Saturday, February 25, 2017

Conspiracy Theory

 

Federal Open Market Committee

About the FOMC

The term "monetary policy" refers to the actions undertaken by a central bank, such as the Federal Reserve, to influence the availability and cost of money and credit to help promote national economic goals. The Federal Reserve Act of 1913 gave the Federal Reserve responsibility for setting monetary policy.

The Federal Reserve controls the three tools of monetary policy--open market operations, the discount rate, and reserve requirements. The Board of Governors of the Federal Reserve System is responsible for the discount rate and reserve requirements, and the Federal Open Market Committee is responsible for open market operations. Using the three tools, the Federal Reserve influences the demand for, and supply of, balances that depository institutions hold at Federal Reserve Banks and in this way alters the federal funds rate. The federal funds rate is the interest rate at which depository institutions lend balances at the Federal Reserve to other depository institutions overnight.

Changes in the federal funds rate trigger a chain of events that affect other short-term interest rates, foreign exchange rates, long-term interest rates, the amount of money and credit, and, ultimately, a range of economic variables, including employment, output, and prices of goods and services.

Structure of the FOMC

The Federal Open Market Committee (FOMC) consists of twelve members--the seven members of the Board of Governors of the Federal Reserve System; the president of the Federal Reserve Bank of New York; and four of the remaining eleven Reserve Bank presidents, who serve one-year terms on a rotating basis. The rotating seats are filled from the following four groups of Banks, one Bank president from each group: Boston, Philadelphia, and Richmond; Cleveland and Chicago; Atlanta, St. Louis, and Dallas; and Minneapolis, Kansas City, and San Francisco. Nonvoting Reserve Bank presidents attend the meetings of the Committee, participate in the discussions, and contribute to the Committee's assessment of the economy and policy options.

The FOMC holds eight regularly scheduled meetings per year. At these meetings, the Committee reviews economic and financial conditions, determines the appropriate stance of monetary policy, and assesses the risks to its long-run goals of price stability and sustainable economic growth.

For more detail on the FOMC and monetary policy, see section 2 of the brochure on the structure of the Federal Reserve System and chapter 2 of Purposes & Functions of the Federal Reserve System. FOMC Rules and Authorizations are also available online.

2013 Members of the FOMC

Federal Reserve Bank Rotation on the FOMC

Committee membership changes at the first regularly scheduled meeting of the year.

  2014 2015 2016
Members New York
Cleveland
Philadelphia
Dallas
Minneapolis
New York
Chicago
Richmond
Atlanta
San Francisco
New York
Cleveland
Boston
St. Louis
Kansas City
Alternate
Members
New York
Chicago
Richmond
Atlanta
San Francisco
New York
Cleveland
Boston
St. Louis
Kansas City

New York
Chicago
Philadelphia
Dallas
Minneapolis

 †For the Federal Reserve Bank of New York, the First Vice President is the alternate for the President. Return to table

For additional information, please use the FOMC FOIA request form.


Jan 29, 2013

 

 

align="left"

 

 photo ltvrdik_Barbed_wire.png
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.



align="right"

 

 photo ltvrdik_Barbed_wire.png
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng. Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.

 

 

align left

 



















<table style="margin: 5pt 10pt 0pt 0pt;" align="left" border="2" bordercolor="lightpink" cellpadding="0" cellspacing="8" width="10%">
<tbody>
<tr>
<td>
<img src="https://...jpg" height="320" width="350">
</td>
</tr>
<tr>
<td style="text-align: justify;color: chocolate;font-size: 14pt;font-style: italic;background-color: oldlace;">
<p style="TEXT-ALIGN:justify;MARGIN: 6pt 4pt 0pt;">
Hình ảnh tưởng niệm một nạn nhân tại khu rừng có mồ chôn tập thể nạn nhân của chủ trương diệt chủng ở Liên Xô cũ.
<br>
<font style="font-size: 14pt; color: brown; font-family: Cambria;">
Photo courtesy of Perry Street Advisors.
</font>
</p>
</td></tr></tbody></table>

 

 

align right

 



















