướng Schwarzkopf là thiếu tá, làm cố vấn cho Đại tá Ngô quang Trưởng). Trong cuốn hồi ký có những đoạn đề cập đến Tướng Trưởng như sau: " ...Colonel Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my ideas of a military genius: only five feet seven, in his midforties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops- and feared by those North Vietnamese commanders who knew his ability. Any time a particular tricky operation came up, Dong put him in commamnd. ( Trang 122) " Tạm dịch : Đại tá Ngô Quang Trưởng là tham mưu trưởng của tướng Đống ( Dư quốc Đống). Ông ta không giống hình ảnh một thiên tài quân sự mà tôi thường nghĩ đến : cao chỉ 5 bộ 7 ( chừng 1m70), ở lứa tuổi giữa bốn mươi, rất ốm, với lưng gù và có cái đầu dường như quá to so với thân hình của ông. Gương mặt ông nhăn nhúm và rắn rỏi, không đẹp trai tí nào cả, và trên miệng ông luôn có điếu thuốc lá nằm ở đó. Thế mà ông được những viên chức và binh lính của ông kính nể - và làm kinh sợ những cấp chỉ huy của miền Bắc, những người biết khả năng của ông. Bất cứ khi nào có một chuyện hành quân mưu mẹo đặc biệt nào đó xảy ra, Đống đặt ông vào nhiệm vụ chỉ huy). " ....Simply by visualizing the terrain and drawêing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do." ( Trang 123) " ... Chỉ đơn giản hình dung ra địa thế và moi lại kinh nghiệm chiến đấu chống kẻ thù trong mười lăm năm, Trưởng đã chứng tỏ khả năng kỳ lạ của ông trong chuyện tiên đoán chúng sẽ làm gì." " I'd never heard anything like this at West Point. I was thinking, " What's all this about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that way?" But i also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene." ( Trang 123) " Tôi chưa từng nghe thấy điều gì như thế này tại trường võ bị West Point. Tôi nghĩ " Cái gì mà 8 giờ và 11 giờ thế này ? Ông ta sắp xếp trận đánh kiểu gì đây? " Nhưng tôi cũng nhận ra được nét đại cương của kế hoạch của ông : Trưởng đã tái sáng chế ra cái chiến thuật mà Hannibal đã dùng vào năm 217 trước Công Nguyên khi ông bao vây và tiêu diệt quân đoàn La Mã trên những bờ hồ Trasimene." Những lời ca ngợi của đại tướng Schwarzkopf về tướng Trưởng nói trên đủû để xác định tướng Trưởng là một thiên tài quân sự. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng chính là người chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm lại thành phố Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Thế thì vùng 1 sao lại mất quá dễ dàng vào tay cộng sản trong tháng 3 năm 1975. Nhìn lại tình tình lúc đó thì rõ ràng tướng Trưởng đã lọt vào một " mê hồn trận " do Saigòn đề ra khiến ông không còn chủ động để điều binh khiển tướng được nữa. Những lệnh bất nhất từ Sài gòn đưa ra như bảo giữ Huế rồi lại ra lệnh bỏ Huế, bảo giữ Đà Nẵng rồi lại ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Những lệnh quái gỡ như thế đã trói tay thiên tài quân sự Ngô Quang Trưởng và kết quả là vùng 1 đã mất vào tay Cộng Sản mà quân đội miền Nam tại vùng 1 chưa có dịp để đánh trận nào cả. Với con mắt của người chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, tướng Trưởng đã nhìn thấy rất rõ âm mưu giật sập miền Trung của Sàigòn cho nên ông mới thốt ra câu nói " Tôi không ngờ tình hình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự"với anh bạn tôi. Mấy năm trước đây, báo chí Việt ngữ hải ngoại có tìm gặp Trung tướng Ngô quang Trưởng để tìm hiểu về chuyện tan rã của quân đoàn 1 vào tháng 3 năm 1975, tướng Trưởng đã thẳng thắn kể lại những chuyện xảy ra đối với quân đoàn 1 do ông chỉ huy. Những lời kể của ông được nghệ sĩ Lê bá Chư ghi lại trong bài viết mang tên " Vì sao tôi bỏ quân đoàn 1" có nội dung như sau: " Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng ( Trần thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn 1 càng sớm càng hay. Trở ra quân đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào như ý tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. Cái sai lầm của Trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn v..v đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, Đại tướng Cao văn Viên, tôi ( tư lệnh Quân doàn 1), và tư lệnh Quân đoàn 2 ( tướng Phạm văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban mê Thuộc, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng. Tôi ra lệnh cho tướng Trần văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn ( Cù Lao Ré) để kiểm soát đường biển, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua, tuyên bố với lòng dạ sắt đá, nói cứng rắn với anh em là quyết giữ để không mất một tấc đất ở vùng 1 là một chuyện thật khó làm. Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao văn Viên nhờ xin tổng thống Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều. Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm quang Thi ( tư lệnh phó Quân đoàn 1) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao văn Viên thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi " bỏ Huế". Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay, " Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời, " Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng. Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển, từ công việc hành chánh đến quân sự.. Tình hình khó khăn, địch tấn công mà lại thêm cái lệnh " phải rút càng sớm càng tốt " lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3 năm 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho tập họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu và các trưởng phòng sở hành chánh để thủ tướng nói chuyện. Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình mà giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ " trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong đến phần thắc mắc thì cũng có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, tình trưởng Quảng Trị, có hỏi một câu, " Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở, không đến làm việc, thế thì phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân khu 1 càng sớm càng tốt. Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu đang chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát, làm sao tôi có thể làm chuyện tái chiếm đó được ( tái chiếm Đà Nẵng) ?Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ cho một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi. Tôi nhờ hạm trưởng gọi về bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng, nghĩ ngơi cùng tôi. Còn không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến để cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn. Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây tôi gặp phó đề đốc Hồ văn Kỳ thoại ( tư lệnh Hải Quân vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn văn Khánh ( tư lệnh sư đoàn 1 không Quân) và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vây. Họ đâu có tội gì, họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật là bất công. Tướng Thi thật sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước khi nghe tôi cho biết là tồng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng, " Xã ấp còn tốt quá mà bỏ chạy là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng như tướng Thi bị phạt oan uổng trong khi họ còn xứng đáng hơn gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn ở Sài Gòn. Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng tham Mưu, tôi có nói rằng, " Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua tướng Trần văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn mới đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế để rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê nguyên Khang buột miệng nói với giọng giận dữ, " Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả! " Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp của tướng Thoại và tướng Khánh. Với chức tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên, không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, khi họ thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ liền ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh , tư lệnh sư đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn." Lời trần tình của tướng Trưởng như thế cũng đã quá rõ ràng và đầy đủ. Những lệnh bất nhất từ Sài Gòn do Thiệu đưa ra không phải là do Thiệu bối rối mà là một sự tính toán tinh vi để giật sập Quân Đoàn 1 mà tướng tài giỏi Ngô quang Trưởng đành phải bó tay, không xoay sở gì được. Không những đánh giặc giỏi, tướng Ngô quang Trưởng lại là một người cực kỳ thanh liêm, được sự quý mến của dân và quân dưới quyền, ông không bao giờ dính dáng vào những chuyện tham nhũng xấu xa như những tướng lãnh khác. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thật hãnh diện khi có những tướng lãnh vừa cầm quân hay vừa thanh liêm như Ngô quang Trưởng, Nguyễn khoa Nam. Nếu Mỹ không bỏ cuộc thì vùng 1 do tướng Trưởng nắm và vùng 4 do tướng Nam chỉ hay sẽ không bao giờ thất thủ trước quân đội Cộng sản. Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động? Có người còn cho rằng Thiệu bị " tháu cáy " lúc giật sập Quân đoàn 1 và 2 vì Thiệu tưởng khi để mất vùng 1 và 2, chính phủ Mỹ sẽ xúc động và viện trợ khẩn cấp nhiều hơn, không ngờ Mỹ quyết định bỏ rơi luôn Miền Nam. Và vì lý do đó mà Thiệu lên truyền hình chửi rủa Mỹ thậm tệ vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 khi Thiệu biết mình bị " tháu cáy" trong ván bài cân não với Mỹ. Dù sao đây cũng chỉ là một sự phỏng đoán. Hy vọng với thời gian sẽ có nhiều tài liệu được công bố thì mới biết được chuyện Thiệu có bị " tháu cáy" hay không? Trước khi vùng 1 thất thủ, thì ở vùng 2, toàn bộ Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hòa bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng Quân đoàn 2, sau này ra hải ngoại có lên một đài phát thanh và kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông, " Thôi rồi, bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa." Một thiếu tá pháo binh bày tỏ sự tức giận với ông Lý, " Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này." Chuyện kể của tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hòa thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài gòn. Ông Thiệu giật sập vùng 1 và vùng 2 với dụng ý gì? Phải chăng là tạo sự xúc động trong chính trường Mỹ để quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp để cứu miền Nam hay còn vì một lý do nào khác? Ông tự ý hành động hay làm theo lời của Mỹ? Có phải Mỹ muốn ông Thiệu giật sập miền nam càng sớm càng tốt để thế giới khỏi trong thấy thêm những cảnh thương tâm do chiến tranh gây ra để rồi lên án Mỹ thêm? Nếu ông một mình tự ý hành động, phải chăng đây là hành động " tái phối trí " và " di tản chiến thuật " để co cụm lại sức lực quân đội miền Nam nhằm đối phó với cuộc tổng tấn công của cộng sản? Nếu hành động theo lời Mỹ thì tại sao ngày 21 tháng 4 năm 1975 ông lên đài truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là bất tín, nào là bội ước, thất hứa, để rồi sau đó vài ngày ông và gia đình được Mỹ " bồng" ra ngoại quốc một cách nhẹ nhàng êm thắm. Liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở kịch mà ông đóng quá hay không? Những câu hỏi này chỉ có Mỹ và ông Thiệu mới có thể trả lời nhưng ông Thiệu và Mỹ có lẽ sẽ không bao giờ trả lời những bí mật đen tối của lịch sử này. Lúc cùng gia đình đi phi cơ tới Đài Loan, được báo chí hỏi về trách nhiệm của ông trước sự hấp hối của miền Nam, Tổng thống Thiệu trả lời: " Đó là tất cả tôi có thể làm cho quê hương của tôi!" Lời nói vô liêm sỉ này của Thiệu được Trần văn Trà, thượng tướng của Việt Cộng, nhắc lại trong hồi ký " Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm " và phê bình lời nói trên của Nguyễn văn Thiệu như sau, " Đó là khẩu khí của một tên tổng thống ngụy quyền !" Cách đây mấy năm lúc được Đài radio Bolsa của Việt Dzũng phỏng vấn nhân ngày 30 tháng 4. Ông Thiệu không dám để cho Việt Dzũng tự ý hỏi mà bắt Việt Dzũng phải đưa cho ông những câu hỏi trước rồi ông chọn câu hỏi mà trả lời. Phải chăng ông ngại là sẽ có những câu hỏi bất ngờ sẽ làm ông lúng túng khi trả lời và không khéo sẽ làm lòi ra cái tội giật sập miền Nam của ông ?. Có điểm cần lưu ý thêm là ông Thiệu đã giật sập luôn Tổng đoàn Bảo An của Phật giáo Hòa Hảo trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, đây là một lực lượng chống cộng quyết liệt tại miền Tây. Điều này càng chứng tỏ âm mưu giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu quá sức rõ ràng. Thiệu giật sập miền Nam theo lệnh Mỹ hay giật sập miền Nam theo sự suy tính của mình và với mục đích gì thì phải cần thêm thời gian và tài liệu được công bố mới có thể trả lời được câu hỏi hóc búa này. Trong cuốn " Đại thắng mùa xuân " của Đại tướng cộng sản Văn tiến Dũng, mặc dù huênh hoang khoe tài chỉ huy quân sự của y nhưng y cũng tiết lộ thêm là khi mở đầu trận đánh vào Ban-Mê-Thuộc vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ chính trị của Đảng cộng sản cũng chỉ tiên liệu rằng cũng phải mất 2 năm 1975 và 1976 mới dứt điểm được miền Nam. Không ngờ sau trận Ban-Mê- Thuộc, quân Cộng Sản tới đâu thì quân Cộng Hòa đã chạy trước rồi, thành ra thời gian tiên liệu chiến thắng miền Nam trong vòng 2 năm thì thu ngắn lại còn 55 ngày. Sự ngỡ ngàng của Văn tiến Dũng đã phần nào nói lên sự giật sập quân đội miền Nam có tính toán của chính quyền Nguyễn văn Thiệu. Quân đội cộng sản chỉ khựng lại ở mặt trận Xuân Lộc vì ở đây sư đoàn 18 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Lê minh Đảo đã được lệnh đánh và đã cầm chân ngay 3 sư đoàn Bắc quân. Và khi quân đội miền Bắc muốn tiến mau hơn nữa thì ăn ngay mấy trái bom hút không khí CBU làm kinh hoàng cán binh cũng như cấp lãnh đạo cộng sản tại mặt trận. Mỹ muốn dằn mặt bộ đội cộng sản là họ cần thì giờ để di tản số người Mỹ còn lại ở Saigòn. Cho nên mặt trận Xuân Lộc cứ dằng dai cho đến khi Mỹ rút gần hết số nhân viên ở Sài gòn thì mới " được lệnh " thất thủ. Không phải đợi đến những ngày cuối tháng 4 toàn dân miền Nam mới thấy được bộ mặt tồi bại, xấu xa, hèn hạ và vô liêm sĩ của Nguyễn văn Thiệu. Gần mười năm ăn trên ngồi trốc trong dinh Độc Lập, khi giặc đến gần kề thì cùng gia đình và tài sản thu tóm được trong những năm cầm quyền lên phi cơ và ca bài " Được làm vua, thua chạy trước." Trong thời chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đăng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột " Nguyễn văn Thiệu. Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lủa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống cộng do Mỹ dựng nên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy.. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân, bỏ dân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sĩ và danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Nguyễn cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo xa gần là Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa úp mở này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào hiệp định Paris dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản . ( Xin đọc kỹ cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Độc Lập " của Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký ). Trùm xịa Polgar không muốn Kỳ đảo chánh để đối đầu với Bắc quân vì làm như thế là cản trở chuyện giật sập miền nam của Mỹ thế thôi. Vào khoảng năm 1977, lúc đang còn ở Anh quốc, khi được những ký giả hỏi về tình cảnh của những người Việt đi vượt biển thì Nguyễn văn Thiệu trả lời một câu bạc bẽo, bất cận nhân tình và cạn tàu ráo máng với đồng bào Việt Nam như thế này: " Tôi không có dính dáng gì đến họ cả "( I have nothing to do with them). Cuộc đời của Nguyễn văn Thiệu được coi là một cuộc đời tốt số: vợ đẹp, con ngoan, quyền thế, giàu có nhưng Nguyễn văn Thiệu có một chỗ ngồi khá buồn trong lịch sử, đó là :thùng rác của lịch sử. Đối với những kẻ việt gian bán nước hại dân như Thiệu, thiết tưởng không còn chỗ ngồi nào sạch sẽ hơn dành cho ông ta. Miền nam sụp đổ năm 1975, nhân dân miền Nam đau đớn đã đành, thế nhưng ở tại miền Bắc, có một người tù tên Nguyễn chí Thiện đã tỏ bày những tình cảm đau đớn, uất hận như sau: Khi Mỹ chạy, bỏ miền Nam cho cộng sản Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn! Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn Không giành cho thế lực yêu gian Tuyệt vọng dẫu lan tràn Hy vọng dẫu tiêu tan Dân nước dẫu đêm dài ai oán Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván Âm thầm, thâm tím,kiên gan Biến trái tim thành " chiếu yêu kính" giúp nhân gian Nhận rõ nguyên hình cộng sản Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn Thắng không gian, và thắng cả thời gian Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han! Khi Mỹ chạy (1975) Miền Nam chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm ( 1954-1975) . Miền nam được sự hỗ trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, thô bỉ, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4. Tổng thống Nixon trong những cuốn sách của ông đã có lần nhắc lại lời nói của một vài lãnh tụ của những nước ở Đông nam Á đã có một nhận định phũ phàng cay đắng về Mỹ : " Thà là kẻ thù của Mỹ hơn là bạn của Mỹ." Nếu chúng ta đánh giá Cộng sản là bọn " lừa thầy phản bạn" thì cũng có thể nói Mỹ là một thứ " phản bạn lừa thầy ". Cứ xem chuyện Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam và chuyện Mỹ đá Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc để dành chỗ cho Trung Cộng thì mới thấy người ta phê phán Mỹ bằng những danh từ bẩn thỉu, tàn tệ nhất cũng không có gì là quá đáng. Thật ra Mỹ quốc mới lập quốc mới trên 200 năm, dân lập nghiệp toàn là dân tha hương tứ xứ, ăn ở theo lối " ăn xổi ở thì" thì làm sao nước Mỹ gây dựng nổi một truyền thống ăn ở theo lối thủy chung, trước sau như một được. Hy vọng dần dà qua ngày tháng người Mỹ sẽ nhận ra rằng có những điều danh dự, tính thủy chung bè bạn, sự tự trọng của một quốc gia còn quí giá hơn nhiều những lợi nhuận nhất thời trước mặt. Không xây dựng được một uy tín thì trước sau gì cũng thất bại trên mặt trận ngoại giao và sẽ dẫn đến những thất bại khác. Đầu óc thực dụng của Mỹ chỉ thành công trong thời gian hiện tại và đôi khi sẽ gây mầm nguy hại về lâu về dài. Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một bài học nhục nhã và người Mỹ sẽ tiếp tục bị thất bại nếu không rút tỉa ra những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã phạm trong chiến tranh Việt Nam. Điều cần nhất là Mỹ phải hiểu rõ những điều điện văn hóa, nhân sinh của một nước trước khi dính líu đến nước đó. Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ muốn độc đoán điều hành mọi chuyện, kể cả chuyện đưa quân Mỹ vào miền Nam làm mất chính nghĩa của miền Nam mà Tổng Thống Ngô đình Diệm lúc còn đương quyền đã cực lực phản đối. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam có lẽ cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu. Thượng bất chánh thì hạ tắc loạn, toàn miền Nam trở thành những ổ tham nhũng khắp mọi ngành làm tiêu hao sinh lực trong chuyện chống cộng. Phó tổng thống Trần văn Hương hồi đó cũng đã than thở về chuyện tham nhũng một cách cay đắng, " Diệt hết tham nhũng thì lấy ai ra mà làm việc." Miền Nam ngày xưa sụp đổ phần nào cũng vì tệ nạn tham nhũng và Việt Nam bây giờ cũng chẳng có gì khá hơn. Câu nói của cộng sản " Người người thi đua, ngành ngành thi đua " trở thành " Người người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng" . Mức độ tham nhũng bây giờ còn khủng khiếp hơn trăm ngàn lần ngày xưa, đến nỗi cộng sản phải thú nhận chuyện tham nhũng trở thành quốc nạn. Cộng sản rồi cũng sẽ sụp đổ một phần nào cũng do quốc nạn này. Quả thật, nếu không học những bài học của lịch sử thì sẽ phải lập lại những vết xe đổ của lịch sử và cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát vì những lỗi lầm của chế độ miền Nam mà họ đã đánh ngã. Sau khi miền Nam sụp đổ năm 1975, có nhiều dư luận tìm cách đưa ra những nguyên nhân khiến Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Một trong những lý lẽ đưa ra là Mỹ, sau khi bắt tay được với Trung Cọng mà điển hình cho chuyện này là chuyến công du Trung Cộng của Tổng thống Nixon nên Mỹ không còn quan tâm đến chủ thuyết Domino ở Đông nam Á nữa. Hơn nữa, thị trường thương mại của 1 tỉ người Trung quốc sẽ béo bở hơn nhiều so với 17 triệu dân miền Nam Việt Nam. Đây cũng là một cách giải thích nhưng chuyện Mỹ quyết định rút khỏi miền Nam đã được nói rõ trong hồi ký của Tổng thống Nixon trong hồi ký của ông. Lúc ông Nixon đang làm tổng thống thì trung bình quân Mỹ thiệt hại chừng 400 người mỗi tuần. Có lần tờ báo Life đã đăng hình 400 người lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần ở chiến cuộc Việt Nam và điều này làm cả nước Mỹ xúc động lớn lao. Mạng Mỹ bao giờ cũng có giá hơn mạng Việt Nam, máu của Việt Nam bao giờ cũng rẻ hơn máu Mỹ. Ngày xưa, trong thời gian đánh Pháp, Hồ chí Minh có tuyên bố với báo chí ngoại quốc rằng, " Nếu mười người Việt Nam chết đi để lấy mạng một binh sĩ Pháp thì cuối cùng rốt cuộc Pháp cũng sẽ là phía thua trận. " Chuyện người Việt Nam chết bao nhiêu trong chiến tranh là chuyện không đáng quan tâm đối với những nhà lãnh đạo Bắc bộ phủ nhưng số tổn thất sinh mạng của lính Mỹ dần dà trở nên một sự mất máu mà Pháp trước đây và Mỹ ngày nay không thể chịu đựng nổi. Phong trào phản chiến ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, nhân tâm càng ly tán. Rồi lại còn trên 500 tù binh Mỹ đang mỏi mòn trong tù ngục tại Bắc Việt. Cao điểm trong chuyện biểu tình phản chiến là chuyện vệ binh quốc gia bắn chết 4 sinh viên tại đại học Kent làm cả nước Mỹ xôn xao, xúc động . Lãnh tụ đa số của thượng viện Mỹ lúc đó là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đến gặp Tổng thống Nixon và nói " Tổng thống phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ không thể chịu đựng thêm được nữa. " Ghi nhận lời nói của lãnh tụ đa số thượng viện Mansfied, ông Nixon quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông kêu gọi Bắc Việt trở lại hòa đàm Paris. Cộng sản làm cao không nhân nhượng. Ông Nixon quyết định dùng pháo đài bay B52 dội bom suốt 12 ngày đêm vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1972. Hà Nội thấm đòn bom B52, bắn tiếng với Mỹ xin hòa đàm trở lại. Và thế là hiệp định hòa bình Paris năm 1973 ra đời. Mỹ chỉ muốn rút khỏi Việt Nam " trong danh dự " và họ đã hoàn thành nguyện ước. Hiệp định Paris năm 1973 được coi như bản văn Mỹ bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Tổng thống Thiệu thấy rõ điều ấy, lúc đầu dùng dằng không chịu ký, nhưng rồi dưới áp lực của Mỹ , Thiệu cũng đành ký với hy vọng mong manh rằng Mỹ sẽ giữ lời hứa tái can thiệp trở lại nếu cộng sản vi phạm hiệp định. Tất cả những chuyện này có trình bày rõ trong cuốn sách " Hồ sơ Dinh Độc Lập" ( The Palace File) của tiến sỹ Nguyễn tiến Hưng, một tổng trưởng của Tổng thống Thiệu. Sau khi hiệp định ký xong, Mỹ lấy được tù binh về thì cộng sản tiến hành ngay cuộc tổng tiến công để chiếm lấy miền nam vì chúng biết rằng Mỹ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Lúc Trần văn Trà ra Hà Nội họp để chuẩn bị cuộc tổng tấn công, Phạm văn Đồng nhận xét như thế này " Bây giờ có cho kẹo Mỹ cũng không trở lại Việt Nam nữa." ( 1). Phạm văn Đồng đã nhận xét đúng. Lúc cộng sản đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long là nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ bất động không phản ứng và chuyện này làm cho Hà Nội thêm vững niềm tin trong chuyện mở ra chiến dịch tiến chiếm miền Nam. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một cơn đại hồng thủy đối với nhân dân miền Nam. Cả miền Nam vỡ tung ra như một đàn ong vỡ tổ, gia đình nào cũng tan tác, đau thương. Mấy trăm ngàn sĩ quan và viên chức hành chánh miền Nam chết dần chết mòn trong những trại tù tập trung cải tạo tàn ác của cộng sản. Hai mươi lăm năm trôi qua đủ để cho người miền Nam thấy rõ bản chất thâm độc, lưu manh của bạo quyền Hà Nội. Nhưng dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ bị khuất phục. Những hoạt động chống đối âm ỉ vẫn tiếp tục và cho đến giờ phút này thì Phật giáo Hòa Hảo đã coi như tuyên chiến với Cộng Sản. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã mổ bụng phản đối bạo quyền. Máu tranh đấu của người dân Việt đã đổ, hy vọng sự đứng dậy tranh đấu của Phật giáo Hòa Hảo là cái mồi lửa châm vào thùng thuốc súng đã nén lại trong 25 năm qua để rồi có thể nổ tung và đốt cháy bạo quyền trên toàn quốc. Chế độ đàn áp của cộng sản đến giờ phút này dường như không còn hiệu quả trong chuyện trấn áp quyền sống, quyền tự do của con người. Càng đàn áp thì lại càng rút ngắn thời gian cai trị của bạo quyền. Khi người dân hết tin chính quyền thì chính quyền dứt khoát phải đổ, vấn đề bây giờ là chuyện thời gian mau hay chậm thế thôi. Bùa phép, mưu ma chước quỷ của cộng sản đến giờ này không còn hiệu nghiệm vì nói chung tâm thức của bộ đội và cán bộ ngày càng rã rời tê liệt đến mức không còn huy động vào chuyện đàn áp được nữa. Ai cũng thấy rõ kẻ thù của dân tộc là những tên đầu nậu nằm tại Bắc bộ phủ chứ không phải là thành phần dân tộc đang tranh đấu. Cụ Phan bội Châu, một nhà đại văn hào cách mạng cả cuộc đời lo chuyện cứu nước, lúc về tuổi xế chiều, đã căn dặn lại cho quốc dân, " Vọng ngoại tắc tử " , đừng bao giờ mong mỏi người ngoại quốc đến cứu nước mình. Miền nam vì hoàn cảnh nghiệt ngã, đã phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại, rốt cuộc c ũng bị Mỹ bỏ rơi một cách không thương tiếc và cuối cùng bị bức tử một cách đau đớn vì nhu cầu quyền lợi của Mỹ. Trong công cuộc đánh đổ cộng sản để cứu nước hôm nay, chuyện tranh thủ những lực lượng quốc tế là chuyện cần làm, nhưng không vì thế mà trở thành tay sai của những thế lực ngoại bang, vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành một Lê chiêu Thống thứ hai, đi làm chuyện " cõng rắn cắn gà nhà", làm hại quê hương và đồng bào. Công tác ngoại vận không thể biến thành sự nô lệ các thế lực ngoại bang mà lịch sử dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Và khi thấy rõ sự nguy hại của nó thì phải tránh bằng mọi giá. Trong thời điểm bây giờ, phải tận lực để theo đuổi chuyện đánh đổ cộng sản ở quê hương, đừng có ngồi mà trông ngóng Mỹ nói riêng và các nước Tây phương nói chung bật " đèn xanh , đèn đỏ". Ngồi đó mà trong ngóng ngoại bang bật " đèn xanh, đèn đỏ" chỉ càng tỏ lộ thêm " tâm thức nô lệ" mà thôi. Còn mang tâm thức nô lệ hèn kém này trong người thì ngày quang phục quê hương sẽ còn xa xôi diệu vợi. Miền nam mất là một vết thương đau đớn của chúng ta ( Miền nam ơi từ buổi tiêu tan. Ta sống trọn vẹn ngàn cơn thác loạn (2) ). Vết thương đau theo thời gian rồi cũng sẽ lành. Sự đau thương than khóc giờ đây đã nhường lại cho sự khôn ngoan tỉnh táo để tìm ra những phương cách nhằm quật ngã bạo quyền đang trên bờ vực thẳm. Mỗi người dân Việt, trong cũng như ngoài nước, đều phải đổ sức, đổ công, đổ máu vào cuộc chiến đấu quyết liệt cuối cùng này để quê hương Việt Nam còn có một ngày mai. Cuộc đời rồi ai cũng phải chết, nếu được chết đễ gỡ xích xiềng cho đồng bào ruột thịt, cho tổ quốc có một tương lai tươi sáng thì chuyện chết không phải là một chuyện phải ngại ngần. Bóng tối u ám, chết chóc của chủ nghĩa cộng sản đã bao trùm lên quê hương Việt Nam thương đau đã trên nửa thế kỷ, ngày đồng bào vùng lên một mất một còn với bạo quyền cộng sản là ngày vầng dương lại ló dạng trên đất nước thương yêu. Những tia nắng le lói đầu ngày đó sẽ là những niềm hy vọng trào dâng trong lòng mỗi người Việt Nam sau bao tháng năm đau thương, tàn lụi.... Lawndale, một sáng đầu xuân lành lạnh trung tuần tháng 4 năm 2002 TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG (1) Hồi ký " Kết thúc cuộc chiến 30 năm"của Trần văn Trà (2) Trich từ bài thơ " Vì ấu trĩ " của Nguyễn chí Thiện MỘT BÍ ẨN CẦN TIẾT LỘ TRONG CHUYỆN BỨC TỬ MIỀN NAM NĂM 1975 (Cập nhật hóa 03/04/2005) Miền nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản đến nay cũng đã hơn 25 năm. Biết bao nhiêu cuốn sách đã viết để nói lên sự thất trận của miền nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại làm sao một quân đội gồm một triệu quân binh hùng tướng mạnh như thế lại có thể sụp đổ chỉ trong vòng có 55 ngày. Có phải quân cộng sản miền Bắc quá tài giỏi chăng? Chắc chắn là không phải như vậy, quân miền Nam đã đương đầu ngang ngửa với miền Bắc trong suốt bao nhiêu năm trời. Quân đội miền Nam đã từng tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay Bắc quân, từng giữ vững An Lộc trong khi bị mỗi ngày từ 8000 đến 10000 trái đạn pháo, thế thì tại sao miền Nam lại sụp đổ quá mau chóng trong trận chiến năm 1975. Phải chăng có một âm mưu bức tử miền Nam? Câu hỏi này đã có nhiều người nói đến nhưng chưa ai trưng ra được bằng chứng cụ thể về chuyện bức tử miền nam. Bài viết này nhằm tiết lộ một bí mật lịch sử nhằm trả lời cho câu hỏi đó. Tôi đến Mỹ năm 1980 . Tình cờ đi thuê phòng ở gia đình một người Việt Nam trong vùng Los Angeles thì gặp được người chủ nhà người Nam tên HTH. Ở chung nhà với nhau anh có kể cho tôi nghe chuyện anh ra khỏi Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1975 như thế nào và những lời anh kể đúng là chứng liệu lịch sử giúp người Việt nhìn lại biến cố 1975 với tất cả những sự thật trần trụi, phũ phàng của nó. Anh H kể rằng lúc Đà Nẵng bị tràn ngập thì anh tìm cách đi xà lan ra khơi để cặp vào tàu lớn.(Anh vốn là một thanh tra hành chánh, đang làm công việc thanh tra tại Đà nẵng vào những ngày chiến trận sôi động tại Đà Nẵng.) Lúc lên tàu thì anh gặp được Trung tướng Ngô quang Trưởng đang ở trên tàu. Theo như anh nghe lại những người trên tàu kể lại là lúc tướng Trưởng lên tàu, ông bị ngất xỉu. Ông được một bác sĩ quân y tên Ngô quang Nghiêm chích cho một mũi thuốc khỏe và tướng Trưởng tỉnh lại. Lúc gặp anh H bạn tôi trên tàu, tướng Trưởng có nói một câu như thế này " Tôi không ngờ tình tình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự." Có thể giải thích câu nói này một cách đầy đủ là " Sự sụp đổ quá nhanh chóng của vùng 1 là do sự dàn xếp chính trị chứ tình hình quân sự không thể nào diễn tiến tồi tệ đến như vậy". Tướng Trưởng hiện nay định cư tại Virginia và Bác sĩ Ngô quang Nghiêm hiện đang ở tiểu bang Texas. Ai muốn tìm hiểu sự trung thực của câu chuyện kể trên, xin liên lạc để kiểm chứng với tướng Trưởng và Bác sĩ Nghiêm. Trung tướng Ngô quang Trưởng là một trong những tướng lãnh giỏi và xuất sắc nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tài nghệ dụng binh của ông đã để lại những câu chuyện trở thành huyền thoại. Năm 1968, cộng sản chiếm thành phố Huế trong vòng 25 ngày. Ông Trưởng lúc ấy đóng tại đồn Mang Cá tại Huế. Những cuốn sách của Cộng sản xuất bản sau 1975 nói về trận đánh Huế cho biết Cộng sản đã nhiều lần cho quân xung phong để chiếm cho được đồn Mang cá do Ngô quang Trưởng chỉ huy nhưng lần nào cũng thất bại và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều. Ông Trưởng giữ vững đồn Mang Cá cho đến khi thành phố Huế được quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm trở lại. Đại tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, một anh hùng của Mỹ trong trận chiến vùng vịnh với Saddam Hussein, sau khi về hưu có viết một cuốn hồi ký tên " It does not take a hero " ( Không cần có một anh hùng) kể lại cuộc đời binh nghiệp của ông từ nhỏ cho đến khi ông về hưu. Ông không quên nhắc đến tướng Ngô quang Trưởng với sự thán phục về tài điều khiển hành quân của tướng Trưởng . ( Lúc qua Việt Nam, tướng Schwarzkopf là thiếu tá, làm cố vấn cho Đại tá Ngô quang Trưởng). Trong cuốn hồi ký có những đoạn đề cập đến Tướng Trưởng như sau: " ...Colonel Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my ideas of a military genius: only five feet seven, in his midforties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops- and feared by those North Vietnamese commanders who knew his ability. Any time a particular tricky operation came up, Dong put him in commamnd. ( Trang 122) " Tạm dịch : Đại tá Ngô Quang Trưởng là tham mưu trưởng của tướng Đống ( Dư quốc Đống). Ông ta không giống hình ảnh một thiên tài quân sự mà tôi thường nghĩ đến : cao chỉ 5 bộ 7 ( chừng 1m70), ở lứa tuổi giữa bốn mươi, rất ốm, với lưng gù và có cái đầu dường như quá to so với thân hình của ông. Gương mặt ông nhăn nhúm và rắn rỏi, không đẹp trai tí nào cả, và trên miệng ông luôn có điếu thuốc lá nằm ở đó. Thế mà ông được những viên chức và binh lính của ông kính nể - và làm kinh sợ những cấp chỉ huy của miền Bắc, những người biết khả năng của ông. Bất cứ khi nào có một chuyện hành quân mưu mẹo đặc biệt nào đó xảy ra, Đống đặt ông vào nhiệm vụ chỉ huy). " ....Simply by visualizing the terrain and drawêing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do." ( Trang 123) " ... Chỉ đơn giản hình dung ra địa thế và moi lại kinh nghiệm chiến đấu chống kẻ thù trong mười lăm năm, Trưởng đã chứng tỏ khả năng kỳ lạ của ông trong chuyện tiên đoán chúng sẽ làm gì." " I'd never heard anything like this at West Point. I was thinking, " What's all this about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that way?" But i also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene." ( Trang 123) " Tôi chưa từng nghe thấy điều gì như thế này tại trường võ bị West Point. Tôi nghĩ " Cái gì mà 8 giờ và 11 giờ thế này ? Ông ta sắp xếp trận đánh kiểu gì đây? " Nhưng tôi cũng nhận ra được nét đại cương của kế hoạch của ông : Trưởng đã tái sáng chế ra cái chiến thuật mà Hannibal đã dùng vào năm 217 trước Công Nguyên khi ông bao vây và tiêu diệt quân đoàn La Mã trên những bờ hồ Trasimene." Những lời ca ngợi của đại tướng Schwarzkopf về tướng Trưởng nói trên đủû để xác định tướng Trưởng là một thiên tài quân sự. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng chính là người chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm lại thành phố Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Thế thì vùng 1 sao lại mất quá dễ dàng vào tay cộng sản trong tháng 3 năm 1975. Nhìn lại tình tình lúc đó thì rõ ràng tướng Trưởng đã lọt vào một " mê hồn trận " do Saigòn đề ra khiến ông không còn chủ động để điều binh khiển tướng được nữa. Những lệnh bất nhất từ Sài gòn đưa ra như bảo giữ Huế rồi lại ra lệnh bỏ Huế, bảo giữ Đà Nẵng rồi lại ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Những lệnh quái gỡ như thế đã trói tay thiên tài quân sự Ngô Quang Trưởng và kết quả là vùng 1 đã mất vào tay Cộng Sản mà quân đội miền Nam tại vùng 1 chưa có dịp để đánh trận nào cả. Với con mắt của người chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, tướng Trưởng đã nhìn thấy rất rõ âm mưu giật sập miền Trung của Sàigòn cho nên ông mới thốt ra câu nói " Tôi không ngờ tình hình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự"với anh bạn tôi. Mấy năm trước đây, báo chí Việt ngữ hải ngoại có tìm gặp Trung tướng Ngô quang Trưởng để tìm hiểu về chuyện tan rã của quân đoàn 1 vào tháng 3 năm 1975, tướng Trưởng đã thẳng thắn kể lại những chuyện xảy ra đối với quân đoàn 1 do ông chỉ huy. Những lời kể của ông được nghệ sĩ Lê bá Chư ghi lại trong bài viết mang tên " Vì sao tôi bỏ quân đoàn 1" có nội dung như sau: " Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng ( Trần thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn 1 càng sớm càng hay. Trở ra quân đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào như ý tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. Cái sai lầm của Trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn v..v đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, Đại tướng Cao văn Viên, tôi ( tư lệnh Quân doàn 1), và tư lệnh Quân đoàn 2 ( tướng Phạm văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban mê Thuộc, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng. Tôi ra lệnh cho tướng Trần văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn ( Cù Lao Ré) để kiểm soát đường biển, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua, tuyên bố với lòng dạ sắt đá, nói cứng rắn với anh em là quyết giữ để không mất một tấc đất ở vùng 1 là một chuyện thật khó làm. Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao văn Viên nhờ xin tổng thống Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều. Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm quang Thi ( tư lệnh phó Quân đoàn 1) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao văn Viên thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi " bỏ Huế". Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay, " Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời, " Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng. Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển, từ công việc hành chánh đến quân sự.. Tình hình khó khăn, địch tấn công mà lại thêm cái lệnh " phải rút càng sớm càng tốt " lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3 năm 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho tập họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu và các trưởng phòng sở hành chánh để thủ tướng nói chuyện. Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình mà giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ " trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong đến phần thắc mắc thì cũng có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, tình trưởng Quảng Trị, có hỏi một câu, " Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở, không đến làm việc, thế thì phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân khu 1 càng sớm càng tốt. Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu đang chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát, làm sao tôi có thể làm chuyện tái chiếm đó được ( tái chiếm Đà Nẵng) ?Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ cho một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi. Tôi nhờ hạm trưởng gọi về bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng, nghĩ ngơi cùng tôi. Còn không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến để cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn. Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây tôi gặp phó đề đốc Hồ văn Kỳ thoại ( tư lệnh Hải Quân vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn văn Khánh ( tư lệnh sư đoàn 1 không Quân) và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vây. Họ đâu có tội gì, họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật là bất công. Tướng Thi thật sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước khi nghe tôi cho biết là tồng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng, " Xã ấp còn tốt quá mà bỏ chạy là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng như tướng Thi bị phạt oan uổng trong khi họ còn xứng đáng hơn gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn ở Sài Gòn. Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng tham Mưu, tôi có nói rằng, " Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua tướng Trần văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn mới đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế để rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê nguyên Khang buột miệng nói với giọng giận dữ, " Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả! " Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp của tướng Thoại và tướng Khánh. Với chức tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên, không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, khi họ thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ liền ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh , tư lệnh sư đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn." Lời trần tình của tướng Trưởng như thế cũng đã quá rõ ràng và đầy đủ. Những lệnh bất nhất từ Sài Gòn do Thiệu đưa ra không phải là do Thiệu bối rối mà là một sự tính toán tinh vi để giật sập Quân Đoàn 1 mà tướng tài giỏi Ngô quang Trưởng đành phải bó tay, không xoay sở gì được. Không những đánh giặc giỏi, tướng Ngô quang Trưởng lại là một người cực kỳ thanh liêm, được sự quý mến của dân và quân dưới quyền, ông không bao giờ dính dáng vào những chuyện tham nhũng xấu xa như những tướng lãnh khác. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thật hãnh diện khi có những tướng lãnh vừa cầm quân hay vừa thanh liêm như Ngô quang Trưởng, Nguyễn khoa Nam. Nếu Mỹ không bỏ cuộc thì vùng 1 do tướng Trưởng nắm và vùng 4 do tướng Nam chỉ hay sẽ không bao giờ thất thủ trước quân đội Cộng sản. Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động? Có người còn cho rằng Thiệu bị " tháu cáy " lúc giật sập Quân đoàn 1 và 2 vì Thiệu tưởng khi để mất vùng 1 và 2, chính phủ Mỹ sẽ xúc động và viện trợ khẩn cấp nhiều hơn, không ngờ Mỹ quyết định bỏ rơi luôn Miền Nam. Và vì lý do đó mà Thiệu lên truyền hình chửi rủa Mỹ thậm tệ vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 khi Thiệu biết mình bị " tháu cáy" trong ván bài cân não với Mỹ. Dù sao đây cũng chỉ là một sự phỏng đoán. Hy vọng với thời gian sẽ có nhiều tài liệu được công bố thì mới biết được chuyện Thiệu có bị " tháu cáy" hay không? Trước khi vùng 1 thất thủ, thì ở vùng 2, toàn bộ Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hòa bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng Quân đoàn 2, sau này ra hải ngoại có lên một đài phát thanh và kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông, " Thôi rồi, bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa." Một thiếu tá pháo binh bày tỏ sự tức giận với ông Lý, " Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này." Chuyện kể của tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hòa thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài gòn. Ông Thiệu giật sập vùng 1 và vùng 2 với dụng ý gì? Phải chăng là tạo sự xúc động trong chính trường Mỹ để quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp để cứu miền Nam hay còn vì một lý do nào khác? Ông tự ý hành động hay làm theo lời của Mỹ? Có phải Mỹ muốn ông Thiệu giật sập miền nam càng sớm càng tốt để thế giới khỏi trong thấy thêm những cảnh thương tâm do chiến tranh gây ra để rồi lên án Mỹ thêm? Nếu ông một mình tự ý hành động, phải chăng đây là hành động " tái phối trí " và " di tản chiến thuật " để co cụm lại sức lực quân đội miền Nam nhằm đối phó với cuộc tổng tấn công của cộng sản? Nếu hành động theo lời Mỹ thì tại sao ngày 21 tháng 4 năm 1975 ông lên đài truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là bất tín, nào là bội ước, thất hứa, để rồi sau đó vài ngày ông và gia đình được Mỹ " bồng" ra ngoại quốc một cách nhẹ nhàng êm thắm. Liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở kịch mà ông đóng quá hay không? Những câu hỏi này chỉ có Mỹ và ông Thiệu mới có thể trả lời nhưng ông Thiệu và Mỹ có lẽ sẽ không bao giờ trả lời những bí mật đen tối của lịch sử này. Lúc cùng gia đình đi phi cơ tới Đài Loan, được báo chí hỏi về trách nhiệm của ông trước sự hấp hối của miền Nam, Tổng thống Thiệu trả lời: " Đó là tất cả tôi có thể làm cho quê hương của tôi!" Lời nói vô liêm sỉ này của Thiệu được Trần văn Trà, thượng tướng của Việt Cộng, nhắc lại trong hồi ký " Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm " và phê bình lời nói trên của Nguyễn văn Thiệu như sau, " Đó là khẩu khí của một tên tổng thống ngụy quyền !" Cách đây mấy năm lúc được Đài radio Bolsa của Việt Dzũng phỏng vấn nhân ngày 30 tháng 4. Ông Thiệu không dám để cho Việt Dzũng tự ý hỏi mà bắt Việt Dzũng phải đưa cho ông những câu hỏi trước rồi ông chọn câu hỏi mà trả lời. Phải chăng ông ngại là sẽ có những câu hỏi bất ngờ sẽ làm ông lúng túng khi trả lời và không khéo sẽ làm lòi ra cái tội giật sập miền Nam của ông ?. Có điểm cần lưu ý thêm là ông Thiệu đã giật sập luôn Tổng đoàn Bảo An của Phật giáo Hòa Hảo trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, đây là một lực lượng chống cộng quyết liệt tại miền Tây. Điều này càng chứng tỏ âm mưu giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu quá sức rõ ràng. Thiệu giật sập miền Nam theo lệnh Mỹ hay giật sập miền Nam theo sự suy tính của mình và với mục đích gì thì phải cần thêm thời gian và tài liệu được công bố mới có thể trả lời được câu hỏi hóc búa này. Trong cuốn " Đại thắng mùa xuân " của Đại tướng cộng sản Văn tiến Dũng, mặc dù huênh hoang khoe tài chỉ huy quân sự của y nhưng y cũng tiết lộ thêm là khi mở đầu trận đánh vào Ban-Mê-Thuộc vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ chính trị của Đảng cộng sản cũng chỉ tiên liệu rằng cũng phải mất 2 năm 1975 và 1976 mới dứt điểm được miền Nam. Không ngờ sau trận Ban-Mê- Thuộc, quân Cộng Sản tới đâu thì quân Cộng Hòa đã chạy trước rồi, thành ra thời gian tiên liệu chiến thắng miền Nam trong vòng 2 năm thì thu ngắn lại còn 55 ngày. Sự ngỡ ngàng của Văn tiến Dũng đã phần nào nói lên sự giật sập quân đội miền Nam có tính toán của chính quyền Nguyễn văn Thiệu. Quân đội cộng sản chỉ khựng lại ở mặt trận Xuân Lộc vì ở đây sư đoàn 18 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Lê minh Đảo đã được lệnh đánh và đã cầm chân ngay 3 sư đoàn Bắc quân. Và khi quân đội miền Bắc muốn tiến mau hơn nữa thì ăn ngay mấy trái bom hút không khí CBU làm kinh hoàng cán binh cũng như cấp lãnh đạo cộng sản tại mặt trận. Mỹ muốn dằn mặt bộ đội cộng sản là họ cần thì giờ để di tản số người Mỹ còn lại ở Saigòn. Cho nên mặt trận Xuân Lộc cứ dằng dai cho đến khi Mỹ rút gần hết số nhân viên ở Sài gòn thì mới " được lệnh " thất thủ. Không phải đợi đến những ngày cuối tháng 4 toàn dân miền Nam mới thấy được bộ mặt tồi bại, xấu xa, hèn hạ và vô liêm sĩ của Nguyễn văn Thiệu. Gần mười năm ăn trên ngồi trốc trong dinh Độc Lập, khi giặc đến gần kề thì cùng gia đình và tài sản thu tóm được trong những năm cầm quyền lên phi cơ và ca bài " Được làm vua, thua chạy trước." Trong thời chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đăng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột " Nguyễn văn Thiệu. Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lủa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống cộng do Mỹ dựng nên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy.. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân, bỏ dân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sĩ và danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Nguyễn cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo xa gần là Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa úp mở này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào hiệp định Paris dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản . ( Xin đọc kỹ cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Độc Lập " của Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký ). Trùm xịa Polgar không muốn Kỳ đảo chánh để đối đầu với Bắc quân vì làm như thế là cản trở chuyện giật sập miền nam của Mỹ thế thôi. Vào khoảng năm 1977, lúc đang còn ở Anh quốc, khi được những ký giả hỏi về tình cảnh của những người Việt đi vượt biển thì Nguyễn văn Thiệu trả lời một câu bạc bẽo, bất cận nhân tình và cạn tàu ráo máng với đồng bào Việt Nam như thế này: " Tôi không có dính dáng gì đến họ cả "( I have nothing to do with them). Cuộc đời của Nguyễn văn Thiệu được coi là một cuộc đời tốt số: vợ đẹp, con ngoan, quyền thế, giàu có nhưng Nguyễn văn Thiệu có một chỗ ngồi khá buồn trong lịch sử, đó là :thùng rác của lịch sử. Đối với những kẻ việt gian bán nước hại dân như Thiệu, thiết tưởng không còn chỗ ngồi nào sạch sẽ hơn dành cho ông ta. Miền nam sụp đổ năm 1975, nhân dân miền Nam đau đớn đã đành, thế nhưng ở tại miền Bắc, có một người tù tên Nguyễn chí Thiện đã tỏ bày những tình cảm đau đớn, uất hận như sau: Khi Mỹ chạy, bỏ miền Nam cho cộng sản Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn! Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn Không giành cho thế lực yêu gian Tuyệt vọng dẫu lan tràn Hy vọng dẫu tiêu tan Dân nước dẫu đêm dài ai oán Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván Âm thầm, thâm tím,kiên gan Biến trái tim thành " chiếu yêu kính" giúp nhân gian Nhận rõ nguyên hình cộng sản Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn Thắng không gian, và thắng cả thời gian Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han! Khi Mỹ chạy (1975) Miền Nam chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm ( 1954-1975) . Miền nam được sự hỗ trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, thô bỉ, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4. Tổng thống Nixon trong những cuốn sách của ông đã có lần nhắc lại lời nói của một vài lãnh tụ của những nước ở Đông nam Á đã có một nhận định phũ phàng cay đắng về Mỹ : " Thà là kẻ thù của Mỹ hơn là bạn của Mỹ." Nếu chúng ta đánh giá Cộng sản là bọn " lừa thầy phản bạn" thì cũng có thể nói Mỹ là một thứ " phản bạn lừa thầy ". Cứ xem chuyện Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam và chuyện Mỹ đá Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc để dành chỗ cho Trung Cộng thì mới thấy người ta phê phán Mỹ bằng những danh từ bẩn thỉu, tàn tệ nhất cũng không có gì là quá đáng. Thật ra Mỹ quốc mới lập quốc mới trên 200 năm, dân lập nghiệp toàn là dân tha hương tứ xứ, ăn ở theo lối " ăn xổi ở thì" thì làm sao nước Mỹ gây dựng nổi một truyền thống ăn ở theo lối thủy chung, trước sau như một được. Hy vọng dần dà qua ngày tháng người Mỹ sẽ nhận ra rằng có những điều danh dự, tính thủy chung bè bạn, sự tự trọng của một quốc gia còn quí giá hơn nhiều những lợi nhuận nhất thời trước mặt. Không xây dựng được một uy tín thì trước sau gì cũng thất bại trên mặt trận ngoại giao và sẽ dẫn đến những thất bại khác. Đầu óc thực dụng của Mỹ chỉ thành công trong thời gian hiện tại và đôi khi sẽ gây mầm nguy hại về lâu về dài. Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một bài học nhục nhã và người Mỹ sẽ tiếp tục bị thất bại nếu không rút tỉa ra những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã phạm trong chiến tranh Việt Nam. Điều cần nhất là Mỹ phải hiểu rõ những điều điện văn hóa, nhân sinh của một nước trước khi dính líu đến nước đó. Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ muốn độc đoán điều hành mọi chuyện, kể cả chuyện đưa quân Mỹ vào miền Nam làm mất chính nghĩa của miền Nam mà Tổng Thống Ngô đình Diệm lúc còn đương quyền đã cực lực phản đối. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam có lẽ cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu. Thượng bất chánh thì hạ tắc loạn, toàn miền Nam trở thành những ổ tham nhũng khắp mọi ngành làm tiêu hao sinh lực trong chuyện chống cộng. Phó tổng thống Trần văn Hương hồi đó cũng đã than thở về chuyện tham nhũng một cách cay đắng, " Diệt hết tham nhũng thì lấy ai ra mà làm việc." Miền Nam ngày xưa sụp đổ phần nào cũng vì tệ nạn tham nhũng và Việt Nam bây giờ cũng chẳng có gì khá hơn. Câu nói của cộng sản " Người người thi đua, ngành ngành thi đua " trở thành " Người người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng" . Mức độ tham nhũng bây giờ còn khủng khiếp hơn trăm ngàn lần ngày xưa, đến nỗi cộng sản phải thú nhận chuyện tham nhũng trở thành quốc nạn. Cộng sản rồi cũng sẽ sụp đổ một phần nào cũng do quốc nạn này. Quả thật, nếu không học những bài học của lịch sử thì sẽ phải lập lại những vết xe đổ của lịch sử và cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát vì những lỗi lầm của chế độ miền Nam mà họ đã đánh ngã. Sau khi miền Nam sụp đổ năm 1975, có nhiều dư luận tìm cách đưa ra những nguyên nhân khiến Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Một trong những lý lẽ đưa ra là Mỹ, sau khi bắt tay được với Trung Cọng mà điển hình cho chuyện này là chuyến công du Trung Cộng của Tổng thống Nixon nên Mỹ không còn quan tâm đến chủ thuyết Domino ở Đông nam Á nữa. Hơn nữa, thị trường thương mại của 1 tỉ người Trung quốc sẽ béo bở hơn nhiều so với 17 triệu dân miền Nam Việt Nam. Đây cũng là một cách giải thích nhưng chuyện Mỹ quyết định rút khỏi miền Nam đã được nói rõ trong hồi ký của Tổng thống Nixon trong hồi ký của ông. Lúc ông Nixon đang làm tổng thống thì trung bình quân Mỹ thiệt hại chừng 400 người mỗi tuần. Có lần tờ báo Life đã đăng hình 400 người lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần ở chiến cuộc Việt Nam và điều này làm cả nước Mỹ xúc động lớn lao. Mạng Mỹ bao giờ cũng có giá hơn mạng Việt Nam, máu của Việt Nam bao giờ cũng rẻ hơn máu Mỹ. Ngày xưa, trong thời gian đánh Pháp, Hồ chí Minh có tuyên bố với báo chí ngoại quốc rằng, " Nếu mười người Việt Nam chết đi để lấy mạng một binh sĩ Pháp thì cuối cùng rốt cuộc Pháp cũng sẽ là phía thua trận. " Chuyện người Việt Nam chết bao nhiêu trong chiến tranh là chuyện không đáng quan tâm đối với những nhà lãnh đạo Bắc bộ phủ nhưng số tổn thất sinh mạng của lính Mỹ dần dà trở nên một sự mất máu mà Pháp trước đây và Mỹ ngày nay không thể chịu đựng nổi. Phong trào phản chiến ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, nhân tâm càng ly tán. Rồi lại còn trên 500 tù binh Mỹ đang mỏi mòn trong tù ngục tại Bắc Việt. Cao điểm trong chuyện biểu tình phản chiến là chuyện vệ binh quốc gia bắn chết 4 sinh viên tại đại học Kent làm cả nước Mỹ xôn xao, xúc động . Lãnh tụ đa số của thượng viện Mỹ lúc đó là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đến gặp Tổng thống Nixon và nói " Tổng thống phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ không thể chịu đựng thêm được nữa. " Ghi nhận lời nói của lãnh tụ đa số thượng viện Mansfied, ông Nixon quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông kêu gọi Bắc Việt trở lại hòa đàm Paris. Cộng sản làm cao không nhân nhượng. Ông Nixon quyết định dùng pháo đài bay B52 dội bom suốt 12 ngày đêm vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1972. Hà Nội thấm đòn bom B52, bắn tiếng với Mỹ xin hòa đàm trở lại. Và thế là hiệp định hòa bình Paris năm 1973 ra đời. Mỹ chỉ muốn rút khỏi Việt Nam " trong danh dự " và họ đã hoàn thành nguyện ước. Hiệp định Paris năm 1973 được coi như bản văn Mỹ bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Tổng thống Thiệu thấy rõ điều ấy, lúc đầu dùng dằng không chịu ký, nhưng rồi dưới áp lực của Mỹ , Thiệu cũng đành ký với hy vọng mong manh rằng Mỹ sẽ giữ lời hứa tái can thiệp trở lại nếu cộng sản vi phạm hiệp định. Tất cả những chuyện này có trình bày rõ trong cuốn sách " Hồ sơ Dinh Độc Lập" ( The Palace File) của tiến sỹ Nguyễn tiến Hưng, một tổng trưởng của Tổng thống Thiệu. Sau khi hiệp định ký xong, Mỹ lấy được tù binh về thì cộng sản tiến hành ngay cuộc tổng tiến công để chiếm lấy miền nam vì chúng biết rằng Mỹ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Lúc Trần văn Trà ra Hà Nội họp để chuẩn bị cuộc tổng tấn công, Phạm văn Đồng nhận xét như thế này " Bây giờ có cho kẹo Mỹ cũng không trở lại Việt Nam nữa." ( 1). Phạm văn Đồng đã nhận xét đúng. Lúc cộng sản đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long là nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ bất động không phản ứng và chuyện này làm cho Hà Nội thêm vững niềm tin trong chuyện mở ra chiến dịch tiến chiếm miền Nam. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một cơn đại hồng thủy đối với nhân dân miền Nam. Cả miền Nam vỡ tung ra như một đàn ong vỡ tổ, gia đình nào cũng tan tác, đau thương. Mấy trăm ngàn sĩ quan và viên chức hành chánh miền Nam chết dần chết mòn trong những trại tù tập trung cải tạo tàn ác của cộng sản. Hai mươi lăm năm trôi qua đủ để cho người miền Nam thấy rõ bản chất thâm độc, lưu manh của bạo quyền Hà Nội. Nhưng dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ bị khuất phục. Những hoạt động chống đối âm ỉ vẫn tiếp tục và cho đến giờ phút này thì Phật giáo Hòa Hảo đã coi như tuyên chiến với Cộng Sản. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã mổ bụng phản đối bạo quyền. Máu tranh đấu của người dân Việt đã đổ, hy vọng sự đứng dậy tranh đấu của Phật giáo Hòa Hảo là cái mồi lửa châm vào thùng thuốc súng đã nén lại trong 25 năm qua để rồi có thể nổ tung và đốt cháy bạo quyền trên toàn quốc. Chế độ đàn áp của cộng sản đến giờ phút này dường như không còn hiệu quả trong chuyện trấn áp quyền sống, quyền tự do của con người. Càng đàn áp thì lại càng rút ngắn thời gian cai trị của bạo quyền. Khi người dân hết tin chính quyền thì chính quyền dứt khoát phải đổ, vấn đề bây giờ là chuyện thời gian mau hay chậm thế thôi. Bùa phép, mưu ma chước quỷ của cộng sản đến giờ này không còn hiệu nghiệm vì nói chung tâm thức của bộ đội và cán bộ ngày càng rã rời tê liệt đến mức không còn huy động vào chuyện đàn áp được nữa. Ai cũng thấy rõ kẻ thù của dân tộc là những tên đầu nậu nằm tại Bắc bộ phủ chứ không phải là thành phần dân tộc đang tranh đấu. Cụ Phan bội Châu, một nhà đại văn hào cách mạng cả cuộc đời lo chuyện cứu nước, lúc về tuổi xế chiều, đã căn dặn lại cho quốc dân, " Vọng ngoại tắc tử " , đừng bao giờ mong mỏi người ngoại quốc đến cứu nước mình. Miền nam vì hoàn cảnh nghiệt ngã, đã phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại, rốt cuộc c ũng bị Mỹ bỏ rơi một cách không thương tiếc và cuối cùng bị bức tử một cách đau đớn vì nhu cầu quyền lợi của Mỹ. Trong công cuộc đánh đổ cộng sản để cứu nước hôm nay, chuyện tranh thủ những lực lượng quốc tế là chuyện cần làm, nhưng không vì thế mà trở thành tay sai của những thế lực ngoại bang, vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành một Lê chiêu Thống thứ hai, đi làm chuyện " cõng rắn cắn gà nhà", làm hại quê hương và đồng bào. Công tác ngoại vận không thể biến thành sự nô lệ các thế lực ngoại bang mà lịch sử dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Và khi thấy rõ sự nguy hại của nó thì phải tránh bằng mọi giá. Trong thời điểm bây giờ, phải tận lực để theo đuổi chuyện đánh đổ cộng sản ở quê hương, đừng có ngồi mà trông ngóng Mỹ nói riêng và các nước Tây phương nói chung bật " đèn xanh , đèn đỏ". Ngồi đó mà trong ngóng ngoại bang bật " đèn xanh, đèn đỏ" chỉ càng tỏ lộ thêm " tâm thức nô lệ" mà thôi. Còn mang tâm thức nô lệ hèn kém này trong người thì ngày quang phục quê hương sẽ còn xa xôi diệu vợi. Miền nam mất là một vết thương đau đớn của chúng ta ( Miền nam ơi từ buổi tiêu tan. Ta sống trọn vẹn ngàn cơn thác loạn (2) ). Vết thương đau theo thời gian rồi cũng sẽ lành. Sự đau thương than khóc giờ đây đã nhường lại cho sự khôn ngoan tỉnh táo để tìm ra những phương cách nhằm quật ngã bạo quyền đang trên bờ vực thẳm. Mỗi người dân Việt, trong cũng như ngoài nước, đều phải đổ sức, đổ công, đổ máu vào cuộc chiến đấu quyết liệt cuối cùng này để quê hương Việt Nam còn có một ngày mai. Cuộc đời rồi ai cũng phải chết, nếu được chết đễ gỡ xích xiềng cho đồng bào ruột thịt, cho tổ quốc có một tương lai tươi sáng thì chuyện chết không phải là một chuyện phải ngại ngần. Bóng tối u ám, chết chóc của chủ nghĩa cộng sản đã bao trùm lên quê hương Việt Nam thương đau đã trên nửa thế kỷ, ngày đồng bào vùng lên một mất một còn với bạo quyền cộng sản là ngày vầng dương lại ló dạng trên đất nước thương yêu. Những tia nắng le lói đầu ngày đó sẽ là những niềm hy vọng trào dâng trong lòng mỗi người Việt Nam sau bao tháng năm đau thương, tàn lụi.... Lawndale, một sáng đầu xuân lành lạnh trung tuần tháng 4 năm 2002 TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG (1) Hồi ký " Kết thúc cuộc chiến 30 năm"của Trần văn Trà (2) Trich từ bài thơ " Vì ấu trĩ " của Nguyễn chí Thiện . , Gian Hàng Việt Báo Nhiều Sách Giá Trị Đức Giáo Hoàng Cứu Xét Thăm Đan Mạch Bưu Phẩm Gửi Cảnh Sát Ny Nghi Có Độc Cựu DB Jesse Jackson Bị Án 30 Tháng Tù Vì Tội Thụt Két Lôi Hổ âm thầm hy sinh trong đêm tối, thì vinh quang không vượt khỏi bóng đêm.http://ccnmacvsog.blogspot.com/noreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)Blogger46125tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-2525447862915444847Thu, 08 Dec 2016 05:58:00 +00002016-12-08T00:16:44.705-08:00