<table style="margin: 5pt 0pt 0pt 10pt;" align="right" border="2" bordercolor="lightpink" cellpadding="0" cellspacing="8" width="10%">
<tbody>
<tr>
<td>
<img src="https://...jpg" height="350" width="350">
</td>
</tr>
<tr>
<td style="text-align: justify;color: chocolate;font-size: 14pt;font-style: italic;background-color: oldlace;">
<p style="TEXT-ALIGN:justify;MARGIN: 6pt 4pt 0pt;">
Hình ảnh tưởng niệm một nạn nhân tại khu rừng có mồ chôn tập thể nạn nhân của chủ trương diệt chủng ở Liên Xô cũ.
<br>
<font style="font-size: 14pt; color: brown; font-family: Cambria;">
Photo courtesy of Perry Street Advisors.
</font>
</p>
</td></tr></tbody></table>

 

============

 

 

align="right"

 

 photo ltvrdik_Barbed_wire.png
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.
Cuộc chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc chiến giữa hai đất nước Việt Nam và Trung Quốc, mà đó là một cuộc chiến giữa hai đảng giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH giành quyền lãnh đạo khối cộng sản là Nga cộng và Tàu cộng tên xương máu của Việt Cộng. Ngay cả cuộc chiến ở mặt trận tây nam đánh nhau với Đảng Cộng Sản Campuchia thì đó điều là những cuộc chiến giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH". Nguyên nhân chính là vì: Sau khi Chiến Tranh Việt Nam kết thúc Trung Cộng muốn soán ngôi Liên Xô để trở thành lãnh đạo số một của phe XHCN.... từ đó xảy ra xung đột giữ hai cường quốc mạnh nhất trong thế giới cộng sản... Những nước "ĐÀN EM" khác bắc buộc phải chọn lựa theo Tàu hay theo Nga.... Việt Cộng quyết định theo Nga, còn ở Campuchia Khmer Đỏ đã quyết định theo Tàu. Vậy là cuộc chiến giữ các đồng chí anh em bắt đầu… năm 1979 Trung Cộng từ biên giới phía bắc đánh xuống, đồng thời Trung Cộng cũng ra sức viện trợ cho thằng đàn em Khmer Đỏ từ biên giới tây nam đánh lên, Liên Xô chỉ đứng bên ngoài ra sức viện trợ cho Việt Cộng phải đánh cả hai mặt trận cùng một lúc... Cuộc chiến tranh bảo vệ đảng cộng sản đàn anh kéo dài khoảng 10 năm trời. Hoàn toàn không phải cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ mà việt cộng đã tuyên truyền cho dân và bọn bộ đội cắc ké. Cho đến khi Đông Âu và Liên Xô từ từ suy sụp đổ, phe XHCN dần dần tan rã, Khmer Đỏ bị tiêu diệt rần hết, Trung Cộng cũng kiệt quệ sắp sụp. Việt Nam bị Liên Xô cắt viện trợ rơi vào tình trạng đói nghèo khủng hoảng đến cực điểm. Trước tình trạng tồi tệ đó Trung Cộng và Việt Cộng đã phải xuống thang, Trung Cộng cắt đứt viện trợ cho Khmer Đỏ, Việt Cộng phải rút hết quân ra khỏi Campuchia. Rồi sau đó Viêt cộng bắt tay với Trung cộng để nhận sự bảo hộ của Trung cộng với HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990 và Việt cộng nhận sự sáp nhập lãnh thổ vào Tàu cộng trong vòng 20 năm.

 

align="left"

 

 photo ltvrdik_Barbed_wire.png
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.
Cuộc chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc chiến giữa hai đất nước Việt Nam và Trung Quốc, mà đó là một cuộc chiến giữa hai đảng giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH giành quyền lãnh đạo khối cộng sản là Nga cộng và Tàu cộng tên xương máu của Việt Cộng. Ngay cả cuộc chiến ở mặt trận tây nam đánh nhau với Đảng Cộng Sản Campuchia thì đó điều là những cuộc chiến giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH". Nguyên nhân chính là vì: Sau khi Chiến Tranh Việt Nam kết thúc Trung Cộng muốn soán ngôi Liên Xô để trở thành lãnh đạo số một của phe XHCN.... từ đó xảy ra xung đột giữ hai cường quốc mạnh nhất trong thế giới cộng sản... Những nước "ĐÀN EM" khác bắc buộc phải chọn lựa theo Tàu hay theo Nga.... Việt Cộng quyết định theo Nga, còn ở Campuchia Khmer Đỏ đã quyết định theo Tàu. Vậy là cuộc chiến giữ các đồng chí anh em bắt đầu… năm 1979 Trung Cộng từ biên giới phía bắc đánh xuống, đồng thời Trung Cộng cũng ra sức viện trợ cho thằng đàn em Khmer Đỏ từ biên giới tây nam đánh lên, Liên Xô chỉ đứng bên ngoài ra sức viện trợ cho Việt Cộng phải đánh cả hai mặt trận cùng một lúc... Cuộc chiến tranh bảo vệ đảng cộng sản đàn anh kéo dài khoảng 10 năm trời. Hoàn toàn không phải cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ mà việt cộng đã tuyên truyền cho dân và bọn bộ đội cắc ké. Cho đến khi Đông Âu và Liên Xô từ từ suy sụp đổ, phe XHCN dần dần tan rã, Khmer Đỏ bị tiêu diệt rần hết, Trung Cộng cũng kiệt quệ sắp sụp. Việt Nam bị Liên Xô cắt viện trợ rơi vào tình trạng đói nghèo khủng hoảng đến cực điểm. Trước tình trạng tồi tệ đó Trung Cộng và Việt Cộng đã phải xuống thang, Trung Cộng cắt đứt viện trợ cho Khmer Đỏ, Việt Cộng phải rút hết quân ra khỏi Campuchia. Rồi sau đó Viêt cộng bắt tay với Trung cộng để nhận sự bảo hộ của Trung cộng với HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990 và Việt cộng nhận sự sáp nhập lãnh thổ vào Tàu cộng trong vòng 20 năm. align="right"

 

 photo ltvrdik_Barbed_wire.png
Những cuộn kẽm gai Razor barbed wire trong đêm tối đã cứa nát da thịt của toán 'Đặc Công bộ' Việt cộng.
Cuộc chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc chiến giữa hai đất nước Việt Nam và Trung Quốc, mà đó là một cuộc chiến giữa hai đảng giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH giành quyền lãnh đạo khối cộng sản là Nga cộng và Tàu cộng tên xương máu của Việt Cộng. Ngay cả cuộc chiến ở mặt trận tây nam đánh nhau với Đảng Cộng Sản Campuchia thì đó điều là những cuộc chiến giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH". Nguyên nhân chính là vì: Sau khi Chiến Tranh Việt Nam kết thúc Trung Cộng muốn soán ngôi Liên Xô để trở thành lãnh đạo số một của phe XHCN.... từ đó xảy ra xung đột giữ hai cường quốc mạnh nhất trong thế giới cộng sản... Những nước "ĐÀN EM" khác bắc buộc phải chọn lựa theo Tàu hay theo Nga.... Việt Cộng quyết định theo Nga, còn ở Campuchia Khmer Đỏ đã quyết định theo Tàu. Vậy là cuộc chiến giữ các đồng chí anh em bắt đầu… năm 1979 Trung Cộng từ biên giới phía bắc đánh xuống, đồng thời Trung Cộng cũng ra sức viện trợ cho thằng đàn em Khmer Đỏ từ biên giới tây nam đánh lên, Liên Xô chỉ đứng bên ngoài ra sức viện trợ cho Việt Cộng phải đánh cả hai mặt trận cùng một lúc... Cuộc chiến tranh bảo vệ đảng cộng sản đàn anh kéo dài khoảng 10 năm trời. Hoàn toàn không phải cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ mà việt cộng đã tuyên truyền cho dân và bọn bộ đội cắc ké. Cho đến khi Đông Âu và Liên Xô từ từ suy sụp đổ, phe XHCN dần dần tan rã, Khmer Đỏ bị tiêu diệt rần hết, Trung Cộng cũng kiệt quệ sắp sụp. Việt Nam bị Liên Xô cắt viện trợ rơi vào tình trạng đói nghèo khủng hoảng đến cực điểm. Trước tình trạng tồi tệ đó Trung Cộng và Việt Cộng đã phải xuống thang, Trung Cộng cắt đứt viện trợ cho Khmer Đỏ, Việt Cộng phải rút hết quân ra khỏi Campuchia. Rồi sau đó Viêt cộng bắt tay với Trung cộng để nhận sự bảo hộ của Trung cộng với HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990 và Việt cộng nhận sự sáp nhập lãnh thổ vào Tàu cộng trong vòng 20 năm.