http://ccnmacvsog.blogspot.com/2016/12/the-biet-kich.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-7583114696388543486Wed, 30 Oct 2013 16:22:00 +00002013-11-25T08:55:16.697-08:00




1 - Bước qua năm 1970, những cuộc xâm nhập của SOG ( đơn vị chuyên về hành quân Biệt-kích ) bằng trực thăng gặp nhiều khó khăn, hay phải nói...xưa như trái đất!  Yếu tố bất ngờ, nhanh chóng thực hiện xâm nhập bằng trực thăng không còn được kết quả như trước, khi mà địch quân đã có những biện pháp chống lại. Đơn vị chống Biệt-kích của Bắc-việt càng ngày càng tỏ ra hoạt động hữu hiệu, nguy hiểm và thành công. Ý tưởng xâm nhập ban đêm đang được nói đến nhưng các trực thăng không được an toàn khi đáp. Chỉ còn cách nhẩy dù xuống mục tiêu. Nhưng nó đòi hỏi phải có những nhân lực hảo hạng.
          -Chỉ huy trưởng mới của SOG lúc này là Đại-tá John Sadler. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhầy dù và Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió ) Thuật ngữ quân sự gọi là HALO ( High Altitude Low Opening ) Nhẩy dù ở độ cao 10.000 bộ ( 3.050 mét ) Đề rơi tự do, khi còn cách mặt đất khoảng 1.000 hay 2.000 bộ ( 305- 610 mét ) rồi mở dù lái đến mục tiêu. Quân đội Việt nam Cộng hòa chỉ có một số ít, thường là Huấn luyện viên Nhảy dù biết cách nhẩy loại này mà người ta gọi là Nhảy-dù điều khiển.
           -Giữa năm 1970 Đại-tá Sadler ra lệnh thành lập Toán HALO đầu tiên tại CCN. Toán Virginia (Toán Mỹ, người Thượng) được chọn gồm có ba Biệt kích người Mỹ, hai người Thượng và một sĩ quan Lôi-hổ Nha kỹ thuật...Toán lấy tên là Florida...được đưa sang Liên đoàn Biệt kích số 1 của Quân đội Mỹ đóng tại Okinawa (Nhật bản) để bí mật huấn luyện. Chương trình huấn luyện Toán HALO bắt đầu lên khung. Tại trại CCN, song song với phần đông là các Toán Mỹ...có tám Toán Việt-nam tại trại do những cán bộ Nha-kỹ-thuật chỉ huy và phối hợp trong chương trình OP 35 của SOG (hành quân Biệt-kích đặc trách đường mòn Hồ chí minh) Được lệnh tuyển chọn và thành lập Toán Dù điều khiển (HALO) đầu tiên thụ huấn tại Trung tâm huấn luyện Biệt-kích Long-thành gồm có một Sĩ quan Lôi-hổ và năm Biệt-kích quân (SCU) Special Commando Unit được người Mỹ chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật chỉ huy. Rất tiếc trong khóa học người Sĩ quan thiệt mạng vì dù không bung. Chương trình bị trở ngại vì thiếu người chỉ huy dù rằng năm Biệt kích quân cũng đã xong khóa học.
              -Chiến cuộc có những bất lợi do sự rút quân của quân đội Mỹ. Quân đội Việt-nam-cộng-hòa không đủ sức trám vào những khoảng trống chiến thuật được người Mỹ chuyển giao. Trong khi quân Bắc-việt ồ ạt xâm nhập và phát triển hệ thống đường tiếp tế, xây dựng thêm các căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt, Lào...trước sự bỏ ngỏ của Không-quân Mỹ.  Lúc này...SOG phải chiến đấu trong đơn độc. Mọi trợ cấp bị cắt dần dần...ngoài những gì hiện đang có. Đứng trước những khó khăn hiện tại thêm vào quân đối phương biết cách đề phòng và bố trí lực lượng đối phó đã đem lại cho SOG những trở ngại lớn lao kèm theo tốn thất đáng kể về nhân mạng. Đầu năm 1971. Trại được đổi tên mới ... Lực lượng đặc nhiêm 1 (TASK FORCE 1) thay cho tên cũ ...Sở chỉ huy Bắc (CCN)  Cùng với lệnh các Toán thám sát Mỹ không được phép xâm nhập qua Lào, Căm-bốt. Chỉ được hoạt động trong nội địa Việt-nam. Đúng ý của chương trình " Việt-nam hóa chiến tranh" tiết kiệm xương máu lính Mỹ!  Để duy trì hoạt động ngoại biên, SOG đã xử dụng các Toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật vào những mục tiêu tại Lào, Căm-bốt. Đó cũng chính là sự hãnh diện cho đơn vị Biệt-kích trên chiến trường theo đúng nghĩa.
            - Chiếc C47 của hãng vận chuyển Air America từ Đà-nẵng đưa chúng tôi lên Kontum. Vừa xuống phi trường tôi mừng rỡ vì người đón chúng tôi lại là Đại-úy Đại đội trưởng (A Company- Hatchet Force) trước kia ở CCN mà tôi, lúc ấy là Thông dịch cho ông. Tây-nguyên mùa này nắng nóng cuối Hè. Xe Jeep chở chúng tôi vừa ra khỏi tỉnh lỵ. Những đám mây đen lốm đốm dần trôi, chẳng tạo được cơn mưa trong cái nóng hầm hập của thời tiết gần trưa. Ba chúng tôi nằm trong số người đã huấn luyện Nhẩy-dù điều khiển (HALO) được lệnh lên Kontum (TASK FORCE 2) trước kia là CCC...phối hợp công tác. Lần đầu tiên lên đây tôi rất ngạc nhiên vì con quốc lộ dẫn vào tỉnh lỵ như bổ đôi căn cứ Biệt-kích...giống một nút chặn vững vàng bảo vệ cửa ngõ ra vào Tỉnh. Sau ba ngày thực tập chiến thuật và nhẩy hai sô dù đêm. Toán HALO phối hợp đã sẵn sàng gồm ba người Mỹ, ba người Việt-nam. Toán trưởng là Đại-úy cùng hai Trung-sĩ Toán phó. Lực lượng đặc biệt Mỹ. Mọi đồ đoàn đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Toán lên xe lúc trời vừa tối để ra phi trường. Cơn gió mát lạnh từ dòng sông Dak Bla hiếm hoi thổi tung chiếc khăn ngụy trang trên cổ lên mặt làm tôi có cảm giác xa lạ mênh mông trước những gì sắp xẩy ra.


 Phi cơ của Air America (Long Tiếng)


2- Phần đồ đoàn cuối cùng...chiếc ba lô đã được gài vào vị trí dưới cái dù bụng...cây Car 15 thắt bên hông. Con người trở nên nặng nề, dệnh dạng đi ra phía sau đuôi phi cơ...chiếc MC 130 (Blackbird) Dưới ánh đèn sáng từng cặp mắt sau tấm kính trong bộ phận mũ che chắn đầu mặt, kiểm soát lẫn cho nhau. Vị sĩ quan nhiệm vụ thả Toán được lệnh trong chiếc mũ bay ra hiệu cho Toán sẵn sàng...còn hai phút nữa. Cửa phi cơ đã mở. Gió mạnh hồng hộc thổi vào nhưng tôi không cảm thấy lạnh như lúc cửa còn đóng. Đèn xanh đã được bật lên kèm theo tiếng hô của viên sĩ quan thả Toán. Chúng tôi đi vào không trung.


          -Phản ứng tự nhiên tôi nhanh chóng lấy được thế bay. Đưa mắt nhìn xuống đã thấy đốm sáng lân tinh trên lưng người Trưởng Toán...đang chếch về mé trái. Lồng ngực bỗng trì nặng và tôi biết là mình đang trong đám mây. Xoãi tay trái xa thêm, tôi điều khiển thân mình vùn vụt bay theo điểm sáng lân tinh nhưng không xa quá tay để bảo đảm thân mình không bị lật hoặc chúi đầu! Trời đêm tối đen ngòm trừ ánh sáng đốm nhỏ lân tinh phía dưới. Nhìn đồng hồ cao độ tôi chuẩn bị nghe tiếng báo động trong hai tai...âm thanh tiếng reng nổi lên. Gồng hai tay, cụp dần vào hai vai...tay phải đã chạm chốt mở dù, tôi giật ra trong lúc toàn thân theo cái đầu chúi lao xuống...Tích tắc con người như được giữ lại rồi êm đềm tung lên trong lòng sung sướng vì dù đã mở và đưa mắt tìm hai dây lái. Nhìn đồng hồ đeo tay để xác định thời gian và đưa mắt tìm ánh sáng của Toán trưởng...lần này ở phía phải. Kéo dây lái căn hướng gió. Tôi cụp cánh dù dây lái tay phải bay theo điểm lân tinh khi mờ khi tỏ bên dưới. Đống hồ đeo tay đã chỉ gần hai phút tính từ lúc dù mở. Tôi tập trung chuẩn bị đáp đất. Hai tay kéo cụp dù, gống hai chân chụm bằng nhau tôi chờ đợi cú va chạm đầu tiên để bung dù nhằm làm giảm sức rơi. Nhìn bên dưới đêm đen như đen thêm và rồi soạt soạt...tôi vội bung dù hai tay co lại che chắn đầu. Thân mình va chạm vào cành cây, tai cũng đã nghe tiếng cây gẫy. Tiếng phịch vang lên rồi toàn thân ngã ngồi trên đất. Một cái gì đó làm đau nhói ở vai trái...nhìn đồng hồ đã ba giờ, năm phút sáng. Việc đầu tiên tháo cây Car 15 bên hông và vẫn nằm yên nghe ngóng động tĩnh. Loài chim ăn đêm kêu réo cùng tiếng côn trùng nỉ non xa vắng. Qua khoảng trống trên tầng cây bầu trời đầy sao . Tôi lần tháo chiếc ba lô, cái dù bụng và những đai dù chính. Một ý tưởng ngộ nghĩnh...tôi như một chiến binh mới vừa xâm nhập bằng trực thăng xuống mục tiêu! Công việc trước mắt kéo cái dù xuống cũng may nó không mắc dính trên cây và tìm cách chôn dấu. Gió đưa cái lạnh bất chợt với cơn thèm một điếu thuốc rạo rực. Tôi chặc lưỡi trùm cái dù nhẩy qua đầu tự thưởng cho mình một điếu thuốc...cơn thèm đã cho cảm giác tuyệt vời và quên đời một chốc. Thoải mái xong...bắt đầu đào đất bằng dao găm đi rừng để phi tang cái dù trong tiếng gà gáy dồn dập báo hiệu trời sắp sáng. Rắc lên vài vốc lá khô, tự mãn xoa tay cùng ánh sáng mờ mờ thấy cả làn sương bay bay. Tôi lấy ra chiếc máy...bật mở để tìm Toán trưởng. Đây rồi theo mũi tên chỉ và khoảng cách hiện lên 250 mét. Tôi theo máy di chuyển. Rừng cây chồi non nhưng chằng chịt dây leo cản trở. Bóng của một cây cổ thụ mờ trong sương sớm nhưng chẳng phải là hướng trong máy dò. Những giọt sương trên lá thấm dần trên khăn ngụy trang và hai vai. Khoảng cách trong máy được kéo xuống còn 150 mét. Một vài tiếng súng nổ về hướng Nam cách không mấy xa. Địch đi săn...tiếng bắn không phải là truyền tin hay báo hiệu gì đó, đúng hơn là hạ gục một con thú!  Con trăng  mỏng dính xuất hiện từ lúc nào bên cạnh một ngôi sao sáng long lanh lấp lánh. Đàn chim ăn đêm tham ăn về muộn kêu réo hay nói chuyện với nhau vang vang đáp xuống tàng cây cổ thụ phía sau. Tôi chợt rùng mình trong cảm giác lẻ loi hay bởi cơn gió lạnh đang mơn man trên gương mặt đẫm sương. Tiếng của đàn chim đêm vẫn gơị mở hình ảnh quái dị, ma chơi...thần hồn nát thần vía!  Xua tan những vẩn vơ tôi nhìn vào máy. Con số 80, còn 60 mét nữa...số 20 trong máy là con số ấn định của Trưởng-toán để dừng lại.  Giữ cái "máy mẹ" Toán trưởng biết hết mọi khoảng cách và hướng đến của những "máy con" Ông ta chỉ việc ngồi cố định một chỗ để tiếp nhận dần Toán viên của mình. Khoảng cách 20 mét được ấn định để trao đổi mật khẩu nhằm tránh là quân địch. Nhìn vào máy, tôi qua khỏi bụi lau ngồi chờ đợi... "Juliet" tôi vội đáp ngay mật khẩu "Romeo" Rồi tiếng "vào đi" của Toán trưởng ở phía trước.


 Căn cứ Air America (CIA)


  3- Nét mặt hớn hở và câu nói "vào đi" lần này của Đại-úy Toán trưởng đã kết thúc tốt đẹp, thành công chuyến xâm nhập khi người Toán viên cuối cùng tụ tập. Nắng cũng đã nhấp nhô trên đỉnh núi. Rừng cây thưa toàn chối non quá đầu người. Toán viên nhiệm vụ đi đầu (Point man) đang căn lại địa bàn chuẩn bị. Toán theo đội hình định sẵn bắt đầu di chuyển. Tiếng chim trên cành cây cao líu lo bên hông và đàn vắt đã xuất hiện dưới lá cây mục. Đại úy đi hàng thứ hai, trước tôi ra lệnh dừng lại khi nghe tiếng Covey đang đến. Toán phó người Mỹ đi đoạn hậu đang cầm chiếc gương chiếu lấy ánh sáng sẵn sàng ra hiệu cho máy bay (Covey) cạnh người xạ thủ M79 (Biệt kích quân người Việt) và sau tôi Toán phó người Mỹ phụ trách truyền tin (Radio man) đang liên lạc...Covey ở trên đầu có lẽ đã nhận xong vị trí Toán bằng gương chiếu và Đại úy đang ghi chép tọa độ Toán do Covey thông báo. Khác với xâm nhập bằng trực thăng bãi thả đã được ấn định chính xác cho thuyết trình hành quân. Nhưng với bằng dù sự chêch lệch tọa độ buộc phải có và xác định lại tọa độ là điều cần thiết. Toán tiếp tục di chuyển. Covey cũng đã ra khỏi vùng. Nắng chan hòa và tầng mây trắng phau như càng lúc càng cao! Khu rừng trước mặt xanh mờ sương lam đầy bí ẩn nhưng bên này khu rừng lau trổ cờ trong gió bạc một mầu nghiêng ngả nhảy múa cùng nắng vàng chan chứa! Không gian yên ả trừ lũ chim trên tàn cây cao đứng lẻ loi bên cạnh tảng đá nổi lên như lưng Trâu. Người đi đầu mồ hôi nhỏ giọt rất vất vả vì cây dây leo. Thi thoảng Đại úy cũng phải thay thế dẫn đường. Đàn vắt dưới chân lau nhau ngửi mồi nhưng chẳng làm gì được vì chúng tôi toàn thân kín bưng trừ ra khuôn mặt nhưng đầy thuốc trừ muỗi. Tôi bỗng tiếc cho bộ Dù nhẩy...đúng là đánh giặc theo kiểu nhà giầu cũng khác!
             -Rừng cây cao, tối hun hút. Tôi như đi vào đường hầm gió lùa và lạnh lẽo. Nửa ngày chúng tôi đánh vật với khu rừng chồi chằng chịt những dây leo. Vạt rừng lau bên cạnh dễ đi nhưng không phải là hướng di chuyển vào mục tiêu. Tiếng kêu của thú rừng vòng vọng và đàn khỉ chí chóe trên cành như lạ lẫm nhìn chúng tôi. Bữa ăn quá trưa cũng đã xong. Đại úy căn lại bản đồ để lấy hướng đi. Ngồi bên cạnh, tôi nghe ông nói...còn khoảng năm cây số nữa!  Mục tiêu con đường có đường dây điện thoại mà một Toán thám sát đã báo cáo. Nhiệm vụ chúng tôi tiếp cận con đường tìm đường dây điện thoại để đặt máy thu mọi cuộc điện đàm và bắt tù binh nếu có thể. Trung sĩ truyền tin ngồi sau. Tôi nhìn và phì cười khi anh ta cố mò trong mông, lôi ra con vắt căng đầy máu trên tay. Cái mẹo mà khi còn ở Trung đội Thượng (Hatchet Force) trước khi vào rừng cứ kín đáo xoay lưng rồi ngắt bất cứ chiếc lá nào...nhai trong miệng cho nát rồi vất đi...có thể tránh được lũ vắt tấn công...nhưng theo tôi đã thực hiện nhiều chuyến...có hiệu quả đấy, trừ những con vắt tham, đói ăn điếc không sợ súng. Cách tốt nhất vẫn là áo quần kín bưng, tay và mặt luôn bôi thuốc trừ muỗi. Covey vừa bay ngang rồi biến mất như nhắc Toán...có tao đây! Chúng tôi đang xuống một con dốc thoải nhưng trước mắt là dẫy đồi cao. Thế đất như người ta gấp một tờ giấy. Mặt trời chiếu nghiêng, ánh nắng lung linh trên tàn cây, âm thanh xào xạc lắm khi rít lên cùng gió và gió chỉ đi qua không xuống được chỗ chúng tôi. Một tiếng súng nổ rất gần rồi liên tiếp hai phát như bắn vào Toán. Tôi sững người nhìn quanh...không có ai trúng đạn nhưng tự nhiên ngồi thụp cả xuống. Tiếng hú cất lên và giờ đây tôi đã xác định được vị trí tiếng súng. Có một tiếng hú ở xa hơn đáp lại. Tất cả đều nằm mé tay mặt của hướng di chuyển...cách chúng tôi chỉ khoảng hai, ba mươi mét.  "hú...heo rừng...đến đây, gánh về...hú hú" Toán ngồi yên chờ đợi diễn tiến. Nhìn quanh tôi đã thấy tự động từ lúc nào mỗi người chọn một gốc cây sẵn sàng. Thời gian qua đi, rừng trở lại thanh vắng. Toán di chuyển đang qua cái đồi nhìn xuống khe trải dài hun hút. Tiếng của con chim đất lạnh lùng kêu khắc khoải như muốn dẫn chúng tôi vào sâu...nhưng thật ma quái!  Ánh nắng đã khuất, qua khoảng trống bầu trời có tí ửng hồng trên tầng mây. Địa thế khác lạ với những cụm tre to lớn theo gió vặn mình răng rắc và ngọn ngả ngớn trên cao. Bên những bụi chuối có buồng chín còn một nửa bu đầy ong ruồi chưa biết thế nào là đêm tối. Đường dễ đi nhưng ẩm. Cây vừa đủ để che chắn hành tung. Toán dừng lại dựa lưng vào tảng đá chuẩn bị cho bữa cơm chiều rồi tìm chỗ ngủ đêm.


4-Choàng tỉnh trong mơ màng giấc ngủ. Tự nhiên tôi nhìn đồng hồ...tám giờ tối. Đã có tiếng cụ cựa trở mình của đồng đội. Động cơ xe lớn dần và gấp gáp như thử sức! Nó đang ở hướng Tây đúng hướng mục tiêu của chúng tôi. Tiếng người lao xao cùng tiếng động cơ náo động. Bản giao hưởng đêm rừng thêm mới với tiếng động cơ âm trầm cùng láo nháo tiếng người vang vang và quanh quanh côn trùng nỉ non lan xa hòa điệu. Một công trường khởi động hay đoàn xe thức giấc chuyển mình? Phải đợi thôi!  Mọi người chắc cũng như tôi đều thức dậy và lắng xem hoặc đang ước lượng khoảng cách? Một tiếng thú kêu rống như xé toạc không gian tiếp theo là giọng gầm gừ như đối nhau càng lúc càng to rồi thét vang...bỗng chốc mất hút trong đêm. Tiếng của đoàn xe đi xa để lại lao xao tiếng người như dần xa vắng. Nghĩ trong bụng, đoán chỉ là trạm vận chuyển. Đêm cháy dần như ngọn nến, tôi cố nhớ đến bầu trời xanh ngắt và sâu thẳm mênh mông...mênh mông...để dỗ dành lại giấc ngủ.
          -Có một thứ gì đang đi tới...tiếng động cây lá và bước chân nhịp nhàng quanh tiếng gà gáy vang. Trời đã sáng nhưng chưa rõ hẳn trong làn sương mù giăng găng, giơ tay lên mặt là chạm phải nhất là ở hàng mi. Mẩu C4 đang nấu nước cháy hết tạm ngừng. Một con chim lợn xà xuống thấp kêu thét một tiếng nghe rờn rợn. Nhìn những gương mặt căng thẳng tay lăm lăm trên cò súng trong thế ngồi dã chiến. Tôi bỗng phân định ra cái sự gì đó đang đến quyết không phải là địch quân!  Nhưng toàn thân cũng nóng lên theo từng bước chân căng thẳng. Thời gian như doãi ra rồi ngừng lại cùng một sự yên lặng chợt đến thật khó hiểu...Tiếng khịt khịt vang lên nhanh chóng đánh tan bầu khí căng thẳng cùng mọi cái thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ bụi cây một con heo đen xì cái đầu đưa qua đưa về ngẩng lên nhìn chúng tôi. Nó đứng đó như khách xa lạ một lúc nhìn ngổ ngáo rồi tẽ ngang đi mất.  Mẹ kiếp...sáng sớm đã dợt hộp!  Cơn gió nhẹ bay cùng làn sương nổi hột làm cơn thèm cà phê chợt đến. Ngọn lửa C4 đang làm sôi ca nước...việc cấn thiết cho cái bao tử trong một ngày...đổ nước nóng vào hai bịch gạo sấy  và nhâm nhi cà phê cùng thưởng thức điếu thuốc lá...thổi khói vào chiếc áo đi mưa để sát đất. Rừng yên lặng chỉ còn tiếng chim. Sương mù tự nhiên kéo đi đâu thật lẹ, chỉ còn những mảng mỏng luẩn quẩn bên vạt cây lá từng giọt đếm trên đất. Hai người Biệt kích Việt vừa gỡ xong mìn phòng thủ. Toán di chuyển.
           -Con đường chắn ngang. Tôi được lệnh theo Đại-úy lên thám sát. Đường nhỏ hẹp có dấu bánh xe đạp đi lõm hai bên nhưng bên này sâu hơn. Chứng tỏ địch vận chuyển thồ hàng từ hướng Đông sang Tây rồi lại dắt xe đi bộ trở về. Tôi được lệnh vượt qua đường sau khi đã lấy ít lá cây rụng lấp bên trên tạo thành một lối đi tránh để lại dấu vết. Toán phó, người cuối cùng vừa sang đang ngồi xóa dấu và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Tiếng Covey ì ì đang lên vùng. Một mảng trời trong xanh bên cạnh khoảng mây trắng đùn từ dưới lên cao. Mặt trời đứng khựng trên tàn cây như cố xuyên thủng lớp sương mù đang muốn thoát khỏi sức hút của đất và cây rừng. Toán dừng lại bên một gốc cổ thụ có những dây leo to như cổ đùi rũ xuống. Đàn khỉ thấy người đang dáo dác trên cành và to nhỏ gì đó. Người Mỹ truyền tin liên lạc Covey...đọc mật mã chuyển bức điện. Sự cô đơn của rừng đầy kỳ bí và lạnh lùng! Toán tiếp tục di chuyển để lại đàn vắt như tiếc rẻ con mồi...lồm ngồm dưới lớp lá rụng dầy. Một mùi hương hoa thoang thoảng, tôi bất chợt nhìn lên tàn cây. Mầu hoa tím nhạt đua lay trong gió dịu hiền bên lá xanh phơn phớt...hoa gấp bội lần lá! Đại úy mới vừa trượt chân, tôi phải ghìm người lại, đơn giản là chúng tôi đang xuống con dốc. Nắng ở trên cao nhưng không thể xuyên rừng xuống được đất. Buổi sáng đi qua thật lẹ...tôi đã cảm thấy đói bụng. Những bước chân khám phá cũng đã mỏi...dù sao cũng cần phải tiếp thêm năng lượng. Đại úy quay lại nhìn tôi rồi nhìn đồng hồ tay chỉ vào bụng, ý muốn hỏi có mệt, đói không? Tôi cười đưa tay ra hiệu...Ông và tôi sức vóc không bằng nhau! Nhưng dù sao tôi biết chắc rằng cũng phải qua khỏi con dốc trước mặt...chỗ nghỉ quân phải có địa thế tác chiến tốt. Luồng gió từ khe sâu giống như hơi thở của rừng luôn lạnh lẽo, âm u và huyền bí! Một tiếng súng nổ ở hướng Tây...địch đang báo hiệu gì đó hay là một mệnh lệnh trong khu vực? Nó đã quá quen với những cuộc hành quân Biệt-kích nhất là khi địch biết chắc có Biệt-kích trong vùng, lúc đó tiếng súng bắn để nghi binh hay tạo một cái bẫy dụ chờ Toán vào vùng phục kích do họ chọn lựa. Tiếng của một con chim lạ kêu trong sâu nghe âm vang thật rền rĩ, cô đơn.
5- Bữa cơm chiều, ăn xong là di chuyển ngay. Trời nhá nhem , sự yên tĩnh đến đáng sợ của rừng luôn làm căng thẳng thần kinh! Buổi chiều qua đi với hai lần vượt qua loại đường gùi xuyên rừng và con suối cạn róc rách từ kẽ đá...nó chỉ đổ nước ra suối lớn vào mùa mưa. Bóng tối đến thật nhanh cùng đàn muỗi thét vang bên tai, tức tối vì mùi thuốc bôi trừ muỗi. Bóng đêm đã ngự trị nhưng Toán vẫn lần mò chưa tìm được một gốc cây ưng ý hay một địa thế có những tảng đá để ẩn mình. Tiếng của loài chim ăn đêm như thúc dục đến não lòng, kinh dị. Cơn gió lạnh chợt đến như xé lòng, buốt giá bủa vây. Toán dừng lại khi bước chân tôi đứng trẹo đi vì hai cục đá cao thấp. Gốc cây lớn ngay trước mặt đã được chọn và chỉ trong tích tắc mọi người đã yên vị cùng lúc người Toán phó và người dẫn đường (point man) gài xong hai trái mìn phòng thủ...ở ngay đường vừa di chuyển...cùng hướng vào mục tiêu.  Tôi ấm dần lên trong cái áo đi mưa, dựa người thoải mái vào ba lô và dây đạn khoác hờ vào hai vai rồi cởi khóa dây đạn trước bụng...Khi cần thiết...nhổm người dậy là mọi thứ đã sẵn nơi vai, chỉ việc gài chốt dây đạn là xong. Hướng thoát hiểm được ấn định luôn là phía trước...đường vào mục tiêu. Trong trường hợp đụng địch tại nơi ngủ đêm, sẽ có tiếng hô ra lệnh của Toán trưởng và hướng trái mìn Claymore của người đi đầu nổ tung...Đó là con đường máu thoát hiểm...Tôi đi dần vào giấc ngủ...lơ mơ trong điệp khúc đêm rừng gió rét.
             - Vừa mở mắt thức giấc. Tôi liền tạ ơn Chúa ban sự bình an trong đêm. Sương trên cành nhỏ giọt từng giọt xuống chiếc áo mưa. Nó lộp bộp nhiều hơn khi làn gió thổi trên cao. Sương mù giăng khắp và gà gáy dồn dập. Núi rừng vẫn một mực yên lặng và hình như tiếng chim trong gió khe khẽ lẩn khuất bên trên cùng tiếng côn trùng rời rạc, mệt mỏi với chức năng về đêm?!  Trời sáng dần, ngọn gió làm sương mù bay, tôi như ngủ trong cỗ màn tuyn trắng đục khi còn ở nhà chưa đi lính. Đại úy đang nấu nước sôi chuẩn bị cho cái bụng trong ngày. Mùi thuốc nổ C4 dùng nấu nước có mùi thơm thơm khi đốt lửa nhưng nó lại tạo khói khét lẹt lúc được kích hoạt nổ. Toán được phép mang theo những bánh thuốc nổ C4 dùng vào việc nấu nướng và khi hữu sự chúng tôi có thể gộp những bánh thuốc nổ C4 xài dở dang, tạo thành bánh lớn bởi độ dẻo của nó và gắn ngòi nổ đốn ngã bất cứ cây cao nào cản trở cho bãi đáp khi bất ngờ triệt xuất Toán. Điều quan trọng là phải tạo một lỗ sâu bằng cách ấn mạnh cây viết chì mà Toán trưởng vẫn dùng để ghi chép vào bánh thuốc C4 để cho ngòi nổ ở trung tâm, bảo đảm cho hiệu quả. Công việc của buổi sáng cứ tuần tự...sau màn vệ sinh cá nhân...Toán bắt đầu di chuyển.