 

Hiện tượng chinafication

Hiện tượng chinafication

Từ sự kiện Formosa Hà Tĩnh “TRUNG QUỐC HÓA” VIỆT NAM

Trong một bài viết, giáo sư-tiến sĩ Canada gốc Hoa, Khương Văn Nhiên (Wenran Jiang; Đại học Alberta), nhận xét: “Các công ty Trung Quốc trả lương thấp lại buộc công nhân làm việc thêm giờ; làm thế nào người ta kỳ vọng họ đối xử khác như thế ở nước ngoài? Với 6.700 công nhân mỏ than chết bởi tai nạn hầm mỏ mỗi năm (17 người/ngày)…, làm thế nào người ta có thể hy vọng các doanh nghiệp Trung Quốc hành xử tử tế hơn đối với những nơi khác trên thế giới?… Trung Quốc đang tàn phá nghiêm trọng hệ sinh thái nước họ trong quá trình hiện đại hóa cực nhanh; làm thế nào người ta có thể hy vọng họ ý thức áp dụng các biện pháp thân thiện môi trường theo chuẩn phương Tây ở những nơi khác?”.

Cùng với việc xuất cảng lực lượng lao động, xuất cảng hàng hóa, “xuất cảng” lực lượng lao động thất nghiệp trong nước…, Trung Quốc còn “xuất cảng” cả văn hóa bê bối và bất lương trong đầu tư-kinh doanh. Bất cứ nơi nào đến, họ cũng tàn phá và hủy diệt môi trường theo cách hệt như họ đối xử với con người và môi trường ở đất nước họ. Những chuyện “truyền kỳ” như thế đã chẳng còn lạ. Ở những nước như Việt Nam, nơi có hệ thống luật môi trường lỏng lẻo (tương tự Trung Quốc) và không đủ sức kiểm soát luật đầu tư ngay tại chính đất nước mình, tai họa mà Trung Quốc mang đến tất nhiên luôn thảm khốc.

Các nước châu Phi đã khóc ròng với những cuộc tàn phá môi trường của giới đầu tư Trung Quốc. Chinafication (Trung Quốc hóa) là thuật từ phổ biến để chỉ làn sóng đầu tư toàn cầu của Trung Quốc. Điều đáng nói là không quốc gia nào giống Việt Nam khi nói đến những ảnh hưởng tiêu cực mà Trung Quốc mang lại. Không quốc gia nào chịu ảnh hưởng khủng khiếp của hiện tượng “Chinafication” bằng Việt Nam. Tại sao?

Không quốc gia nào tự trói dân tộc mình với một nước khác bằng “phương châm 16 chữ vàng và tinh thần bốn tốt”. Không chính phủ tỉnh táo và khôn ngoan nào lại cúi mình để mang chủ thuyết ngoại lai về làm chủ thuyết chính trị cai trị đất nước.

Chẳng dân tộc liêm sỉ nào lại tôn sùng một “kim chỉ nam” khai sinh từ một kẻ ngoại quốc như Mao Trạch Đông. Hậu quả của chính sách vĩ mô về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam nói chung, không phải bây giờ, mà từ thập niên 1940, cuối cùng đã biến Việt Nam thành một phiên bản của Trung Quốc. Bất kỳ cái xấu nào xuất hiện ở Trung Quốc, từ gian lận bằng cấp, buôn gian bán dối, đầu độc con người, bất tín và tàn ác, đạo đức suy bại, tham nhũng hệ thống, buôn thần bán thánh…, đều có y hệt tại Việt Nam.