            - Nắng trên cao và gió mang cái mùi ngai ngái của loại cây mọc trong khu vực. Có lá như lá me, chiều cao chỉ bốn mét, tàn xòe rộng, quả rũ xuống như giàn đậu đũa. Mọc sát cạnh nhau an phận dưới những tàn cây cổ thụ cao lớn che trời. Một chùm lan rừng tím xậm vụt lên từ cành lá, đùa giỡn cùng nắng ban mai. Có một con ong vừa vụt bay, nhanh chóng mất tích. Tiếng chim líu lo và đàn khỉ the thé đùa giỡn chuyền cành! Bên gốc cây Đại úy liên lạc với Covey...Ông mới chuyển xong bức điện và có vẻ như đang chờ sự gì đó? Toán lại lên đường sau tiếng Covey nhỏ dần đi bao vùng khác. Di chuyển dần lên cao, địa thế dốc trì nặng đôi chân. Bầu không khí thay đổi hẳn, mát rượi và thơm lừng hương hoa. Trên cao cả một vạt rừng hoa tím...mầu tím hồng nhạt từ cây rắc những bông hoa trên đất, theo cơn gió nhẹ bay bay cả vào người chúng tôi như mừng người chiến thắng! Ai có tâm hồn mà chẳng rạo rực trước cảnh này? Người dẫn đường đã lên tới đỉnh dốc. Mảnh trời xanh lấp ló bên trên tầng cây và bên dưới chen cùng những gốc cây tảng đá đen xì rải rác lồm ngồm như đàn rùa biển lên bờ. Đại úy ra lệnh nghỉ và ăn trưa. Gió từ dưới lũng thốc lên vút tận tầng cây rào rào lao xao. Toán phó đang hút thuốc lá, thở khói thuốc vào ngực áo mình, cạnh người xạ thủ M79 nhai cơm. Đại úy bận bịu với tấm bản đồ và cái địa bàn...căn, đo xác định lại phương hướng. Mùi ruốc thịt ba lát đậm đà sao nước mắm ngon nhai với cơm sấy trong miệng làm tôi nhớ về ký ức khi xưa còn bé...Cứ mỗi lần Mẹ làm ruốc thịt heo y như rằng tôi căn để ăn vụng, nhai không biết chán...Miếng ăn vụng tôi nghiệm ra rằng ở những nơi kín đáo ăn miếng càng nhỏ nhai càng khoái, càng khích thích tợn!  Tiếng Covey vừa bay ngang loãng dần về hướng Đông có lẽ nó lên đường về lại nơi xuất phát đổi tua cho chiếc khác bao vùng. Tôi cố gắng chống lại giấc ngủ trưa quen thuộc và thấy đời như là sự gì bất công tràn lan!   
                                          
  6- Tiếng cười đùa vang vọng xé tan sự yên lặng kỳ bí của rừng. Gió mạnh từ lũng liên tục thổi lên rồi luẩn quẩn làm đôi lúc giọng trong trẻo nhỏ nhẹ, đôi khi khanh khách vụt cao. Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tôi đã thấy cái nhíu mày trên trán Đại úy. Tôi biết ông đang quyết định một việc gí đó? Vì nếu di chuyển ngay theo hướng vào mục tiêu, Toán sẽ bỏ lại sau lưng tiếng cười đùa của địch bên hông...chẳng phiền toái gì cả!  Y như tôi linh cảm. Đại úy đến bên Toán phó và họ thảo luận gì đó? Giờ thì cũng như mọi người tôi có thể ước lượng khoảng cách đến địch chỉ vài chục mét. Trở về Đại úy ra lệnh thám sát khu vực và tôi thông báo cho hai Toán viên biết. Người đi đầu đã đứng lên. Toán cứ theo hướng có tiếng người đi tới. Cây rừng tương đối dễ di chuyển. Sự che chắn tốt và chúng tôi cẩn trọng lần bước. Con Sóc đuôi dài leo vụt lên cây đến nửa chừng dừng lại nhìn chúng tôi. Tiếng người mỗi lúc một gần rồi đột nhiên tắt hẳn? Ánh nắng ngang tầm mắt nhưng lúc này bị tàn cây che chắn. Tiếng ì ì của Covey ở một nơi xa hướng Nam cho chúng tôi thêm tin tưởng. Toán dừng lại Đại úy ngoắc tay gọi tôi và cùng lên phía trước. Một con suối trước mặt cùng mắt tôi chạm ngay vào dẫy nhà sàn nằm nép bên suối ở sườn dốc. Một khoảng ánh nắng chiếu rọi tấy rõ con nước lao đi trong đá chắc chắn là không sâu. Nhìn gần, dưới dốc những trái su su ngồn ngộn trên dây leo cùng những luống khoai môn  bên hàng ớt đỏ rực. Toán cảnh yên lặng như ma quái, đến nước dưới suối cũng câm lặng!? Tiếng của một con chim đất rúc lên nghe như kêu mời và một, hai, ba, bốn rồi năm người từ nhà sàn vừa đi ra. Nhìn kỹ ba dân quân và hai bộ đội. Không trang bị súng nhưng người bộ đội đi thứ hai quấn băng xanh mầu lợt trên đầu. Có tiếng gọi từ phía bên kia con suối nhưng chẳng hiểu nói gì? chỉ thấy cả năm người sắn quần lội qua. Nắng chiều tỏa ánh sáng chiếu chói lọi xuyên cành lá và chúng tôi phát hiện thêm những làn khói tỏa không muốn rời mái nhà. Một tên bộ đội bất chợt từ trong ra ngoài sân, cây súng chỉ thiên nổ một phát rồi lại tất tưởi trở vào. Tất cả mọi sự việc hẳn không qua được cái ống nhòm của Đại úy. Ông có vẻ say mê, rồi thình lình ra lệnh rút quân, di chuyển theo hướng vào mục tiêu. Ánh sáng ửng chiếu khắp trên vùng trời đằng Tây cứ như vầng than hồng lóe trong đêm. Người đi đầu phải luồn lách để tránh những cây dây leo trong một địa thế xuống dốc luôn phải hãm đôi chân. Trên một cành cây thấp ngước nhìn loài chim xâu bé tí thoăn thoắt nhẩy tìm mồi như chả biết thế nào đã gần đêm. Đại úy ra lệnh ngừng lại, chả gì cũng đã quá bữa cơm chiều. Đàn muỗi tự nhiên xô lại vây quanh cùng tiếng kêu của một loài chim lạ nghe đơn côi và khắc khoải. Cơm ăn vừa xong cũng là lúc bóng đêm vừa đến. Điếu thuốc lá cuối cùng trong ngày được phép, tất cả được thở sâu vào ngực áo. Lệnh qui định, nơi ngủ đêm cấm hút thuốc lá cho đến sáng ngày hôm sau. Toán di chuyển tìm chỗ ngủ đêm và hình như có tiếng ầm ì nơi xa vọng lại. Chân bước nhưng tai dóng lên để nghe...quả đúng vậy! Nó xen lẫn với điệp khúc đêm rừng quanh quanh và rõ nhất đanh nhất có một loài giống như tiếng Ve kêu mùa không biết mỏi với mầu Phượng rực nắng nhưng ở đây "tiếng Ve...?" trong đêm. Động cơ xe, giờ tôi có thể nói như vậy và xác định được càng lúc càng đến gần. Cơn gió làm lao xao cây lá. Những bước chân giữa đêm rừng đầy kinh dị, sợ hãi vây quanh...chân tuy bước mà lòng cứ mãi về phía sau chỉ sợ bị "vồ..." Dù rằng tôi biết chắc còn ba đồng đội đang đi theo. Một mùi hương hoa thoảng trong đêm nhưng không gây được sự thích thú kèm theo cái lành lạnh. Đại úy đi trước tôi đang ho vào vạt áo, có lẽ ông bị dị ứng "làn gió lạ" Một bóng đen to lớn án phía trước che dần bầu trời sao. Chúng tôi như bước vào con đường hầm gió lạnh và tối om. Gió ào mạnh bên trên rồi dịu đi chạm lá tựa tiếng réo rắt phong cầm lúc trầm lúc bổng. Tôi vướng vào một dây leo và chân chạm rễ cây suýt ngã. Đại úy ra lệnh nghỉ đêm và tiếng động cơ xe bỗng đứt quãng vuột biến. Tôi nghe Đại úy nói với Toán phó chỉ gài một trái mìn Claymore.                     đường thoát hiểm vẫn là hướng vào mục tiêu. Gốc cây cổ thụ và những rễ bạnh nổi lên như ôm lấy chúng tôi. Tiếng kêu của con tắc kè tận trên cao chậm rãi từng tiếng chắc nịch giống như nắm đấm dội vào lồng ngực gây tưng tức hay có thể tầng cây dầy che lấp không gian thoáng đãng và sương mù tuy chẳng thấy nhưng cũng hình dung qua cái lạnh mơn man trên mặt, phơn phớt ẩm hơi.

 
  7- Buổi sáng thức dậy, công việc tuần tự  cứ như mọi ngày hành quân. Covey lấy xong bức điện rồi di ngay. Sương mù cũng tan biến để lại giọt mưa trên lá. Người đi đầu bỗng dừng lại, tay ra hiệu con đường phía trước. Ánh nắng chói lọi lọt qua tầng cây làm hai vai người đi đầu tỏa khói và tôi thấy Đại úy đang quan sát con đường. Theo lệ thường tôi lên để yểm trợ...vẫn là loại đường gùi để vận chuyển, nhìn những dấu chân in trên đường, chứng tỏ địch di chuyển thường xuyên nhưng hẳn nhiên chưa phải là con đường có đường dây điện thoại mà nhiệm vụ Toán phải tìm. Sáng nay khi chấm bản đồ Đại úy nói rằng chỉ còn khoảng hơn một cây số sẽ chạm mục tiêu. Chúng tôi băng qua đường sau khi Đại úy chụp vài pô ảnh. Địa thế khu rừng chồi rất ít cây to nhưng Toán đang đi vào bóng mát cùng tiếng chim lanh chanh trên cành cao. Một mảng mây trắng bấu chặt lấy bìa rừng trước mặt cùng ngọn gió làm lạnh hai vai và chắc chắn sẽ khô dần đi cái khăn ngụy trang. Tạm nghỉ chốc lát rồi lại lên đường. Hai con chim thật lớn tự đâu bay đến một con đứng quạt cánh trên tàn cây nhưng không đậu xuống còn một con bay vòng trên cất tiếng kêu la như vai trò của một huấn luyện viên!  Đại úy nhắc tôi "đi đi..." cũng vừa lúc súng nổ ở phía sau rất gần và tiếng đáp trả phía bên hông nghe đanh, nhọn như không cùng một loại súng. Khu vực bỗng trở nên đáng sợ. Tôi cảm thấy nhiều mũi tên đang bắn tới và cái lạnh chợt đến đang tỏa từ sống lưng đến gần mông. Đại úy ra lệnh dừng lại. Phía trước khe dốc lên cao trông như bức tranh với đụn mây trắng tinh khôi cuồn cuộn cùng bầu trời xanh thẳm. Tiếng hú từ xa vang vọng mà chỉ có thể là tiếng người cùng tạo cho rừng một thoáng kỳ quái, thâm trầm đến lạnh lùng. Giọng hú đáp trả hai lần nghe vọng dội âm thanh như đi từ Nam lên Bắc...Tôi tưởng tượng đến có một trận đồ đang vây hãm...giữa thanh thiên bạch nhật!  Chúng tôi đến gần sự hoạt động nơi địch đóng quân. Đại úy chỉ hướng cho người đi đầu và ra lệnh xuất phát. Nắng đã gần trên đỉnh đầu và làm khô mọi thứ ướt bởi sương sớm. Toán đang đi vào bìa rừng với cây cao bóng rợp. Vẻ âm u vắng lặng chào đón...nhìn, ai mà chẳng chột dạ?! Tôi theo thói quen xoay người ngắt một lá cây tiện nơi tay bỏ vào miệng nhai để chống vắt. Nụ cười của người Toán phó (radio man) đi sau nhìn tôi tinh quái và thoáng ngạc nhiên, dù rằng việc này tôi cũng đã giải thích lúc cùng thực tập. Rừng cây tương đối dễ di chuyển vừa đủ để che chắn. Những tảng đá chen nhau như đua cùng cây nhưng an phận bởi loài cây mọc từ trong đá xanh biếc nhưng thấp xỉn phát triển theo sức sống ở những đường kẽ và trũng cùng  loại rêu xanh đậm bấu chặt. Chúng tôi ăn trưa ở gốc cây có những tảng đá rải rác vừa đủ để che đầu người ngồi. Ánh nắng chiếu rọi, giống những hạt kim cương thi thoảng hiện trên những khuôn mặt và điệp khúc rừng cứ mãi trôi theo thời gian bất tận! Tiếng ào ạt phía bên hông làm những cây chồi non nghiêng hẳn một vạt trước ngọn gió quẩn quanh quanh...rồi chạy đuổi về phía sau. Đại úy ăn xong ông lại căn hướng đi...Ông ta có vẻ sốt ruột, nóng lòng vì nhiệm vụ hoặc bởi những ước lượng đường di chuyển bị sai trật. Nhưng tôi nghĩ là không thể!  Lệnh di chuyển ngay đúng ra là phải có chừng một tiếng nghỉ ngơi. Nhưng cả Toán không ai tỏ vẻ uể oải ngược lại hăng hái tiến bước. Tôi cười nhìn lại đàn vắt cố công bò đến ngổn ngang...chúng cứ ngóc lên cao đưa cái vòi qua lại dò con mồi...tôi ngộ nghĩnh vẫy tay chào...chào lũ mày, Vắt.  Ánh sáng vẫn rọi trên khuôn mặt Đại úy vụt biến mất...nhìn lên hai con chim rất to vừa đậu vào tàng cây cất tiếng kêu như gọi con trong tổ? Ngọn gió quẩn hình như quay lại đẩy chúng tôi vào sâu.
            -Người đi đầu dừng lại ra hiệu có con đường. Đại úy nhìn tôi như ra lệnh cùng lên thám sát. Phía sau Toán đã ở vào vị trí chiến đấu dàn hàng yểm trợ hai bên và mặt sau. Ngồi xuống mép đường bụi rậm quan sát. Đường cơ giới, dấu bánh xe và vết chân dấu giầy trên đường...nhưng không thấy dây điện thoại. Đại úy nét mặt đang suy tính, con đường này rất đúng  trong báo cáo. Tôi cũng biết như vậy và nghĩ là dây điện thoại chỉ có ở bên kia đường? Đại úy khoắt tay ra hiệu vượt qua...Vẫn là người phải sang trước để lập chốt yểm trợ...Men theo những đốm lá cây rụng tôi nhanh chóng vượt qua sáu... bẩy mét con đường thật êm ái và chân vướng ngay vào sợi dây điện thoại. Lập xong đầu cầu, quan sát hai mé đường tôi ra hiệu cho Toán di chuyển. Vẫn con gió quẩn lúc này thổi ào trên đường bốc lên những chiếc lá bay bay.
  8- Đại úy cũng vừa sang đường, tôi chỉ cho ông dây điện thoại. Nét vui mừng rõ trên mặt, ông buông một câu "tuyệt vời" và ngay lập tức ra lệnh di chuyển dọc theo con đường để chọn địa thế. Toán đã đến được một nơi cay chồi mọc cùng dây leo chằng chịt bên dưới, có những tảng đá rải rác...Một địa thế tác chiến tốt và quan sát cũng như ẩn nấp chả chê vào đâu được. Nắng đã siên ngang...chiều đi thật mau...cũng nhanh như chúng tôi vào vị trí. Đại úy và radio man nằm ở trung tâm để ghi âm. Tôi và người đi đầu (point man) hai đầu tả hữu còn Toán phó và người xạ thủ M79 án ngữ mé sau lưng. Hai trái mìn phòng thủ được gài hai đầu do tôi và Point man giữ. Lệnh cho hướng đào thoát là chốt phía sau của Toán phó. Con đường vẫn im lìm vắng lặng. Mé tay trái gió vừa bốc lên những chiếc lá trên đường tung cao rồi xoay tròn chạy ra xa. Dựa lưng vào tảng đá, tôi trong một bụi rậm bắt đầu tạo những khoảng trống nhỏ để tiện quan sát trên đường nhất là lỗ hổng để nhìn được vị trí đặt mìn phòng thủ. Đại úy đến bên tôi từ phía sau như là để kiểm soát và thông báo máy ghi âm của người Toán phó radio man đã hoạt động. Mặt trời đã lặn và bắt đầu cho đêm rừng. Miếng cơm nhai trong miệng bữa nay sao ngon lạ! Trời mây trắng nhưng phía Bắc cơn đen che hẳn nửa bầu trời. Con đường đi xuống lũng sâu quẹo hẳn vào núi cao. Bìa rừng cây cao rậm che chắn cho con đường lại là ranh giới giữa rừng già và rừng chồi non. Bóng tối đem bản giao hưởng rừng đêm cùng sương mù chen lấn. Gió bắt đầu lạnh thêm thổi từ trong sâu. Trong chiếc áo đi mưa tôi chợt rùng mình về sự lẻ loi, cô đơn...dù rằng chắc chắn cách đây chỉ khoảng mười mét là đồng đội! Tiếng của loài chim ăn đêm nghe não lòng gợi nét quỉ ma, chông chênh giữa thực và mộng...Bất chợt nghe từ thẳm sâu ký ức một khoảng trời học đường...ngày ấy những bài học làm người, bài học cuộc đời trước khi bước ra một sân chơi lớn: đời người. Mầu hoa Phượng đỏ như lửa ấy cứ rực mỗi Hè. Tàn mùa Phượng đã nghe mùa Thu gõ tiếng trống trường...lăn dọc thời trẻ con hoang dại. Lăn dọc những vui buồn không tuổi, không tên. Để bước vào những mùa thi...Lần cuối, năm ấy mình không qua nổi kỳ thi, sẽ là ngã rẽ cuộc đời! Trò chơi lớn bắt đầu...Xua đi những ý nghĩ, tôi tập trung vào giấc ngủ. Đưa mình lên bầu trời xanh thăm thẳm, cứ thế xa tít rồi xa tít và tôi ở trong vùng cao xa ấy.
          -Đêm qua đi, trời lại sáng và tôi thức giấc lúc còn tối có lẽ  cái chân bị tê vì thế ngủ ngồi quái ác. Tiếng côn trùng nghe đã có phần rời rạc chỉ lũ gà là xung. Biết bao chuyến hành quân và ở bất cứ rừng núi nào tôi chỉ nghe tiếng gà chứ chưa bao giờ thấy chúng! Sự ẩn mặt của lũ gà rừng tôi chưa thể lý giải được? Ánh mờ mờ của sáng sớm làm tôi nhận rõ hơn phía trước mặt thung lũng chạy xa trong biển xanh ngàn cây. Xa hơn núi cao chắn lối và bên này con đường đang đi xuống sâu vào rừng. Cơn thèm cà phê ghê gớm làm tôi phải nấu nước thôi. Mùi chất nổ C4 bị đốt tự nhiên sộc vào mũi...không biết có phải của tôi...ô hay chắc chắn rồi! Hay thêm quanh đây đồng đội cũng đang nấu và tôi liền nghe tiếng "tắc kè" mật hiệu qui định...tiếng một rời rạc là liên lạc với nhau còn nhanh gấp gáp là báo động...Tôi liến đáp lại, Đại úy xuất hiện. Nhìn quanh ông yên tâm, xong lại biến. Đổi lại thế ngồi và thưởng thức ca cà phê cùng khói thuốc ém chặt say say. Gió nhẹ bay bay sương sớm thấy cả hột li ti rồi  nhẹ nhàng rơi. Trời đã sáng, mây trên cao xa...cao hơn một ánh sao to lấp lánh chưa chịu nhường mặt trời mà tôi đoán cũng sắp lên khỏi núi hướng Đông. Tiếng chim trên cành cây cao càng rõ hơn náo động dần không khí...Ngày của rừng thật sự bắt đầu và tôi nghe tiếng súng nổ ở về hướng Tây.
           -Một mình lẻ loi, ngồi buồn chết đi được. Hai viên kẹo "cao su" trong khẩu phần ăn nhai lọt thỏm vẻ còn thèm thuồng không đã.Nghe bên vị trí của Đại úy vẫn một mực im lìm nhưng chắc chắn ít ra họ đã thu âm được hai cuốn băng. Ánh mặt trời chói lọi xuyên cành lá tức khắc đang đẩy lùi lớp sương mai mà giờ hình như đã tan biến. Có thể nó chạy trốn trước khi mặt trời đến! Tôi bỗng nhìn về hướng dốc con đường và mắt vừa chạm hai người đang dắt xe đạp đi lên. Tôi...miệng trong loa tay kêu "tắc kè" liên tục rồi nghe tiếng "tắc kè" đáp lại. Mật hiệu đã được nhận và chờ đợi cho sự sẵn sàng.


            9-Hai tên địch dần đi lên, chỉ một tên có mang súng, cây AK đeo trước ngực. Cả hai trang phục chính qui chính hiệu...nón cối, giầy vải, áo quần kaki xanh, lưng thắt dây da nâu loại Trung quốc. Tên đi sau mang cặp da bên hông ,không súng.  Vì đường lên dốc nên cả hai dắt xe đạp, loại Trung quốc, mầu đen, hai thắng tay liền với ghi đông lái. Tôi dõi theo từ bước đi họ lên, giờ thì có thể nhìn rõ mặt...tên mang súng còn rất trẻ có thể nói là con nít! Còn tên kia, mặt dầy dặn, khoảng ngoài ba mươi. Đếm từng bước chân có lúc chậm vì lên dốc vả lại còn phải dắt xe. Tôi cố chấn tĩnh...doãi tay gồng mạnh như để lấy lại sức và cái của chết người càng lúc càng gần cùng thời gian nóng lên và như ngừng trôi nhưng nhích dần. Một giọng hót mượt mà, thanh cảnh của một con chim trên cây giúp tôi phần nào thoát cơn căng thẳng đang lên và hai tên địch bất ngờ rẽ vào lề đường bên kia có tảng đá cao rồi dựng xe. Động tác rất nhanh hắn tháo cây súng khỏi cổ dự vào xe đạp rối tất tưởi đi đến bụi rậm gần đó...biến mất. Tên mang cặp vào sâu một tí thản nhiên thò tay móc "..." đứng đái nét mặt vẻ thoải mái, tay đu đưa rồi chợt rùng mình nghiêng hẳn người quay đi ra. Hình như có gió to nổi lên phía giữa con dốc, lá cây bay tung về bên kia đường và bóng rợp đen của đám mây dần dần từ sau lưng hướng Nam trôi từ từ lên hướng Bắc. Tên bộ đội con nít cũng vừa đi ra. Rất tự nhiên như đã quen thói lấy cái túi vải sau xe đạp, ngồi xòa xuống cục đá thấp tay kia móc ra hai nắm cơm, đưa cho tên kia một...thản nhiên cắn ăn một cách lạnh lùng! Trò chơi ú tim lại theo từng miếng nhai, thoáng chốc đã hết nửa nắm cơm. Khoảng cách vào quãng mười mét nhưng tôi thấy rõ còn hơn khi đi xem kịch diễn trên sân khấu. Sự hồi hộp căng thẳng cứ dần được đẩy lên có thể đã chạm vào được ánh nắng. Tôi bỗng nhiên tự trách sao lại chọn đầu dốc, nhưng đó là việc của Đại úy...về mặt chiến thuật rất có lợi cho tác chiến, nhưng tâm lý đã lên dốc là phải nghỉ ngơi?!  Giờ đây chắc mọi người cũng có ý nghĩ như tôi trước tình thế này. Vừa ăn xong tên con nít vơ lấy cây súng, tưởng đeo vào người nhưng không hắn chĩa lên trời nổ một phát xong nói " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."  Họ dắt xe ra đường tự dưng mắt tên bộ đội mang cặp da cứ nhìn chăm chăm vào bụi cây tôi ẩn nấp và một vẻ trù trừ gì đó hiện trên gương mặt hắn...khuôn mặt vừa đi qua vùng ánh sáng chiếu trực diện chói sáng từ tàn cây. Tôi thấy nhột nơi sống lưng và tâm trí tập trung ngay vào cò súng. Vẻ lanh chanh, tên con nít lên yên xe trước, gồng chân, cong người đạp lấy đà...còn tên đeo cặp, thênh thếch trên bi đan xe, một chân đẩy dăm bước, lên xe theo kiểu Pháp. Qua chỗ tôi, mắt hắn không hiểu sao cứ mãi chằm chặp nhìn như say mê? Đàn chim trên cao bỗng kêu réo loạn xạ. Nhìn lên có vài con bay tuá ra và hai con đuổi đánh nhau bay xà xuống đúng vào lúc bóng hai tên bộ đội mất hút bỏ lại sau ánh tia chớp phản chiếu phát ra từ hai chiếc xe đạp.  Không gian trở lại yên ả, tĩnh mịch. Chim trên cành cũng im tiếng sau màn báo động. Tai tôi nghe tiếng Covey ở một nơi xa vọng lại. Làn gió hơi lạnh mơn man trên da mặt và tôi nghe ám hiệu "tắc kè..." chậm rãi. Vội đáp lại và Đại úy xuất hiện đang ngồi xổm đi vào bụi rậm với câu hỏi đầu tiên "ổn chứ..." Dáng điệu nóng lòng ông hỏi tôi có nghe hai tên địch nói gì với nhau. Tôi dịch lại và xác định họ chỉ nói với nhau có một câu " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."  Nghe xong nét mặt của ông trở nên đăm chiêu suy nghĩ nhíu mày. Hai cặp mắt nâu nâu như chớp sáng. Tôi hiểu ngay ra rằng vai trò của người Thông dịch trong lúc này thật cần thiết!  Đại úy dặn dò một vài việc chiến thuật rồi theo thói quen lấy ra thanh kẹo "cao su" vừa nhai vừa đi khỏi. Một con sóc chạy trên đường, đến chỗ có ánh nắng dừng lại dương mắt nhìn quanh như muốn sưởi ấm. Lại một tiếng súng địch nổ ở hướng Tây chẳng bao xa. Hai bịch gạo sấy giờ thì no đủ...đã thành cơm. Tôi bắt đầu nhai phần cơm buổi sáng và nghĩ đến nhiệm vụ của Toán...Bắt tù binh. Trong thực tập, Toán phó là chuyên gia bắt tù binh. Ông ta có quyền quyết định ra tay hay không trong giây phút chót. Theo lệ thường địch quân vẫn cử người đi kiểm soát đường dây điện thoại và nhiệm vụ thu âm vẫn đi đôi với bắt tù binh. Khi được mật hiệu Toán phó chỉ việc dời chỗ ẩn nấp từ phía sau đi lên phía trái hay phải tùy theo hướng địch, phối hợp với Toán viên đã có sẵn để hành động. Nhưng việc quan trong vẫn là địa thế...có bãi đáp hay không? Thực tại Toán chúng tôi từ ngày qua đã phải luôn tránh những khoảng trống... còn mọi việc khác dĩ nhiên nằm trong kế hoạch...đều phải sẵn sàng tại căn cứ xuất phát.


 10- Nắng chếch ngang mặt. Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Buổi sáng qua đi thật mau với vài lần phải trở mình để thoải mái cho thế ngồi, tránh tê chân. Không gian tĩnh lặng nhưng thi thoảng tiếng con chim đất kêu lên như thương nhớ!  "tắc kè..." tôi vội đáp lại mật hiệu rồi tức thời Đại úy xuất hiện. Vẫn câu hỏi đầu môi "ổn chứ..." Rồi ông ra lệnh bắt tù binh sau khi hỏi tôi " Anh có nghĩ rằng hai tên địch lúc sáng sẽ trở về vào lúc trưa..." Tôi không chút ngần ngừ đáp lại "chắc chắn rồi...tự miệng họ nói ra mà." Ông đưa cho tôi thanh kẹo rồi rút lui. Tình huống hiện tại người Toán phó phải đến chỗ của Toán viên đi đầu để xem xét địa thế và đón lõng hai tên địch. Phần tôi chỉ lo căn coi phía đường trách nhiệm và sau cùng là tháo trái mìn phòng thủ. Mọi việc chắc đã lên kế hoạch và sự bàn định giữa Đại úy và Toán phó hiển nhiên cũng đã xong trước khi đến tôi. Có giọng hú ở về cuối dốc và tiếng đáp lại hơi xa. Tôi căng mắt chờ đợi nhưng vắng lặng tút đến phần đường chìm vào rừng cây. Ánh nắng như phân chia con đường thành từng khúc có nơi loang lỗ chói chan, chỗ tối hù nhưng dài hơn, thấy cả cái lạnh lẽo âm u. Thời gian nhích dần và dĩ nhiên người trong cuộc cũng chuẩn bị mang tâm trạng căng thẳng. Tôi nhìn lại đồng hồ...nó nhích mãi mà chưa qua con số mười một!  Vùng lên, chửi đổng một tiếng  trong bụng "đồ con rùa..." Tôi bò ra dịch dần đám dây leo để có thể mở rộng tấm nhìn về phía tay phải, nơi có thể sắp diễn ra cảnh sôi động chết người chỉ cách chỗ tôi khoảng chưa tới ba mươi mét. Vị trí mới không có tảng đá nhưng khi tác chiến tôi có thể thụt lui ẩn nấp một cách dễ dàng. Trên cây cao, tiếng của những con chim Mẹ dẫn mồi cho đàn con khi dồn dập lúc đứt khúc...nghe chanh chách!  Covey đang ở hướng Nam tiếng xa hẳn chúng tôi nhưng vọng lại có lúc rõ theo vòng bay. Nó đã được thông báo tình hình...chắc chắn là như thế và cái mắt xích trong cỗ máy chiến tranh đang hoạt động. Tôi sửa lại thế ngồi vì thấy tức nơi hông hay có phải tại mới ăn trưa...ăn quá sớm.  Thời gian cháy dần nhưng chậm. Sự căng thẳng theo nhịp kim đồng hồ được đẩy dần lên...đang ở con số mười một giờ ba mươi lăm. Rừng núi im như chết. Gió biến đi đâu mất làm gia tăng cái nóng trong người. Con tim tôi bỗng chỗi dậy khi đàn chim bất chợt kêu thé lên tiếng liên hồi. Tôi sửa lại thế ngồi mắt đăm đăm phía đường về của địch và thoảng nghe có tiếng người. Mọi sự chuẩn bị vào cuộc...cuộc chơi sinh tử!  Hai bánh xe đạp đang lao tới nhưng chưa thấy phần trên bởi bụi rậm án ngữ. Đột nhiên như một cánh đại bàng quái dị...tiếp sau là bóng cao lớn của Toán phó xuất hiện. Tức khắc hai thân người đổ nhào trên đường còn hai xe đạp văng xa. Đại úy và người truyền tin (radio man) chia nhau khống chế hai tên địch chưa kịp hoàn hồn bò dậy với nét mặt ngạc nhiên thất thần. Toán viên xạ thủ M79 cũng vừa xong nhiệm vụ thắt khăn vào miệng và bịt mắt tù binh...đã bị còng tay bằng chiếc còng nylon. Tôi vội gỡ mìn phòng thủ. Toán phó vừa phi tang đi hai chiếc xe đạp và hai mũ cối vào bụi rậm...trông thật oai bởi đeo hai súng và chiếc cặp da. Người đi đầu gỡ mìn vừa xong chuẩn bị di chuyển.  Mọi việc diễn tiến thuần thục như khi thực tập!  Bình tâm, khúc phim được điễn ngay trong đầu khi đang di chuyển. Hết sức nhanh chóng và thật đơn giản...Sự tấn công đầy kinh ngạc bằng chiếc áo lạnh đi rừng quả thật như một cánh đại bàng quất thẳng vào hai tên địch cùng một lúc. Tôi chứng kiến tận mắt như người đi xem kịch ngồi ở ghế hạng nhất. Cái khó khăn ở đây chính là lực tấn công...Toán phó hiển nhiên phải xoay chiếc áo, quật thật đúng lúc và đầy sức mạnh mới có thể đánh chính xác vào phía sau địch quân...không phải một mà cả hai...trong tình trạng đón đầu địch. Thật tài tình và nghề nghiệp...hai con mồi đều ngã về phía trước vừa vặn lọt vào tay của Đại úy và Radio man lao ra chờ sẵn. Tất cả đều được diễn ra trong thời gian cực nhanh...bằng những cái nháy mắt...rồi tức khắc Toán biến vào khu rừng chồi bên cạnh. Covey ở trên đầu từ lúc nào và Đại úy cũng đã đổi balo để trực tiếp giữ liên lạc. Một tiếng súng nổ ở hướng Tây. Tên bộ đội đi trước đứng khựng lại vẻ chần chừ nhưng khi mũi súng chĩa vào lưng, hắn mới chịu bước tới. Toán phó vừa đi vừa chiếu gương cho Covey. Đại úy bỗng ra lệnh đổi hướng , theo hướng Bắc...Covey đã chỉ điểm bãi đáp. Tôi và người Radio man rất bận với hai tù binh. Toán đã thoát ra khỏi vạt cây chồi đến một vùng cỏ tranh mịn óng vàng và hai chiếc A1 trên bầu trời đang đến theo cái dõi mắt của Đại úy. Ông ta ra lệnh trải tấm panel hồng đỏ và luôn chỉ điểm mục tiêu. Một rocket khói được Covey phóng ra và rồi loạt bom chùm từ A1 vãi tới tấp vào đúng khu rừng già có con đường. Tiếng súng địch từ dưới đất vang dội cùng tiếng người nghe lao xao hò hét...nhưng chưa thấy phòng không. Loạt bom napalm bùng lên khói lửa chạy dài cả vài trăm mét. Đại úy ra lệnh tôi và radio man mỗi người phụ trách một tù binh thoát trên chiếc trực thăng đầu tiên. Trên bầu trời hướng Đông những đốm trực thăng lớn dần và hai Cobra thế nào cũng đến trước. Tôi rút ra bình sịt gây mê...bằng cách sịt thẳng vào mặt mũi hai tên tù binh đang ngồi. Chiếc A1 xả loạt đại bác...tiếng nổ lan tràn từ trên lẫn bên dưới cùng với khói và lửa. Đoàn trực thăng nhanh chóng nhập cuộc. Sáu trực thăng thuộc phi đoàn 20 Air Commando biệt hiệu Green Hornets thuộc không quân Mỹ. Hai Huey gunship đang vòng trên bãi đáp và một chiếc xả loạt đại bác 20 ly dọn bãi. Đại úy ra dấu chuẩn bị...Toán viên đi đầu sẵn sàng phụ tôi khiêng tên tù binh lên trực thăng. Chiếc Gunship vừa vụt lên với hàng loạt tiếng đạn 40 ly nổ dài và sau nó chiếc Huey đang xuống bãi, cặp kè cùng chiếc Gunship theo yểm trợ. Toán phó radio man bồng tên tù binh đợi sẵn, cùng tôi cũng sẵn sàng.
           - Trên đường về căn cứ, người sĩ quan rước Toán khui chai sâm banh. Tôi thấy rõ nút chai bắn vút ra ngoài cửa trực thăng. Bên dưới sàn hai tên tù binh vẫn còn bất tỉnh dù rằng đã được cột chặt vào trực thăng theo nguyên tắc. Một điếu thuốc hút tự do sao mà sướng thế! Nhất là hòa cùng sâm banh uống ngụm to chất ngất. Nghe trong cái mũ bay...người sĩ quan rước Toán nói " Bên kia...Đại úy cũng đang uống mừng."  Và theo tay chỉ...Nắng vàng chiều rực rỡ trên phông nền xanh cây lá.
Biệt Kích Nguyễn Văn Hải

http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/10/halo-high-altitude-low-opening.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-4750700511364068220Fri, 23 Aug 2013 05:48:00 +00002013-10-30T09:50:29.971-07:00

Phước Long mới được tái chiếm lại. Ngày ấy ,Trung Tá Mã Sanh Nhơn là tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng. Trại B-34 LLĐB/HK lúc ấy chưa có LLĐB/VN .

Thời gian ở đây trôi qua chậm chạp, lượn lờ và nhàm chán. Trừ một số nhân viên nhà bếp, giúp việc người Việt còn lại toàn là người Mỹ. Cuộc sống an nhàn nhưng vô vị không hứng thú. Nửa năm ở đây thế là đủ, tôi muốn thay đổi.

Lên gặp Trg/tá Joseph E Roy , tôi xin chuyển đến toán A.341 Bù Đốp. Nghe nói ở trại A đời sống sôi động hơn (lương cũng cao hơn)

Yêu cầu được chấp thuận, cắp theo cây guitar, tôi lên chopper vù đến Bù Đốp đất đỏ .

Mừng vui được gặp lại nhau, tôi được Đ/úy Hannawald trưởng trại cho tôi chọn lựa, hoặc quanh quẩn ở trại làm việc với ông, hoặc đi theo đại đội hành quân. Tôi xin đi hành quân  thay vì ở trại.  và tôi sẽ được phân bổ khi đại đội đi hành quân về.

Ông nói đại đội A thiếu thông ngôn, có lẽ tôi sẽ làm việc với đại đội Nùng này.

Tôi chờ đợi những mới lạ và sống động. Đại đội còn đang hành quân, chưa về. Tôi tha thẩn quanh trai, tìm hiểu, truyện trò và ngắm nhìn lung tung.

Trong trại, anh em biệt kích phần đông là Nùng, một ít người Kinh và còn lại là người Thượng (Montagnard). Tôi mến người Thượng. Họ chân chất và thật thà. Họ không sõi tiếng Kinh. Điều này sẽ rất tồi tệ khi có chuyện, lúc ấy tôi sẽ không làm tốt công việc của mình.  Chưa chính thức nhận nhiệm vụ rõ ràng với đại đội thì điều tôi lo sợ đã xảy ra…

Chạng vạng tối hôm sau, ngoài sân bắn , lúc thử súng, một hạ sĩ quan người Mỹ còn rất trẻ (không biết tên) đã để đạn lạc trúng một thanh niên Thượng khi đi ngang qua sân bắn. Viên đạn vô tình đã cướp đi một mạng người.

Biết chuyện sẽ không hay, Đ/úy Hannawald cho gọi gấp một Cessna, bốc ngay người lính Mỹ trẻ về B-34 Phước Long, chờ phương tiện đưa đi Nha Trang.

Ông chuẩn bị việc chia buồn, tạ lỗi cũng như đền bù cho gia đình người xấu số. Nhưng mọi việc không như ông nghĩ.


Khi chiếc Cessna khuất bóng sau rừng cao su, đất đỏ còn mù mịt cuối airfield, một số đông người trong buôn làng túa ra tụ tập trước doanh trại. Những ngọn đuốc bập bùng ánh lửa, những thân người đen nhãy mồ hôi chạy rầm rập, những khuôn mặt đầy kích động đang ra sức hò hét, trên tay họ là cung, tên . nỏ, rựa, dao cồng, chiêng, phèng, mõ đua nhau khua gõ rầm trời, họ cho thấy họ sẵn sàng sống chết mạng đổi mạng.

Trai được đặt trong tình trạng báo động, bạo loạn có thể xảy ra vì trong trại cũng có nhiều biệt kích người Thượng.. Mọi việc khó lường..

Ngột ngạt ..Căng thẳng .. dễ sợ  . .

Ông Hannawald lịnh cho tôi theo và chỉ được đi tay không.

Ông bước ra với cử chỉ thân thiện khi người thân của người xấu số được dẫn tới.

Chắp tay trước ngực, ông chào theo cung cách người Việt.

Trước mặt ông, một bà cụ người Thượng gày gò móm mém, lưng còng đang vật vã, khóc lóc lu loa, nước mắt nước mũi ràn rụa, tay chân khoa múa loạn xạ.

Tiếng khóc thương của người Thượng thật não lòng, khó diễn tả nếu không phải là một nhà văn.

Thật tiếc vì tôi không làm được việc đó. Nó như tiếng rú, tiếng gọi, trầm bổng, ỉ ôi, dai dẳng, khằng khặc , nghe não nuột và bi ai làm sao !

Ông Hannawald muốn biết tương quan giữa bà cụ và người xấu số. Tôi chậm rãi hỏi bà và hy vọng bà hiểu. Đáp lại, bà cụ chỉ khóc và rú từng chập trong sự kích động của đám đông người dân trong buôn làng

Ông Đ/úy giục giã hỏi tôi những lời kể lể của bà cụ. Nào tôi có hiểu gì?

Lời thúc giục của ông cộng với tiếng hò hét vang dậy của đám đông khiến tôi hoảng.

Tôi cố gắng hiểu cụ và cuối cùng biết rằng nạn nhân là cháu của cụ. Bố mẹ nó chết hết rồi.. Đau đớn quá ! Bà cụ chỉ còn mình nó …

Mỗi lân ông Hannawald hỏi tôi là tiếng hò hét lại to hơn, sự kích động được đẩy lên cao hơn. Đám người vây quanh chúng tôi nhưng ông không nao núng hoặc sợ sệt.

 Sự tự tin của người sĩ quan LLĐB được hun đúc ở Fort Bragg của ông đã giúp tôi bình tĩnh trở lại. Cả tôi và ông đều đổ mồ hôi. Ông tháo mồ hôi vì hơi nóng của lửa đuốc, của hơi người. Tôi đổ mồ hôi vì nóng và vì sợ hãi.

Cái sợ này khác hẳn với cái sợ trước lằn tên mũi đạn. Xông trận, sống chết có số. Hơn nữa, lằn ranh địch ta rõ nét. Đối mặt, ta chậm bóp cò ta tiêu. Mi chậm bóp cò mi ngủm.

Vậy thôi ! Nhưng, giờ này ở đây… trước mặt tôi không phải quân thù. Tôi đang ở phía  người bị lên án. Chúng tôi có thể lãnh một loạt cung tên, một loạt vết rựa, dao và đủ thứ giận dữ man dại đổ lên đầu, lên người.  Trong khi, chúng tôi lại không có vũ khí trên tay để chống trả. Nhưng nếu có , chắc gì tôi dám xả súng vào đám người người dân vô tội kia ? Nếu tôi chết trong hoàn cảnh này thì đau quá ! Chẳng fair tý nào

Vòng người xiết chặt hơn, tôi có thể cảm nhận qua cái nóng của đuốc, của mồ hôi người, mùi da khét nắng lẫn hơi thở dồn dập, giận dữ, xô đẩy của đám đông. Không khí ngột ngạt. Bà cụ bỗng  ngã qụy xuống đất ngất xỉu vì mệt và ngộp thở. Tiếng hò hét to hơn, tiếng cồng chiêng điên loạn om trời cùng tiếng dậm chân thình thịch, tôi nghĩ chắc chết vì sẽ có bạo động nếu không biết kềm chế ..

Nhưng, mọi việc dường như chựng lại ..tất cả im bẵng khi ông Hannawald quỳ một chân xuống đỡ lấy bà cụ. Rút mu soa từ trong túi, ông lau nước mắt, chùi nước mũi dãi cho bà cụ.  Đám đông dõi nhìn việc làm của ông, lẳng lặng ẵm bà cụ lên tay, ông chầm chậm đưa bà vào trại, hướng về phía trạm xá .

Ông Hannawald rất nhỏ con so với người Mỹ bình thường. Ông chỉ cao khoảng hơn thước sáu một tý. Chân thấp chân cao có lẽ do bị thương .

Hình ảnh người Đ/úy Mỹ nhỏ con, khập khiễng ẵm một bà cụ Thượng trên tay, lặng lẽ bước qua cổng trai khi người lính gác cổng đứng nghiêm chào thật xúc động. Không còn sự kích động nào, tiếng hò hét nay chỉ còn tiếng xì xào từ đám đông. Sự xúc động đều giống nhau nơi con người. Vài người người thân của bà cụ theo sau ông Hannawald đi vào Dispensary.

Ông Hannawald muốn bà cụ  được chăm sóc thật tốt. Cái TÂM của ông được thể hiện rất rõ. Anh em biệt kích thẳng người  khi ông bồng bà cụ bước qua.

Bên ngoài cổng trại, đám đông tản mạn ra về. Tôi tạm thở phào…

Những y tá người Kinh hiểu tiếng Thượng, họ giúp tôi giải thích cho ông. Ộng gật gù lắng nghe vẻ xúc động ..

Việc mai tang được tiến hành theo nghi thức của buôn làng với sự trợ giúp của trại.

Gia đình người xấu số được bồi thường.

Hành động của ông Hannawald phần nào hóa giải phẫn uất của buôn làng. Họ đã tha thứ .

Ông đứng ra nhận trách nhiệm cho thuộc cấp và tỏ ra hối tiếc về việc không hay.

Nếu không phải là ông, tôi nghĩ  mọi việc chắc chắn sẽ rất tồi tệ.

Mọi việc trở lại bình thường

Phần tôi,  tôi vẫn sợ.. Tôi SỢ lắm. Sẽ còn nhiều việc xảy ra vì ngôn ngữ bất đồng và điều đó sẽ khiến tôi không làm tốt công việc của mình. Suy nghĩ cạn cùng, viện cớ người nhà đau, tôi xin về phép . Được chấp thuận, bỏ lại cả cây đàn guitar, tôi gói ghém đồ lên chiếc C-123 chuồn thẳng. Tôi quay về B-34 và ở lỳ không dám về Bù Đốp nữa.