Trung Quốc “xuất cảng” rất nhanh những điều tồi tệ vào Việt Nam và Việt Nam tiếp nhận rất nhanh những điều tồi tệ từ Trung Quốc. Việt Nam đang bị khủng hoảng nhập siêu từ Trung Quốc. “Khủng hoảng nhập siêu” cả những thuật từ mà Bắc Kinh thường dùng, từ “thế lực thù địch” đến “diễn biến hòa bình”. Căn cước định tính của dân tộc Việt, nếu không được “cấp” hoặc được sao chép từ Trung Quốc, thì cũng đang bị chính đất nước này can tâm đốt đi, thiêu rụi cùng với lịch sử ngàn năm từng tự hào không bị đồng hóa bởi giặc phương Bắc.

Vấn đề không chỉ là những con cá chết do Formosa Hà Tĩnh gây ra. Cái chết của một dân tộc đang mất gốc mới là điều đáng suy nghĩ và lo âu. Rồi sẽ có những “Formosa Hà Tĩnh” khác. Rồi sẽ có những kỳ “Đền Hùng thất thủ” tiếp theo. Một quốc gia không có căn cước luôn đi rất nhanh đến vực sụp đổ mà người ta thấy rõ nhất ở cách mà con người sống và hành xử. Một đất nước đã tự đánh mất định tính dân tộc khi chấp nhận dùng hệ thống định tính khác để quy chiếu và áp dụng thì sự lệ thuộc và ảnh hưởng là điều không thể tránh khỏi. Nếu không đủ dũng khí và can đảm tự cởi nút thòng lọng khỏi cái giá treo cổ lủng lẳng “16 chữ vàng”, dân tộc này sẽ còn lại gì, ngoài mớ tro tàn của mảnh căn cước bị thiêu?


 Mạnh

Hiện tượng

http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_TT/2014/VN/cct/LHCCSHTD_TT_2014_VN_cct_ngaytrianTPBQLVNCHchungtoikhongbiboquen_2014APR29.htm
Kim

 

 

Văn Lang

Đất gốc nhà Thương là vùng Hồ Nam nay tức đất Sở xưa.
Chiếu theo Dịch tượng thì:
- 'Sở' biến âm của 'sủy' là nước chỉ phương Nam xưa, nay là Bắc.
- 'Thương - Ngô' chỉ đất Đông Nam (xưa) của 'thiên ha'̣.

Sở gọi là Shan như là nhà Thương thực ra là vì đất Sở chính là đất Thương.
Nhà Thương trước khi Bàn Canh chuyển lên phía Bắc đóng tại chính vùng đất mà sau này là nước Sở. Nước Sở vẫn giữ họ Hùng chứng tỏ nhà Thương cũng là họ Hùng.

- Lý Nam Đế-Lý Bôn 李賁 là hậu duệ họ Lý, có nguồn gốc tổ tiên từ Hoa-Nam, lập ra Vạn-Xuân quốc萬春國...chưa chắc có nghiã là 1 vạn mùa Xuân! Vì "Vạn-Xuân" mà giao cho 1 người Hoa Nam phát âm thì như là "Voan-Xieng" (Vạn-Tượng 萬象), Cái Bóng của "Voan-Xieng" là "Vạn-tượng" và "Văn-Lang" rất to lớn và bao trùm 1 phạm vi rộng mênh mông trong Cổ sử. Voi Nam Á cao qúi trong cổ sử, Từ Ấn-Độ kéo dài đến biễn đông, gồm Ấn, Miến-Điện, Thái, Lào, Việt Nam, và vùng Hoa Nam thì qúi tộc và Vua đều qúi trọng Voi, Dùng Voi trong việc Uy phong, tế lễ, chứng tỏ quyền uy, làm biểu tượng và cũng làm cống phẩm, qùa tặng cho nhau giữa các vua chúa và quốc gia.