Bái bai Bù Đốp !!!   Bái bai Bye  A-341  !!! Tính ra , tôi ở Bù Đốp mới chỉ  mấy ngày.

Khi biết tôi không quay lại, ông Hannawald đã “Phắc” và “Cà chua” om sòm ! Sau đó , nghe nói ông đã tử trận trong một cuộc hành quân không xa trại lắm và ông được vinh thăng Thiếu tá.

Ít giòng viết về ông thay nén nhang tưởng nhớ đến người quân nhân Hoa Kỳ nhân hậu vì Tư Do của đất nước Việt Nam tôi , ông đã hy sinh.

Nghiêng mình kính cẩn vĩnh biệt Thiếu Tá HANNAWALD  C.O Det A-341

 Trước khi về làm C.O của  Bù Đốp, ông Hannawald là X.O của B-34 Phước Long. Thời gian này ông còn là Đại úy và tôi cũng đã được làm việc dưới quyền ông

Tôi trở lại trại B-34  sống cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ..

                                                                                        

Saigon 15 tháng tám 2013



DSCĐ Đinh Đỗ Chung

Dược Sư Cao Đẳng

Dân Sự Chiến Đấu

Để mỹ miều hơn ta gọi : Biệt Kích Quân hoặc Sờ Cu (SCU=Special Commando Unit)
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/08/so.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-2094129090800624608Fri, 16 Aug 2013 15:26:00 +00002013-08-18T11:07:10.950-07:00

Người đưng trước microphone Tr/Úy HY râu, người đang khom khom (không phải ngồi) là Tr/Úy Nguyễn Cao Vỹ


Chỉ một lời nói hoặc một lời hứa đôi khi cũng làm ta nhớ  đến ai đó.
Tôi muốn nhắc đến Trung Úy Nguyễn cao Vỹ và Đại Úy Đoàn kim Tuấn.
Tôi là một Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) và là thông ngôn (interprete) Tiếng Tây đọc nghe giống như “anh nói phét”. Tôi làm việc cho Trung Tá Snell (người da màu, cao nghệu) CO của FOB#1 Phú Bài.

 Công việc văn phòng rất nhàn nhã nhưng bị bó chân quanh quẩn lâu ngày trong trại khiến tôi ngán ngẩm, tôi xin qua làm việc cho Chỉ huy trưởng Tiền Doanh 1 lúc ấy là Đại Úy Đoàn kim Tuấn (Tuấn con) .
Là người miền Nam, ông ăn nói từ tốn, thích dùng câu chữ bóng bảy dạy đời.
Dáng người mảnh dẻ, đi đứng khoan thai, ông thích hợp trên bục giảng. Thật khó tin khi nghe ông từ TĐ 1/ SĐ Dù phái qua.
Những ngày Chủ Nhật, ông thường ra Huế chơi.
Tôi được ông tin cẩn nhưng không được ông ưa.
Có lẽ vì tôi có họ hàng xa với Trung úy Phạm văn Hy (Hy râu) Chỉ huy Phó của ông.
Ông ghét Hy râu vì là “thằng bắc kỳ”. Tôi bị lây.
Là một Đại úy trẻ, đẹp trai nên nhiều em mê nhưng ông là người chung thủy với vợ.
Ông quen cô Thu, người đẹp ngõ Nam Long (cầu Bạch Hổ đi thẳng qua).
Cô để tóc thề, nhỏ nhắn , chúm chím luôn miệng “anh Tuẩn..anh Tuẩn”.. chân nhảy chim sáo mỗi khi  ông đến . Một hôm ông ngủ lại nhà cô, trên giường chỉ có hai người. Sáng dậy, cô vẫn nhí nhảnh. Qua nét thơ ngây, tôi biết …ông yêu nàng như yêu một bức tranh đẹp. Chính ông cũng thú nhận như vậy. Platonique !
Còn một tháng nữa là Tết Mậu Thân.
Nhớ bạn bè, tôi lên gặp ông và xin đặt cọc được về phép Tết 07 ngày. Ông nói : “Được , tôi hứa với chú !” Lòng vui rộn rã  tôi viết thư báo tin cho bạn bè : Tết này tao sẽ về.
Ôi  Saigon, dancing Tự Do với các em Minh Sơn, Thu Hương, Thanh Thúy “tàu”, Thu “lai”.. Olympia với Kiều Chinh, Bích Ly . Mỹ Phụng với các em Trang, Thủy và cả đám bạn bè Quý lỏi, Triển, Tuấn hô, Chính đang chờ đợi.
Còn mươi ngày là Tết. Tôi chỉnh tề, chắc mẩm, lên gặp ông Tuấn để lấy phép. Thật không ngờ, tôi bị ông từ chối một cách lạnh lùng: “Không đi đâu cả, ở lại trại !” Một chén nước lạnh hắt vào mặt .
Cảm xúc khó diễn tả, nghẹn ngào, uất ức, ngỡ ngàng.
Vâng, thưa  Đại Úy ! Nghèn nghẹn trong cổ , tôi nghiêm chào và thất vọng ra về.
Những cây mai (trồng dọc bên Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa) có hoa lác đác nở. Tôi kéo cao cổ áo Field Jacket cho bớt lạnh, rút điếu Pall Mall ra đốt. Bật quẹt Zippo đến mấy lần mà cũng không cháy…gió cuối Đông quái ác cả với tôi. Vò nát điếu thuốc, tôi về phòng buông mình xuống giường chán nản.
Chỉ ít ngày nữa là giỗ ông Táo…
Tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn. Tại sao ông làm vậy ? Hay ông giận vì có lần đến thăm nhà ông, gặp vợ ông tôi buột miệng: Chào chị Thu …
Không lẽ ??
……………………………………………………………………………………
Tết Mậu Thân , Tiền Doanh 1 Phú Bài.

Ầm …ầm ..ầm …Chíu chíu..Ùng Oàng…
Việt Cộng pháo kích lung tung, vô tội vạ, bừa bãi không có mục tiêu rõ rệt !
Toàn trại được lệnh bỏ sam, ra ngoài vành đai tuyến phòng thủ.
Đêm đó, trại lãnh mấy quả nhưng chưa biết chỗ nào. Hỏa châu đầy trời, đại bác ì ầm, súng nhỏ ròn nổ gần xa.
Đang nằm căng mắt nhìn qua lỗ châu mai trong hầm trú ẩn tôi nghe lao xao và có tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ?
(George là tên mà người Mỹ gọi tôi khi cần giúp.) Tiếng gọi vẫn ý ới xen lẫn tiếng súng đại liên nổ ròn xa xa và tiếng ì ầm của pháo binh ta và hỏa tiển địch rơi vãi. Nhìn về phía Huế, những ánh lửa chớp sáng liên hồi.
Nhìn ra, tôi thấy Trung Úy Vỹ, Toán trưởng toán đặc biệt Lê Lợi (tất cả toán viên đều là ARVN, không có BKQ, đi công tác toàn xử dụng AK47) đang cùng đi với Trung Tá Snell. Tôi trèo lên, nghiêm chào . Hỏa châu lốp bốp nở sáng trên trời,  tôi thấy ông Snell lêu nghêu, đen bóng tương phản với ông Vỹ nhỏ con, trắng trẻo trông rất thư sinh mà tôi mắc cười.
Phong phanh trong chiếc áo nhái (áo lót của QĐ Hoa Kỳ) màu rêu,vai choàng khẩu AK47, ông Vỹ ngắn gọn : “ Cả hai ông Trưởng, Phó đều đi phép và kẹt lại Saigon, tôi là sĩ quan VN cao cấp nhất còn lại, Trung Tá Snell lên kế hoạch cho trại, do đó tôi cần thông dịch viên.”
Tôi không gần ông Vỹ nhiều như các ông Tuấn, Hy. Ngày ông về trại, tôi nhớ ông đã gặp chuyện với ông Hy. Ông ở bên BĐQ chuyển qua, đến trình diện ông Tuấn. Hôm ấy có mặt ông Hy. Ngỡ là đồng cấp Trung Úy, ông Vỹ sôi nổi anh anh tôi tôi với ông HY (thật ra ông Vỹ chỉ muốn chân tình, mộc mạc với đồng cấp . Ong Vỹ có tính cách chân chất,  mộc mạc đáng quý của người Nam bộ ) Nhưng ông Hy  nghiêm mặt thẳng thừng: Trung Úy phải gọi tôi là Trung Úy và dạ, thưa cho đúng mực vì tôi là Trung Úy Chỉ Huy Phó ..hiểu chưa ? . Ông Vỹ choáng váng, sượng sùng : Vâng, thưa Trung Úy !
Quả thật, ông Hy quá đáng. Cũ hù mới . Ông Tuấn hòa dịu nhẹ nhàng : Thôi đi ! Tôi bảo thôi đấy…
Từ hôm ấy tôi đâm ghét ông Hy và mến ông Vỹ. Ông vui vẻ, thẳng thắn chẳng khác  ông Trung Úy Lê Minh (Minh đen) vậy. Nghe ông Vỹ kể chuyện, bất cứ chuyện gì cũng thấy sôi nổi, ngay cả chuyện cái áo lạnh màu xanh, trắng mà người nhà của ông từ Canada gửi qua, ông cũng sôi nổi về những kỷ niệm với người gửi chứ đừng nói chi đến chuyện ông kể lại những chuyến đụng độ trong rừng. Ông hào phóng với nụ cười , do đó mọi người đều mến ông nhất là khi ông cười có thấp thoáng chiếc răng niền vàng. Tôi thấy lạ với ông Trung Úy BĐQ trắng trẻo, roi roi người có dáng thư sinh mà lại nhập qua đơn vị Lôi Hổ này. Tôi thầm nghĩ , ở nhà chắc công tử này ẻo lả lắm. Tôi lầm !!! Lầm to !
Vói tay lấy cây CAR15 , tôi bước ra theo ông Snell và ông Vỹ. Cao lêu nghêu nhưng nhanh nhẹn, ông Snell nhảy qua những giao thông hào dễ dàng. Nhỏ gọn như thư sinh nhưng ông Vỹ chẳng thua kém, ông cũng phóng qua hào, băng băng trên nóc những hầm trú ẩn. Còn tôi chậm rãi theo sau. Đến những nơi thấy không vừa ý, ông Snell trao đổi với ông Vỹ… tôi dịch lại và ông Vỹ ôn tồn nhưng sắc nét với anh em BKQ: “ Trần thấp và mỏng quá, các anh phải đắp thêm bao cát “.. Các anh nên thế này… thế khác.. Có lúc ông Vỹ dừng lại truyện trò với các anh em BKQ sau đó bước nhanh theo Trung Tá Snell và đề nghị cấp thêm nhu cầu mà anh em BKQ muốn. Tôi cảm mến vị sĩ quan trẻ này. Những ngày này ông lăng xăng khắp nơi trong doanh trại, tìm hiểu, dặn dò . Vì cắm trại 100%, không mua được đồ tươi sống, phải ăn toàn đồ hộp  nên ông cẩn thận dặn dò Trung sĩ Tốn, người phụ trách nhà ăn của Toán nên thế này, phải thế khác. Tôi phát mệt với sự chu đáo của ông . Vì mọi nhận định của ông tôi đều phải dịch lại với ông Snell và ngược lại. Tôi cũng không được nghỉ nhiều.. Mệt chẳng kém
Những ngày Tết không có Tết này, Phú Bài lạnh cóng. Đang co ro trong hầm với chiếc Poncho linen màu hoa dù, mắt căng ra qua màn đêm bỗng nghe tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ? Tiếng ông Vỹ từ xa. Nản quá, lại có chuyện nữa.. Tôi miễn cưỡng: Thưa Trung úy, tôi đây… Tiếng hỏa châu lốp bốp nổ trên trời, qua ánh sáng nhá nhem tôi thấy Trung úy Vỹ sôi nổi: Lẹ lên !..Chung , có chuyện cần xong lần này tôi thưởng cho cậu.. tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn , tôi hỏi lại:  Có quà ư ? Trung úy hứa nhé ? ra Huế ngủ đò hén? Ông nghiêm mặt : Tôi chỉ nói sẽ thưởng, nhưng tôi không hứa . Đi mau theo tôi… Đến nơi, té ra chẳng có gì quan trọng.. vài anh em BKQ ở đại đội trấn gần cổng trại vì quá lạnh, họ tháo phá những tấm lát giường để đốt sưởi ấm, HSQ an ninh trưc trại người Mỹ không hiểu nên có chuyện. Trung úy Vỹ kịp đến và tôi giúp ông giải thích.
Ông Vỹ luôn lăng xăng đây đó giải quyết việc trong trại những ngày vắng Chỉ huy trưởng, thiếu Chỉ huy phó. Lời ông nói, việc ông làm ông đều được ông thực hiện trọn vẹn. Tôi quý ông Vỹ và nhanh chóng quên chuyện ông đã nói gì ..


 Mấy ngày sau, ông Hy từ Sàigòn ra . Ông Hy cho đào một hầm CP (command post) đặt máy truyền tin để báo cáo về Sở Liên Lạc. Hạ sỹ Thương và một HSQ nữa (không nhớ tên) hằng đêm ngồi quay máy truyền tin đầu bò. Lúc ấy, ông Hy, ông Vỹ, Trung sỹ Vang, Trung sỹ Phồn và tôi cùng chơi Phé sát phạt nhau. Ngoài kia , đêm đen lạnh giá..trong hầm chúng tôi vẫn ồn ào tố Phé nhau. Ông Hy có cái máy AKAI cầm đi chuộc lại mấy lần trong đêm. Tình chiến hữu luôn đằm thắm… ông Vỹ lâu lâu bỏ ra ngoài đi vòng quanh trại thăm hỏi, truyện trò, phì phèo thuốc lá cùng anh em BKQ.
Mấy ngày sau ông Tuấn mới từ Saigon ra.
Chẳng có gì lớn lao sau đó, trừ một việc khiến tôi buồn. Tất cả các sam trong trại đều nguyên vẹn trừ sam của các Toán cháy đen vì trúng hỏa tiễn của VC. Không còn gì ngoài nên xi măng và những tấm tôn xạm khói. Tôi nhớ như in về những lá thư, những bức ảnh của Vân, người tôi yêu, lần cuối cùng đọc xong tôi cất trong ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc. Giờ đây trên nền hoang tàn, chẳng tăm tích gì còn lại.
………………………………………………………………………………

Mọi việc dần trở lại bình thường khi VC bị đánh lui, Huế được tái chiếm. Người vui vì được trở về nhà, người buồn khóc thương cho người thân bị VC sát hại. Nhưng Huế tang thương quá, Huế điêu tàn đến buốt ruột. Bao nhiêu gia đình bị mất mát người thân. Cửa nhà nát tan. Nhà thờ, đình chùa cũng thế. Đạn bom đã cướp đi mọi thứ.  Huế điêu tàn. Trong trai có nhiều nhân viên dân chính bị VC lại tận nhà sát hại. Hình như gia đình bên vợ của Đại úy Tống hồ Huấn cũng không tránh khỏi. Tất cả chỉ biết ngậm ngùi xẻ chia, nhìn nhau ái ngại. Biết nói gì !
Một hôm, Trung úy Vỹ từ Saigon ra, gọi tôi đến và nói: Quà của Chung đây ! Ngạc nhiên đến ngớ người. Tôi nhìn tờ giấy dàu vàng cuộn tròn và cái hộp vuông bé xíu như hộp quẹt. Ông nhắc: Mở ra đi ! Tôi nhíu mày chầm chậm mở tờ giấy: Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng. Tên họ đầy đủ của tôi.. bên tay kia là cái hộp nhỏ đựng mề đai . “ Tôi có làm gì xứng đáng ?” “Có đấy” Tôi nhận quà từ tay ông Vỹ lòng nhiều cảm xúc.
Tôi thấy ngượng nhưng không thể nào từ chối ông Vỹ. Tôi rất trang trọng nhưng không bao giờ đeo mề đay ấy. Trong thẳm sâu, tôi thấy ngượng nhưng tôi hiểu ông Vỹ muốn gửi gấm gì ở tôi. Tôi nhớ lại lới ông: Tôi nói chứ tôi không hứa .
Chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Lời ông Tuấn hứa và lời ông Vỹ nói.
Cám ơn Đại úy Tuấn và cám ơn Trung úy Vỹ.
Nếu ông Tuấn không hứa thì lời nói của ông Vỹ cũng chả có ý nghĩa là bao.
Nếu ông Tuấn giữ lời hứa thì tôi không có dịp để hiểu biết về ông Vỹ.
Lời hứa của người ngồi bàn giấy
Lời nói của người xông trận


Tiền Doanh một chuyển trại về CCN/Đà nẵng. Chiến đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh. Trại nằm dưới chân núi Non Nước, sát bờ biển .
Tôi làm việc dịch thuật huy chương dưới quyền Đại úy Trần lưu Huân sau lên Thiếu Tá. Ông Hy lên Đại úy và làm bên Ủy Ban Hỗn Hợp Quân Sự Bốn Bên
Ông Vỹ lên Đại úy và làm bên phòng Hành Quân ở TOC nhà đen. Ông Tuấn về Sở lên Thiếu Tá
Tôi và ông Vỹ vẫn thăm hỏi nhau, có lần uống bia nữa. Thi thảng thôi !
Ong Hy ở xa về có tặng tôi một bê rê đỏ hiệu Plein Ciel (mũ đúc của Pháp).
Một tối, đang hát hò trong đám có cả ông Hy, bỗng nghe tin ông Vỹ bay Covey, máy bay  trúng đạn địch rơi tan xác.
Căn phòng bỗng lặng. Mọi người nhìn nhau không nói.
Ông Hy buông cuốn tập nhạc sững sờ. Tôi ngưng đàn, cổ họng khô đắng.
Chúng tôi ai nấy về sam của mình. Lòng trĩu nặng tôi ngoái nhìn ông Hy. Có giọt nước long lanh nơi khóe mắt của ông râu. Ai bảo Lôi Hổ không biết khóc ? Sóng biển vỗ bờ nghe như tiếng gào..



“Tôi nói chứ tôi không hứa”…Nhớ lại lời ông Vỹ .
Hai động từ Nói và Hứa không liên quan với nhau nhưng với tôi chúng mang nhiều cảm xúc mỗi khi phải dùng tới.
Nguyện xin linh hồn cố Thiếu Tá NGUYỄN CAO VỸ yên ả trên cõi vĩnh hằng.


Ở bên VN này, mỗi khi đi ngang qua Sở cũ, tấm bảng viết Trại NGUYỄN CAO VỸ không còn nữa, nhưng chúng tôi những người biết anh thì không bao giờ quên anh được. 

Lần đầu tiên kể về một chuyện trong đời Lôi Hổ .






http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/08/noi-va-hua.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)17tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-760457411337480200Thu, 04 Apr 2013 02:31:00 +00002013-04-03T20:20:40.461-07:00
Team Idaho trại Hồ Ngọc Tảo B53 / 1967

Team Idaho CCN Phú Bài Huế John Meyer đứng bên trái, Anh Sáu đứng chính giữa, Hiệp đội nón đen và mang kính đen

Team Idaho CCN / Chiến Đoàn 1 Xung Kích
Team Idaho / John Meyer / Hiệp nón đen  / Anh Sáu
Team Idaho MACV-SOG VIP Visit Hiệp bắt tay với The General



Team Idaho 1967 / CCN

Hoa Pham & John Meyer President of SOA ( Las Vegas 2011)

Nguyễn Hùng Anh CCC, CCN Nguyên, Hiệp CCN team Idaho,
219 Dương Ngọc Như, 219 Phạm Văn Thận, Nguyễn Na CCN,
219 Gunship Đặng Quỳnh, One Zero Phạm Hòa team 723
SOAR Convention Las Vegas 2011
http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/04/team-idaho-chien-oan-1-xung-kich.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-4360254560570790394Thu, 28 Mar 2013 07:15:00 +00002014-03-19T17:45:10.537-07:00



Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.

Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.

Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.

Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.

Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.

Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.
Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.

Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.

Giữa cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.

Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rõ những trái sáng.

Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.
Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì anh đã nhắm mắt ra đi.

Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.

Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.

Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1/2/1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải.

Không quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau:
Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã gào to lên:
- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.

Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.

Phạm Phong Dinh
https://vietbao.com/a236900/mot-bi-an-can-tiet-lo-trong-chuyen-buc-tu-mien-nam-nam-1975 Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975 27/04/201512:29:00(Xem: 13327) Trần Viết Đại Hưng MỘT BÍ ẨN CẦN TIẾT LỘ TRONG CHUYỆN BỨC TỬ MIỀN NAM NĂM 1975 (Cập nhật hóa 03/04/2005) Miền nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản đến nay cũng đã hơn 25 năm. Biết bao nhiêu cuốn sách đã viết để nói lên sự thất trận của miền nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại làm sao một quân đội gồm một triệu quân binh hùng tướng mạnh như thế lại có thể sụp đổ chỉ trong vòng có 55 ngày. Có phải quân cộng sản miền Bắc quá tài giỏi chăng? Chắc chắn là không phải như vậy, quân miền Nam đã đương đầu ngang ngửa với miền Bắc trong suốt bao nhiêu năm trời. Quân đội miền Nam đã từng tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay Bắc quân, từng giữ vững An Lộc trong khi bị mỗi ngày từ 8000 đến 10000 trái đạn pháo, thế thì tại sao miền Nam lại sụp đổ quá mau chóng trong trận chiến năm 1975. Phải chăng có một âm mưu bức tử miền Nam? Câu hỏi này đã có nhiều người nói đến nhưng chưa ai trưng ra được bằng chứng cụ thể về chuyện bức tử miền nam. Bài viết này nhằm tiết lộ một bí mật lịch sử nhằm trả lời cho câu hỏi đó. Tôi đến Mỹ năm 1980 . Tình cờ đi thuê phòng ở gia đình một người Việt Nam trong vùng Los Angeles thì gặp được người chủ nhà người Nam tên HTH. Ở chung nhà với nhau anh có kể cho tôi nghe chuyện anh ra khỏi Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1975 như thế nào và những lời anh kể đúng là chứng liệu lịch sử giúp người Việt nhìn lại biến cố 1975 với tất cả những sự thật trần trụi, phũ phàng của nó. Anh H kể rằng lúc Đà Nẵng bị tràn ngập thì anh tìm cách đi xà lan ra khơi để cặp vào tàu lớn.(Anh vốn là một thanh tra hành chánh, đang làm công việc thanh tra tại Đà nẵng vào những ngày chiến trận sôi động tại Đà Nẵng.) Lúc lên tàu thì anh gặp được Trung tướng Ngô quang Trưởng đang ở trên tàu. Theo như anh nghe lại những người trên tàu kể lại là lúc tướng Trưởng lên tàu, ông bị ngất xỉu. Ông được một bác sĩ quân y tên Ngô quang Nghiêm chích cho một mũi thuốc khỏe và tướng Trưởng tỉnh lại. Lúc gặp anh H bạn tôi trên tàu, tướng Trưởng có nói một câu như thế này " Tôi không ngờ tình tình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự." Có thể giải thích câu nói này một cách đầy đủ là " Sự sụp đổ quá nhanh chóng của vùng 1 là do sự dàn xếp chính trị chứ tình hình quân sự không thể nào diễn tiến tồi tệ đến như vậy". Tướng Trưởng hiện nay định cư tại Virginia và Bác sĩ Ngô quang Nghiêm hiện đang ở tiểu bang Texas. Ai muốn tìm hiểu sự trung thực của câu chuyện kể trên, xin liên lạc để kiểm chứng với tướng Trưởng và Bác sĩ Nghiêm. Trung tướng Ngô quang Trưởng là một trong những tướng lãnh giỏi và xuất sắc nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tài nghệ dụng binh của ông đã để lại những câu chuyện trở thành huyền thoại. Năm 1968, cộng sản chiếm thành phố Huế trong vòng 25 ngày. Ông Trưởng lúc ấy đóng tại đồn Mang Cá tại Huế. Những cuốn sách của Cộng sản xuất bản sau 1975 nói về trận đánh Huế cho biết Cộng sản đã nhiều lần cho quân xung phong để chiếm cho được đồn Mang cá do Ngô quang Trưởng chỉ huy nhưng lần nào cũng thất bại và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều. Ông Trưởng giữ vững đồn Mang Cá cho đến khi thành phố Huế được quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm trở lại. Đại tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, một anh hùng của Mỹ trong trận chiến vùng vịnh với Saddam Hussein, sau khi về hưu có viết một cuốn hồi ký tên " It does not take a hero " ( Không cần có một anh hùng) kể lại cuộc đời binh nghiệp của ông từ nhỏ cho đến khi ông về hưu. Ông không quên nhắc đến tướng Ngô quang Trưởng với sự thán phục về tài điều khiển hành quân của tướng Trưởng . ( Lúc qua Việt Nam, tướng Schwarzkopf là thiếu tá, làm cố vấn cho Đại tá Ngô quang Trưởng). Trong cuốn hồi ký có những đoạn đề cập đến Tướng Trưởng như sau: " ...Colonel Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my ideas of a military genius: only five feet seven, in his midforties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops- and feared by those North Vietnamese commanders who knew his ability. Any time a particular tricky operation came up, Dong put him in commamnd. ( Trang 122) " Tạm dịch : Đại tá Ngô Quang Trưởng là tham mưu trưởng của tướng Đống ( Dư quốc Đống). Ông ta không giống hình ảnh một thiên tài quân sự mà tôi thường nghĩ đến : cao chỉ 5 bộ 7 ( chừng 1m70), ở lứa tuổi giữa bốn mươi, rất ốm, với lưng gù và có cái đầu dường như quá to so với thân hình của ông. Gương mặt ông nhăn nhúm và rắn rỏi, không đẹp trai tí nào cả, và trên miệng ông luôn có điếu thuốc lá nằm ở đó. Thế mà ông được những viên chức và binh lính của ông kính nể - và làm kinh sợ những cấp chỉ huy của miền Bắc, những người biết khả năng của ông. Bất cứ khi nào có một chuyện hành quân mưu mẹo đặc biệt nào đó xảy ra, Đống đặt ông vào nhiệm vụ chỉ huy). " ....Simply by visualizing the terrain and drawêing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do." ( Trang 123) " ... Chỉ đơn giản hình dung ra địa thế và moi lại kinh nghiệm chiến đấu chống kẻ thù trong mười lăm năm, Trưởng đã chứng tỏ khả năng kỳ lạ của ông trong chuyện tiên đoán chúng sẽ làm gì." " I'd never heard anything like this at West Point. I was thinking, " What's all this about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that way?" But i also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene." ( Trang 123) " Tôi chưa từng nghe thấy điều gì như thế này tại trường võ bị West Point. Tôi nghĩ " Cái gì mà 8 giờ và 11 giờ thế này ? Ông ta sắp xếp trận đánh kiểu gì đây? " Nhưng tôi cũng nhận ra được nét đại cương của kế hoạch của ông : Trưởng đã tái sáng chế ra cái chiến thuật mà Hannibal đã dùng vào năm 217 trước Công Nguyên khi ông bao vây và tiêu diệt quân đoàn La Mã trên những bờ hồ Trasimene." Những lời ca ngợi của đại tướng Schwarzkopf về tướng Trưởng nói trên đủû để xác định tướng Trưởng là một thiên tài quân sự. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng chính là người chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm lại thành phố Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Thế thì vùng 1 sao lại mất quá dễ dàng vào tay cộng sản trong tháng 3 năm 1975. Nhìn lại tình tình lúc đó thì rõ ràng tướng Trưởng đã lọt vào một " mê hồn trận " do Saigòn đề ra khiến ông không còn chủ động để điều binh khiển tướng được nữa. Những lệnh bất nhất từ Sài gòn đưa ra như bảo giữ Huế rồi lại ra lệnh bỏ Huế, bảo giữ Đà Nẵng rồi lại ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Những lệnh quái gỡ như thế đã trói tay thiên tài quân sự Ngô Quang Trưởng và kết quả là vùng 1 đã mất vào tay Cộng Sản mà quân đội miền Nam tại vùng 1 chưa có dịp để đánh trận nào cả. Với con mắt của người chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, tướng Trưởng đã nhìn thấy rất rõ âm mưu giật sập miền Trung của Sàigòn cho nên ông mới thốt ra câu nói " Tôi không ngờ tình hình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự"với anh bạn tôi. Mấy năm trước đây, báo chí Việt ngữ hải ngoại có tìm gặp Trung tướng Ngô quang Trưởng để tìm hiểu về chuyện tan rã của quân đoàn 1 vào tháng 3 năm 1975, tướng Trưởng đã thẳng thắn kể lại những chuyện xảy ra đối với quân đoàn 1 do ông chỉ huy. Những lời kể của ông được nghệ sĩ Lê bá Chư ghi lại trong bài viết mang tên " Vì sao tôi bỏ quân đoàn 1" có nội dung như sau: " Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng ( Trần thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn 1 càng sớm càng hay. Trở ra quân đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào như ý tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. Cái sai lầm của Trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn v..v đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, Đại tướng Cao văn Viên, tôi ( tư lệnh Quân doàn 1), và tư lệnh Quân đoàn 2 ( tướng Phạm văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban mê Thuộc, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng. Tôi ra lệnh cho tướng Trần văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn ( Cù Lao Ré) để kiểm soát đường biển, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua, tuyên bố với lòng dạ sắt đá, nói cứng rắn với anh em là quyết giữ để không mất một tấc đất ở vùng 1 là một chuyện thật khó làm. Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao văn Viên nhờ xin tổng thống Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều. Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm quang Thi ( tư lệnh phó Quân đoàn 1) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao văn Viên thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi " bỏ Huế". Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay, " Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời, " Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng. Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển, từ công việc hành chánh đến quân sự.. Tình hình khó khăn, địch tấn công mà lại thêm cái lệnh " phải rút càng sớm càng tốt " lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3 năm 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho tập họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu và các trưởng phòng sở hành chánh để thủ tướng nói chuyện. Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình mà giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ " trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong đến phần thắc mắc thì cũng có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, tình trưởng Quảng Trị, có hỏi một câu, " Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở, không đến làm việc, thế thì phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân khu 1 càng sớm càng tốt. Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu đang chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát, làm sao tôi có thể làm chuyện tái chiếm đó được ( tái chiếm Đà Nẵng) ?Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ cho một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi. Tôi nhờ hạm trưởng gọi về bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng, nghĩ ngơi cùng tôi. Còn không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến để cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn. Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây tôi gặp phó đề đốc Hồ văn Kỳ thoại ( tư lệnh Hải Quân vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn văn Khánh ( tư lệnh sư đoàn 1 không Quân) và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vây. Họ đâu có tội gì, họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật là bất công. Tướng Thi thật sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước khi nghe tôi cho biết là tồng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng, " Xã ấp còn tốt quá mà bỏ chạy là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng như tướng Thi bị phạt oan uổng trong khi họ còn xứng đáng hơn gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn ở Sài Gòn. Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng tham Mưu, tôi có nói rằng, " Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua tướng Trần văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn mới đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế để rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê nguyên Khang buột miệng nói với giọng giận dữ, " Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả! " Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp của tướng Thoại và tướng Khánh. Với chức tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên, không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, khi họ thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ liền ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh , tư lệnh sư đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn." Lời trần tình của tướng Trưởng như thế cũng đã quá rõ ràng và đầy đủ. Những lệnh bất nhất từ Sài Gòn do Thiệu đưa ra không phải là do Thiệu bối rối mà là một sự tính toán tinh vi để giật sập Quân Đoàn 1 mà tướng tài giỏi Ngô quang Trưởng đành phải bó tay, không xoay sở gì được. Không những đánh giặc giỏi, tướng Ngô quang Trưởng lại là một người cực kỳ thanh liêm, được sự quý mến của dân và quân dưới quyền, ông không bao giờ dính dáng vào những chuyện tham nhũng xấu xa như những tướng lãnh khác. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thật hãnh diện khi có những tướng lãnh vừa cầm quân hay vừa thanh liêm như Ngô quang Trưởng, Nguyễn khoa Nam. Nếu Mỹ không bỏ cuộc thì vùng 1 do tướng Trưởng nắm và vùng 4 do tướng Nam chỉ hay sẽ không bao giờ thất thủ trước quân đội Cộng sản. Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động? Có người còn cho rằng Thiệu bị " tháu cáy " lúc giật sập Quân đoàn 1 và 2 vì Thiệu tưởng khi để mất vùng 1 và 2, chính phủ Mỹ sẽ xúc động và viện trợ khẩn cấp nhiều hơn, không ngờ Mỹ quyết định bỏ rơi luôn Miền Nam. Và vì lý do đó mà Thiệu lên truyền hình chửi rủa Mỹ thậm tệ vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 khi Thiệu biết mình bị " tháu cáy" trong ván bài cân não với Mỹ. Dù sao đây cũng chỉ là một sự phỏng đoán. Hy vọng với thời gian sẽ có nhiều tài liệu được công bố thì mới biết được chuyện Thiệu có bị " tháu cáy" hay không? Trước khi vùng 1 thất thủ, thì ở vùng 2, toàn bộ Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hòa bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng Quân đoàn 2, sau này ra hải ngoại có lên một đài phát thanh và kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông, " Thôi rồi, bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa." Một thiếu tá pháo binh bày tỏ sự tức giận với ông Lý, " Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này." Chuyện kể của tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hòa thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài gòn. Ông Thiệu giật sập vùng 1 và vùng 2 với dụng ý gì? Phải chăng là tạo sự xúc động trong chính trường Mỹ để quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp để cứu miền Nam hay còn vì một lý do nào khác? Ông tự ý hành động hay làm theo lời của Mỹ? Có phải Mỹ muốn ông Thiệu giật sập miền nam càng sớm càng tốt để thế giới khỏi trong thấy thêm những cảnh thương tâm do chiến tranh gây ra để rồi lên án Mỹ thêm? Nếu ông một mình tự ý hành động, phải chăng đây là hành động " tái phối trí " và " di tản chiến thuật " để co cụm lại sức lực quân đội miền Nam nhằm đối phó với cuộc tổng tấn công của cộng sản? Nếu hành động theo lời Mỹ thì tại sao ngày 21 tháng 4 năm 1975 ông lên đài truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là bất tín, nào là bội ước, thất hứa, để rồi sau đó vài ngày ông và gia đình được Mỹ " bồng" ra ngoại quốc một cách nhẹ nhàng êm thắm. Liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở kịch mà ông đóng quá hay không? Những câu hỏi này chỉ có Mỹ và ông Thiệu mới có thể trả lời nhưng ông Thiệu và Mỹ có lẽ sẽ không bao giờ trả lời những bí mật đen tối của lịch sử này. Lúc cùng gia đình đi phi cơ tới Đài Loan, được báo chí hỏi về trách nhiệm của ông trước sự hấp hối của miền Nam, Tổng thống Thiệu trả lời: " Đó là tất cả tôi có thể làm cho quê hương của tôi!" Lời nói vô liêm sỉ này của Thiệu được Trần văn Trà, thượng tướng của Việt Cộng, nhắc lại trong hồi ký " Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm " và phê bình lời nói trên của Nguyễn văn Thiệu như sau, " Đó là khẩu khí của một tên tổng thống ngụy quyền !" Cách đây mấy năm lúc được Đài radio Bolsa của Việt Dzũng phỏng vấn nhân ngày 30 tháng 4. Ông Thiệu không dám để cho Việt Dzũng tự ý hỏi mà bắt Việt Dzũng phải đưa cho ông những câu hỏi trước rồi ông chọn câu hỏi mà trả lời. Phải chăng ông ngại là sẽ có những câu hỏi bất ngờ sẽ làm ông lúng túng khi trả lời và không khéo sẽ làm lòi ra cái tội giật sập miền Nam của ông ?. Có điểm cần lưu ý thêm là ông Thiệu đã giật sập luôn Tổng đoàn Bảo An của Phật giáo Hòa Hảo trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, đây là một lực lượng chống cộng quyết liệt tại miền Tây. Điều này càng chứng tỏ âm mưu giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu quá sức rõ ràng. Thiệu giật sập miền Nam theo lệnh Mỹ hay giật sập miền Nam theo sự suy tính của mình và với mục đích gì thì phải cần thêm thời gian và tài liệu được công bố mới có thể trả lời được câu hỏi hóc búa này. Trong cuốn " Đại thắng mùa xuân " của Đại tướng cộng sản Văn tiến Dũng, mặc dù huênh hoang khoe tài chỉ huy quân sự của y nhưng y cũng tiết lộ thêm là khi mở đầu trận đánh vào Ban-Mê-Thuộc vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ chính trị của Đảng cộng sản cũng chỉ tiên liệu rằng cũng phải mất 2 năm 1975 và 1976 mới dứt điểm được miền Nam. Không ngờ sau trận Ban-Mê- Thuộc, quân Cộng Sản tới đâu thì quân Cộng Hòa đã chạy trước rồi, thành ra thời gian tiên liệu chiến thắng miền Nam trong vòng 2 năm thì thu ngắn lại còn 55 ngày. Sự ngỡ ngàng của Văn tiến Dũng đã phần nào nói lên sự giật sập quân đội miền Nam có tính toán của chính quyền Nguyễn văn Thiệu. Quân đội cộng sản chỉ khựng lại ở mặt trận Xuân Lộc vì ở đây sư đoàn 18 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Lê minh Đảo đã được lệnh đánh và đã cầm chân ngay 3 sư đoàn Bắc quân. Và khi quân đội miền Bắc muốn tiến mau hơn nữa thì ăn ngay mấy trái bom hút không khí CBU làm kinh hoàng cán binh cũng như cấp lãnh đạo cộng sản tại mặt trận. Mỹ muốn dằn mặt bộ đội cộng sản là họ cần thì giờ để di tản số người Mỹ còn lại ở Saigòn. Cho nên mặt trận Xuân Lộc cứ dằng dai cho đến khi Mỹ rút gần hết số nhân viên ở Sài gòn thì mới " được lệnh " thất thủ. Không phải đợi đến những ngày cuối tháng 4 toàn dân miền Nam mới thấy được bộ mặt tồi bại, xấu xa, hèn hạ và vô liêm sĩ của Nguyễn văn Thiệu. Gần mười năm ăn trên ngồi trốc trong dinh Độc Lập, khi giặc đến gần kề thì cùng gia đình và tài sản thu tóm được trong những năm cầm quyền lên phi cơ và ca bài " Được làm vua, thua chạy trước." Trong thời chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đăng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột " Nguyễn văn Thiệu. Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lủa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống cộng do Mỹ dựng nên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy.. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân, bỏ dân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sĩ và danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Nguyễn cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo xa gần là Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa úp mở này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào hiệp định Paris dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản . ( Xin đọc kỹ cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Độc Lập " của Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký ). Trùm xịa Polgar không muốn Kỳ đảo chánh để đối đầu với Bắc quân vì làm như thế là cản trở chuyện giật sập miền nam của Mỹ thế thôi. Vào khoảng năm 1977, lúc đang còn ở Anh quốc, khi được những ký giả hỏi về tình cảnh của những người Việt đi vượt biển thì Nguyễn văn Thiệu trả lời một câu bạc bẽo, bất cận nhân tình và cạn tàu ráo máng với đồng bào Việt Nam như thế này: " Tôi không có dính dáng gì đến họ cả "( I have nothing to do with them). Cuộc đời của Nguyễn văn Thiệu được coi là một cuộc đời tốt số: vợ đẹp, con ngoan, quyền thế, giàu có nhưng Nguyễn văn Thiệu có một chỗ ngồi khá buồn trong lịch sử, đó là :thùng rác của lịch sử. Đối với những kẻ việt gian bán nước hại dân như Thiệu, thiết tưởng không còn chỗ ngồi nào sạch sẽ hơn dành cho ông ta. Miền nam sụp đổ năm 1975, nhân dân miền Nam đau đớn đã đành, thế nhưng ở tại miền Bắc, có một người tù tên Nguyễn chí Thiện đã tỏ bày những tình cảm đau đớn, uất hận như sau: Khi Mỹ chạy, bỏ miền Nam cho cộng sản Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn! Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn Không giành cho thế lực yêu gian Tuyệt vọng dẫu lan tràn Hy vọng dẫu tiêu tan Dân nước dẫu đêm dài ai oán Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván Âm thầm, thâm tím,kiên gan Biến trái tim thành " chiếu yêu kính" giúp nhân gian Nhận rõ nguyên hình cộng sản Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn Thắng không gian, và thắng cả thời gian Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han! Khi Mỹ chạy (1975) Miền Nam chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm ( 1954-1975) . Miền nam được sự hỗ trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, thô bỉ, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4. Tổng thống Nixon trong những cuốn sách của ông đã có lần nhắc lại lời nói của một vài lãnh tụ của những nước ở Đông nam Á đã có một nhận định phũ phàng cay đắng về Mỹ : " Thà là kẻ thù của Mỹ hơn là bạn của Mỹ." Nếu chúng ta đánh giá Cộng sản là bọn " lừa thầy phản bạn" thì cũng có thể nói Mỹ là một thứ " phản bạn lừa thầy ". Cứ xem chuyện Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam và chuyện Mỹ đá Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc để dành chỗ cho Trung Cộng thì mới thấy người ta phê phán Mỹ bằng những danh từ bẩn thỉu, tàn tệ nhất cũng không có gì là quá đáng. Thật ra Mỹ quốc mới lập quốc mới trên 200 năm, dân lập nghiệp toàn là dân tha hương tứ xứ, ăn ở theo lối " ăn xổi ở thì" thì làm sao nước Mỹ gây dựng nổi một truyền thống ăn ở theo lối thủy chung, trước sau như một được. Hy vọng dần dà qua ngày tháng người Mỹ sẽ nhận ra rằng có những điều danh dự, tính thủy chung bè bạn, sự tự trọng của một quốc gia còn quí giá hơn nhiều những lợi nhuận nhất thời trước mặt. Không xây dựng được một uy tín thì trước sau gì cũng thất bại trên mặt trận ngoại giao và sẽ dẫn đến những thất bại khác. Đầu óc thực dụng của Mỹ chỉ thành công trong thời gian hiện tại và đôi khi sẽ gây mầm nguy hại về lâu về dài. Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một bài học nhục nhã và người Mỹ sẽ tiếp tục bị thất bại nếu không rút tỉa ra những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã phạm trong chiến tranh Việt Nam. Điều cần nhất là Mỹ phải hiểu rõ những điều điện văn hóa, nhân sinh của một nước trước khi dính líu đến nước đó. Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ muốn độc đoán điều hành mọi chuyện, kể cả chuyện đưa quân Mỹ vào miền Nam làm mất chính nghĩa của miền Nam mà Tổng Thống Ngô đình Diệm lúc còn đương quyền đã cực lực phản đối. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam có lẽ cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu. Thượng bất chánh thì hạ tắc loạn, toàn miền Nam trở thành những ổ tham nhũng khắp mọi ngành làm tiêu hao sinh lực trong chuyện chống cộng. Phó tổng thống Trần văn Hương hồi đó cũng đã than thở về chuyện tham nhũng một cách cay đắng, " Diệt hết tham nhũng thì lấy ai ra mà làm việc." Miền Nam ngày xưa sụp đổ phần nào cũng vì tệ nạn tham nhũng và Việt Nam bây giờ cũng chẳng có gì khá hơn. Câu nói của cộng sản " Người người thi đua, ngành ngành thi đua " trở thành " Người người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng" . Mức độ tham nhũng bây giờ còn khủng khiếp hơn trăm ngàn lần ngày xưa, đến nỗi cộng sản phải thú nhận chuyện tham nhũng trở thành quốc nạn. Cộng sản rồi cũng sẽ sụp đổ một phần nào cũng do quốc nạn này. Quả thật, nếu không học những bài học của lịch sử thì sẽ phải lập lại những vết xe đổ của lịch sử và cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát vì những lỗi lầm của chế độ miền Nam mà họ đã đánh ngã. Sau khi miền Nam sụp đổ năm 1975, có nhiều dư luận tìm cách đưa ra những nguyên nhân khiến Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Một trong những lý lẽ đưa ra là Mỹ, sau khi bắt tay được với Trung Cọng mà điển hình cho chuyện này là chuyến công du Trung Cộng của Tổng thống Nixon nên Mỹ không còn quan tâm đến chủ thuyết Domino ở Đông nam Á nữa. Hơn nữa, thị trường thương mại của 1 tỉ người Trung quốc sẽ béo bở hơn nhiều so với 17 triệu dân miền Nam Việt Nam. Đây cũng là một cách giải thích nhưng chuyện Mỹ quyết định rút khỏi miền Nam đã được nói rõ trong hồi ký của Tổng thống Nixon trong hồi ký của ông. Lúc ông Nixon đang làm tổng thống thì trung bình quân Mỹ thiệt hại chừng 400 người mỗi tuần. Có lần tờ báo Life đã đăng hình 400 người lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần ở chiến cuộc Việt Nam và điều này làm cả nước Mỹ xúc động lớn lao. Mạng Mỹ bao giờ cũng có giá hơn mạng Việt Nam, máu của Việt Nam bao giờ cũng rẻ hơn máu Mỹ. Ngày xưa, trong thời gian đánh Pháp, Hồ chí Minh có tuyên bố với báo chí ngoại quốc rằng, " Nếu mười người Việt Nam chết đi để lấy mạng một binh sĩ Pháp thì cuối cùng rốt cuộc Pháp cũng sẽ là phía thua trận. " Chuyện người Việt Nam chết bao nhiêu trong chiến tranh là chuyện không đáng quan tâm đối với những nhà lãnh đạo Bắc bộ phủ nhưng số tổn thất sinh mạng của lính Mỹ dần dà trở nên một sự mất máu mà Pháp trước đây và Mỹ ngày nay không thể chịu đựng nổi. Phong trào phản chiến ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, nhân tâm càng ly tán. Rồi lại còn trên 500 tù binh Mỹ đang mỏi mòn trong tù ngục tại Bắc Việt. Cao điểm trong chuyện biểu tình phản chiến là chuyện vệ binh quốc gia bắn chết 4 sinh viên tại đại học Kent làm cả nước Mỹ xôn xao, xúc động . Lãnh tụ đa số của thượng viện Mỹ lúc đó là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đến gặp Tổng thống Nixon và nói " Tổng thống phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ không thể chịu đựng thêm được nữa. " Ghi nhận lời nói của lãnh tụ đa số thượng viện Mansfied, ông Nixon quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông kêu gọi Bắc Việt trở lại hòa đàm Paris. Cộng sản làm cao không nhân nhượng. Ông Nixon quyết định dùng pháo đài bay B52 dội bom suốt 12 ngày đêm vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1972. Hà Nội thấm đòn bom B52, bắn tiếng với Mỹ xin hòa đàm trở lại. Và thế là hiệp định hòa bình Paris năm 1973 ra đời. Mỹ chỉ muốn rút khỏi Việt Nam " trong danh dự " và họ đã hoàn thành nguyện ước. Hiệp định Paris năm 1973 được coi như bản văn Mỹ bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Tổng thống Thiệu thấy rõ điều ấy, lúc đầu dùng dằng không chịu ký, nhưng rồi dưới áp lực của Mỹ , Thiệu cũng đành ký với hy vọng mong manh rằng Mỹ sẽ giữ lời hứa tái can thiệp trở lại nếu cộng sản vi phạm hiệp định. Tất cả những chuyện này có trình bày rõ trong cuốn sách " Hồ sơ Dinh Độc Lập" ( The Palace File) của tiến sỹ Nguyễn tiến Hưng, một tổng trưởng của Tổng thống Thiệu. Sau khi hiệp định ký xong, Mỹ lấy được tù binh về thì cộng sản tiến hành ngay cuộc tổng tiến công để chiếm lấy miền nam vì chúng biết rằng Mỹ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Lúc Trần văn Trà ra Hà Nội họp để chuẩn bị cuộc tổng tấn công, Phạm văn Đồng nhận xét như thế này " Bây giờ có cho kẹo Mỹ cũng không trở lại Việt Nam nữa." ( 1). Phạm văn Đồng đã nhận xét đúng. Lúc cộng sản đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long là nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ bất động không phản ứng và chuyện này làm cho Hà Nội thêm vững niềm tin trong chuyện mở ra chiến dịch tiến chiếm miền Nam. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một cơn đại hồng thủy đối với nhân dân miền Nam. Cả miền Nam vỡ tung ra như một đàn ong vỡ tổ, gia đình nào cũng tan tác, đau thương. Mấy trăm ngàn sĩ quan và viên chức hành chánh miền Nam chết dần chết mòn trong những trại tù tập trung cải tạo tàn ác của cộng sản. Hai mươi lăm năm trôi qua đủ để cho người miền Nam thấy rõ bản chất thâm độc, lưu manh của bạo quyền Hà Nội. Nhưng dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ bị khuất phục. Những hoạt động chống đối âm ỉ vẫn tiếp tục và cho đến giờ phút này thì Phật giáo Hòa Hảo đã coi như tuyên chiến với Cộng Sản. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã mổ bụng phản đối bạo quyền. Máu tranh đấu của người dân Việt đã đổ, hy vọng sự đứng dậy tranh đấu của Phật giáo Hòa Hảo là cái mồi lửa châm vào thùng thuốc súng đã nén lại trong 25 năm qua để rồi có thể nổ tung và đốt cháy bạo quyền trên toàn quốc. Chế độ đàn áp của cộng sản đến giờ phút này dường như không còn hiệu quả trong chuyện trấn áp quyền sống, quyền tự do của con người. Càng đàn áp thì lại càng rút ngắn thời gian cai trị của bạo quyền. Khi người dân hết tin chính quyền thì chính quyền dứt khoát phải đổ, vấn đề bây giờ là chuyện thời gian mau hay chậm thế thôi. Bùa phép, mưu ma chước quỷ của cộng sản đến giờ này không còn hiệu nghiệm vì nói chung tâm thức của bộ đội và cán bộ ngày càng rã rời tê liệt đến mức không còn huy động vào chuyện đàn áp được nữa. Ai cũng thấy rõ kẻ thù của dân tộc là những tên đầu nậu nằm tại Bắc bộ phủ chứ không phải là thành phần dân tộc đang tranh đấu. Cụ Phan bội Châu, một nhà đại văn hào cách mạng cả cuộc đời lo chuyện cứu nước, lúc về tuổi xế chiều, đã căn dặn lại cho quốc dân, " Vọng ngoại tắc tử " , đừng bao giờ mong mỏi người ngoại quốc đến cứu nước mình. Miền nam vì hoàn cảnh nghiệt ngã, đã phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại, rốt cuộc c ũng bị Mỹ bỏ rơi một cách không thương tiếc và cuối cùng bị bức tử một cách đau đớn vì nhu cầu quyền lợi của Mỹ. Trong công cuộc đánh đổ cộng sản để cứu nước hôm nay, chuyện tranh thủ những lực lượng quốc tế là chuyện cần làm, nhưng không vì thế mà trở thành tay sai của những thế lực ngoại bang, vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành một Lê chiêu Thống thứ hai, đi làm chuyện " cõng rắn cắn gà nhà", làm hại quê hương và đồng bào. Công tác ngoại vận không thể biến thành sự nô lệ các thế lực ngoại bang mà lịch sử dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Và khi thấy rõ sự nguy hại của nó thì phải tránh bằng mọi giá. Trong thời điểm bây giờ, phải tận lực để theo đuổi chuyện đánh đổ cộng sản ở quê hương, đừng có ngồi mà trông ngóng Mỹ nói riêng và các nước Tây phương nói chung bật " đèn xanh , đèn đỏ". Ngồi đó mà trong ngóng ngoại bang bật " đèn xanh, đèn đỏ" chỉ càng tỏ lộ thêm " tâm thức nô lệ" mà thôi. Còn mang tâm thức nô lệ hèn kém này trong người thì ngày quang phục quê hương sẽ còn xa xôi diệu vợi. Miền nam mất là một vết thương đau đớn của chúng ta ( Miền nam ơi từ buổi tiêu tan. Ta sống trọn vẹn ngàn cơn thác loạn (2) ). Vết thương đau theo thời gian rồi cũng sẽ lành. Sự đau thương than khóc giờ đây đã nhường lại cho sự khôn ngoan tỉnh táo để tìm ra những phương cách nhằm quật ngã bạo quyền đang trên bờ vực thẳm. Mỗi người dân Việt, trong cũng như ngoài nước, đều phải đổ sức, đổ công, đổ máu vào cuộc chiến đấu quyết liệt cuối cùng này để quê hương Việt Nam còn có một ngày mai. Cuộc đời rồi ai cũng phải chết, nếu được chết đễ gỡ xích xiềng cho đồng bào ruột thịt, cho tổ quốc có một tương lai tươi sáng thì chuyện chết không phải là một chuyện phải ngại ngần. Bóng tối u ám, chết chóc của chủ nghĩa cộng sản đã bao trùm lên quê hương Việt Nam thương đau đã trên nửa thế kỷ, ngày đồng bào vùng lên một mất một còn với bạo quyền cộng sản là ngày vầng dương lại ló dạng trên đất nước thương yêu. Những tia nắng le lói đầu ngày đó sẽ là những niềm hy vọng trào dâng trong lòng mỗi người Việt Nam sau bao tháng năm đau thương, tàn lụi.... Lawndale, một sáng đầu xuân lành lạnh trung tuần tháng 4 năm 2002 TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG (1) Hồi ký " Kết thúc cuộc chiến 30 năm"của Trần văn Trà (2) Trich từ bài thơ " Vì ấu trĩ " của Nguyễn chí Thiện

MỘT BÍ ẨN CẦN TIẾT LỘ  
TRONG CHUYỆN BỨC TỬ  
MIỀN NAM NĂM 1975


(Cập nhật hóa 03/04/2005)

 Miền nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản đến nay cũng đã hơn 25 năm. Biết bao nhiêu cuốn sách đã viết để nói lên sự thất trận của miền nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại làm sao một quân đội gồm một triệu quân binh hùng tướng mạnh như thế lại có thể sụp đổ chỉ trong vòng có 55 ngày. Có phải quân cộng sản miền Bắc quá tài giỏi chăng? Chắc chắn là không phải như vậy, quân miền Nam đã đương đầu ngang ngửa với miền Bắc trong suốt bao nhiêu năm trời. Quân đội miền Nam đã từng tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay Bắc quân, từng giữ vững An Lộc trong khi bị mỗi ngày từ 8000 đến 10000 trái đạn pháo, thế thì tại sao miền Nam lại sụp đổ quá mau chóng trong trận chiến năm 1975. Phải chăng có một âm mưu bức tử miền Nam? Câu hỏi này đã có nhiều người nói đến nhưng chưa ai trưng ra được bằng chứng cụ thể về chuyện bức tử miền nam. Bài viết này nhằm tiết lộ một bí mật lịch sử nhằm trả lời cho câu hỏi đó.

Tôi đến Mỹ năm 1980 . Tình cờ đi thuê phòng ở gia đình một người Việt Nam trong vùng Los Angeles thì gặp được người chủ nhà người Nam tên HTH. Ở chung nhà với nhau anh có kể cho tôi nghe chuyện anh ra khỏi Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1975 như thế nào và những lời anh kể đúng là chứng liệu lịch sử giúp người Việt nhìn lại biến cố 1975 với tất cả những sự thật trần trụi, phũ phàng của nó.

Anh H kể rằng lúc Đà Nẵng bị tràn ngập thì anh tìm cách đi xà lan ra khơi để cặp vào tàu lớn.(Anh vốn là một thanh tra hành chánh, đang làm công việc thanh tra tại Đà nẵng vào những ngày chiến trận sôi động tại Đà Nẵng.) Lúc lên tàu thì anh gặp được Trung tướng Ngô quang Trưởng đang ở trên tàu. Theo như anh nghe lại những người trên tàu kể lại là lúc tướng Trưởng lên tàu, ông bị ngất xỉu. Ông được một bác sĩ quân y tên Ngô quang Nghiêm chích cho một mũi thuốc khỏe và tướng Trưởng tỉnh lại. Lúc gặp anh H bạn tôi trên tàu, tướng Trưởng có nói một câu như thế này " Tôi không ngờ tình tình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự." Có thể giải thích câu nói này một cách đầy đủ là " Sự sụp đổ quá nhanh chóng của vùng 1 là do sự dàn xếp chính trị chứ tình hình quân sự không thể nào diễn tiến tồi tệ đến như vậy". Tướng Trưởng hiện nay định cư tại Virginia và Bác sĩ Ngô quang Nghiêm hiện đang ở tiểu bang Texas. Ai muốn tìm hiểu sự trung thực của câu chuyện kể trên, xin liên lạc để kiểm chứng với tướng Trưởng và Bác sĩ Nghiêm.

Trung tướng Ngô quang Trưởng là một trong những tướng lãnh giỏi và xuất sắc nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tài nghệ dụng binh của ông đã để lại những câu chuyện trở thành huyền thoại. Năm 1968, cộng sản chiếm thành phố Huế trong vòng 25 ngày. Ông Trưởng lúc ấy đóng tại đồn Mang Cá tại Huế. Những cuốn sách của Cộng sản xuất bản sau 1975 nói về trận đánh Huế cho biết Cộng sản đã nhiều lần cho quân xung phong để chiếm cho được đồn Mang cá do Ngô quang Trưởng chỉ huy nhưng lần nào cũng thất bại và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều. Ông Trưởng giữ vững đồn Mang Cá cho đến khi thành phố Huế được quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm trở lại.

Đại tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, một anh hùng của Mỹ trong trận chiến vùng vịnh với Saddam Hussein, sau khi về hưu có viết một cuốn hồi ký tên " It does not take a hero " ( Không cần có một anh hùng) kể lại cuộc đời binh nghiệp của ông từ nhỏ cho đến khi ông về hưu. Ông không quên nhắc đến tướng Ngô quang Trưởng với sự thán phục về tài điều khiển hành quân của tướng Trưởng . ( Lúc qua Việt Nam, tướng Schwarzkopf là thiếu tá, làm cố vấn cho Đại tá Ngô quang Trưởng). Trong cuốn hồi ký có những đoạn đề cập đến Tướng Trưởng như sau:

" ...Colonel Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my ideas of a military genius: only five feet seven, in his midforties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops- and feared by those North Vietnamese commanders who knew his ability. Any time a particular tricky operation came up, Dong put him in commamnd. ( Trang 122)

" Tạm dịch : Đại tá Ngô Quang Trưởng là tham mưu trưởng của tướng Đống ( Dư quốc Đống). Ông ta không giống hình ảnh một thiên tài quân sự mà tôi thường nghĩ đến : cao chỉ 5 bộ 7 ( chừng 1m70), ở lứa tuổi giữa bốn mươi, rất ốm, với lưng gù và có cái đầu dường như quá to so với thân hình của ông. Gương mặt ông nhăn nhúm và rắn rỏi, không đẹp trai tí nào cả, và trên miệng ông luôn có điếu thuốc lá nằm ở đó. Thế mà ông được những viên chức và binh lính của ông kính nể - và làm kinh sợ những cấp chỉ huy của miền Bắc, những người biết khả năng của ông. Bất cứ khi nào có một chuyện hành quân mưu mẹo đặc biệt nào đó xảy ra, Đống đặt ông vào nhiệm vụ chỉ huy).

" ....Simply by visualizing the terrain and drawêing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do."

( Trang 123)

" ... Chỉ đơn giản hình dung ra địa thế và moi lại kinh nghiệm chiến đấu chống kẻ thù trong mười lăm năm, Trưởng đã chứng tỏ khả năng kỳ lạ của ông trong chuyện tiên đoán chúng sẽ làm gì."

" I'd never heard anything like this at West Point. I was thinking, " What's all this about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that way?" But i also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene."

( Trang 123) 

" Tôi chưa từng nghe thấy điều gì như thế này tại trường võ bị West Point. Tôi nghĩ " Cái gì mà 8 giờ và 11 giờ thế này ? Ông ta sắp xếp trận đánh kiểu gì đây? " Nhưng tôi cũng nhận ra được nét đại cương của kế hoạch của ông : Trưởng đã tái sáng chế ra cái chiến thuật mà Hannibal đã dùng vào năm 217 trước Công Nguyên khi ông bao vây và tiêu diệt quân đoàn La Mã trên những bờ hồ Trasimene."

Những lời ca ngợi của đại tướng Schwarzkopf về tướng Trưởng nói trên đủû để xác định tướng Trưởng là một thiên tài quân sự. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng chính là người chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm lại thành phố Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Thế thì vùng 1 sao lại mất quá dễ dàng vào tay cộng sản trong tháng 3 năm 1975. Nhìn lại tình tình lúc đó thì rõ ràng tướng Trưởng đã lọt vào một " mê hồn trận " do Saigòn đề ra khiến ông không còn chủ động để điều binh khiển tướng được nữa. Những lệnh bất nhất từ Sài gòn đưa ra như bảo giữ Huế rồi lại ra lệnh bỏ Huế, bảo giữ Đà Nẵng rồi lại ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Những lệnh quái gỡ như thế đã trói tay thiên tài quân sự Ngô Quang Trưởng và kết quả là vùng 1 đã mất vào tay Cộng Sản mà quân đội miền Nam tại vùng 1 chưa có dịp để đánh trận nào cả. Với con mắt của người chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, tướng Trưởng đã nhìn thấy rất rõ âm mưu giật sập miền Trung của Sàigòn cho nên ông mới thốt ra câu nói " Tôi không ngờ tình hình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự"với anh bạn tôi.

Mấy năm trước đây, báo chí Việt ngữ hải ngoại có tìm gặp Trung tướng Ngô quang Trưởng để tìm hiểu về chuyện tan rã của quân đoàn 1 vào tháng 3 năm 1975, tướng Trưởng đã thẳng thắn kể lại những chuyện xảy ra đối với quân đoàn 1 do ông chỉ huy. Những lời kể của ông được nghệ sĩ Lê bá Chư ghi lại trong bài viết mang tên " Vì sao tôi bỏ quân đoàn 1" có nội dung như sau:

Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng ( Trần thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ có một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn 1 càng sớm càng hay.

Trở ra quân đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào như ý tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. 

Cái sai lầm của Trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn v..v đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, Đại tướng Cao văn Viên, tôi ( tư lệnh Quân doàn 1), và tư lệnh Quân đoàn 2 ( tướng Phạm văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban mê Thuộc, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng. Tôi ra lệnh cho tướng Trần văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn ( Cù Lao Ré) để kiểm soát đường biển, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua, tuyên bố với lòng dạ sắt đá, nói cứng rắn với anh em là quyết giữ để không mất một tấc đất ở vùng 1 là một chuyện thật khó làm. 

Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao văn Viên nhờ xin tổng thống Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và vùng 1 ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều.

Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm quang Thi ( tư lệnh phó Quân đoàn 1) vốn là người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao văn Viên thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi " bỏ Huế". Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng tôi vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay, " Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời, " Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng.

Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển, từ công việc hành chánh đến quân sự.. Tình hình khó khăn, địch tấn công mà lại thêm cái lệnh " phải rút càng sớm càng tốt " lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3 năm 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho tập họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu và các trưởng phòng sở hành chánh để thủ tướng nói chuyện. Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình mà giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ " trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong đến phần thắc mắc thì cũng có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, tình trưởng Quảng Trị, có hỏi một câu, " Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở, không đến làm việc, thế thì phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân khu 1 càng sớm càng tốt. 

Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu đang chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát, làm sao tôi có thể làm chuyện tái chiếm đó được ( tái chiếm Đà Nẵng) ?Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ cho một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi.

Tôi nhờ hạm trưởng gọi về bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng, nghĩ ngơi cùng tôi. Còn không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến để cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.

Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây tôi gặp phó đề đốc Hồ văn Kỳ thoại ( tư lệnh Hải Quân vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn văn Khánh ( tư lệnh sư đoàn 1 không Quân) và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vây. Họ đâu có tội gì, họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật là bất công. Tướng Thi thật sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước khi nghe tôi cho biết là tồng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng, " Xã ấp còn tốt quá mà bỏ chạy là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng như tướng Thi bị phạt oan uổng trong khi họ còn xứng đáng hơn gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn ở Sài Gòn.

Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng tham Mưu, tôi có nói rằng, " Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua tướng Trần văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn mới đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế để rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê nguyên Khang buột miệng nói với giọng giận dữ, " Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả! " Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp của tướng Thoại và tướng Khánh. Với chức tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên, không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, khi họ thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ liền ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh , tư lệnh sư đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn."

Lời trần tình của tướng Trưởng như thế cũng đã quá rõ ràng và đầy đủ. Những lệnh bất nhất từ Sài Gòn do Thiệu đưa ra không phải là do Thiệu bối rối mà là một sự tính toán tinh vi để giật sập Quân Đoàn 1 mà tướng tài giỏi Ngô quang Trưởng đành phải bó tay, không xoay sở gì được. 

Không những đánh giặc giỏi, tướng Ngô quang Trưởng lại là một người cực kỳ thanh liêm, được sự quý mến của dân và quân dưới quyền, ông không bao giờ dính dáng vào những chuyện tham nhũng xấu xa như những tướng lãnh khác. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thật hãnh diện khi có những tướng lãnh vừa cầm quân hay vừa thanh liêm như Ngô quang Trưởng, Nguyễn khoa Nam. Nếu Mỹ không bỏ cuộc thì vùng 1 do tướng Trưởng nắm và vùng 4 do tướng Nam chỉ hay sẽ không bao giờ thất thủ trước quân đội Cộng sản. 

Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động?

Có người còn cho rằng Thiệu bị " tháu cáy " lúc giật sập Quân đoàn 1 và 2 vì Thiệu tưởng khi để mất vùng 1 và 2, chính phủ Mỹ sẽ xúc động và viện trợ khẩn cấp nhiều hơn, không ngờ Mỹ quyết định bỏ rơi luôn Miền Nam. Và vì lý do đó mà Thiệu lên truyền hình chửi rủa Mỹ thậm tệ vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 khi Thiệu biết mình bị " tháu cáy" trong ván bài cân não với Mỹ. Dù sao đây cũng chỉ là một sự phỏng đoán. Hy vọng với thời gian sẽ có nhiều tài liệu được công bố thì mới biết được chuyện Thiệu có bị " tháu cáy" hay không? 

Trước khi vùng 1 thất thủ, thì ở vùng 2, toàn bộ Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hòa bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng Quân đoàn 2, sau này ra hải ngoại có lên một đài phát thanh và kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông, " Thôi rồi, bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa." Một thiếu tá pháo binh bày tỏ sự tức giận với ông Lý, " Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này." Chuyện kể của tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hòa thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài gòn.

Ông Thiệu giật sập vùng 1 và vùng 2 với dụng ý gì? Phải chăng là tạo sự xúc động trong chính trường Mỹ để quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp để cứu miền Nam hay còn vì một lý do nào khác? Ông tự ý hành động hay làm theo lời của Mỹ? Có phải Mỹ muốn ông Thiệu giật sập miền nam càng sớm càng tốt để thế giới khỏi trong thấy thêm những cảnh thương tâm do chiến tranh gây ra để rồi lên án Mỹ thêm? Nếu ông một mình tự ý hành động, phải chăng đây là hành động " tái phối trí " và " di tản chiến thuật " để co cụm lại sức lực quân đội miền Nam nhằm đối phó với cuộc tổng tấn công của cộng sản? Nếu hành động theo lời Mỹ thì tại sao ngày 21 tháng 4 năm 1975 ông lên đài truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là bất tín, nào là bội ước, thất hứa, để rồi sau đó vài ngày ông và gia đình được Mỹ " bồng" ra ngoại quốc một cách nhẹ nhàng êm thắm. Liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở kịch mà ông đóng quá hay không? Những câu hỏi này chỉ có Mỹ và ông Thiệu mới có thể trả lời nhưng ông Thiệu và Mỹ có lẽ sẽ không bao giờ trả lời những bí mật đen tối của lịch sử này. Lúc cùng gia đình đi phi cơ tới Đài Loan, được báo chí hỏi về trách nhiệm của ông trước sự hấp hối của miền Nam, Tổng thống Thiệu trả lời: " Đó là tất cả tôi có thể làm cho quê hương của tôi!" Lời nói vô liêm sỉ này của Thiệu được Trần văn Trà, thượng tướng của Việt Cộng, nhắc lại trong hồi ký " Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm " và phê bình lời nói trên của Nguyễn văn Thiệu như sau, " Đó là khẩu khí của một tên tổng thống ngụy quyền !"

Cách đây mấy năm lúc được Đài radio Bolsa của Việt Dzũng phỏng vấn nhân ngày 30 tháng 4. Ông Thiệu không dám để cho Việt Dzũng tự ý hỏi mà bắt Việt Dzũng phải đưa cho ông những câu hỏi trước rồi ông chọn câu hỏi mà trả lời. Phải chăng ông ngại là sẽ có những câu hỏi bất ngờ sẽ làm ông lúng túng khi trả lời và không khéo sẽ làm lòi ra cái tội giật sập miền Nam của ông ?. Có điểm cần lưu ý thêm là ông Thiệu đã giật sập luôn Tổng đoàn Bảo An của Phật giáo Hòa Hảo trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, đây là một lực lượng chống cộng quyết liệt tại miền Tây. Điều này càng chứng tỏ âm mưu giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu quá sức rõ ràng. Thiệu giật sập miền Nam theo lệnh Mỹ hay giật sập miền Nam theo sự suy tính của mình và với mục đích gì thì phải cần thêm thời gian và tài liệu được công bố mới có thể trả lời được câu hỏi hóc búa này.

Trong cuốn " Đại thắng mùa xuân " của Đại tướng cộng sản Văn tiến Dũng, mặc dù huênh hoang khoe tài chỉ huy quân sự của y nhưng y cũng tiết lộ thêm là khi mở đầu trận đánh vào Ban-Mê-Thuộc vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ chính trị của Đảng cộng sản cũng chỉ tiên liệu rằng cũng phải mất 2 năm 1975 và 1976 mới dứt điểm được miền Nam. Không ngờ sau trận Ban-Mê- Thuộc, quân Cộng Sản tới đâu thì quân Cộng Hòa đã chạy trước rồi, thành ra thời gian tiên liệu chiến thắng miền Nam trong vòng 2 năm thì thu ngắn lại còn 55 ngày. Sự ngỡ ngàng của Văn tiến Dũng đã phần nào nói lên sự giật sập quân đội miền Nam có tính toán của chính quyền Nguyễn văn Thiệu. Quân đội cộng sản chỉ khựng lại ở mặt trận Xuân Lộc vì ở đây sư đoàn 18 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Lê minh Đảo đã được lệnh đánh và đã cầm chân ngay 3 sư đoàn Bắc quân. Và khi quân đội miền Bắc muốn tiến mau hơn nữa thì ăn ngay mấy trái bom hút không khí CBU làm kinh hoàng cán binh cũng như cấp lãnh đạo cộng sản tại mặt trận. Mỹ muốn dằn mặt bộ đội cộng sản là họ cần thì giờ để di tản số người Mỹ còn lại ở Saigòn. Cho nên mặt trận Xuân Lộc cứ dằng dai cho đến khi Mỹ rút gần hết số nhân viên ở Sài gòn thì mới " được lệnh " thất thủ. 

Không phải đợi đến những ngày cuối tháng 4 toàn dân miền Nam mới thấy được bộ mặt tồi bại, xấu xa, hèn hạ và vô liêm sĩ của Nguyễn văn Thiệu. Gần mười năm ăn trên ngồi trốc trong dinh Độc Lập, khi giặc đến gần kề thì cùng gia đình và tài sản thu tóm được trong những năm cầm quyền lên phi cơ và ca bài " Được làm vua, thua chạy trước." Trong thời chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đăng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột " Nguyễn văn Thiệu. Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký " Việt Nam máu lủa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống cộng do Mỹ dựng nên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy.. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân, bỏ dân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sĩ và danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Nguyễn cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo xa gần là Thiệu là nên nghe lời Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những lời hù dọa úp mở này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào hiệp định Paris dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản . ( Xin đọc kỹ cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Độc Lập " của Nguyễn tiến Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa Thiệu ký ). Trùm xịa Polgar không muốn Kỳ đảo chánh để đối đầu với Bắc quân vì làm như thế là cản trở chuyện giật sập miền nam của Mỹ thế thôi.

Vào khoảng năm 1977, lúc đang còn ở Anh quốc, khi được những ký giả hỏi về tình cảnh của những người Việt đi vượt biển thì Nguyễn văn Thiệu trả lời một câu bạc bẽo, bất cận nhân tình và cạn tàu ráo máng với đồng bào Việt Nam như thế này: " Tôi không có dính dáng gì đến họ cả "( I have nothing to do with them). Cuộc đời của Nguyễn văn Thiệu được coi là một cuộc đời tốt số: vợ đẹp, con ngoan, quyền thế, giàu có nhưng Nguyễn văn Thiệu có một chỗ ngồi khá buồn trong lịch sử, đó là :thùng rác của lịch sử. Đối với những kẻ việt gian bán nước hại dân như Thiệu, thiết tưởng không còn chỗ ngồi nào sạch sẽ hơn dành cho ông ta. 

Miền nam sụp đổ năm 1975, nhân dân miền Nam đau đớn đã đành, thế nhưng ở tại miền Bắc, có một người tù tên Nguyễn chí Thiện đã tỏ bày những tình cảm đau đớn, uất hận như sau:

Khi Mỹ chạy, bỏ miền Nam cho cộng sản 
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than 
Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn 
Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn! 
Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn 
Không giành cho thế lực yêu gian 
Tuyệt vọng dẫu lan tràn 
Hy vọng dẫu tiêu tan 
Dân nước dẫu đêm dài ai oán 
Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván 
Âm thầm, thâm tím,kiên gan 
Biến trái tim thành " chiếu yêu kính" 
giúp nhân gian 
Nhận rõ nguyên hình cộng sản 
Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn 
Thắng không gian, và thắng cả thời gian 
Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han! 
Khi Mỹ chạy (1975)

Miền Nam chiến đấu chống Cộng sản trong suốt 21 năm ( 1954-1975) . Miền nam được sự hỗ trợ kinh tế và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, thô bỉ, tiền hậu bất nhất để rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4. Tổng thống Nixon trong những cuốn sách của ông đã có lần nhắc lại lời nói của một vài lãnh tụ của những nước ở Đông nam Á đã có một nhận định phũ phàng cay đắng về Mỹ : " Thà là kẻ thù của Mỹ hơn là bạn của Mỹ." Nếu chúng ta đánh giá Cộng sản là bọn " lừa thầy phản bạn" thì cũng có thể nói Mỹ là một thứ " phản bạn lừa thầy ". Cứ xem chuyện Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam và chuyện Mỹ đá Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc để dành chỗ cho Trung Cộng thì mới thấy người ta phê phán Mỹ bằng những danh từ bẩn thỉu, tàn tệ nhất cũng không có gì là quá đáng. Thật ra Mỹ quốc mới lập quốc mới trên 200 năm, dân lập nghiệp toàn là dân tha hương tứ xứ, ăn ở theo lối " ăn xổi ở thì" thì làm sao nước Mỹ gây dựng nổi một truyền thống ăn ở theo lối thủy chung, trước sau như một được. Hy vọng dần dà qua ngày tháng người Mỹ sẽ nhận ra rằng có những điều danh dự, tính thủy chung bè bạn, sự tự trọng của một quốc gia còn quí giá hơn nhiều những lợi nhuận nhất thời trước mặt. Không xây dựng được một uy tín thì trước sau gì cũng thất bại trên mặt trận ngoại giao và sẽ dẫn đến những thất bại khác. Đầu óc thực dụng của Mỹ chỉ thành công trong thời gian hiện tại và đôi khi sẽ gây mầm nguy hại về lâu về dài. Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một bài học nhục nhã và người Mỹ sẽ tiếp tục bị thất bại nếu không rút tỉa ra những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã phạm trong chiến tranh Việt Nam. Điều cần nhất là Mỹ phải hiểu rõ những điều điện văn hóa, nhân sinh của một nước trước khi dính líu đến nước đó. Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ muốn độc đoán điều hành mọi chuyện, kể cả chuyện đưa quân Mỹ vào miền Nam làm mất chính nghĩa của miền Nam mà Tổng Thống Ngô đình Diệm lúc còn đương quyền đã cực lực phản đối. Người lính Mỹ mắt xanh mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam có lẽ cũng không khác gì hình ảnh của lính Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc gia có tư cách để cùng chống cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống cộng. Viện trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu. Thượng bất chánh thì hạ tắc loạn, toàn miền Nam trở thành những ổ tham nhũng khắp mọi ngành làm tiêu hao sinh lực trong chuyện chống cộng. Phó tổng thống Trần văn Hương hồi đó cũng đã than thở về chuyện tham nhũng một cách cay đắng, " Diệt hết tham nhũng thì lấy ai ra mà làm việc." Miền Nam ngày xưa sụp đổ phần nào cũng vì tệ nạn tham nhũng và Việt Nam bây giờ cũng chẳng có gì khá hơn. Câu nói của cộng sản " Người người thi đua, ngành ngành thi đua " trở thành " Người người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng" . Mức độ tham nhũng bây giờ còn khủng khiếp hơn trăm ngàn lần ngày xưa, đến nỗi cộng sản phải thú nhận chuyện tham nhũng trở thành quốc nạn. Cộng sản rồi cũng sẽ sụp đổ một phần nào cũng do quốc nạn này. Quả thật, nếu không học những bài học của lịch sử thì sẽ phải lập lại những vết xe đổ của lịch sử và cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát vì những lỗi lầm của chế độ miền Nam mà họ đã đánh ngã.

Sau khi miền Nam sụp đổ năm 1975, có nhiều dư luận tìm cách đưa ra những nguyên nhân khiến Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Một trong những lý lẽ đưa ra là Mỹ, sau khi bắt tay được với Trung Cọng mà điển hình cho chuyện này là chuyến công du Trung Cộng của Tổng thống Nixon nên Mỹ không còn quan tâm đến chủ thuyết Domino ở Đông nam Á nữa. Hơn nữa, thị trường thương mại của 1 tỉ người Trung quốc sẽ béo bở hơn nhiều so với 17 triệu dân miền Nam Việt Nam. Đây cũng là một cách giải thích nhưng chuyện Mỹ quyết định rút khỏi miền Nam đã được nói rõ trong hồi ký của Tổng thống Nixon trong hồi ký của ông. Lúc ông Nixon đang làm tổng thống thì trung bình quân Mỹ thiệt hại chừng 400 người mỗi tuần. Có lần tờ báo Life đã đăng hình 400 người lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần ở chiến cuộc Việt Nam và điều này làm cả nước Mỹ xúc động lớn lao. Mạng Mỹ bao giờ cũng có giá hơn mạng Việt Nam, máu của Việt Nam bao giờ cũng rẻ hơn máu Mỹ. Ngày xưa, trong thời gian đánh Pháp, Hồ chí Minh có tuyên bố với báo chí ngoại quốc rằng, " Nếu mười người Việt Nam chết đi để lấy mạng một binh sĩ Pháp thì cuối cùng rốt cuộc Pháp cũng sẽ là phía thua trận. " Chuyện người Việt Nam chết bao nhiêu trong chiến tranh là chuyện không đáng quan tâm đối với những nhà lãnh đạo Bắc bộ phủ nhưng số tổn thất sinh mạng của lính Mỹ dần dà trở nên một sự mất máu mà Pháp trước đây và Mỹ ngày nay không thể chịu đựng nổi. Phong trào phản chiến ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, nhân tâm càng ly tán. Rồi lại còn trên 500 tù binh Mỹ đang mỏi mòn trong tù ngục tại Bắc Việt. Cao điểm trong chuyện biểu tình phản chiến là chuyện vệ binh quốc gia bắn chết 4 sinh viên tại đại học Kent làm cả nước Mỹ xôn xao, xúc động . Lãnh tụ đa số của thượng viện Mỹ lúc đó là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đến gặp Tổng thống Nixon và nói " Tổng thống phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ không thể chịu đựng thêm được nữa. " Ghi nhận lời nói của lãnh tụ đa số thượng viện Mansfied, ông Nixon quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông kêu gọi Bắc Việt trở lại hòa đàm Paris. Cộng sản làm cao không nhân nhượng. Ông Nixon quyết định dùng pháo đài bay B52 dội bom suốt 12 ngày đêm vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1972. Hà Nội thấm đòn bom B52, bắn tiếng với Mỹ xin hòa đàm trở lại. Và thế là hiệp định hòa bình Paris năm 1973 ra đời. Mỹ chỉ muốn rút khỏi Việt Nam " trong danh dự " và họ đã hoàn thành nguyện ước. Hiệp định Paris năm 1973 được coi như bản văn Mỹ bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Tổng thống Thiệu thấy rõ điều ấy, lúc đầu dùng dằng không chịu ký, nhưng rồi dưới áp lực của Mỹ , Thiệu cũng đành ký với hy vọng mong manh rằng Mỹ sẽ giữ lời hứa tái can thiệp trở lại nếu cộng sản vi phạm hiệp định. Tất cả những chuyện này có trình bày rõ trong cuốn sách " Hồ sơ Dinh Độc Lập" ( The Palace File) của tiến sỹ Nguyễn tiến Hưng, một tổng trưởng của Tổng thống Thiệu. Sau khi hiệp định ký xong, Mỹ lấy được tù binh về thì cộng sản tiến hành ngay cuộc tổng tiến công để chiếm lấy miền nam vì chúng biết rằng Mỹ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Lúc Trần văn Trà ra Hà Nội họp để chuẩn bị cuộc tổng tấn công, Phạm văn Đồng nhận xét như thế này " Bây giờ có cho kẹo Mỹ cũng không trở lại Việt Nam nữa." ( 1). Phạm văn Đồng đã nhận xét đúng. Lúc cộng sản đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long là nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ bất động không phản ứng và chuyện này làm cho Hà Nội thêm vững niềm tin trong chuyện mở ra chiến dịch tiến chiếm miền Nam.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 là một cơn đại hồng thủy đối với nhân dân miền Nam. Cả miền Nam vỡ tung ra như một đàn ong vỡ tổ, gia đình nào cũng tan tác, đau thương. Mấy trăm ngàn sĩ quan và viên chức hành chánh miền Nam chết dần chết mòn trong những trại tù tập trung cải tạo tàn ác của cộng sản. Hai mươi lăm năm trôi qua đủ để cho người miền Nam thấy rõ bản chất thâm độc, lưu manh của bạo quyền Hà Nội. Nhưng dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ bị khuất phục. Những hoạt động chống đối âm ỉ vẫn tiếp tục và cho đến giờ phút này thì Phật giáo Hòa Hảo đã coi như tuyên chiến với Cộng Sản. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã mổ bụng phản đối bạo quyền. Máu tranh đấu của người dân Việt đã đổ, hy vọng sự đứng dậy tranh đấu của Phật giáo Hòa Hảo là cái mồi lửa châm vào thùng thuốc súng đã nén lại trong 25 năm qua để rồi có thể nổ tung và đốt cháy bạo quyền trên toàn quốc. Chế độ đàn áp của cộng sản đến giờ phút này dường như không còn hiệu quả trong chuyện trấn áp quyền sống, quyền tự do của con người. Càng đàn áp thì lại càng rút ngắn thời gian cai trị của bạo quyền. Khi người dân hết tin chính quyền thì chính quyền dứt khoát phải đổ, vấn đề bây giờ là chuyện thời gian mau hay chậm thế thôi. Bùa phép, mưu ma chước quỷ của cộng sản đến giờ này không còn hiệu nghiệm vì nói chung tâm thức của bộ đội và cán bộ ngày càng rã rời tê liệt đến mức không còn huy động vào chuyện đàn áp được nữa. Ai cũng thấy rõ kẻ thù của dân tộc là những tên đầu nậu nằm tại Bắc bộ phủ chứ không phải là thành phần dân tộc đang tranh đấu.

Cụ Phan bội Châu, một nhà đại văn hào cách mạng cả cuộc đời lo chuyện cứu nước, lúc về tuổi xế chiều, đã căn dặn lại cho quốc dân, " Vọng ngoại tắc tử " , đừng bao giờ mong mỏi người ngoại quốc đến cứu nước mình. Miền nam vì hoàn cảnh nghiệt ngã, đã phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại, rốt cuộc c ũng bị Mỹ bỏ rơi một cách không thương tiếc và cuối cùng bị bức tử một cách đau đớn vì nhu cầu quyền lợi của Mỹ. Trong công cuộc đánh đổ cộng sản để cứu nước hôm nay, chuyện tranh thủ những lực lượng quốc tế là chuyện cần làm, nhưng không vì thế mà trở thành tay sai của những thế lực ngoại bang, vì làm như thế chúng ta sẽ trở thành một Lê chiêu Thống thứ hai, đi làm chuyện " cõng rắn cắn gà nhà", làm hại quê hương và đồng bào. Công tác ngoại vận không thể biến thành sự nô lệ các thế lực ngoại bang mà lịch sử dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Và khi thấy rõ sự nguy hại của nó thì phải tránh bằng mọi giá. Trong thời điểm bây giờ, phải tận lực để theo đuổi chuyện đánh đổ cộng sản ở quê hương, đừng có ngồi mà trông ngóng Mỹ nói riêng và các nước Tây phương nói chung bật " đèn xanh , đèn đỏ". Ngồi đó mà trong ngóng ngoại bang bật " đèn xanh, đèn đỏ" chỉ càng tỏ lộ thêm " tâm thức nô lệ" mà thôi. Còn mang tâm thức nô lệ hèn kém này trong người thì ngày quang phục quê hương sẽ còn xa xôi diệu vợi.

Miền nam mất là một vết thương đau đớn của chúng ta ( Miền nam ơi từ buổi tiêu tan. Ta sống trọn vẹn ngàn cơn thác loạn (2) ). Vết thương đau theo thời gian rồi cũng sẽ lành. Sự đau thương than khóc giờ đây đã nhường lại cho sự khôn ngoan tỉnh táo để tìm ra những phương cách nhằm quật ngã bạo quyền đang trên bờ vực thẳm. Mỗi người dân Việt, trong cũng như ngoài nước, đều phải đổ sức, đổ công, đổ máu vào cuộc chiến đấu quyết liệt cuối cùng này để quê hương Việt Nam còn có một ngày mai. Cuộc đời rồi ai cũng phải chết, nếu được chết đễ gỡ xích xiềng cho đồng bào ruột thịt, cho tổ quốc có một tương lai tươi sáng thì chuyện chết không phải là một chuyện phải ngại ngần. Bóng tối u ám, chết chóc của chủ nghĩa cộng sản đã bao trùm lên quê hương Việt Nam thương đau đã trên nửa thế kỷ, ngày đồng bào vùng lên một mất một còn với bạo quyền cộng sản là ngày vầng dương lại ló dạng trên đất nước thương yêu. 

Những tia nắng le lói đầu ngày đó sẽ là những niềm hy vọng trào dâng trong lòng mỗi người Việt Nam sau bao tháng năm đau thương, tàn lụi....

Lawndale, một sáng đầu xuân lành lạnh trung tuần tháng 4 năm 2002 
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG

(1) Hồi ký " Kết thúc cuộc chiến 30 năm"của Trần văn Trà 
(2) Trich từ bài thơ " Vì ấu trĩ " của Nguyễn chí Thiện 



.
,

Lôi Hổ âm thầm hy sinh trong đêm tối, thì vinh quang không vượt khỏi bóng đêm.http://ccnmacvsog.blogspot.com/noreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)Blogger46125tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-2525447862915444847Thu, 08 Dec 2016 05:58:00 +00002016-12-08T00:16:44.705-08:00Thẻ Biệt Kích <div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEifLdSZxuHycGPNvTilebdFd3sWtNuHd0SzAhylskhzsHShbkzYnrxXqozf7p-oserSD5YGANBt9exBDQ8NwvmGPlCwsLQ5cp8ECmKC7sasVM06tWQSnnbl9OW1l7y0os2MAuVFdPPCYx0/s1600/15350550_374674086215067_7659782992402964233_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="460" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEifLdSZxuHycGPNvTilebdFd3sWtNuHd0SzAhylskhzsHShbkzYnrxXqozf7p-oserSD5YGANBt9exBDQ8NwvmGPlCwsLQ5cp8ECmKC7sasVM06tWQSnnbl9OW1l7y0os2MAuVFdPPCYx0/s640/15350550_374674086215067_7659782992402964233_n.jpg" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj52gnAI-BP7qOtmAjMOWFKMPkKuhc6b_3CnzVq_h5lyRdrsmR0iCCWfBtOnowVp1WgDRPhyphenhyphendNQIs23o2pwwmNHB3D3ippNhtktHjCqYvyxSzkk5bQNVsvuaL61lFASnGBKAPK5-Y4UBUo/s1600/%2524_57A.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="436" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj52gnAI-BP7qOtmAjMOWFKMPkKuhc6b_3CnzVq_h5lyRdrsmR0iCCWfBtOnowVp1WgDRPhyphenhyphendNQIs23o2pwwmNHB3D3ippNhtktHjCqYvyxSzkk5bQNVsvuaL61lFASnGBKAPK5-Y4UBUo/s640/%2524_57A.JPG" width="640" /></a></div><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixjDV7hHg1PNP-k_LIpHDQbXYG-V_qqRy-T6z9je7udFA7tadPDqgd4a-45BEbrbQ7a9COELWcWh7GLI5jXawqRzjsFQCR2-fgCSToWSlsSCWVR_GoiDzmHmMc4kFXTJZVmewezNFPahE/s1600/%2524_1.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="442" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixjDV7hHg1PNP-k_LIpHDQbXYG-V_qqRy-T6z9je7udFA7tadPDqgd4a-45BEbrbQ7a9COELWcWh7GLI5jXawqRzjsFQCR2-fgCSToWSlsSCWVR_GoiDzmHmMc4kFXTJZVmewezNFPahE/s640/%2524_1.JPG" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiiEUZOdVNZCmfq41bE4TpziD31lwn3fU3afiKOFh_t4Z_f-5PWDyV46Tez1yF2gbHcwFAX3ICNB_0gBqcOBs2zRg6NcAxC-7bPOqtCrHZnBxbaten2RhP4zGBPMjxK_T2PUaOBTsbcpNI/s1600/DSCN0017.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiiEUZOdVNZCmfq41bE4TpziD31lwn3fU3afiKOFh_t4Z_f-5PWDyV46Tez1yF2gbHcwFAX3ICNB_0gBqcOBs2zRg6NcAxC-7bPOqtCrHZnBxbaten2RhP4zGBPMjxK_T2PUaOBTsbcpNI/s640/DSCN0017.JPG" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhybCNYNhn6ZiRrAQLRJcqoRwLDc5w1_KJc8BJJw3kYA4cLOD_sm-xt63_M28vHWEVcXzlRdxqnk4Xs8dD2Mj7r1GQ5gvYWT4yUlI8vyGSfdqbPmIQOSVP_T-vh8QISMwkHRca87HxOQgs/s1600/Copy+of+DSCN0018.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhybCNYNhn6ZiRrAQLRJcqoRwLDc5w1_KJc8BJJw3kYA4cLOD_sm-xt63_M28vHWEVcXzlRdxqnk4Xs8dD2Mj7r1GQ5gvYWT4yUlI8vyGSfdqbPmIQOSVP_T-vh8QISMwkHRca87HxOQgs/s640/Copy+of+DSCN0018.JPG" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSgnrvKjNAKSUSLHR6Po5cXtcKl8P0zVRTD5N6icL7jJBKpEfenETAbqMlgn5i1vPV2QLmq60QF4b2HEG5nHjNTzNUE5LOlIhk-9nGkMB4hNVzcrhUJHTW2WvDzBrw48aqRHPRLnUlAdA/s1600/Copy+of+DSCN0041.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSgnrvKjNAKSUSLHR6Po5cXtcKl8P0zVRTD5N6icL7jJBKpEfenETAbqMlgn5i1vPV2QLmq60QF4b2HEG5nHjNTzNUE5LOlIhk-9nGkMB4hNVzcrhUJHTW2WvDzBrw48aqRHPRLnUlAdA/s640/Copy+of+DSCN0041.JPG" width="480" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKOv6lo0lHGZP0AGtdeJcGXEoJf8Ba1pkqI3IzcwjxvwxcGSVNy0-OZmu-g1hWJkb7er6dhr94UmjHRX3_2TguzVqB8BeySdXrDaJpVfHnNjMnCpFhsKcT88dsrzotHGKHv7sd5wKNWsU/s1600/14f2d15e0.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKOv6lo0lHGZP0AGtdeJcGXEoJf8Ba1pkqI3IzcwjxvwxcGSVNy0-OZmu-g1hWJkb7er6dhr94UmjHRX3_2TguzVqB8BeySdXrDaJpVfHnNjMnCpFhsKcT88dsrzotHGKHv7sd5wKNWsU/s640/14f2d15e0.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnbdASriL3IrJjj7LcsrrwIHljbguPhVlgWp8IQuz1umtCHFV48I5Cv6H8NhsIot28wSv1HpgLyfNzruDV5ZDpvAT0BIz5NJN_bl6YF9th4NrX4YCSM1fz8A5fRBYUaOgLFPyAltyTjKQ/s1600/5th-ussf-macv-sog-sfc-advisor-id-card_1_2c46b620265f92006e12f3c3146dabe4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnbdASriL3IrJjj7LcsrrwIHljbguPhVlgWp8IQuz1umtCHFV48I5Cv6H8NhsIot28wSv1HpgLyfNzruDV5ZDpvAT0BIz5NJN_bl6YF9th4NrX4YCSM1fz8A5fRBYUaOgLFPyAltyTjKQ/s640/5th-ussf-macv-sog-sfc-advisor-id-card_1_2c46b620265f92006e12f3c3146dabe4.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjzoDrUofY4i5uCcZw-j5A2qu1enWybumbYbFtav4FqVsKlomrfTl-6h_QVaHrzdX5O01oMG2_jrEkQuLy_F2jgwsR4tHOw9nA61mtm8wwv_mJuilOMbpJfdAg9REMyibZeRCmMhkJIZM/s1600/operative-id-macv-sog-delta-52-recon_1_de3e77f2d0ae71b60a797db589c490c6.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjzoDrUofY4i5uCcZw-j5A2qu1enWybumbYbFtav4FqVsKlomrfTl-6h_QVaHrzdX5O01oMG2_jrEkQuLy_F2jgwsR4tHOw9nA61mtm8wwv_mJuilOMbpJfdAg9REMyibZeRCmMhkJIZM/s640/operative-id-macv-sog-delta-52-recon_1_de3e77f2d0ae71b60a797db589c490c6.jpg" width="592" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhHJj5zxaUbdqRfRzoMSCObPCm9DDtRLurgDwm3ssNMcOcpVGtSCGJGs9huv-0Xd5Ikyn0cPjZ8lPJmuMhJYjrt5B9Ma1_Gw5qWxgE5h2J8keXstjwaOtJBu0cc4fKNVw2oOkrpd6ynOPU/s1600/arvn-svn-police-id-card_1_630bf28a225be1e2dc15e591f048e49e.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhHJj5zxaUbdqRfRzoMSCObPCm9DDtRLurgDwm3ssNMcOcpVGtSCGJGs9huv-0Xd5Ikyn0cPjZ8lPJmuMhJYjrt5B9Ma1_Gw5qWxgE5h2J8keXstjwaOtJBu0cc4fKNVw2oOkrpd6ynOPU/s640/arvn-svn-police-id-card_1_630bf28a225be1e2dc15e591f048e49e.jpg" width="598" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPVxGPLeS4hOTf9n4wepAVR3EaIfD3Taq2YNbKfTJgQNG_MkWx-Gxdiea04I0L-PnO0MKn1tnShBJRy7-AQLnELfZBzT-2yzodMmFrXWehEm3eUZKM8WZr5l48l0eEZIeWAXJM_-P00hg/s1600/DSCN1978.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPVxGPLeS4hOTf9n4wepAVR3EaIfD3Taq2YNbKfTJgQNG_MkWx-Gxdiea04I0L-PnO0MKn1tnShBJRy7-AQLnELfZBzT-2yzodMmFrXWehEm3eUZKM8WZr5l48l0eEZIeWAXJM_-P00hg/s640/DSCN1978.JPG" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi_lRMhxJ64NSsR67pRhMoFzS_zCOx4aplmjLn4HMaUj3J0uLM4GW4GCh0T7REW3qA4_olE2X5wUC4mf8CoSq9scoKNftWenOCMPUmXXxpA6QHXl7aJN_05Inhx6C_ZIRDQrnthUX-pve4/s1600/Copy+of+DSCN0033.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi_lRMhxJ64NSsR67pRhMoFzS_zCOx4aplmjLn4HMaUj3J0uLM4GW4GCh0T7REW3qA4_olE2X5wUC4mf8CoSq9scoKNftWenOCMPUmXXxpA6QHXl7aJN_05Inhx6C_ZIRDQrnthUX-pve4/s640/Copy+of+DSCN0033.JPG" width="480" /></a></div><br />http://ccnmacvsog.blogspot.com/2016/12/the-biet-kich.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-7583114696388543486Wed, 30 Oct 2013 16:22:00 +00002013-11-25T08:55:16.697-08:00 HALO ( High Altitude Low Opening ) / Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió )<br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1f13waUOc0WarW3oyh6NeL8eI2ixr9CbkzgHDar8rEWUH8t9I10s5sKz8BLc1HHS5xgFV16sJ-Z-GXDk2XPlhZcvZ3tKYXjrn8YjZievMMNwCb-zVW72Bb8ijNHsHybUousabSdLiU3Y/s1600/General-509x600.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1f13waUOc0WarW3oyh6NeL8eI2ixr9CbkzgHDar8rEWUH8t9I10s5sKz8BLc1HHS5xgFV16sJ-Z-GXDk2XPlhZcvZ3tKYXjrn8YjZievMMNwCb-zVW72Bb8ijNHsHybUousabSdLiU3Y/s320/General-509x600.jpg" width="271" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEizJCsbPmxNT8YAi1blqc32hFsMRrzMcSz5BTvilBF_npz7reWnhWs4uaquJ2QH3y1GxPvihEVltDvuN4gGyumfQh4J4ZoQRlC0X1IVDbaA53bo6Ifb4OyMWMt7PNs6HIocAzWxu0mmhws/s1600/sticker,375x360.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="191" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEizJCsbPmxNT8YAi1blqc32hFsMRrzMcSz5BTvilBF_npz7reWnhWs4uaquJ2QH3y1GxPvihEVltDvuN4gGyumfQh4J4ZoQRlC0X1IVDbaA53bo6Ifb4OyMWMt7PNs6HIocAzWxu0mmhws/s200/sticker,375x360.png" width="200" /></a></div><br /><br /><div style="text-align: left;"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11101"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEid4cw4TziSvRLZgCGR6ih1Kaz-Xty5Q6CwSCy8vPWSOYwaqkWG4wols2zdpg5Hhe8HSZn1o3n5359ub8ITtqCGmIKX3wohiNRnpdhL8rF_wm9vhcTJtc4MY4NIiW8gKieHaYWNpY2c6vc/s1600/PJ_HALO_drop.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEid4cw4TziSvRLZgCGR6ih1Kaz-Xty5Q6CwSCy8vPWSOYwaqkWG4wols2zdpg5Hhe8HSZn1o3n5359ub8ITtqCGmIKX3wohiNRnpdhL8rF_wm9vhcTJtc4MY4NIiW8gKieHaYWNpY2c6vc/s400/PJ_HALO_drop.jpg" width="397" /></a></span></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11101">1 - Bước qua năm 1970, những cuộc xâm nhập của SOG ( đơn vị chuyên về hành quân Biệt-kích ) bằng trực thăng gặp nhiều khó khăn, hay phải nói...xưa như trái đất!&nbsp; Yếu tố bất ngờ, nhanh chóng thực hiện xâm nhập bằng trực thăng không còn được kết quả như trước, khi mà địch quân đã có những biện pháp chống lại. Đơn vị chống Biệt-kích của Bắc-việt càng ngày càng tỏ ra hoạt động hữu hiệu, nguy hiểm và thành công. Ý tưởng xâm nhập ban đêm đang được nói đến nhưng các trực thăng không được an toàn khi đáp. Chỉ còn cách nhẩy dù xuống mục tiêu. Nhưng nó đòi hỏi phải có những nhân lực hảo hạng.</span></span></span></div><div class="yiv2451377228MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11117" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11116">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Chỉ huy trưởng mới của SOG lúc này là Đại-tá John Sadler. Ông ta là người rất am hiểu về kỹ thuật nhầy dù và Skydiving ( dù cánh dơi lướt gió ) Thuật ngữ quân sự gọi là HALO ( High Altitude Low Opening ) Nhẩy dù ở độ cao 10.000 bộ ( 3.050 mét ) Đề rơi tự do, khi còn cách mặt đất khoảng 1.000 hay 2.000 bộ ( 305- 610 mét ) rồi mở dù lái đến mục tiêu. Quân đội Việt nam Cộng hòa chỉ có một số ít, thường là Huấn luyện viên Nhảy dù biết cách nhẩy loại này mà người ta gọi là Nhảy-dù điều khiển.</span></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><div class="yiv2451377228MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11120" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11119">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Giữa năm 1970 Đại-tá Sadler ra lệnh thành lập Toán HALO đầu tiên tại CCN. Toán Virginia (Toán Mỹ, người Thượng) được chọn gồm có ba Biệt kích người Mỹ, hai người Thượng và một sĩ quan Lôi-hổ Nha kỹ thuật...Toán lấy tên là Florida...được đưa sang Liên đoàn Biệt kích số 1 của Quân đội Mỹ đóng tại Okinawa (Nhật bản) để bí mật huấn luyện. Chương trình huấn luyện Toán HALO bắt đầu lên khung. Tại trại CCN, song song với phần đông là các Toán Mỹ...có tám Toán Việt-nam tại trại do những cán bộ Nha-kỹ-thuật chỉ huy và phối hợp trong chương trình OP 35 của SOG (hành quân Biệt-kích đặc trách đường mòn Hồ chí minh) Được lệnh tuyển chọn và thành lập Toán Dù điều khiển (HALO) đầu tiên thụ huấn tại Trung tâm huấn luyện Biệt-kích Long-thành gồm có một Sĩ quan Lôi-hổ và năm Biệt-kích quân (SCU) Special Commando Unit được người Mỹ chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật chỉ huy. Rất tiếc trong khóa học người Sĩ quan thiệt mạng vì dù không bung. Chương trình bị trở ngại vì thiếu người chỉ huy dù rằng năm Biệt kích quân cũng đã xong khóa học.</span></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><div class="yiv2451377228MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11123" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11122">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Chiến cuộc có những bất lợi do sự rút quân của quân đội Mỹ. Quân đội Việt-nam-cộng-hòa không đủ sức trám vào những khoảng trống chiến thuật được người Mỹ chuyển giao. Trong khi quân Bắc-việt ồ ạt xâm nhập và phát triển hệ thống đường tiếp tế, xây dựng thêm các căn cứ chiến lược dọc theo biên giới Việt, Lào...trước sự bỏ ngỏ của Không-quân Mỹ.&nbsp; Lúc này...SOG phải chiến đấu trong đơn độc. Mọi trợ cấp bị cắt dần dần...ngoài những gì hiện đang có. Đứng trước những khó khăn hiện tại thêm vào quân đối phương biết cách đề phòng và bố trí lực lượng đối phó đã đem lại cho SOG những trở ngại lớn lao kèm theo tốn thất đáng kể về nhân mạng. Đầu năm 1971. Trại được đổi tên mới ... Lực lượng đặc nhiêm 1 (TASK FORCE 1) thay cho tên cũ ...Sở chỉ huy Bắc (CCN)&nbsp; Cùng với lệnh các Toán thám sát Mỹ không được phép xâm nhập qua Lào, Căm-bốt. Chỉ được hoạt động trong nội địa Việt-nam. Đúng ý của chương trình " Việt-nam hóa chiến tranh" tiết kiệm xương máu lính Mỹ!&nbsp; Để duy trì hoạt động ngoại biên, SOG đã xử dụng các Toán Lôi-hổ Nha-kỹ-thuật vào những mục tiêu tại Lào, Căm-bốt. Đó cũng chính là sự hãnh diện cho đơn vị Biệt-kích trên chiến trường theo đúng nghĩa.</span></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><div class="yiv2451377228MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11126" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11128">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; - Chiếc C47 của hãng vận chuyển Air America từ Đà-nẵng đưa chúng tôi lên Kontum. Vừa xuống phi trường tôi mừng rỡ vì người đón chúng tôi lại là Đại-úy Đại đội trưởng (A Company- Hatchet Force) trước kia ở CCN mà tôi, lúc ấy là Thông dịch cho ông. Tây-nguyên mùa này nắng nóng cuối Hè. Xe Jeep chở chúng tôi vừa ra khỏi tỉnh lỵ. Những đám mây đen lốm đốm dần trôi, chẳng tạo được cơn mưa trong cái nóng hầm hập của thời tiết gần trưa. Ba chúng tôi nằm trong số người đã huấn luyện Nhẩy-dù điều khiển (HALO) được lệnh lên Kontum (TASK FORCE 2) trước kia là CCC...phối hợp công tác. Lần đầu tiên lên đây tôi rất ngạc nhiên vì con quốc lộ dẫn vào tỉnh lỵ như bổ đôi căn cứ Biệt-kích...giống một nút chặn vững vàng bảo vệ cửa ngõ ra vào Tỉnh. Sau ba ngày thực tập chiến thuật và nhẩy hai sô dù đêm. Toán HALO phối hợp đã sẵn sàng gồm ba người Mỹ, ba người Việt-nam. Toán trưởng là Đại-úy cùng hai Trung-sĩ Toán phó. Lực lượng đặc biệt Mỹ. Mọi đồ đoàn đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Toán lên xe lúc trời vừa tối để ra phi trường. Cơn gió mát lạnh từ dòng sông Dak Bla hiếm hoi thổi tung chiếc khăn ngụy trang trên cổ lên mặt làm tôi có cảm giác xa lạ mênh mông trước những gì sắp xẩy ra.</span></span></span><br /><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span><br /><div class="separator" style="clear: both;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiuNiedJAtOXh0X4mdhVzSiWSekpYQ2D2VHrMCxeApRvRANILzWixOiE2z3As-UA4Vp2FLhCkJQPN_pl9MaRL6ShePDNpQV13ZgcQtLD7Fl2J91Lb21KhVCsACRog3O99BBz1obbz0u-SA/s1600/ravens-388.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="404" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiuNiedJAtOXh0X4mdhVzSiWSekpYQ2D2VHrMCxeApRvRANILzWixOiE2z3As-UA4Vp2FLhCkJQPN_pl9MaRL6ShePDNpQV13ZgcQtLD7Fl2J91Lb21KhVCsACRog3O99BBz1obbz0u-SA/s640/ravens-388.jpg" width="640" /></a></span></span></div><div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383149388018_11128"><b>&nbsp;Phi cơ của Air America (Long Tiếng)</b></span></span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span><br /><div class="yiv2696904831MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8780" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8779"><span id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8788"> </span>2- Phần đồ đoàn cuối cùng...chiếc ba lô đã được gài vào vị trí dưới cái dù bụng...cây Car 15 thắt bên hông. Con người trở nên nặng nề, dệnh dạng đi ra phía sau đuôi phi cơ...chiếc MC 130 (Blackbird) Dưới ánh đèn sáng từng cặp mắt sau tấm kính trong bộ phận mũ che chắn đầu mặt, kiểm soát lẫn cho nhau. Vị sĩ quan nhiệm vụ thả Toán được lệnh trong chiếc mũ bay ra hiệu cho Toán sẵn sàng...còn hai phút nữa. Cửa phi cơ đã mở. Gió mạnh hồng hộc thổi vào nhưng tôi không cảm thấy lạnh như lúc cửa còn đóng. Đèn xanh đã được bật lên kèm theo tiếng hô của viên sĩ quan thả Toán. Chúng tôi đi vào không trung.</span></span></span></div><br /><div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><br /><div class="yiv2696904831MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8792" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8791">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Phản ứng tự nhiên tôi nhanh chóng lấy được thế bay. Đưa mắt nhìn xuống đã thấy đốm sáng lân tinh trên lưng người Trưởng Toán...đang chếch về mé trái. Lồng ngực bỗng trì nặng và tôi biết là mình đang trong đám mây. Xoãi tay trái xa thêm, tôi điều khiển thân mình vùn vụt bay theo điểm sáng lân tinh nhưng không xa quá tay để bảo đảm thân mình không bị lật hoặc chúi đầu! Trời đêm tối đen ngòm trừ ánh sáng đốm nhỏ lân tinh phía dưới. Nhìn đồng hồ cao độ tôi chuẩn bị nghe tiếng báo động trong hai tai...âm thanh tiếng reng nổi lên. Gồng hai tay, cụp dần vào hai vai...tay phải đã chạm chốt mở dù, tôi giật ra trong lúc toàn thân theo cái đầu chúi lao xuống...Tích tắc con người như được giữ lại rồi êm đềm tung lên trong lòng sung sướng vì dù đã mở và đưa mắt tìm hai dây lái. Nhìn đồng hồ đeo tay để xác định thời gian và đưa mắt tìm ánh sáng của Toán trưởng...lần này ở phía phải. Kéo dây lái căn hướng gió. Tôi cụp cánh dù dây lái tay phải bay theo điểm lân tinh khi mờ khi tỏ bên dưới. Đống hồ đeo tay đã chỉ gần hai phút tính từ lúc dù mở. Tôi tập trung chuẩn bị đáp đất. Hai tay kéo cụp dù, gống hai chân chụm bằng nhau tôi chờ đợi cú va chạm đầu tiên để bung dù nhằm làm giảm sức rơi. Nhìn bên dưới đêm đen như đen thêm và rồi soạt soạt...tôi vội bung dù hai tay co lại che chắn đầu. Thân mình va chạm vào cành cây, tai cũng đã nghe tiếng cây gẫy. Tiếng phịch vang lên rồi toàn thân ngã ngồi trên đất. Một cái gì đó làm đau nhói ở vai trái...nhìn đồng hồ đã ba giờ, năm phút sáng. Việc đầu tiên tháo cây Car 15 bên hông và vẫn nằm yên nghe ngóng động tĩnh. Loài chim ăn đêm kêu réo cùng tiếng côn trùng nỉ non xa vắng. Qua khoảng trống trên tầng cây bầu trời đầy sao . Tôi lần tháo chiếc ba lô, cái dù bụng và những đai dù chính. Một ý tưởng ngộ nghĩnh...tôi như một chiến binh mới vừa xâm nhập bằng trực thăng xuống mục tiêu! Công việc trước mắt kéo cái dù xuống cũng may nó không mắc dính trên cây và tìm cách chôn dấu. Gió đưa cái lạnh bất chợt với cơn thèm một điếu thuốc rạo rực. Tôi chặc lưỡi trùm cái dù nhẩy qua đầu tự thưởng cho mình một điếu thuốc...cơn thèm đã cho cảm giác tuyệt vời và quên đời một chốc. Thoải mái xong...bắt đầu đào đất bằng dao găm đi rừng để phi tang cái dù trong tiếng gà gáy dồn dập báo hiệu trời sắp sáng. Rắc lên vài vốc lá khô, tự mãn xoa tay cùng ánh sáng mờ mờ thấy cả làn sương bay bay. Tôi lấy ra chiếc máy...bật mở để tìm Toán trưởng. Đây rồi theo mũi tên chỉ và khoảng cách hiện lên 250 mét. Tôi theo máy di chuyển. Rừng cây chồi non nhưng chằng chịt dây leo cản trở. Bóng của một cây cổ thụ mờ trong sương sớm nhưng chẳng phải là hướng trong máy dò. Những giọt sương trên lá thấm dần trên khăn ngụy trang và hai vai. Khoảng cách trong máy được kéo xuống còn 150 mét. Một vài tiếng súng nổ về hướng Nam cách không mấy xa. Địch đi săn...tiếng bắn không phải là truyền tin hay báo hiệu gì đó, đúng hơn là hạ gục một con thú! &nbsp;Con trăng&nbsp; mỏng dính xuất hiện từ lúc nào bên cạnh một ngôi sao sáng long lanh lấp lánh. Đàn chim ăn đêm tham ăn về muộn kêu réo hay nói chuyện với nhau vang vang đáp xuống tàng cây cổ thụ phía sau. Tôi chợt rùng mình trong cảm giác lẻ loi hay bởi cơn gió lạnh đang mơn man trên gương mặt đẫm sương. Tiếng của đàn chim đêm vẫn gơị mở hình ảnh quái dị, ma chơi...thần hồn nát thần vía!&nbsp; Xua tan những vẩn vơ tôi nhìn vào máy. Con số 80, còn 60 mét nữa...số 20 trong máy là con số ấn định của Trưởng-toán để dừng lại.&nbsp; Giữ cái "máy mẹ" Toán trưởng biết hết mọi khoảng cách và hướng đến của những "máy con" Ông ta chỉ việc ngồi cố định một chỗ để tiếp nhận dần Toán viên của mình. Khoảng cách 20 mét được ấn định để trao đổi mật khẩu nhằm tránh là quân địch. Nhìn vào máy, tôi qua khỏi bụi lau ngồi chờ đợi... "Juliet" tôi vội đáp ngay mật khẩu "Romeo" Rồi tiếng "vào đi" của Toán trưởng ở phía trước.</span></span></span><br /><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhaedm8o8guZDR_LwDCImk62GOuhOXKjO1XviXglbMtBZKDRjbgpEQZ1Gqil0Ozd833v5nSsKD_KdI4GVBuCYNTG8Zkv5RBCwfhhShTFT8GGvCHXKaegcArmcQ_wEQLri48BjRn8BOF0KY/s1600/image.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="424" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhaedm8o8guZDR_LwDCImk62GOuhOXKjO1XviXglbMtBZKDRjbgpEQZ1Gqil0Ozd833v5nSsKD_KdI4GVBuCYNTG8Zkv5RBCwfhhShTFT8GGvCHXKaegcArmcQ_wEQLri48BjRn8BOF0KY/s640/image.jpg" width="640" /></a></span></span></div><div><div style="text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8791"><b>&nbsp;Căn cứ Air America (CIA)</b></span></span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span><br /><div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383150836135_8791"><b>&nbsp;</b></span><span id="yui_3_13_0_1_1383152106792_2439"><span id="yui_3_13_0_1_1383152106792_3006"> </span>3- Nét mặt hớn hở và câu nói "vào đi" lần này của Đại-úy Toán trưởng đã kết thúc tốt đẹp, thành công chuyến xâm nhập khi người Toán viên cuối cùng tụ tập. Nắng cũng đã nhấp nhô trên đỉnh núi. Rừng cây thưa toàn chối non quá đầu người. Toán viên nhiệm vụ đi đầu (Point man) đang căn lại địa bàn chuẩn bị. Toán theo đội hình định sẵn bắt đầu di chuyển. Tiếng chim trên cành cây cao líu lo bên hông và đàn vắt đã xuất hiện dưới lá cây mục. Đại úy đi hàng thứ hai, trước tôi ra lệnh dừng lại khi nghe tiếng Covey đang đến. Toán phó người Mỹ đi đoạn hậu đang cầm chiếc gương chiếu lấy ánh sáng sẵn sàng ra hiệu cho máy bay (Covey) cạnh người xạ thủ M79 (Biệt kích quân người Việt) và sau tôi Toán phó người Mỹ phụ trách truyền tin (Radio man) đang liên lạc...Covey ở trên đầu có lẽ đã nhận xong vị trí Toán bằng gương chiếu và Đại úy đang ghi chép tọa độ Toán do Covey thông báo. Khác với xâm nhập bằng trực thăng bãi thả đã được ấn định chính xác cho thuyết trình hành quân. Nhưng với bằng dù sự chêch lệch tọa độ buộc phải có và xác định lại tọa độ là điều cần thiết. Toán tiếp tục di chuyển. Covey cũng đã ra khỏi vùng. Nắng chan hòa và tầng mây trắng phau như càng lúc càng cao! Khu rừng trước mặt xanh mờ sương lam đầy bí ẩn nhưng bên này khu rừng lau trổ cờ trong gió bạc một mầu nghiêng ngả nhảy múa cùng nắng vàng chan chứa! Không gian yên ả trừ lũ chim trên tàn cây cao đứng lẻ loi bên cạnh tảng đá nổi lên như lưng Trâu. Người đi đầu mồ hôi nhỏ giọt rất vất vả vì cây dây leo. Thi thoảng Đại úy cũng phải thay thế dẫn đường. Đàn vắt dưới chân lau nhau ngửi mồi nhưng chẳng làm gì được vì chúng tôi toàn thân kín bưng trừ ra khuôn mặt nhưng đầy thuốc trừ muỗi. Tôi bỗng tiếc cho bộ Dù nhẩy...đúng là đánh giặc theo kiểu nhà giầu cũng khác!</span></span></span></div><div class="yiv3307671037MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383152106792_3010" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383152106792_3009">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Rừng cây cao, tối hun hút. Tôi như đi vào đường hầm gió lùa và lạnh lẽo. Nửa ngày chúng tôi đánh vật với khu rừng chồi chằng chịt những dây leo. Vạt rừng lau bên cạnh dễ đi nhưng không phải là hướng di chuyển vào mục tiêu. Tiếng kêu của thú rừng vòng vọng và đàn khỉ chí chóe trên cành như lạ lẫm nhìn chúng tôi. Bữa ăn quá trưa cũng đã xong. Đại úy căn lại bản đồ để lấy hướng đi. Ngồi bên cạnh, tôi nghe ông nói...còn khoảng năm cây số nữa!&nbsp; Mục tiêu con đường có đường dây điện thoại mà một Toán thám sát đã báo cáo. Nhiệm vụ chúng tôi tiếp cận con đường tìm đường dây điện thoại để đặt máy thu mọi cuộc điện đàm và bắt tù binh nếu có thể. Trung sĩ truyền tin ngồi sau. Tôi nhìn và phì cười khi anh ta cố mò trong mông, lôi ra con vắt căng đầy máu trên tay. Cái mẹo mà khi còn ở Trung đội Thượng (Hatchet Force) trước khi vào rừng cứ kín đáo xoay lưng rồi ngắt bất cứ chiếc lá nào...nhai trong miệng cho nát rồi vất đi...có thể tránh được lũ vắt tấn công...nhưng theo tôi đã thực hiện nhiều chuyến...có hiệu quả đấy, trừ những con vắt tham, đói ăn điếc không sợ súng. Cách tốt nhất vẫn là áo quần kín bưng, tay và mặt luôn bôi thuốc trừ muỗi. Covey vừa bay ngang rồi biến mất như nhắc Toán...có tao đây! Chúng tôi đang xuống một con dốc thoải nhưng trước mắt là dẫy đồi cao. Thế đất như người ta gấp một tờ giấy. Mặt trời chiếu nghiêng, ánh nắng lung linh trên tàn cây, âm thanh xào xạc lắm khi rít lên cùng gió và gió chỉ đi qua không xuống được chỗ chúng tôi. Một tiếng súng nổ rất gần rồi liên tiếp hai phát như bắn vào Toán. Tôi sững người nhìn quanh...không có ai trúng đạn nhưng tự nhiên ngồi thụp cả xuống. Tiếng hú cất lên và giờ đây tôi đã xác định được vị trí tiếng súng. Có một tiếng hú ở xa hơn đáp lại. Tất cả đều nằm mé tay mặt của hướng di chuyển...cách chúng tôi chỉ khoảng hai, ba mươi mét.&nbsp; "hú...heo rừng...đến đây, gánh về...hú hú" Toán ngồi yên chờ đợi diễn tiến. Nhìn quanh tôi đã thấy tự động từ lúc nào mỗi người chọn một gốc cây sẵn sàng. Thời gian qua đi, rừng trở lại thanh vắng. Toán di chuyển đang qua cái đồi nhìn xuống khe trải dài hun hút. Tiếng của con chim đất lạnh lùng kêu khắc khoải như muốn dẫn chúng tôi vào sâu...nhưng thật ma quái!&nbsp; Ánh nắng đã khuất, qua khoảng trống bầu trời có tí ửng hồng trên tầng mây. Địa thế khác lạ với những cụm tre to lớn theo gió vặn mình răng rắc và ngọn ngả ngớn trên cao. Bên những bụi chuối có buồng chín còn một nửa bu đầy ong ruồi chưa biết thế nào là đêm tối. Đường dễ đi nhưng ẩm. Cây vừa đủ để che chắn hành tung. Toán dừng lại dựa lưng vào tảng đá chuẩn bị cho bữa cơm chiều rồi tìm chỗ ngủ đêm.</span></span></span><br /><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span><br /><div class="separator" style="clear: both;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgH_zvhorhcFVfFAtkEdDx9mMr7jWAcjZc3derXitjRsrlF937gduIpG2GEpZcXm4OVjnmuGLI3W1pgPkNziztfv2Uj2C_XlxhdVtWfX1jWwakC5k46rh61EAkWzSNWRM_N9hdPCws9X5k/s1600/Bell+UH-1B++N1304X+TanSonNhut25FEB70+SlideSheet10.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="420" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgH_zvhorhcFVfFAtkEdDx9mMr7jWAcjZc3derXitjRsrlF937gduIpG2GEpZcXm4OVjnmuGLI3W1pgPkNziztfv2Uj2C_XlxhdVtWfX1jWwakC5k46rh61EAkWzSNWRM_N9hdPCws9X5k/s640/Bell+UH-1B++N1304X+TanSonNhut25FEB70+SlideSheet10.jpg" width="640" /></a></span></span></div></div></div></div></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26306"><span id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26311"> </span>4-Choàng tỉnh trong mơ màng giấc ngủ. Tự nhiên tôi nhìn đồng hồ...tám giờ tối. Đã có tiếng cụ cựa trở mình của đồng đội. Động cơ xe lớn dần và gấp gáp như thử sức! Nó đang ở hướng Tây đúng hướng mục tiêu của chúng tôi. Tiếng người lao xao cùng tiếng động cơ náo động. Bản giao hưởng đêm rừng thêm mới với tiếng động cơ âm trầm cùng láo nháo tiếng người vang vang và quanh quanh côn trùng nỉ non lan xa hòa điệu. Một công trường khởi động hay đoàn xe thức giấc chuyển mình? Phải đợi thôi! &nbsp;Mọi người chắc cũng như tôi đều thức dậy và lắng xem hoặc đang ước lượng khoảng cách? Một tiếng thú kêu rống như xé toạc không gian tiếp theo là giọng gầm gừ như đối nhau càng lúc càng to rồi thét vang...bỗng chốc mất hút trong đêm. Tiếng của đoàn xe đi xa để lại lao xao tiếng người như dần xa vắng. Nghĩ trong bụng, đoán chỉ là trạm vận chuyển. Đêm cháy dần như ngọn nến, tôi cố nhớ đến bầu trời xanh ngắt và sâu thẳm mênh mông...mênh mông...để dỗ dành lại giấc ngủ.</span></span></span></div><div class="yiv7063897911MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26317" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26316">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Có một thứ gì đang đi tới...tiếng động cây lá và bước chân nhịp nhàng quanh tiếng gà gáy vang. Trời đã sáng nhưng chưa rõ hẳn trong làn sương mù giăng găng, giơ tay lên mặt là chạm phải nhất là ở hàng mi. Mẩu C4 đang nấu nước cháy hết tạm ngừng. Một con chim lợn xà xuống thấp kêu thét một tiếng nghe rờn rợn. Nhìn những gương mặt căng thẳng tay lăm lăm trên cò súng trong thế ngồi dã chiến. Tôi bỗng phân định ra cái sự gì đó đang đến quyết không phải là địch quân!&nbsp; Nhưng toàn thân cũng nóng lên theo từng bước chân căng thẳng. Thời gian như doãi ra rồi ngừng lại cùng một sự yên lặng chợt đến thật khó hiểu...Tiếng khịt khịt vang lên nhanh chóng đánh tan bầu khí căng thẳng cùng mọi cái thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ bụi cây một con heo đen xì cái đầu đưa qua đưa về ngẩng lên nhìn chúng tôi. Nó đứng đó như khách xa lạ một lúc nhìn ngổ ngáo rồi tẽ ngang đi mất.&nbsp; Mẹ kiếp...sáng sớm đã dợt hộp!&nbsp; Cơn gió nhẹ bay cùng làn sương nổi hột làm cơn thèm cà phê chợt đến. Ngọn lửa C4 đang làm sôi ca nước...việc cấn thiết cho cái bao tử trong một ngày...đổ nước nóng vào hai bịch gạo sấy&nbsp; và nhâm nhi cà phê cùng thưởng thức điếu thuốc lá...thổi khói vào chiếc áo đi mưa để sát đất. Rừng yên lặng chỉ còn tiếng chim. Sương mù tự nhiên kéo đi đâu thật lẹ, chỉ còn những mảng mỏng luẩn quẩn bên vạt cây lá từng giọt đếm trên đất. Hai người Biệt kích Việt vừa gỡ xong mìn phòng thủ. Toán di chuyển.</span></span></span></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><div class="yiv7063897911MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26321" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383196158889_26320">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Con đường chắn ngang. Tôi được lệnh theo Đại-úy lên thám sát. Đường nhỏ hẹp có dấu bánh xe đạp đi lõm hai bên nhưng bên này sâu hơn. Chứng tỏ địch vận chuyển thồ hàng từ hướng Đông sang Tây rồi lại dắt xe đi bộ trở về. Tôi được lệnh vượt qua đường sau khi đã lấy ít lá cây rụng lấp bên trên tạo thành một lối đi tránh để lại dấu vết. Toán phó, người cuối cùng vừa sang đang ngồi xóa dấu và gài lại trái mìn M14 chống theo dõi. Tiếng Covey ì ì đang lên vùng. Một mảng trời trong xanh bên cạnh khoảng mây trắng đùn từ dưới lên cao. Mặt trời đứng khựng trên tàn cây như cố xuyên thủng lớp sương mù đang muốn thoát khỏi sức hút của đất và cây rừng. Toán dừng lại bên một gốc cổ thụ có những dây leo to như cổ đùi rũ xuống. Đàn khỉ thấy người đang dáo dác trên cành và to nhỏ gì đó. Người Mỹ truyền tin liên lạc Covey...đọc mật mã chuyển bức điện. Sự cô đơn của rừng đầy kỳ bí và lạnh lùng! Toán tiếp tục di chuyển để lại đàn vắt như tiếc rẻ con mồi...lồm ngồm dưới lớp lá rụng dầy. Một mùi hương hoa thoang thoảng, tôi bất chợt nhìn lên tàn cây. Mầu hoa tím nhạt đua lay trong gió dịu hiền bên lá xanh phơn phớt...hoa gấp bội lần lá! Đại úy mới vừa trượt chân, tôi phải ghìm người lại, đơn giản là chúng tôi đang xuống con dốc. Nắng ở trên cao nhưng không thể xuyên rừng xuống được đất. Buổi sáng đi qua thật lẹ...tôi đã cảm thấy đói bụng. Những bước chân khám phá cũng đã mỏi...dù sao cũng cần phải tiếp thêm năng lượng. Đại úy quay lại nhìn tôi rồi nhìn đồng hồ tay chỉ vào bụng, ý muốn hỏi có mệt, đói không? Tôi cười đưa tay ra hiệu...Ông và tôi sức vóc không bằng nhau! Nhưng dù sao tôi biết chắc rằng cũng phải qua khỏi con dốc trước mặt...chỗ nghỉ quân phải có địa thế tác chiến tốt. Luồng gió từ khe sâu giống như hơi thở của rừng luôn lạnh lẽo, âm u và huyền bí! Một tiếng súng nổ ở hướng Tây...địch đang báo hiệu gì đó hay là một mệnh lệnh trong khu vực? Nó đã quá quen với những cuộc hành quân Biệt-kích nhất là khi địch biết chắc có Biệt-kích trong vùng, lúc đó tiếng súng bắn để nghi binh hay tạo một cái bẫy dụ chờ Toán vào vùng phục kích do họ chọn lựa. Tiếng của một con chim lạ kêu trong sâu nghe âm vang thật rền rĩ, cô đơn.</span></span></span></div><div style="text-align: left;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwBlN6hH_Xr1yrigPEa0uz2-3rJbBJ7GKEpatACHk9H-2v991em51I33wuLsY9rHkBB-DEiNOABQZYrirZaVaO6DonR7W88tN8sHyGiP8j-8FqnBedBSovpqaGdRfg122AWgNgXjJBeas/s1600/PhuBaifrontgate.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="456" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwBlN6hH_Xr1yrigPEa0uz2-3rJbBJ7GKEpatACHk9H-2v991em51I33wuLsY9rHkBB-DEiNOABQZYrirZaVaO6DonR7W88tN8sHyGiP8j-8FqnBedBSovpqaGdRfg122AWgNgXjJBeas/s640/PhuBaifrontgate.jpg" width="640" /></a></div></div><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3114"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3459"> </span>5- Bữa cơm chiều, ăn xong là di chuyển ngay. Trời nhá nhem , sự yên tĩnh đến đáng sợ của rừng luôn làm căng thẳng thần kinh! Buổi chiều qua đi với hai lần vượt qua loại đường gùi xuyên rừng và con suối cạn róc rách từ kẽ đá...nó chỉ đổ nước ra suối lớn vào mùa mưa. Bóng tối đến thật nhanh cùng đàn muỗi thét vang bên tai, tức tối vì mùi thuốc bôi trừ muỗi. Bóng đêm đã ngự trị nhưng Toán vẫn lần mò chưa tìm được một gốc cây ưng ý hay một địa thế có những tảng đá để ẩn mình. Tiếng của loài chim ăn đêm như thúc dục đến não lòng, kinh dị. Cơn gió lạnh chợt đến như xé lòng, buốt giá bủa vây. Toán dừng lại khi bước chân tôi đứng trẹo đi vì hai cục đá cao thấp. Gốc cây lớn ngay trước mặt đã được chọn và chỉ trong tích tắc mọi người đã yên vị cùng lúc người Toán phó và người dẫn đường (point man) gài xong hai trái mìn phòng thủ...ở ngay đường vừa di chuyển...cùng hướng vào mục tiêu.&nbsp; Tôi ấm dần lên trong cái áo đi mưa, dựa người thoải mái vào ba lô và dây đạn khoác hờ vào hai vai rồi cởi khóa dây đạn trước bụng...Khi cần thiết...nhổm người dậy là mọi thứ đã sẵn nơi vai, chỉ việc gài chốt dây đạn là xong. Hướng thoát hiểm được ấn định luôn là phía trước...đường vào mục tiêu. Trong trường hợp đụng địch tại nơi ngủ đêm, sẽ có tiếng hô ra lệnh của Toán trưởng và hướng trái mìn Claymore của người đi đầu nổ tung...Đó là con đường máu thoát hiểm...Tôi đi dần vào giấc ngủ...lơ mơ trong điệp khúc đêm rừng gió rét.</span></span></span></div><div class="yiv9959398123MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3465" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3464">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; - Vừa mở mắt thức giấc. Tôi liền tạ ơn Chúa ban sự bình an trong đêm. Sương trên cành nhỏ giọt từng giọt xuống chiếc áo mưa. Nó lộp bộp nhiều hơn khi làn gió thổi trên cao. Sương mù giăng khắp và gà gáy dồn dập. Núi rừng vẫn một mực yên lặng và hình như tiếng chim trong gió khe khẽ lẩn khuất bên trên cùng tiếng côn trùng rời rạc, mệt mỏi với chức năng về đêm?!&nbsp; Trời sáng dần, ngọn gió làm sương mù bay, tôi như ngủ trong cỗ màn tuyn trắng đục khi còn ở nhà chưa đi lính. Đại úy đang nấu nước sôi chuẩn bị cho cái bụng trong ngày. Mùi thuốc nổ C4 dùng nấu nước có mùi thơm thơm khi đốt lửa nhưng nó lại tạo khói khét lẹt lúc được kích hoạt nổ. Toán được phép mang theo những bánh thuốc nổ C4 dùng vào việc nấu nướng và khi hữu sự chúng tôi có thể gộp những bánh thuốc nổ C4 xài dở dang, tạo thành bánh lớn bởi độ dẻo của nó và gắn ngòi nổ đốn ngã bất cứ cây cao nào cản trở cho bãi đáp khi bất ngờ triệt xuất Toán. Điều quan trọng là phải tạo một lỗ sâu bằng cách ấn mạnh cây viết chì mà Toán trưởng vẫn dùng để ghi chép vào bánh thuốc C4 để cho ngòi nổ ở trung tâm, bảo đảm cho hiệu quả. Công việc của buổi sáng cứ tuần tự...sau màn vệ sinh cá nhân...Toán bắt đầu di chuyển.</span></span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span><br /><div class="yiv9959398123MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3468" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3467">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; - Nắng trên cao và gió mang cái mùi ngai ngái của loại cây mọc trong khu vực. Có lá như lá me, chiều cao chỉ bốn mét, tàn xòe rộng, quả rũ xuống như giàn đậu đũa. Mọc sát cạnh nhau an phận dưới những tàn cây cổ thụ cao lớn che trời. Một chùm lan rừng tím xậm vụt lên từ cành lá, đùa giỡn cùng nắng ban mai. Có một con ong vừa vụt bay, nhanh chóng mất tích. Tiếng chim líu lo và đàn khỉ the thé đùa giỡn chuyền cành! Bên gốc cây Đại úy liên lạc với Covey...Ông mới chuyển xong bức điện và có vẻ như đang chờ sự gì đó? Toán lại lên đường sau tiếng Covey nhỏ dần đi bao vùng khác. Di chuyển dần lên cao, địa thế dốc trì nặng đôi chân. Bầu không khí thay đổi hẳn, mát rượi và thơm lừng hương hoa. Trên cao cả một vạt rừng hoa tím...mầu tím hồng nhạt từ cây rắc những bông hoa trên đất, theo cơn gió nhẹ bay bay cả vào người chúng tôi như mừng người chiến thắng! Ai có tâm hồn mà chẳng rạo rực trước cảnh này? Người dẫn đường đã lên tới đỉnh dốc. Mảnh trời xanh lấp ló bên trên tầng cây và bên dưới chen cùng những gốc cây tảng đá đen xì rải rác lồm ngồm như đàn rùa biển lên bờ. Đại úy ra lệnh nghỉ và ăn trưa. Gió từ dưới lũng thốc lên vút tận tầng cây rào rào lao xao. Toán phó đang hút thuốc lá, thở khói thuốc vào ngực áo mình, cạnh người xạ thủ M79 nhai cơm. Đại úy bận bịu với tấm bản đồ và cái địa bàn...căn, đo xác định lại phương hướng. Mùi ruốc thịt ba lát đậm đà sao nước mắm ngon nhai với cơm sấy trong miệng làm tôi nhớ về ký ức khi xưa còn bé...Cứ mỗi lần Mẹ làm ruốc thịt heo y như rằng tôi căn để ăn vụng, nhai không biết chán...Miếng ăn vụng tôi nghiệm ra rằng ở những nơi kín đáo ăn miếng càng nhỏ nhai càng khoái, càng khích thích tợn! &nbsp;Tiếng Covey vừa bay ngang loãng dần về hướng Đông có lẽ nó lên đường về lại nơi xuất phát đổi tua cho chiếc khác bao vùng. Tôi cố gắng chống lại giấc ngủ trưa quen thuộc và thấy đời như là sự gì bất công tràn lan!<span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3485">&nbsp;&nbsp;&nbsp;</span></span></span></span><br /><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3467"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3485">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;</span></span></span></span></div><div class="yiv9959398123MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3468" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidj1Jiht4qJ4Ro_vdxY8P_qdVWFCFDvxAITzJTLy24h4DhqfFvMChv45fw2kkci6jBSrC41fBJllqbHWPgXXySogfx_160Zc37WkxCkO8xRJ3sBNTLeQhHaewbgZIAFPLLBqVuPUgYEJg/s1600/PhuBai1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="432" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidj1Jiht4qJ4Ro_vdxY8P_qdVWFCFDvxAITzJTLy24h4DhqfFvMChv45fw2kkci6jBSrC41fBJllqbHWPgXXySogfx_160Zc37WkxCkO8xRJ3sBNTLeQhHaewbgZIAFPLLBqVuPUgYEJg/s640/PhuBai1.jpg" width="640" /></a></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3467"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3485">&nbsp;</span></span><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3467"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3485"> </span></span><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_4420">6- Tiếng cười đùa vang vọng xé tan sự yên lặng kỳ bí của rừng. Gió mạnh từ lũng liên tục thổi lên rồi luẩn quẩn làm đôi lúc giọng trong trẻo nhỏ nhẹ, đôi khi khanh khách vụt cao. Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tôi đã thấy cái nhíu mày trên trán Đại úy. Tôi biết ông đang quyết định một việc gí đó? Vì nếu di chuyển ngay theo hướng vào mục tiêu, Toán sẽ bỏ lại sau lưng tiếng cười đùa của địch bên hông...chẳng phiền toái gì cả!&nbsp; Y như tôi linh cảm. Đại úy đến bên Toán phó và họ thảo luận gì đó? Giờ thì cũng như mọi người tôi có thể ước lượng khoảng cách đến địch chỉ vài chục mét. Trở về Đại úy ra lệnh thám sát khu vực và tôi thông báo cho hai Toán viên biết. Người đi đầu đã đứng lên. Toán cứ theo hướng có tiếng người đi tới. Cây rừng tương đối dễ di chuyển. Sự che chắn tốt và chúng tôi cẩn trọng lần bước. Con Sóc đuôi dài leo vụt lên cây đến nửa chừng dừng lại nhìn chúng tôi. Tiếng người mỗi lúc một gần rồi đột nhiên tắt hẳn? Ánh nắng ngang tầm mắt nhưng lúc này bị tàn cây che chắn. Tiếng ì ì của Covey ở một nơi xa hướng Nam cho chúng tôi thêm tin tưởng. Toán dừng lại Đại úy ngoắc tay gọi tôi và cùng lên phía trước. Một con suối trước mặt cùng mắt tôi chạm ngay vào dẫy nhà sàn nằm nép bên suối ở sườn dốc. Một khoảng ánh nắng chiếu rọi tấy rõ con nước lao đi trong đá chắc chắn là không sâu. Nhìn gần, dưới dốc những trái su su ngồn ngộn trên dây leo cùng những luống khoai môn&nbsp; bên hàng ớt đỏ rực. Toán cảnh yên lặng như ma quái, đến nước dưới suối cũng câm lặng!? Tiếng của một con chim đất rúc lên nghe như kêu mời và một, hai, ba, bốn rồi năm người từ nhà sàn vừa đi ra. Nhìn kỹ ba dân quân và hai bộ đội. Không trang bị súng nhưng người bộ đội đi thứ hai quấn băng xanh mầu lợt trên đầu. Có tiếng gọi từ phía bên kia con suối nhưng chẳng hiểu nói gì? chỉ thấy cả năm người sắn quần lội qua. Nắng chiều tỏa ánh sáng chiếu chói lọi xuyên cành lá và chúng tôi phát hiện thêm những làn khói tỏa không muốn rời mái nhà. Một tên bộ đội bất chợt từ trong ra ngoài sân, cây súng chỉ thiên nổ một phát rồi lại tất tưởi trở vào. Tất cả mọi sự việc hẳn không qua được cái ống nhòm của Đại úy. Ông có vẻ say mê, rồi thình lình ra lệnh rút quân, di chuyển theo hướng vào mục tiêu. Ánh sáng ửng chiếu khắp trên vùng trời đằng Tây cứ như vầng than hồng lóe trong đêm. Người đi đầu phải luồn lách để tránh những cây dây leo trong một địa thế xuống dốc luôn phải hãm đôi chân. Trên một cành cây thấp ngước nhìn loài chim xâu bé tí thoăn thoắt nhẩy tìm mồi như chả biết thế nào đã gần đêm. Đại úy ra lệnh ngừng lại, chả gì cũng đã quá bữa cơm chiều. Đàn muỗi tự nhiên xô lại vây quanh cùng tiếng kêu của một loài chim lạ nghe đơn côi và khắc khoải. Cơm ăn vừa xong cũng là lúc bóng đêm vừa đến. Điếu thuốc lá cuối cùng trong ngày được phép, tất cả được thở sâu vào ngực áo. Lệnh qui định, nơi ngủ đêm cấm hút thuốc lá cho đến sáng ngày hôm sau. Toán di chuyển tìm chỗ ngủ đêm và hình như có tiếng ầm ì nơi xa vọng lại. Chân bước nhưng tai dóng lên để nghe...quả đúng vậy! Nó xen lẫn với điệp khúc đêm rừng quanh quanh và rõ nhất đanh nhất có một loài giống như tiếng Ve kêu mùa không biết mỏi với mầu Phượng rực nắng nhưng ở đây "tiếng Ve...?" trong đêm. Động cơ xe, giờ tôi có thể nói như vậy và xác định được càng lúc càng đến gần. Cơn gió làm lao xao cây lá. Những bước chân giữa đêm rừng đầy kinh dị, sợ hãi vây quanh...chân tuy bước mà lòng cứ mãi về phía sau chỉ sợ bị "vồ..." Dù rằng tôi biết chắc còn ba đồng đội đang đi theo. Một mùi hương hoa thoảng trong đêm nhưng không gây được sự thích thú kèm theo cái lành lạnh. Đại úy đi trước tôi đang ho vào vạt áo, có lẽ ông bị dị ứng "làn gió lạ" Một bóng đen to lớn án phía trước che dần bầu trời sao. Chúng tôi như bước vào con đường hầm gió lạnh và tối om. Gió ào mạnh bên trên rồi dịu đi chạm lá tựa tiếng réo rắt phong cầm lúc trầm lúc bổng. Tôi vướng vào một dây leo và chân chạm rễ cây suýt ngã. Đại úy ra lệnh nghỉ đêm và tiếng động cơ xe bỗng đứt quãng vuột biến. Tôi nghe Đại úy nói với Toán phó chỉ gài một trái mìn Claymore.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; đường thoát hiểm vẫn là hướng vào mục tiêu. Gốc cây cổ thụ và những rễ bạnh nổi lên như ôm lấy chúng tôi. Tiếng kêu của con tắc kè tận trên cao chậm rãi từng tiếng chắc nịch giống như nắm đấm dội vào lồng ngực gây tưng tức hay có thể tầng cây dầy che lấp không gian thoáng đãng và sương mù tuy chẳng thấy nhưng cũng hình dung qua cái lạnh mơn man trên mặt, phơn phớt ẩm hơi.</span></span></span></div><div class="yiv9959398123MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3468" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><br /><div style="text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgsHSZ6T9ssbMVMJsb99q6LUoCxC7p056aoHyhMKF6LA9k1Xd344xz7ZZOY7cCtESaTq3twxKUNw6hz6T4ePumrB8uc6co9pUUWStV2ij31YDe5_yZKeuL_dTgzqhH6l5JInMnToANfoYE/s1600/1499449-macvsog.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgsHSZ6T9ssbMVMJsb99q6LUoCxC7p056aoHyhMKF6LA9k1Xd344xz7ZZOY7cCtESaTq3twxKUNw6hz6T4ePumrB8uc6co9pUUWStV2ij31YDe5_yZKeuL_dTgzqhH6l5JInMnToANfoYE/s320/1499449-macvsog.jpg" width="240" /></a><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_4420">&nbsp;</span></span></span></div></div><div class="yiv9959398123MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_3468" style="margin: 0cm 0cm 0pt; text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_4420">&nbsp;</span><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5701"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5700"> </span>7- Buổi sáng thức dậy, công việc tuần tự &nbsp;cứ như mọi ngày hành quân. Covey lấy x<var id="yiv0012091003yui-ie-cursor"></var>ong bức điện rồi di ngay. Sương mù cũng tan biến để lại giọt mưa trên lá. Người đi đầu bỗng dừng lại, tay ra hiệu con đường phía trước. Ánh nắng chói lọi lọt qua tầng cây làm hai vai người đi đầu tỏa khói và tôi thấy Đại úy đang quan sát con đường. Theo lệ thường tôi lên để yểm trợ...vẫn là loại đường gùi để vận chuyển, nhìn những dấu chân in trên đường, chứng tỏ địch di chuyển thường xuyên nhưng hẳn nhiên chưa phải là con đường có đường dây điện thoại mà nhiệm vụ Toán phải tìm. Sáng nay khi chấm bản đồ Đại úy nói rằng chỉ còn khoảng hơn một cây số sẽ chạm mục tiêu. Chúng tôi băng qua đường sau khi Đại úy chụp vài pô ảnh. Địa thế khu rừng chồi rất ít cây to nhưng Toán đang đi vào bóng mát cùng tiếng chim lanh chanh trên cành cao. Một mảng mây trắng bấu chặt lấy bìa rừng trước mặt cùng ngọn gió làm lạnh hai vai và chắc chắn sẽ khô dần đi cái khăn ngụy trang. Tạm nghỉ chốc lát rồi lại lên đường. Hai con chim thật lớn tự đâu bay đến một con đứng quạt cánh trên tàn cây nhưng không đậu xuống còn một con bay vòng trên cất tiếng kêu la như vai trò của một huấn luyện viên!&nbsp; Đại úy nhắc tôi "đi đi..." cũng vừa lúc súng nổ ở phía sau rất gần và tiếng đáp trả phía bên hông nghe đanh, nhọn như không cùng một loại súng. Khu vực bỗng trở nên đáng sợ. Tôi cảm thấy nhiều mũi tên đang bắn tới và cái lạnh chợt đến đang tỏa từ sống lưng đến gần mông. Đại úy ra lệnh dừng lại. Phía trước khe dốc lên cao trông như bức tranh với đụn mây trắng tinh khôi cuồn cuộn cùng bầu trời xanh thẳm. Tiếng hú từ xa vang vọng mà chỉ có thể là tiếng người cùng tạo cho rừng một thoáng kỳ quái, thâm trầm đến lạnh lùng. Giọng hú đáp trả hai lần nghe vọng dội âm thanh như đi từ Nam lên Bắc...Tôi tưởng tượng đến có một trận đồ đang vây hãm...giữa thanh thiên bạch nhật! &nbsp;Chúng tôi đến gần sự hoạt động nơi địch đóng quân. Đại úy chỉ hướng cho người đi đầu và ra lệnh xuất phát. Nắng đã gần trên đỉnh đầu và làm khô mọi thứ ướt bởi sương sớm. Toán đang đi vào bìa rừng với cây cao bóng rợp. Vẻ âm u vắng lặng chào đón...nhìn, ai mà chẳng chột dạ?! Tôi theo thói quen xoay người ngắt một lá cây tiện nơi tay bỏ vào miệng nhai để chống vắt. Nụ cười của người Toán phó (radio man) đi sau nhìn tôi tinh quái và thoáng ngạc nhiên, dù rằng việc này tôi cũng đã giải thích lúc cùng thực tập. Rừng cây tương đối dễ di chuyển vừa đủ để che chắn. Những tảng đá chen nhau như đua cùng cây nhưng an phận bởi loài cây mọc từ trong đá xanh biếc nhưng thấp xỉn phát triển theo sức sống ở những đường kẽ và trũng cùng &nbsp;loại rêu xanh đậm bấu chặt. Chúng tôi ăn trưa ở gốc cây có những tảng đá rải rác vừa đủ để che đầu người ngồi. Ánh nắng chiếu rọi, giống những hạt kim cương thi thoảng hiện trên những khuôn mặt và điệp khúc rừng cứ mãi trôi theo thời gian bất tận! Tiếng ào ạt phía bên hông làm những cây chồi non nghiêng hẳn một vạt trước ngọn gió quẩn quanh quanh...rồi chạy đuổi về phía sau. Đại úy ăn xong ông lại căn hướng đi...Ông ta có vẻ sốt ruột, nóng lòng vì nhiệm vụ hoặc bởi những ước lượng đường di chuyển bị sai trật. Nhưng tôi nghĩ là không thể!&nbsp; Lệnh di chuyển ngay đúng ra là phải có chừng một tiếng nghỉ ngơi. Nhưng cả Toán không ai tỏ vẻ uể oải ngược lại hăng hái tiến bước. Tôi cười nhìn lại đàn vắt cố công bò đến ngổn ngang...chúng cứ ngóc lên cao đưa cái vòi qua lại dò con mồi...tôi ngộ nghĩnh vẫy tay chào...chào lũ mày, Vắt.&nbsp; Ánh sáng vẫn rọi trên khuôn mặt Đại úy vụt biến mất...nhìn lên hai con chim rất to vừa đậu vào tàng cây cất tiếng kêu như gọi con trong tổ? Ngọn gió quẩn hình như quay lại đẩy chúng tôi vào sâu.</span></span></span><br /><div class="yiv0012091003MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5733" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5732">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Người đi đầu dừng lại ra hiệu có con đường. Đại úy nhìn tôi như ra lệnh cùng lên thám sát. Phía sau Toán đã ở vào vị trí chiến đấu dàn hàng yểm trợ hai bên và mặt sau. Ngồi xuống mép đường bụi rậm quan sát. Đường cơ giới, dấu bánh xe và vết chân dấu giầy trên đường...nhưng không thấy dây điện thoại. Đại úy nét mặt đang suy tính, con đường này rất đúng&nbsp; trong báo cáo. Tôi cũng biết như vậy và nghĩ là dây điện thoại chỉ có ở bên kia đường? Đại úy khoắt tay ra hiệu vượt qua...Vẫn là người phải sang trước để lập chốt yểm trợ...Men theo những đốm lá cây rụng tôi nhanh chóng vượt qua sáu... bẩy mét con đường thật êm ái và chân vướng ngay vào sợi dây điện thoại. Lập xong đầu cầu, quan sát hai mé đường tôi ra hiệu cho Toán di chuyển. Vẫn con gió quẩn lúc này thổi ào trên đường bốc lên những chiếc lá bay bay.</span></span></span></div><div class="yiv0012091003MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5730" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhk1BgUkCoVUJk-M_o1goElH3Nc5qN5GfblJkuiq1IBlhNrmWjPV94OLkp7qcKy1XRSNHEaJddCzHv2Z9-h1UN3owiWDXKEzMDXDIN5bWTFsF8v_neOswUBcxpsDPGtlNuIwl4r7mC_bGM/s1600/Smoke2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhk1BgUkCoVUJk-M_o1goElH3Nc5qN5GfblJkuiq1IBlhNrmWjPV94OLkp7qcKy1XRSNHEaJddCzHv2Z9-h1UN3owiWDXKEzMDXDIN5bWTFsF8v_neOswUBcxpsDPGtlNuIwl4r7mC_bGM/s320/Smoke2.jpg" width="284" /></a></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">&nbsp; <span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6578">8- Đại úy cũng vừa sang đường, tôi chỉ cho ông dây điện thoại. Nét vui mừng rõ trên mặt, ông buông một câu "tuyệt vời" và ngay lập tức ra lệnh di chuyển dọc theo con đường để chọn địa thế. Toán đã đến được một nơi cay chồi mọc cùng dây leo chằng chịt bên dưới, có những tảng đá rải rác...Một địa thế tác chiến tốt và quan sát cũng như ẩn nấp chả chê vào đâu được. Nắng đã siên ngang...chiều đi thật mau...cũng nhanh như chúng tôi vào vị trí. Đại úy và radio man nằm ở trung tâm để ghi âm. Tôi và người đi đầu (point man) hai đầu tả hữu còn Toán phó và người xạ thủ M79 án ngữ mé sau lưng. Hai trái mìn phòng thủ được gài hai đầu do tôi và Point man giữ. Lệnh cho hướng đào thoát là chốt phía sau của Toán phó. Con đường vẫn im lìm vắng lặng. Mé tay trái gió vừa bốc lên những chiếc lá trên đường tung cao rồi xoay tròn chạy ra xa. Dựa lưng vào tảng đá, tôi trong một bụi rậm bắt đầu tạo những khoảng trống nhỏ để tiện quan sát trên đường nhất là lỗ hổng để nhìn được vị trí đặt mìn phòng thủ. Đại úy đến bên tôi từ phía sau như là để kiểm soát và thông báo máy ghi âm của người Toán phó radio man đã hoạt động. Mặt trời đã lặn và bắt đầu cho đêm rừng. Miếng cơm nhai trong miệng bữa nay sao ngon lạ! Trời mây trắng nhưng phía Bắc cơn đen che hẳn nửa bầu trời. Con đường đi xuống lũng sâu quẹo hẳn vào núi cao. Bìa rừng cây cao rậm che chắn cho con đường lại là ranh giới giữa rừng già và rừng chồi non. Bóng tối đem bản giao hưởng rừng đêm cùng sương mù chen lấn. Gió bắt đầu lạnh thêm thổi từ trong sâu. Trong chiếc áo đi mưa tôi chợt rùng mình về sự lẻ loi, cô đơn...dù rằng chắc chắn cách đây chỉ khoảng mười mét là đồng đội! Tiếng của loài chim ăn đêm nghe não lòng gợi nét quỉ ma, chông chênh giữa thực và mộng...Bất chợt nghe từ thẳm sâu ký ức một khoảng trời học đường...ngày ấy những bài học làm người, bài học cuộc đời trước khi bước ra một sân chơi lớn: đời người. Mầu hoa Phượng đỏ như lửa ấy cứ rực mỗi Hè. Tàn mùa Phượng đã nghe mùa Thu gõ tiếng trống trường...lăn dọc thời trẻ con hoang dại. Lăn dọc những vui buồn không tuổi, không tên. Để bước vào những mùa thi...Lần cuối, năm ấy mình không qua nổi kỳ thi, sẽ là ngã rẽ cuộc đời! Trò chơi lớn bắt đầu...Xua đi những ý nghĩ, tôi tập trung vào giấc ngủ. Đưa mình lên bầu trời xanh thăm thẳm, cứ thế xa tít rồi xa tít và tôi ở trong vùng cao xa ấy.</span></span></span></div><div class="yiv0012091003MsoNormal" id="yui_3_13_0_1_1383199887736_5730" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6584" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6583">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Đêm qua đi, trời lại sáng và tôi thức giấc lúc còn tối có lẽ &nbsp;cái chân bị tê vì thế ngủ ngồi quái ác. Tiếng côn trùng nghe đã có phần rời rạc chỉ lũ gà là xung. Biết bao chuyến hành quân và ở bất cứ rừng núi nào tôi chỉ nghe tiếng gà chứ chưa bao giờ thấy chúng! Sự ẩn mặt của lũ gà rừng tôi chưa thể lý giải được? Ánh mờ mờ của sáng sớm làm tôi nhận rõ hơn phía trước mặt thung lũng chạy xa trong biển xanh ngàn cây. Xa hơn núi cao chắn lối và bên này con đường đang đi xuống sâu vào rừng. Cơn thèm cà phê ghê gớm làm tôi phải nấu nước thôi. Mùi chất nổ C4 bị đốt tự nhiên sộc vào mũi...không biết có phải của tôi...ô hay chắc chắn rồi! Hay thêm quanh đây đồng đội cũng đang nấu và tôi liền nghe tiếng "tắc kè" mật hiệu qui định...tiếng một rời rạc là liên lạc với nhau còn nhanh gấp gáp là báo động...Tôi liến đáp lại, Đại úy xuất hiện. Nhìn quanh ông yên tâm, xong lại biến. Đổi lại thế ngồi và thưởng thức ca cà phê cùng khói thuốc ém chặt say say. Gió nhẹ bay bay sương sớm thấy cả hột li ti rồi &nbsp;nhẹ nhàng rơi. Trời đã sáng, mây trên cao xa...cao hơn một ánh sao to lấp lánh chưa chịu nhường mặt trời mà tôi đoán cũng sắp lên khỏi núi hướng Đông. Tiếng chim trên cành cây cao càng rõ hơn náo động dần không khí...Ngày của rừng thật sự bắt đầu và tôi nghe tiếng súng nổ ở về hướng Tây.</span></span></span></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6599" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6598">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; -Một mình lẻ loi, ngồi buồn chết đi được. Hai viên kẹo "cao su" trong khẩu phần ăn nhai lọt thỏm vẻ còn thèm thuồng không đã.Nghe bên vị trí của Đại úy vẫn một mực im lìm nhưng chắc chắn ít ra họ đã thu âm được hai cuốn băng. Ánh mặt trời chói lọi xuyên cành lá tức khắc đang đẩy lùi lớp sương mai mà giờ hình như đã tan biến. Có thể nó chạy trốn trước khi mặt trời đến! Tôi bỗng nhìn về hướng dốc con đường và mắt vừa chạm hai người đang dắt xe đạp đi lên. Tôi...miệng trong loa tay kêu "tắc kè" liên tục rồi nghe tiếng "tắc kè" đáp lại. Mật hiệu đã được nhận và chờ đợi cho sự sẵn sàng.</span></span></span></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6599" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_6599" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUgzOIiYo9Okj7p7Gt5Wzv0HYi9oBHFPhOO3iuxEHTvWnqEk8gm4r9O1s3U5T0RWrvdniXq0KKdrqcVQ9QAw5bOF9p8AwhTEYIFTUpa7qx1bZ2dJ_O0mczW0K1ZlFPLbx3yyyLwknaq1s/s1600/phubairappelingtower.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjUgzOIiYo9Okj7p7Gt5Wzv0HYi9oBHFPhOO3iuxEHTvWnqEk8gm4r9O1s3U5T0RWrvdniXq0KKdrqcVQ9QAw5bOF9p8AwhTEYIFTUpa7qx1bZ2dJ_O0mczW0K1ZlFPLbx3yyyLwknaq1s/s400/phubairappelingtower.jpg" width="285" /></a></div><br /><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7510"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><br /></span></span></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7516" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7515"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7514">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </span>9-Hai tên địch dần đi lên, chỉ một tên có mang súng, cây AK đeo trước ngực. Cả hai trang phục chính qui chính hiệu...nón cối, giầy vải, áo quần kaki xanh, lưng thắt dây da nâu loại Trung quốc. Tên đi sau mang cặp da bên hông ,không súng.&nbsp; Vì đường lên dốc nên cả hai dắt xe đạp, loại Trung quốc, mầu đen, hai thắng tay liền với ghi đông lái. Tôi dõi theo từ bước đi họ lên, giờ thì có thể nhìn rõ mặt...tên mang súng còn rất trẻ có thể nói là con nít! Còn tên kia, mặt dầy dặn, khoảng ngoài ba mươi. Đếm từng bước chân có lúc chậm vì lên dốc vả lại còn phải dắt xe. Tôi cố chấn tĩnh...doãi tay gồng mạnh như để lấy lại sức và cái của chết người càng lúc càng gần cùng thời gian nóng lên và như ngừng trôi nhưng nhích dần. Một giọng hót mượt mà, thanh cảnh của một con chim trên cây giúp tôi phần nào thoát cơn căng thẳng đang lên và hai tên địch bất ngờ rẽ vào lề đường bên kia có tảng đá cao rồi dựng xe. Động tác rất nhanh hắn tháo cây súng khỏi cổ dự vào xe đạp rối tất tưởi đi đến bụi rậm gần đó...biến mất. Tên mang cặp vào sâu một tí thản nhiên thò tay móc "..." đứng đái nét mặt vẻ thoải mái, tay đu đưa rồi chợt rùng mình nghiêng hẳn người quay đi ra. Hình như có gió to nổi lên phía giữa con dốc, lá cây bay tung về bên kia đường và bóng rợp đen của đám mây dần dần từ sau lưng hướng Nam trôi từ từ lên hướng Bắc. Tên bộ đội con nít cũng vừa đi ra. Rất tự nhiên như đã quen thói lấy cái túi vải sau xe đạp, ngồi xòa xuống cục đá thấp tay kia móc ra hai nắm cơm, đưa cho tên kia một...thản nhiên cắn ăn một cách lạnh lùng! Trò chơi ú tim lại theo từng miếng nhai, thoáng chốc đã hết nửa nắm cơm. Khoảng cách vào quãng mười mét nhưng tôi thấy rõ còn hơn khi đi xem kịch diễn trên sân khấu. Sự hồi hộp căng thẳng cứ dần được đẩy lên có thể đã chạm vào được ánh nắng. Tôi bỗng nhiên tự trách sao lại chọn đầu dốc, nhưng đó là việc của Đại úy...về mặt chiến thuật rất có lợi cho tác chiến, nhưng tâm lý đã lên dốc là phải nghỉ ngơi?!&nbsp; Giờ đây chắc mọi người cũng có ý nghĩ như tôi trước tình thế này. Vừa ăn xong tên con nít vơ lấy cây súng, tưởng đeo vào người nhưng không hắn chĩa lên trời nổ một phát xong nói " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."&nbsp; Họ dắt xe ra đường tự dưng mắt tên bộ đội mang cặp da cứ nhìn chăm chăm vào bụi cây tôi ẩn nấp và một vẻ trù trừ gì đó hiện trên gương mặt hắn...khuôn mặt vừa đi qua vùng ánh sáng chiếu trực diện chói sáng từ tàn cây. Tôi thấy nhột nơi sống lưng và tâm trí tập trung ngay vào cò súng. Vẻ lanh chanh, tên con nít lên yên xe trước, gồng chân, cong người đạp lấy đà...còn tên đeo cặp, thênh thếch trên bi đan xe, một chân đẩy dăm bước, lên xe theo kiểu Pháp. Qua chỗ tôi, mắt hắn không hiểu sao cứ mãi chằm chặp nhìn như say mê? Đàn chim trên cao bỗng kêu réo loạn xạ. Nhìn lên có vài con bay tuá ra và hai con đuổi đánh nhau bay xà xuống đúng vào lúc bóng hai tên bộ đội mất hút bỏ lại sau ánh tia chớp phản chiếu phát ra từ hai chiếc xe đạp.&nbsp; Không gian trở lại yên ả, tĩnh mịch. Chim trên cành cũng im tiếng sau màn báo động. Tai tôi nghe tiếng Covey ở một nơi xa vọng lại. Làn gió hơi lạnh mơn man trên da mặt và tôi nghe ám hiệu "tắc kè..." chậm rãi. Vội đáp lại và Đại úy xuất hiện đang ngồi xổm đi vào bụi rậm với câu hỏi đầu tiên "ổn chứ..." Dáng điệu nóng lòng ông hỏi tôi có nghe hai tên địch nói gì với nhau. Tôi dịch lại và xác định họ chỉ nói với nhau có một câu " Đi đi anh...để trưa về còn kịp cơm..."&nbsp; Nghe xong nét mặt của ông trở nên đăm chiêu suy nghĩ nhíu mày. Hai cặp mắt nâu nâu như chớp sáng. Tôi hiểu ngay ra rằng vai trò của người Thông dịch trong lúc này thật cần thiết! &nbsp;Đại úy dặn dò một vài việc chiến thuật rồi theo thói quen lấy ra thanh kẹo "cao su" vừa nhai vừa đi khỏi. Một con sóc chạy trên đường, đến chỗ có ánh nắng dừng lại dương mắt nhìn quanh như muốn sưởi ấm. Lại một tiếng súng địch nổ ở hướng Tây chẳng bao xa. Hai bịch gạo sấy giờ thì no đủ...đã thành cơm. Tôi bắt đầu nhai phần cơm buổi sáng và nghĩ đến nhiệm vụ của Toán...Bắt tù binh. Trong thực tập, Toán phó là chuyên gia bắt tù binh. Ông ta có quyền quyết định ra tay hay không trong giây phút chót. Theo lệ thường địch quân vẫn cử người đi kiểm soát đường dây điện thoại và nhiệm vụ thu âm vẫn đi đôi với bắt tù binh. Khi được mật hiệu Toán phó chỉ việc dời chỗ ẩn nấp từ phía sau đi lên phía trái hay phải tùy theo hướng địch, phối hợp với Toán viên đã có sẵn để hành động. Nhưng việc quan trong vẫn là địa thế...có bãi đáp hay không? Thực tại Toán chúng tôi từ ngày qua đã phải luôn tránh những khoảng trống... còn mọi việc khác dĩ nhiên nằm trong kế hoạch...đều phải sẵn sàng tại căn cứ xuất phát.</span></span></span><br /><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7515"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTdwEX9sWUwfwJECDI66KFicTKImeOfF22V3J88O8awNnWeN-f9LmlYlmdfCeoIR1gi8xtkA2YXo51p6dQAUkh83-hA5fWLN7e-nBAY-0eNvwreOo2cLEOFD25Rink01TVVXBXXV9o_jE/s1600/phubaicommunicationbunker.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="438" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTdwEX9sWUwfwJECDI66KFicTKImeOfF22V3J88O8awNnWeN-f9LmlYlmdfCeoIR1gi8xtkA2YXo51p6dQAUkh83-hA5fWLN7e-nBAY-0eNvwreOo2cLEOFD25Rink01TVVXBXXV9o_jE/s640/phubaicommunicationbunker.jpg" width="640" /></a></span></span></span></div></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_7522" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">&nbsp;<span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8549">10- Nắng chếch ngang mặt. Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Buổi sáng qua đi thật mau với vài lần phải trở mình để thoải mái cho thế ngồi, tránh tê chân. Không gian tĩnh lặng nhưng thi thoảng tiếng con chim đất kêu lên như thương nhớ!<span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8565">&nbsp; </span>"tắc kè..." tôi vội đáp lại mật hiệu rồi tức thời Đại úy xuất hiện. Vẫn câu hỏi đầu môi "ổn chứ..." Rồi ông ra lệnh bắt tù binh sau khi hỏi tôi " Anh có nghĩ rằng hai tên địch lúc sáng sẽ trở về vào lúc trưa..." Tôi không chút ngần ngừ đáp lại "chắc chắn rồi...tự miệng họ nói ra mà." Ông đưa cho tôi thanh kẹo rồi rút lui. Tình huống hiện tại người Toán phó phải đến chỗ của Toán viên đi đầu để xem xét địa thế và đón lõng hai tên địch. Phần tôi chỉ lo căn coi phía đường trách nhiệm và sau cùng là tháo trái mìn phòng thủ. Mọi việc chắc đã lên kế hoạch và sự bàn định giữa Đại úy và Toán phó hiển nhiên cũng đã xong trước khi đến tôi. Có giọng hú ở về cuối dốc và tiếng đáp lại hơi xa. Tôi căng mắt chờ đợi nhưng vắng lặng tút đến phần đường chìm vào rừng cây. Ánh nắng như phân chia con đường thành từng khúc có nơi loang lỗ chói chan, chỗ tối hù nhưng dài hơn, thấy cả cái lạnh lẽo âm u. Thời gian nhích dần và dĩ nhiên người trong cuộc cũng chuẩn bị mang tâm trạng căng thẳng. Tôi nhìn lại đồng hồ...nó nhích mãi mà chưa qua con số mười một!&nbsp; Vùng lên, chửi đổng một tiếng &nbsp;trong bụng "đồ con rùa..." Tôi bò ra dịch dần đám dây leo để có thể mở rộng tấm nhìn về phía tay phải, nơi có thể sắp diễn ra cảnh sôi động chết người chỉ cách chỗ tôi khoảng chưa tới ba mươi mét. Vị trí mới không có tảng đá nhưng khi tác chiến tôi có thể thụt lui ẩn nấp một cách dễ dàng. Trên cây cao, tiếng của những con chim Mẹ dẫn mồi cho đàn con khi dồn dập lúc đứt khúc...nghe chanh chách!&nbsp; Covey đang ở hướng Nam tiếng xa hẳn chúng tôi nhưng vọng lại có lúc rõ theo vòng bay. Nó đã được thông báo tình hình...chắc chắn là như thế và cái mắt xích trong cỗ máy chiến tranh đang hoạt động. Tôi sửa lại thế ngồi vì thấy tức nơi hông hay có phải tại mới ăn trưa...ăn quá sớm.&nbsp; Thời gian cháy dần nhưng chậm. Sự căng thẳng theo nhịp kim đồng hồ được đẩy dần lên...đang ở con số mười một giờ ba mươi lăm. Rừng núi im như chết. Gió biến đi đâu mất làm gia tăng cái nóng trong người. Con tim tôi bỗng chỗi dậy khi đàn chim bất chợt kêu thé lên tiếng liên hồi. Tôi sửa lại thế ngồi mắt đăm đăm phía đường về của địch và thoảng nghe có tiếng người. Mọi sự chuẩn bị vào cuộc...cuộc chơi sinh tử!&nbsp; Hai bánh xe đạp đang lao tới nhưng chưa thấy phần trên bởi bụi rậm án ngữ. Đột nhiên như một cánh đại bàng quái dị...tiếp sau là bóng cao lớn của Toán phó xuất hiện. Tức khắc hai thân người đổ nhào trên đường còn hai xe đạp văng xa. Đại úy và người truyền tin (radio man) chia nhau khống chế hai tên địch chưa kịp hoàn hồn bò dậy với nét mặt ngạc nhiên thất thần. Toán viên xạ thủ M79 cũng vừa xong nhiệm vụ thắt khăn vào miệng và bịt mắt tù binh...đã bị còng tay bằng chiếc còng nylon. Tôi vội gỡ mìn phòng thủ. Toán phó vừa phi tang đi hai chiếc xe đạp và hai mũ cối vào bụi rậm...trông thật oai bởi đeo hai súng và chiếc cặp da. Người đi đầu gỡ mìn vừa xong chuẩn bị di chuyển.&nbsp; Mọi việc diễn tiến thuần thục như khi thực tập!&nbsp; Bình tâm, khúc phim được điễn ngay trong đầu khi đang di chuyển. Hết sức nhanh chóng và thật đơn giản...Sự tấn công đầy kinh ngạc bằng chiếc áo lạnh đi rừng quả thật như một cánh đại bàng quất thẳng vào hai tên địch cùng một lúc. Tôi chứng kiến tận mắt như người đi xem kịch ngồi ở ghế hạng nhất. Cái khó khăn ở đây chính là lực tấn công...Toán phó hiển nhiên phải xoay chiếc áo, quật thật đúng lúc và đầy sức mạnh mới có thể đánh chính xác vào phía sau địch quân...không phải một mà cả hai...trong tình trạng đón đầu địch. Thật tài tình và nghề nghiệp...hai con mồi đều ngã về phía trước vừa vặn lọt vào tay của Đại úy và Radio man lao ra chờ sẵn. Tất cả đều được diễn ra trong thời gian cực nhanh...bằng những cái nháy mắt...rồi tức khắc Toán biến vào khu rừng chồi bên cạnh. Covey ở trên đầu từ lúc nào và Đại úy cũng đã đổi balo để trực tiếp giữ liên lạc. Một tiếng súng nổ ở hướng Tây. Tên bộ đội đi trước đứng khựng lại vẻ chần chừ nhưng khi mũi súng chĩa vào lưng, hắn mới chịu bước tới. Toán phó vừa đi vừa chiếu gương cho Covey. Đại úy bỗng ra lệnh đổi hướng , theo hướng Bắc...Covey đã chỉ điểm bãi đáp. Tôi và người Radio man rất bận với hai tù binh. Toán đã thoát ra khỏi vạt cây chồi đến một vùng cỏ tranh mịn óng vàng và hai chiếc A1 trên bầu trời đang đến theo cái dõi mắt của Đại úy. Ông ta ra lệnh trải tấm panel hồng đỏ và luôn chỉ điểm mục tiêu. Một rocket khói được Covey phóng ra và rồi loạt bom chùm từ A1 vãi tới tấp vào đúng khu rừng già có con đường. Tiếng súng địch từ dưới đất vang dội cùng tiếng người nghe lao xao hò hét...nhưng chưa thấy phòng không. Loạt bom napalm bùng lên khói lửa chạy dài cả vài trăm mét. Đại úy ra lệnh tôi và radio man mỗi người phụ trách một tù binh thoát trên chiếc trực thăng đầu tiên. Trên bầu trời hướng Đông những đốm trực thăng lớn dần và hai Cobra thế nào cũng đến trước. Tôi rút ra bình sịt gây mê...bằng cách sịt thẳng vào mặt mũi hai tên tù binh đang ngồi. Chiếc A1 xả loạt đại bác...tiếng nổ lan tràn từ trên lẫn bên dưới cùng với khói và lửa. Đoàn trực thăng nhanh chóng nhập cuộc. Sáu trực thăng thuộc phi đoàn 20 Air Commando biệt hiệu Green Hornets thuộc không quân Mỹ. Hai Huey gunship đang vòng trên bãi đáp và một chiếc xả loạt đại bác 20 ly dọn bãi. Đại úy ra dấu chuẩn bị...Toán viên đi đầu sẵn sàng phụ tôi khiêng tên tù binh lên trực thăng. Chiếc Gunship vừa vụt lên với hàng loạt tiếng đạn 40 ly nổ dài và sau nó chiếc Huey đang xuống bãi, cặp kè cùng chiếc Gunship theo yểm trợ. Toán phó radio man bồng tên tù binh đợi sẵn, cùng tôi cũng sẵn sàng.</span></span></span><br /><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8589" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8588">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; - Trên đường về căn cứ, người sĩ quan rước Toán khui chai sâm banh. Tôi thấy rõ nút chai bắn vút ra ngoài cửa trực thăng. Bên dưới sàn hai tên tù binh vẫn còn bất tỉnh dù rằng đã được cột chặt vào trực thăng theo nguyên tắc. Một điếu thuốc hút tự do sao mà sướng thế! Nhất là hòa cùng sâm banh uống ngụm to chất ngất. Nghe trong cái mũ bay...người sĩ quan rước Toán nói " Bên kia...Đại úy cũng đang uống mừng."&nbsp; Và theo tay chỉ...Nắng vàng chiều rực rỡ trên phông nền xanh cây lá.</span></span></span></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8589" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"></div><div id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8589" style="margin: 0cm 0cm 0pt;"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span id="yui_3_13_0_1_1383199887736_8588">Biệt Kích Nguyễn Văn Hải </span></span></span></div></div></div></div></div><div style="text-align: left;"><br /></div>http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/10/halo-high-altitude-low-opening.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-4750700511364068220Fri, 23 Aug 2013 05:48:00 +00002013-10-30T09:50:29.971-07:00Sợ / Chuyện Biệt Kích<div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2281"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><b></b></span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi00a9X_u8SsAvrehjFQIdvYMQ-4B7LMI70gI9S_datvUkecGlidD0iGJesS6oLlsM772k7wu8cSPbqX1i7EVfzjt-VbQYOcYmxS44pBMQ_2J_NU46PDIIPjaUebCtwAHx1Ue3l_1FNFKQ/s1600/81583324.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="425" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi00a9X_u8SsAvrehjFQIdvYMQ-4B7LMI70gI9S_datvUkecGlidD0iGJesS6oLlsM772k7wu8cSPbqX1i7EVfzjt-VbQYOcYmxS44pBMQ_2J_NU46PDIIPjaUebCtwAHx1Ue3l_1FNFKQ/s640/81583324.jpg" width="640" /></a></div><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2282"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2282"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Phước Long mới được tái chiếm lại. Ngày ấy ,Trung Tá Mã Sanh Nhơn là tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng. Trại B-34 LLĐB/HK lúc ấy chưa có LLĐB/VN .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2283"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Thời gian ở đây trôi qua chậm chạp, lượn lờ và nhàm chán. Trừ một số nhân viên nhà bếp, giúp việc người Việt còn lại toàn là người Mỹ. Cuộc sống an nhàn nhưng vô vị không hứng thú. Nửa năm ở đây thế là đủ, tôi muốn thay đổi.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Lên gặp Trg/tá Joseph E Roy , tôi xin chuyển đến toán A.341 Bù Đốp. Nghe nói ở trại A đời sống sôi động hơn (lương cũng cao hơn) </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Yêu cầu được chấp thuận, cắp theo cây guitar, tôi lên chopper vù đến Bù Đốp đất đỏ .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2284"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Mừng vui được gặp lại nhau, tôi được Đ/úy Hannawald trưởng trại cho tôi chọn lựa, hoặc quanh quẩn ở trại làm việc với ông, hoặc đi theo đại đội hành quân. Tôi xin đi hành quân &nbsp;thay vì ở trại.&nbsp; và tôi sẽ được phân bổ khi đại đội đi hành quân về.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2285"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông nói đại đội A thiếu thông ngôn, có lẽ tôi sẽ làm việc với đại đội Nùng này.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2286"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Tôi chờ đợi những mới lạ và sống động. Đại đội còn đang hành quân, chưa về. Tôi tha thẩn quanh trai, tìm hiểu, truyện trò và ngắm nhìn lung tung. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2287"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Trong trại, anh em biệt kích phần đông là Nùng, một ít người Kinh và còn lại là người Thượng (Montagnard). Tôi mến người Thượng. Họ chân chất và thật thà. Họ không sõi tiếng Kinh. Điều này sẽ rất tồi tệ khi có chuyện, lúc ấy tôi sẽ không làm tốt công việc của mình. &nbsp;Chưa chính thức nhận nhiệm vụ rõ ràng với đại đội thì điều tôi lo sợ đã xảy ra…</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2288"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Chạng vạng tối hôm sau, ngoài sân bắn , lúc thử súng, một hạ sĩ quan người Mỹ còn rất trẻ (không biết tên) đã để đạn lạc trúng một thanh niên Thượng khi đi ngang qua sân bắn. Viên đạn vô tình đã cướp đi một mạng người. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2289"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Biết chuyện sẽ không hay, Đ/úy Hannawald cho gọi gấp một Cessna, bốc ngay người lính Mỹ trẻ về B-34 Phước Long, chờ phương tiện đưa đi Nha Trang. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2290"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông chuẩn bị việc chia buồn, tạ lỗi cũng như đền bù cho gia đình người xấu số. Nhưng mọi việc không như ông nghĩ.</span></span></div><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2290"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiedTgPs5Ihm50crPtmVDEOYBSsse6-A6vCbaRQbsWJcaQ_1Y-zaRMdXOiBi-bOeGV6p_Lc69wgYZp4Ju75de8dqRpwyeVAHZDnDjTfvfbRCsrnUoFAZKIrpWDAUSuuAHY4JK318XewIhY/s1600/kf_28.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="424" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiedTgPs5Ihm50crPtmVDEOYBSsse6-A6vCbaRQbsWJcaQ_1Y-zaRMdXOiBi-bOeGV6p_Lc69wgYZp4Ju75de8dqRpwyeVAHZDnDjTfvfbRCsrnUoFAZKIrpWDAUSuuAHY4JK318XewIhY/s640/kf_28.jpg" width="640" /></a></div><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2290"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2291"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Khi chiếc Cessna khuất bóng sau rừng cao su, đất đỏ còn mù mịt cuối airfield, một số đông người trong buôn làng túa ra tụ tập trước doanh trại. Những ngọn đuốc bập bùng ánh lửa, những thân người đen nhãy mồ hôi chạy rầm rập, những khuôn mặt đầy kích động đang ra sức hò hét, trên tay họ là cung, tên . nỏ, rựa, dao cồng, chiêng, phèng, mõ đua nhau khua gõ rầm trời, họ cho thấy họ sẵn sàng sống chết mạng đổi mạng.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2292"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Trai được đặt trong tình trạng báo động, bạo loạn có thể xảy ra vì trong trại cũng có nhiều biệt kích người Thượng.. Mọi việc khó lường..</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3878"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ngột ngạt ..Căng thẳng .. dễ sợ &nbsp;. .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2293"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông Hannawald lịnh cho tôi theo và chỉ được đi tay không.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông bước ra với cử chỉ thân thiện khi người thân của người xấu số được dẫn tới.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2294"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Chắp tay trước ngực, ông chào theo cung cách người Việt.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2295"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Trước mặt ông, một bà cụ người Thượng gày gò móm mém, lưng còng đang vật vã, khóc lóc lu loa, nước mắt nước mũi ràn rụa, tay chân khoa múa loạn xạ.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Tiếng khóc thương của người Thượng thật não lòng, khó diễn tả nếu không phải là một nhà văn.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Thật tiếc vì tôi không làm được việc đó. Nó như tiếng rú, tiếng gọi, trầm bổng, ỉ ôi, dai dẳng, khằng khặc , nghe não nuột và bi ai làm sao !</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3877"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông Hannawald muốn biết tương quan giữa bà cụ và người xấu số. Tôi chậm rãi hỏi bà và hy vọng bà hiểu. Đáp lại, bà cụ chỉ khóc và rú từng chập trong sự kích động của đám đông người dân trong buôn làng</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông Đ/úy giục giã hỏi tôi những lời kể lể của bà cụ. Nào tôi có hiểu gì?</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3876"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Lời thúc giục của ông cộng với tiếng hò hét vang dậy của đám đông khiến tôi hoảng. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Tôi cố gắng hiểu cụ và cuối cùng biết rằng nạn nhân là cháu của cụ. Bố mẹ nó chết hết rồi.. Đau đớn quá ! Bà cụ chỉ còn mình nó …</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Mỗi lân ông Hannawald hỏi tôi là tiếng hò hét lại to hơn, sự kích động được đẩy lên cao hơn. Đám người vây quanh chúng tôi nhưng ông không nao núng hoặc sợ sệt.</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi2srXkaTR6rmU2wDaoeIzG08vHLkxbQ7fzFQInecXnrjWb1y8XnLjnyUGaiRPXHh3PEEACrFV1I0kggJh8pf5Sq1-zcTXLV2e6d0Hx2bOOHEoeqTpeZ7hbsZW2EZJg-Uaw6M8vAef10Gc/s1600/Garyata-.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="392" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi2srXkaTR6rmU2wDaoeIzG08vHLkxbQ7fzFQInecXnrjWb1y8XnLjnyUGaiRPXHh3PEEACrFV1I0kggJh8pf5Sq1-zcTXLV2e6d0Hx2bOOHEoeqTpeZ7hbsZW2EZJg-Uaw6M8vAef10Gc/s400/Garyata-.jpg" width="400" /></a></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">&nbsp;Sự tự tin của người sĩ quan LLĐB được hun đúc ở Fort Bragg của ông đã giúp tôi bình tĩnh trở lại. Cả tôi và ông đều đổ mồ hôi. Ông tháo mồ hôi vì hơi nóng của lửa đuốc, của hơi người. Tôi đổ mồ hôi vì nóng và vì sợ hãi.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2296"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Cái sợ này khác hẳn với cái sợ trước lằn tên mũi đạn. Xông trận, sống chết có số. Hơn nữa, lằn ranh địch ta rõ nét. Đối mặt, ta chậm bóp cò ta tiêu. Mi chậm bóp cò mi ngủm.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2297"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Vậy thôi ! Nhưng, giờ này ở đây… trước mặt tôi không phải quân thù. Tôi đang ở phía &nbsp;người bị lên án. Chúng tôi có thể lãnh một loạt cung tên, một loạt vết rựa, dao và đủ thứ giận dữ man dại đổ lên đầu, lên người. &nbsp;Trong khi, chúng tôi lại không có vũ khí trên tay để chống trả. Nhưng nếu có , chắc gì tôi dám xả súng vào đám người người dân vô tội kia ? Nếu tôi chết trong hoàn cảnh này thì đau quá ! Chẳng fair tý nào </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2298"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Vòng người xiết chặt hơn, tôi có thể cảm nhận qua cái nóng của đuốc, của mồ hôi người, mùi da khét nắng lẫn hơi thở dồn dập, giận dữ, xô đẩy của đám đông. Không khí ngột ngạt. Bà cụ bỗng &nbsp;ngã qụy xuống đất ngất xỉu vì mệt và ngộp thở. Tiếng hò hét to hơn, tiếng cồng chiêng điên loạn om trời cùng tiếng dậm chân thình thịch, tôi nghĩ chắc chết vì sẽ có bạo động nếu không biết kềm chế .. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3874"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Nhưng, mọi việc dường như chựng lại ..tất cả im bẵng khi ông Hannawald quỳ một chân xuống đỡ lấy bà cụ. Rút mu soa từ trong túi, ông lau nước mắt, chùi nước mũi dãi cho bà cụ. &nbsp;Đám đông dõi nhìn việc làm của ông, lẳng lặng ẵm bà cụ lên tay, ông chầm chậm đưa bà vào trại, hướng về phía trạm xá .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3873"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông Hannawald rất nhỏ con so với người Mỹ bình thường. Ông chỉ cao khoảng hơn thước sáu một tý. Chân thấp chân cao có lẽ do bị thương .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3872"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Hình ảnh người Đ/úy Mỹ nhỏ con, khập khiễng ẵm một bà cụ Thượng trên tay, lặng lẽ bước qua cổng trai khi người lính gác cổng đứng nghiêm chào thật xúc động. Không còn sự kích động nào, tiếng hò hét nay chỉ còn tiếng xì xào từ đám đông. Sự xúc động đều giống nhau nơi con người. Vài người người thân của bà cụ theo sau ông Hannawald đi vào Dispensary.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3871"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông Hannawald muốn bà cụ &nbsp;được chăm sóc thật tốt. Cái TÂM của ông được thể hiện rất rõ. Anh em biệt kích thẳng người &nbsp;khi ông bồng bà cụ bước qua.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2344"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Bên ngoài cổng trại, đám đông tản mạn ra về. Tôi tạm thở phào…</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2326"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Những y tá người Kinh hiểu tiếng Thượng, họ giúp tôi giải thích cho ông. Ộng gật gù lắng nghe vẻ xúc động ..</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2325"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Việc mai tang được tiến hành theo nghi thức của buôn làng với sự trợ giúp của trại.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2324"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Gia đình người xấu số được bồi thường.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2323"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Hành động của ông Hannawald phần nào hóa giải phẫn uất của buôn làng. Họ đã tha thứ .</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2322"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ông đứng ra nhận trách nhiệm cho thuộc cấp và tỏ ra hối tiếc về việc không hay.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2321"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Nếu không phải là ông, tôi nghĩ &nbsp;mọi việc chắc chắn sẽ rất tồi tệ.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2320"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Mọi việc trở lại bình thường</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2319"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Phần tôi, &nbsp;tôi vẫn sợ.. Tôi <b>SỢ</b> lắm. Sẽ còn nhiều việc xảy ra vì ngôn ngữ bất đồng và điều đó sẽ khiến tôi không làm tốt công việc của mình. Suy nghĩ cạn cùng, viện cớ người nhà đau, tôi xin về phép . Được chấp thuận, bỏ lại cả cây đàn guitar, tôi gói ghém đồ lên chiếc C-123 chuồn thẳng. Tôi quay về B-34 và ở lỳ không dám về Bù Đốp nữa.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2318"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Bái bai Bù Đốp !!!&nbsp; &nbsp;Bái bai Bye &nbsp;A-341&nbsp; !!! Tính ra , tôi ở Bù Đốp mới chỉ&nbsp; mấy ngày.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2299"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Khi biết tôi không quay lại, ông Hannawald đã “Phắc” và “Cà chua” om sòm ! Sau đó , nghe nói ông đã tử trận trong một cuộc hành quân không xa trại lắm và ông được vinh thăng Thiếu tá.</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2317"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Ít giòng viết về ông thay nén nhang tưởng nhớ đến người quân nhân Hoa Kỳ nhân hậu vì Tư Do của đất nước Việt Nam tôi , ông đã hy sinh. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2300"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Nghiêng mình kính cẩn vĩnh biệt Thiếu Tá HANNAWALD&nbsp; C.O Det A-341</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjvm7si_8mu59Hu1gN3G6a5CMKs22TPxKMnpkj68bQzKBB7xzYrekuGUltPgNzEF4G33OPL-Rr00hib1eNMNiCD5y5T9aESc2O2Kq6KXbYdCWdUEcNQEc5pGqeRWJW8AlkpBH7zpcfBLgM/s1600/picture011uh4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjvm7si_8mu59Hu1gN3G6a5CMKs22TPxKMnpkj68bQzKBB7xzYrekuGUltPgNzEF4G33OPL-Rr00hib1eNMNiCD5y5T9aESc2O2Kq6KXbYdCWdUEcNQEc5pGqeRWJW8AlkpBH7zpcfBLgM/s400/picture011uh4.jpg" width="266" /></a></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">&nbsp;Trước khi về làm C.O của &nbsp;Bù Đốp, ông Hannawald là X.O của B-34 Phước Long. Thời gian này ông còn là Đại úy và tôi cũng đã được làm việc dưới quyền ông</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2302"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Tôi trở lại trại B-34 &nbsp;sống cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ.. </span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2303"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;</span></span><br /><br /><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Saigon 15 tháng tám 2013</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2313"><br /></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2304"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">DSCĐ Đinh Đỗ Chung</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2305"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Dược Sư Cao Đẳng</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2306"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Dân Sự Chiến Đấu</span></span></div><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"> </span></span><br /><div class="yiv720121689" id="yui_3_7_2_1_1377233871533_2307"><span style="font-size: large;"><span style="font-family: Verdana,sans-serif;">Để mỹ miều hơn ta gọi : Biệt Kích Quân hoặc Sờ Cu (SCU=<b>S</b>pecial <b>C</b>ommando <b id="yui_3_7_2_1_1377233871533_3870">U</b>nit)</span></span></div>http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/08/so.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-2094129090800624608Fri, 16 Aug 2013 15:26:00 +00002013-08-18T11:07:10.950-07:00 Nói và Hứa. / Nguyễn Cao Vỹ <br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj3xMJ64Ya9Ss-jGZJu7CpUIz_3oWCINuTso79Z-nAZnbs6YwOAmyg3uH2Y1FBLGaqty3wPKRRfVluJzoWFeLtruIwGIhF_HEOAq-7AYjYkyExROTs3v3ukUGr_8eJcO-Vq_ROx9jZUEzE/s1600/extraction.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj3xMJ64Ya9Ss-jGZJu7CpUIz_3oWCINuTso79Z-nAZnbs6YwOAmyg3uH2Y1FBLGaqty3wPKRRfVluJzoWFeLtruIwGIhF_HEOAq-7AYjYkyExROTs3v3ukUGr_8eJcO-Vq_ROx9jZUEzE/s400/extraction.jpg" width="265" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLQkcinxQiU1L47byVKr5Oj2xk7BM0wSSIzT7uS_AkwTB5RUj0pJCkqIhAWWc3f9cyOb3hA0xJiW2ARAFa-DsnSyeaAkgJ1mBB5QJSmn7cvQS5xUqSyBq4MuR_YMvG4P3g0x4HB5fy2hY/s1600/DaiUyNguyenCaoVy.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLQkcinxQiU1L47byVKr5Oj2xk7BM0wSSIzT7uS_AkwTB5RUj0pJCkqIhAWWc3f9cyOb3hA0xJiW2ARAFa-DsnSyeaAkgJ1mBB5QJSmn7cvQS5xUqSyBq4MuR_YMvG4P3g0x4HB5fy2hY/s640/DaiUyNguyenCaoVy.jpg" width="510" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"></div><div style="text-align: center;"><b><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: small;">Người đưng trước microphone Tr/Úy HY râu, người đang khom khom (không phải ngồi) là Tr/Úy Nguyễn Cao Vỹ </span></span></b></div><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Chỉ một lời nói hoặc một lời hứa đôi khi cũng làm ta nhớ &nbsp;đến ai đó.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi muốn nhắc đến Trung Úy Nguyễn cao Vỹ và Đại Úy Đoàn kim Tuấn.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi là một Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) và là thông ngôn (interprete) Tiếng Tây đọc nghe giống như “anh nói phét”. Tôi làm việc cho Trung Tá Snell (người da màu, cao nghệu) CO của FOB#1 Phú Bài.</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhqm2qjdSaIK6OIhb872GRpp3cPthKGW3wAusPtq3nbQN6UQY0xpdOv-ykK3d361aE7sg5n5BCqEhbacAOqFxWADekaTPuM7y-vsL46N0XtrPyAajIaLAcg7P-txFlEf_2x9h2jZTzZffU/s1600/CCNReconGate.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="344" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhqm2qjdSaIK6OIhb872GRpp3cPthKGW3wAusPtq3nbQN6UQY0xpdOv-ykK3d361aE7sg5n5BCqEhbacAOqFxWADekaTPuM7y-vsL46N0XtrPyAajIaLAcg7P-txFlEf_2x9h2jZTzZffU/s640/CCNReconGate.jpg" width="640" /></a></div><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">&nbsp;Công việc văn phòng rất nhàn nhã nhưng bị bó chân quanh quẩn lâu ngày trong trại khiến tôi ngán ngẩm, tôi xin qua làm việc cho Chỉ huy trưởng Tiền Doanh 1 lúc ấy là Đại Úy Đoàn kim Tuấn (Tuấn con) .</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Là người miền Nam, ông ăn nói từ tốn, thích dùng câu chữ bóng bảy dạy đời.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Dáng người mảnh dẻ, đi đứng khoan thai, ông thích hợp trên bục giảng. Thật khó tin khi nghe ông từ TĐ 1/ SĐ Dù phái qua.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Những ngày Chủ Nhật, ông thường ra Huế chơi.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi được ông tin cẩn nhưng không được ông ưa.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Có lẽ vì tôi có họ hàng xa với Trung úy Phạm văn Hy (Hy râu) Chỉ huy Phó của ông.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ông ghét Hy râu vì là “thằng bắc kỳ”. Tôi bị lây. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Là một Đại úy trẻ, đẹp trai nên nhiều em mê nhưng ông là người chung thủy với vợ. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ông quen cô Thu, người đẹp ngõ Nam Long (cầu Bạch Hổ đi thẳng qua).</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Cô để tóc thề, nhỏ nhắn , chúm chím luôn miệng “anh Tuẩn..anh Tuẩn”.. chân nhảy chim sáo mỗi khi&nbsp; ông đến . Một hôm ông ngủ lại nhà cô, trên giường chỉ có hai người. Sáng dậy, cô vẫn nhí nhảnh. Qua nét thơ ngây, tôi biết …ông yêu nàng như yêu một bức tranh đẹp. Chính ông cũng thú nhận như vậy. Platonique !</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Còn một tháng nữa là Tết Mậu Thân.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Nhớ bạn bè, tôi lên gặp ông và xin đặt cọc được về phép Tết 07 ngày. Ông nói : “Được , tôi hứa với chú !” Lòng vui rộn rã &nbsp;tôi viết thư báo tin cho bạn bè : Tết này tao sẽ về.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ôi &nbsp;Saigon, dancing Tự Do với các em Minh Sơn, Thu Hương, Thanh Thúy “tàu”, Thu “lai”.. Olympia với Kiều Chinh, Bích Ly . Mỹ Phụng với các em Trang, Thủy và cả đám bạn bè Quý lỏi, Triển, Tuấn hô, Chính đang chờ đợi. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Còn mươi ngày là Tết. Tôi chỉnh tề, chắc mẩm, lên gặp ông Tuấn để lấy phép. Thật không ngờ, tôi bị ông từ chối một cách lạnh lùng: “Không đi đâu cả, ở lại trại !” Một chén nước lạnh hắt vào mặt .</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Cảm xúc khó diễn tả, nghẹn ngào, uất ức, ngỡ ngàng. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Vâng, thưa&nbsp; Đại Úy ! Nghèn nghẹn trong cổ , tôi nghiêm chào và thất vọng ra về. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Những cây mai (trồng dọc bên Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa) có hoa lác đác nở. Tôi kéo cao cổ áo Field Jacket cho bớt lạnh, rút điếu Pall Mall ra đốt. Bật quẹt Zippo đến mấy lần mà cũng không cháy…gió cuối Đông quái ác cả với tôi. Vò nát điếu thuốc, tôi về phòng buông mình xuống giường chán nản.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Chỉ ít ngày nữa là giỗ ông Táo…</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn. Tại sao ông làm vậy ? Hay ông giận vì có lần đến thăm nhà ông, gặp vợ ông tôi buột miệng: Chào chị Thu …</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Không lẽ ?? </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">………………………………………………………………………………</span></span><wbr></wbr><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">……</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tết Mậu Thân , Tiền Doanh 1 Phú Bài.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ầm …ầm ..ầm …Chíu chíu..Ùng Oàng…</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Việt Cộng pháo kích lung tung, vô tội vạ, bừa bãi không có mục tiêu rõ rệt !</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Toàn trại được lệnh bỏ sam, ra ngoài vành đai tuyến phòng thủ.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Đêm đó, trại lãnh mấy quả nhưng chưa biết chỗ nào. Hỏa châu đầy trời, đại bác ì ầm, súng nhỏ ròn nổ gần xa. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Đang nằm căng mắt nhìn qua lỗ châu mai trong hầm trú ẩn tôi nghe lao xao và có tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ?</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">(George là tên mà người Mỹ gọi tôi khi cần giúp.) Tiếng gọi vẫn ý ới xen lẫn tiếng súng đại liên nổ ròn xa xa và tiếng ì ầm của pháo binh ta và hỏa tiển địch rơi vãi. Nhìn về phía Huế, những ánh lửa chớp sáng liên hồi.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Nhìn ra, tôi thấy Trung Úy Vỹ, Toán trưởng toán đặc biệt Lê Lợi (tất cả toán viên đều là ARVN, không có BKQ, đi công tác toàn xử dụng AK47) đang cùng đi với Trung Tá Snell. Tôi trèo lên, nghiêm chào . Hỏa châu lốp bốp nở sáng trên trời, &nbsp;tôi thấy ông Snell lêu nghêu, đen bóng tương phản với ông Vỹ nhỏ con, trắng trẻo trông rất thư sinh mà tôi mắc cười.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Phong phanh trong chiếc áo nhái (áo lót của QĐ Hoa Kỳ) màu rêu,vai choàng khẩu AK47, ông Vỹ ngắn gọn : “ Cả hai ông Trưởng, Phó đều đi phép và kẹt lại Saigon, tôi là sĩ quan VN cao cấp nhất còn lại, Trung Tá Snell lên kế hoạch cho trại, do đó tôi cần thông dịch viên.” </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi không gần ông Vỹ nhiều như các ông Tuấn, Hy. Ngày ông về trại, tôi nhớ ông đã gặp chuyện với ông Hy. Ông ở bên BĐQ chuyển qua, đến trình diện ông Tuấn. Hôm ấy có mặt ông Hy. Ngỡ là đồng cấp Trung Úy, ông Vỹ sôi nổi anh anh tôi tôi với ông HY (thật ra ông Vỹ chỉ muốn chân tình, mộc mạc với đồng cấp . Ong Vỹ có tính cách chân chất, &nbsp;mộc mạc đáng quý của người Nam bộ ) Nhưng ông Hy &nbsp;nghiêm mặt thẳng thừng: Trung Úy phải gọi tôi là Trung Úy và dạ, thưa cho đúng mực vì tôi là Trung Úy Chỉ Huy Phó ..hiểu chưa ? . Ông Vỹ choáng váng, sượng sùng : Vâng, thưa Trung Úy ! </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Quả thật, ông Hy quá đáng. Cũ hù mới . Ông Tuấn hòa dịu nhẹ nhàng : Thôi đi ! Tôi bảo thôi đấy…</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Từ hôm ấy tôi đâm ghét ông Hy và mến ông Vỹ. Ông vui vẻ, thẳng thắn chẳng khác &nbsp;ông Trung Úy Lê Minh (Minh đen) vậy. Nghe ông Vỹ kể chuyện, bất cứ chuyện gì cũng thấy sôi nổi, ngay cả chuyện cái áo lạnh màu xanh, trắng mà người nhà của ông từ Canada gửi qua, ông cũng sôi nổi về những kỷ niệm với người gửi chứ đừng nói chi đến chuyện ông kể lại những chuyến đụng độ trong rừng. Ông hào phóng với nụ cười , do đó mọi người đều mến ông nhất là khi ông cười có thấp thoáng chiếc răng niền vàng. Tôi thấy lạ với ông Trung Úy BĐQ trắng trẻo, roi roi người có dáng thư sinh mà lại nhập qua đơn vị Lôi Hổ này. Tôi thầm nghĩ , ở nhà chắc công tử này ẻo lả lắm. Tôi lầm !!! Lầm to !</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Vói tay lấy cây CAR15 , tôi bước ra theo ông Snell và ông Vỹ. Cao lêu nghêu nhưng nhanh nhẹn, ông Snell nhảy qua những giao thông hào dễ dàng. Nhỏ gọn như thư sinh nhưng ông Vỹ chẳng thua kém, ông cũng phóng qua hào, băng băng trên nóc những hầm trú ẩn. Còn tôi chậm rãi theo sau. Đến những nơi thấy không vừa ý, ông Snell trao đổi với ông Vỹ… tôi dịch lại và ông Vỹ ôn tồn nhưng sắc nét với anh em BKQ: “ Trần thấp và mỏng quá, các anh phải đắp thêm bao cát “.. Các anh nên thế này… thế khác.. Có lúc ông Vỹ dừng lại truyện trò với các anh em BKQ sau đó bước nhanh theo Trung Tá Snell và đề nghị cấp thêm nhu cầu mà anh em BKQ muốn. Tôi cảm mến vị sĩ quan trẻ này. Những ngày này ông lăng xăng khắp nơi trong doanh trại, tìm hiểu, dặn dò . Vì cắm trại 100%, không mua được đồ tươi sống, phải ăn toàn đồ hộp&nbsp; nên ông cẩn thận dặn dò Trung sĩ Tốn, người phụ trách nhà ăn của Toán nên thế này, phải thế khác. Tôi phát mệt với sự chu đáo của ông . Vì mọi nhận định của ông tôi đều phải dịch lại với ông Snell và ngược lại. Tôi cũng không được nghỉ nhiều.. Mệt chẳng kém</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Những ngày Tết không có Tết này, Phú Bài lạnh cóng. Đang co ro trong hầm với chiếc Poncho linen màu hoa dù, mắt căng ra qua màn đêm bỗng nghe tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ? Tiếng ông Vỹ từ xa. Nản quá, lại có chuyện nữa.. Tôi miễn cưỡng: Thưa Trung úy, tôi đây… Tiếng hỏa châu lốp bốp nổ trên trời, qua ánh sáng nhá nhem tôi thấy Trung úy Vỹ sôi nổi: Lẹ lên !..Chung , có chuyện cần xong lần này tôi thưởng cho cậu.. tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn , tôi hỏi lại: &nbsp;Có quà ư ? Trung úy hứa nhé ? ra Huế ngủ đò hén? Ông nghiêm mặt : Tôi chỉ nói sẽ thưởng, nhưng tôi không hứa . Đi mau theo tôi… Đến nơi, té ra chẳng có gì quan trọng.. vài anh em BKQ ở đại đội trấn gần cổng trại vì quá lạnh, họ tháo phá những tấm lát giường để đốt sưởi ấm, HSQ an ninh trưc trại người Mỹ không hiểu nên có chuyện. Trung úy Vỹ kịp đến và tôi giúp ông giải thích. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ông Vỹ luôn lăng xăng đây đó giải quyết việc trong trại những ngày vắng Chỉ huy trưởng, thiếu Chỉ huy phó. Lời ông nói, việc ông làm ông đều được ông thực hiện trọn vẹn. Tôi quý ông Vỹ và nhanh chóng quên chuyện ông đã nói gì ..</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXck-lZwNmRU03brz4dNvQv-4BKrYycUoCQI2rQNI188HNNiMth_M4Xmb6YZZr3ibF34ou_f8Tmv5WmAc0AGZkadcvxKtO5Ca3g9SaQXlcP32vt7Db-9gutsK0mWUJBAtwsgUo_Sf9wsU/s1600/command_bunker.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="456" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXck-lZwNmRU03brz4dNvQv-4BKrYycUoCQI2rQNI188HNNiMth_M4Xmb6YZZr3ibF34ou_f8Tmv5WmAc0AGZkadcvxKtO5Ca3g9SaQXlcP32vt7Db-9gutsK0mWUJBAtwsgUo_Sf9wsU/s640/command_bunker.jpg" width="640" /></a></div><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">&nbsp;Mấy ngày sau, ông Hy từ Sàigòn ra . Ông Hy cho đào một hầm CP (command post) đặt máy truyền tin để báo cáo về Sở Liên Lạc. Hạ sỹ Thương và một HSQ nữa (không nhớ tên) hằng đêm ngồi quay máy truyền tin đầu bò. Lúc ấy, ông Hy, ông Vỹ, Trung sỹ Vang, Trung sỹ Phồn và tôi cùng chơi Phé sát phạt nhau. Ngoài kia , đêm đen lạnh giá..trong hầm chúng tôi vẫn ồn ào tố Phé nhau. Ông Hy có cái máy AKAI cầm đi chuộc lại mấy lần trong đêm. Tình chiến hữu luôn đằm thắm… ông Vỹ lâu lâu bỏ ra ngoài đi vòng quanh trại thăm hỏi, truyện trò, phì phèo thuốc lá cùng anh em BKQ. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Mấy ngày sau ông Tuấn mới từ Saigon ra.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Chẳng có gì lớn lao sau đó, trừ một việc khiến tôi buồn. Tất cả các sam trong trại đều nguyên vẹn trừ sam của các Toán cháy đen vì trúng hỏa tiễn của VC. Không còn gì ngoài nên xi măng và những tấm tôn xạm khói. Tôi nhớ như in về những lá thư, những bức ảnh của Vân, người tôi yêu, lần cuối cùng đọc xong tôi cất trong ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc. Giờ đây trên nền hoang tàn, chẳng tăm tích gì còn lại. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">………………………………………………………………………………</span></span><wbr></wbr><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">…</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Mọi việc dần trở lại bình thường khi VC bị đánh lui, Huế được tái chiếm. Người vui vì được trở về nhà, người buồn khóc thương cho người thân bị VC sát hại. Nhưng Huế tang thương quá, Huế điêu tàn đến buốt ruột. Bao nhiêu gia đình bị mất mát người thân. Cửa nhà nát tan. Nhà thờ, đình chùa cũng thế. Đạn bom đã cướp đi mọi thứ. &nbsp;Huế điêu tàn. Trong trai có nhiều nhân viên dân chính bị VC lại tận nhà sát hại. Hình như gia đình bên vợ của Đại úy Tống hồ Huấn cũng không tránh khỏi. Tất cả chỉ biết ngậm ngùi xẻ chia, nhìn nhau ái ngại. Biết nói gì !</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Một hôm, Trung úy Vỹ từ Saigon ra, gọi tôi đến và nói: Quà của Chung đây ! Ngạc nhiên đến ngớ người. Tôi nhìn tờ giấy dàu vàng cuộn tròn và cái hộp vuông bé xíu như hộp quẹt. Ông nhắc: Mở ra đi ! Tôi nhíu mày chầm chậm mở tờ giấy: Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng. Tên họ đầy đủ của tôi.. bên tay kia là cái hộp nhỏ đựng mề đai . “ Tôi có làm gì xứng đáng ?” “Có đấy” Tôi nhận quà từ tay ông Vỹ lòng nhiều cảm xúc. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi thấy ngượng nhưng không thể nào từ chối ông Vỹ. Tôi rất trang trọng nhưng không bao giờ đeo mề đay ấy. Trong thẳm sâu, tôi thấy ngượng nhưng tôi hiểu ông Vỹ muốn gửi gấm gì ở tôi. Tôi nhớ lại lới ông: Tôi nói chứ tôi không hứa .</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Lời ông Tuấn hứa và lời ông Vỹ nói.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Cám ơn Đại úy Tuấn và cám ơn Trung úy Vỹ.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Nếu ông Tuấn không hứa thì lời nói của ông Vỹ cũng chả có ý nghĩa là bao.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Nếu ông Tuấn giữ lời hứa thì tôi không có dịp để hiểu biết về ông Vỹ.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Lời hứa của người ngồi bàn giấy</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Lời nói của người xông trận</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi59D6-ZY0R8VdemWFbpnFcZUPAMBkqGoAkgwrdhYeP46iA7aHAsDt2-2A9-DvVMsCtHKioSsit_016AtZvfhgxVhmoMRXo0Q397-Iz_7msBKloS6Z6YzxgMAykQVzVHezA0r8rgHsUMF4/s1600/CCN4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="424" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi59D6-ZY0R8VdemWFbpnFcZUPAMBkqGoAkgwrdhYeP46iA7aHAsDt2-2A9-DvVMsCtHKioSsit_016AtZvfhgxVhmoMRXo0Q397-Iz_7msBKloS6Z6YzxgMAykQVzVHezA0r8rgHsUMF4/s640/CCN4.jpg" width="640" /></a></div><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tiền Doanh một chuyển trại về CCN/Đà nẵng. Chiến đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh. Trại nằm dưới chân núi Non Nước, sát bờ biển .</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi làm việc dịch thuật huy chương dưới quyền Đại úy Trần lưu Huân sau lên Thiếu Tá. Ông Hy lên Đại úy và làm bên Ủy Ban Hỗn Hợp Quân Sự Bốn Bên </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ông Vỹ lên Đại úy và làm bên phòng Hành Quân ở TOC nhà đen. Ông Tuấn về Sở lên Thiếu Tá</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Tôi và ông Vỹ vẫn thăm hỏi nhau, có lần uống bia nữa. Thi thảng thôi !</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ong Hy ở xa về có tặng tôi một bê rê đỏ hiệu Plein Ciel (mũ đúc của Pháp).</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Một tối, đang hát hò trong đám có cả ông Hy, bỗng nghe tin ông Vỹ bay Covey, máy bay &nbsp;trúng đạn địch rơi tan xác. </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Căn phòng bỗng lặng. Mọi người nhìn nhau không nói.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ông Hy buông cuốn tập nhạc sững sờ. Tôi ngưng đàn, cổ họng khô đắng.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Chúng tôi ai nấy về sam của mình. Lòng trĩu nặng tôi ngoái nhìn ông Hy. Có giọt nước long lanh nơi khóe mắt của ông râu. Ai bảo Lôi Hổ không biết khóc ? Sóng biển vỗ bờ nghe như tiếng gào..</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6kHpXVSdfeNPD1wADDFNKwecRsQE-qv3bYNmjg-uVNaajJiS4FroRg4cjYPNTlGdCi3biZ4dgu6sjhyphenhyphenOvwu97r7ZNK9AYPUVJ2DbGhxdHgdY1rrAYYJ4YmI1wlbQzYEvoWr76wtjSqVM/s1600/danang_compound.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="409" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6kHpXVSdfeNPD1wADDFNKwecRsQE-qv3bYNmjg-uVNaajJiS4FroRg4cjYPNTlGdCi3biZ4dgu6sjhyphenhyphenOvwu97r7ZNK9AYPUVJ2DbGhxdHgdY1rrAYYJ4YmI1wlbQzYEvoWr76wtjSqVM/s640/danang_compound.jpg" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"></div><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"><b>“Tôi nói chứ tôi không hứa”…</b>Nhớ lại lời ông Vỹ .</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Hai động từ Nói và Hứa không liên quan với nhau nhưng với tôi chúng mang nhiều cảm xúc mỗi khi phải dùng tới.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Nguyện xin linh hồn cố Thiếu Tá NGUYỄN CAO VỸ yên ả trên cõi vĩnh hằng.</span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><i><b><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Ở bên VN này, mỗi khi đi ngang qua Sở cũ, tấm bảng viết Trại NGUYỄN CAO VỸ không còn nữa, nhưng chúng tôi những người biết anh thì không bao giờ quên anh được.&nbsp;</span></span></b></i><br /><br /><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;"> </span></span><span style="font-family: Verdana,sans-serif;"><span style="font-size: large;">Lần đầu tiên kể về một chuyện trong đời Lôi Hổ .</span></span><br /><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNq4z3V6F9KJi9SW4PL7Noxk7MVILmk4Fy_-rRi1467tKcO5WOBvIA0ZqtaCbj8kac9Ir6xkhetreJUAilRuX3PW4gHyZ7fsrrg1xWjYFqPGLz8hijfCKY_HWLvpQ4F7PVRHJ59-wLN8Q/s1600/232323232%257Ffp53847)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;3329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNq4z3V6F9KJi9SW4PL7Noxk7MVILmk4Fy_-rRi1467tKcO5WOBvIA0ZqtaCbj8kac9Ir6xkhetreJUAilRuX3PW4gHyZ7fsrrg1xWjYFqPGLz8hijfCKY_HWLvpQ4F7PVRHJ59-wLN8Q/s400/232323232%257Ffp53847)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;3329nu0mrj.jpg" width="400" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSTi5kt39PWTF8o2uY1i742qmbzzez8hBJ_TJ-J7WxjnibMmA5Sa9QA0F6iAWG4kcFoYWYCI3-jGy7PDz3qPgKQf1V_OPesu2PrplSaWnrA2VBrgWxgmwqFSGTsMSgz_IojtUP91QmKLI/s1600/232323232%257Ffp53853)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;5329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSTi5kt39PWTF8o2uY1i742qmbzzez8hBJ_TJ-J7WxjnibMmA5Sa9QA0F6iAWG4kcFoYWYCI3-jGy7PDz3qPgKQf1V_OPesu2PrplSaWnrA2VBrgWxgmwqFSGTsMSgz_IojtUP91QmKLI/s640/232323232%257Ffp53853)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;5329nu0mrj.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHJf47DCl2unuUmJmRdTsYTOxDgEXnZQGbP80tpGgGV4Kl8rFg6NKsrREcjptQLFlxQCJ0UMersO8zB3bZPBpUwuwyRNJ142b7WoEl8b3UysvDOGUQS3kWh51rT13Sza0dpv1S1zuJbmw/s1600/232323232%257Ffp53877)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(6329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHJf47DCl2unuUmJmRdTsYTOxDgEXnZQGbP80tpGgGV4Kl8rFg6NKsrREcjptQLFlxQCJ0UMersO8zB3bZPBpUwuwyRNJ142b7WoEl8b3UysvDOGUQS3kWh51rT13Sza0dpv1S1zuJbmw/s640/232323232%257Ffp53877)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(6329nu0mrj.jpg" width="476" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhi2w9MxXn8sZhBL0Jtj_g9ErOIb-xVTbKW9sprQ3IyqTj7l8jwvLVrNKcfMHhOyHC1rW1yV98xST94eKU4qqtfYxQ3XjMdcXSGrklgnXVTCU7NnJb_s-qJp2eN23W-_cdTI4WRVGnvEE/s1600/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(4329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="520" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhi2w9MxXn8sZhBL0Jtj_g9ErOIb-xVTbKW9sprQ3IyqTj7l8jwvLVrNKcfMHhOyHC1rW1yV98xST94eKU4qqtfYxQ3XjMdcXSGrklgnXVTCU7NnJb_s-qJp2eN23W-_cdTI4WRVGnvEE/s640/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(4329nu0mrj.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfZfpA0ZKombkC6btEvjtttk7oqoJCWXBh5kE_beMSdjeEEEKHhwJu8v3gZ-xzIPBwPKpzURP8SimQbgD9_AnIqHCxn2u_zwSluCiZEdNVV4CceC74BB-gOj4-mPCSHltfkw470i-EyvU/s1600/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(5329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="600" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfZfpA0ZKombkC6btEvjtttk7oqoJCWXBh5kE_beMSdjeEEEKHhwJu8v3gZ-xzIPBwPKpzURP8SimQbgD9_AnIqHCxn2u_zwSluCiZEdNVV4CceC74BB-gOj4-mPCSHltfkw470i-EyvU/s640/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;56895;(5329nu0mrj.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhabTnYo7XIwq90ILrqlOsHTPqgRwY7VXHl_jOiMash5Bohd-AX50iTBsDHP25IBzNFtb13z2w_67aWPGmVcUODM4hRRu6C8XNVkBdCk3uAoydOKI-TBsVqjJgL43VuI21mGwnVCXDthgg/s1600/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;4329nu0mrj.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="536" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhabTnYo7XIwq90ILrqlOsHTPqgRwY7VXHl_jOiMash5Bohd-AX50iTBsDHP25IBzNFtb13z2w_67aWPGmVcUODM4hRRu6C8XNVkBdCk3uAoydOKI-TBsVqjJgL43VuI21mGwnVCXDthgg/s640/232323232%257Ffp53883)nu=(245);;3)238)WSNRCG=3;568952;4329nu0mrj.jpg" width="640" /></a></div>http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/08/noi-va-hua.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)17tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-760457411337480200Thu, 04 Apr 2013 02:31:00 +00002013-04-03T20:20:40.461-07:00Team Idaho / Chiến Đoàn 1 Xung Kích <br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiGVcGoPCL8KstRuivzIN52P9cSAdkWXip0gifJhu0Eggw1VdSYjxpEF5lrRz_MNRb2ggyjSGP6VuFLjXUCm759TF_NPa7psBVvyA7HCEdgUAWq_ykaT-aTe3s91w_FCXe7HssHnUGXeP0/s1600/RT_IDAHO_at_FOB_6_Ho_Ngoc_Tao__S__Vietnam_jpg-660x320.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="310" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiGVcGoPCL8KstRuivzIN52P9cSAdkWXip0gifJhu0Eggw1VdSYjxpEF5lrRz_MNRb2ggyjSGP6VuFLjXUCm759TF_NPa7psBVvyA7HCEdgUAWq_ykaT-aTe3s91w_FCXe7HssHnUGXeP0/s640/RT_IDAHO_at_FOB_6_Ho_Ngoc_Tao__S__Vietnam_jpg-660x320.jpg" width="640" /></a></div><div align="center"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho trại Hồ Ngọc Tảo B53 / 1967</span></strong></div><div align="center"></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXZM7frdh-BuTTNCB1Bgcvgp0CM2qV7K-kXhft3Vpnav_tF41nwpCkjPwYqPl5KqD51NuDHN4Inilrctq2P7wODvYdVKC5EvIemzS2IzHttH2cTVGFigaMj92PZ-PgF3mmcf9g9heVQzY/s1600/1IDAHOnhakythuatbttm001vd1I.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="446" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXZM7frdh-BuTTNCB1Bgcvgp0CM2qV7K-kXhft3Vpnav_tF41nwpCkjPwYqPl5KqD51NuDHN4Inilrctq2P7wODvYdVKC5EvIemzS2IzHttH2cTVGFigaMj92PZ-PgF3mmcf9g9heVQzY/s640/1IDAHOnhakythuatbttm001vd1I.jpg" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho CCN Phú Bài Huế John Meyer đứng bên trái, Anh Sáu đứng chính giữa, Hiệp đội nón đen và mang kính đen </span></strong></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoHwv0nWb7PpAPFSEV7S56mJGiPDQT59T7mTFqiDZWG0HEv1DOwAwRDiBQy-E9XI-U29nleo9f2p2IlTChrKQygeoEsbPwVpkHMiP1beG65hMy3LZ4h7LeceVnyMZFeiZpB2E9xODCqo4/s1600/1ReconTeam-660x320IDAHO.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="310" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoHwv0nWb7PpAPFSEV7S56mJGiPDQT59T7mTFqiDZWG0HEv1DOwAwRDiBQy-E9XI-U29nleo9f2p2IlTChrKQygeoEsbPwVpkHMiP1beG65hMy3LZ4h7LeceVnyMZFeiZpB2E9xODCqo4/s640/1ReconTeam-660x320IDAHO.jpg" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho CCN / Chiến Đoàn 1 Xung Kích </span></strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8mCtSih8QYxa78ssOPZipr0Kc7akvAPGzd7TlfJrLTOEF62UFLbEbbmxhFTQ_PkNRbZrof17tCfPyc8kqOSiws0uEYZ6Q7kz0Lt3z08GBhWelXatcHgNSvDcMasksX4yk3xHWCryWSz0/s1600/imagesCAXTX5FH.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="514" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8mCtSih8QYxa78ssOPZipr0Kc7akvAPGzd7TlfJrLTOEF62UFLbEbbmxhFTQ_PkNRbZrof17tCfPyc8kqOSiws0uEYZ6Q7kz0Lt3z08GBhWelXatcHgNSvDcMasksX4yk3xHWCryWSz0/s640/imagesCAXTX5FH.jpg" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho / John Meyer / Hiệp nón&nbsp;đen &nbsp;/ Anh Sáu </span></strong><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh0aeoE7QWNb5JP9shBwnEvJEXEjw8-9HLHsevQYQO1fMnEWuQO0u5YYc-975rNGrAiZiums17hOagACccop1DxTm7ppQXInCx_1gdsr6DR-PZDjiS90on9Zc8OnHYMGwZqrGa3lI5x5aA/s1600/john_tilt_meyer_3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="508" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh0aeoE7QWNb5JP9shBwnEvJEXEjw8-9HLHsevQYQO1fMnEWuQO0u5YYc-975rNGrAiZiums17hOagACccop1DxTm7ppQXInCx_1gdsr6DR-PZDjiS90on9Zc8OnHYMGwZqrGa3lI5x5aA/s640/john_tilt_meyer_3.jpg" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho MACV-SOG VIP Visit Hiệp bắt tay với The General </span></strong><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6jqt53pY4iikJtvB8OQmSksVCJbkTn33uiqr6KdwAbbIctfuv9gnykyxPGhv4QhT6TanaYFL4eTKLkRkYQAI2i-aeACX-lgQiCOAMXoWTu5f1noeFPaE-T0xjTkHt6glBEQoLvaNLIWw/s1600/NiPhoto_.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="386" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6jqt53pY4iikJtvB8OQmSksVCJbkTn33uiqr6KdwAbbIctfuv9gnykyxPGhv4QhT6TanaYFL4eTKLkRkYQAI2i-aeACX-lgQiCOAMXoWTu5f1noeFPaE-T0xjTkHt6glBEQoLvaNLIWw/s640/NiPhoto_.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQiM0UgRAeC0n_cgDhXnGjQ_mrcZhWQvJ09AoXxLGDIKZw4gbFUpxIY_6mOWStWy9Wkn4nfruXFlYFNFVPiidx0zzeyaZujx6y-lYfXuBFK08JZ7B-T25kPdfXAmaQU1iUFNpPuDsXyUE/s1600/team_idaho10_67.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="460" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQiM0UgRAeC0n_cgDhXnGjQ_mrcZhWQvJ09AoXxLGDIKZw4gbFUpxIY_6mOWStWy9Wkn4nfruXFlYFNFVPiidx0zzeyaZujx6y-lYfXuBFK08JZ7B-T25kPdfXAmaQU1iUFNpPuDsXyUE/s640/team_idaho10_67.jpg" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Team Idaho 1967 / CCN </span></strong></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQn3mgXCgC2dNHwInMAknIYYZmhifqAN4kr9ppOxJtLJCi77pS8vkgYA76plzjGLVzKq9WyS0XVB73ZbP6J5GOdPc9pY6QpPkek-kEe-3LBvAbJIGNmvivcYaRkU1Ycum9XRnE-zy0F_U/s1600/P1150681PHJohnMeyers.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQn3mgXCgC2dNHwInMAknIYYZmhifqAN4kr9ppOxJtLJCi77pS8vkgYA76plzjGLVzKq9WyS0XVB73ZbP6J5GOdPc9pY6QpPkek-kEe-3LBvAbJIGNmvivcYaRkU1Ycum9XRnE-zy0F_U/s640/P1150681PHJohnMeyers.JPG" width="640" /></a></div><div style="text-align: center;"><strong><span style="color: red; font-family: Verdana, sans-serif;">Hoa Pham &amp; John Meyer President of SOA ( Las Vegas 2011) </span></strong></div><div style="text-align: center;"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj0Z0R2qogu2ZdbX90CpyCiA-EXCicHoCIg5W7hQ1GlvS8k3BNywaPQwfwE72DDRn1vh31AaCEdqE6x_FXkSdt4uMxHRWjB2JpYu_RSpZjLVo__JhfgP_2IHhaCL-DNU7HbcCi-iwur8wQ/s1600/P1150527SOAgroup1.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="480" mta="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj0Z0R2qogu2ZdbX90CpyCiA-EXCicHoCIg5W7hQ1GlvS8k3BNywaPQwfwE72DDRn1vh31AaCEdqE6x_FXkSdt4uMxHRWjB2JpYu_RSpZjLVo__JhfgP_2IHhaCL-DNU7HbcCi-iwur8wQ/s640/P1150527SOAgroup1.JPG" width="640" /></a></div><div align="center" class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><span style="color: black; font-family: Verdana, sans-serif;">Nguyễn Hùng Anh CCC, CCN Nguyên, <span style="color: red;">Hiệp CCN team Idaho</span>, </span></strong></div><div align="center" class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><span style="color: black; font-family: Verdana, sans-serif;">219 Dương Ngọc Như, 219 Phạm Văn Thận, Nguyễn Na CCN, </span></strong></div><div align="center" class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><span style="color: black; font-family: Verdana, sans-serif;">219 Gunship Đặng Quỳnh, One Zero Phạm Hòa team 723 </span></strong></div><div align="center" class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><span style="color: black; font-family: Verdana;">SOAR Convention Las Vegas 2011</span></strong></div>http://ccnmacvsog.blogspot.com/2013/04/team-idaho-chien-oan-1-xung-kich.htmlnoreply@blogger.com (Thoi Chinh Chien)0tag:blogger.com,1999:blog-4998354167161867759.post-4360254560570790394Thu, 28 Mar 2013 07:15:00 +00002014-03-19T17:45:10.537-07:00Biệt Hải trên vùng biển bão tố / Phạm Phong Dinh<div id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5390"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5389" style="font-family: comic sans ms, sans-serif; font-size: large;"></span></div><span style="font-size: large;"></span><br /><div id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5412"><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiJm2w15HpKjyTKQgtM4Ejp2Hw6Y9YyFoL8Np0oGFXgO4FJtk_tN5d-gAFASIlSYuhBnOjiI6nFry9Aie5v7HJG5KV8NZ5e4ftXFw_z2zYC5F6YwnHcGtPZpLLRr6ZouN6ub5xpVfyA_FA/s1600/biethai.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiJm2w15HpKjyTKQgtM4Ejp2Hw6Y9YyFoL8Np0oGFXgO4FJtk_tN5d-gAFASIlSYuhBnOjiI6nFry9Aie5v7HJG5KV8NZ5e4ftXFw_z2zYC5F6YwnHcGtPZpLLRr6ZouN6ub5xpVfyA_FA/s320/biethai.jpg" height="310" width="320" /></a></div><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif; font-size: large;"></span></div><span style="font-size: large;"></span><br /><div style="text-align: left;"><span style="font-size: large;"><span style="background-color: transparent;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span></span></span></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5428" style="background-color: transparent;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></span></span></div><span style="font-size: large;"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5428" style="background-color: transparent;"></span></span><div style="text-align: justify;"><span style="font-size: large;"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5428" style="background-color: transparent;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.</span></span></span></div><span style="font-size: large;"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5428" style="background-color: transparent;"><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương</span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Giữa cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rõ những trái sáng.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì anh đã nhắm mắt ra đi.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn</span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc trực ngày đêm săn sóc các anh.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><b><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Huy chương trao tặng cho những ân nhân</span></b></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Một trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1/2/1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Không quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau:</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã gào to lên:</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.</span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5437" style="text-align: justify;"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5439"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5438" style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><span style="white-space: pre-wrap;"></span>Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.</span></span></div><div id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5436" style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"><br /></span></div><div style="text-align: justify;"><span style="font-family: comic sans ms, sans-serif;"></span></div><div id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5431"><b id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5434"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5433"><span id="yui_3_7_2_1_1364452684800_5432" style="font-family: comic sans ms, sans-serif;">Phạm Phong Dinh</span></span></b></div></span></span>

No comments:

Post a Comment