Văn-Lang là tên gọi quốc gia của người Việt ở Việt Nam trong cổ sử. liên hệ mật thiết với cây Tân-Lang là cây Cau, nếu "Van-Tân-Lang" rút gọn là Van-Lang, là "Vạn萬-Lang榔"(Vạn cây Cau) rồi đọc thành ngắn gọn, thì trở thành Văn-Lang! -mộc木 Ghép với chử Lang郎 là thành chử Lang 榔 của cây tân檳-Lang榔,Trầu_Cau lại lả "Sơ疋_Tân檳-Lang榔" mà phát âm nhanh rút gọn lại là "Sang"(疋檳榔=疋木木=楚) Hay "Shan", Lang có nghiã Tân Lang là Cây Cau như ở nước Sở ?, hay nghĩa Lang-sang là nhiều Voi ? Văn-Lang ở Việt Nam nghiã là "Vạn Tượng" hay "Vạn Tân Lang"??? theo 1 chữ Shan楚sở thôi thì đủ kết luận Văn-Lang của người Việt là "Vạn-Tân-Lang"! Nhưng Biểu tượng Voi của vua chúa toàn vùng Đông nam Á và Sự tích Hai Bà Trưng thì "Văn-Lang" lại có ý nghiã là "Văn-Lang-Sang"---> là "Vạn-Tượng"! Và nhất là Sau nầy khi mang tên là "Tượng quận" trong thời kỳ bắc thuộc thì càng thấy rõ đất quận "Voi" ngày xưa là nước "Văn-Lang-Sang萬 象Vạn Tượng"<--->"Văn-Lang".

- Chắc chắn có một nước "Văn-Lang" phía nam rồi tiến dâǹ lên hướng Bắc thời cổ sử. và bây giờ theo ngữ âm khi đọc thì ngôn ngữ ở Vùng Hoa Nam "Voan" còn dễ hiểu và rỏ nghĩa là "Vạn" hơn tiếng Việt Nam là "Văn" mà làm cho người ta hiểu lầm là xâm mình. "Vạn-Tân-Lang" thì đúng nghĩa Ở nơi nhiều cây Cau, "Van-Lang-Sang" - "Vạn-Tượng" thì đúng nghĩa là nhiều Voi, NHƯNG... càng lên cao về hướng Bắc thì không còn có cây Cau mà cũng không có Voi, vậy mà có NƯỚC Sở tên là Shan楚, và Triều Thương cũng tên là Shan商, Đó: là bằng chứng Văn-Lang là một đại thể có nguồn gốc phương nam.

Nếu Khảo cứu kỹ lưỡng trong lịch sử thì sẽ thấy:

- Văn-Lang Bắc tiến từ phía nam đi lên, đến vùng Vân Nam, Quí châu, Tứ xuyên, và một phần của Hồ nam, Hồ Bắc thì gọi là "Dạ-Lang". Bởi vậy trong cổ sử có nước Dạ-Lang 夜郎 ở vùng nầy, mà hiện giờ dân tộc Bố-Y có ngôn ngữ nửa giống như tiếng Bắc Kinh và phân nửa giống tiếng Việt là đại diện tiêu biểu của "người Dạ-Lang".

- Văn-Lang tiến đến một phần cùa 湖南Hồ Nam、湖北Hồ Bắc、重庆Trùng Khánh、河南Hà Nam、安徽An Huy、江苏Giang Tô、江西 Giang Tây v. v... thì goị là Shan 楚 và bị đổi ra gọi là Sở, có lẽ cách đọc phải thay đổi vì có một Shan khác thường được tiếng Việt gọi là Triều "Thương" viết là 商Shan đã bị mất vào tay nhà Chu nên húy kỵ Chăng? (Có thể so sánh với trường hợp chữ "Lợi" ở Việt Nam ngày Xưa đọc là "Lị", nhưng đến khi có vua Lê Lị 黎利 thì kỵ gọi trúng tên vua nên đã đổi "Lị 利" trở thành "Lợi 利", và lâu dần không còn ai nhớ và đọc đúng chử "Lị" nữa, và chỉ đọc là "lợi" mà Thôi). Hoặc, đây là dấu tích lịch sử đã bị tráo trở ngay chổ nầy! Bởi vậy, trong sử có nước Sở 楚viết bằng chử Shan楚 là "Sơ-Tân-Lang" (*楚:疋木木) ở Vùng nầy, mà ngày nay tiếng nói và người Giang Tây, Trường Sa là đại diện của người SỞ -(楚:疋木木)- Sơ-Tân-Lang.

(*楚:疋木木): Trong bài trước đã phân tích chữ Sở楚 có một âm đọc là "Trầu", chữ tượng hình gồm có sáu cách để thể hiện, và trong đó có cách hài thanh + cách vẽ hình, theo luật của chữ thì Sơ疋 lâm木木 là hai chữ mộc木, thì phải đọc là Sơ-lâm-Sâm, nhưng chữ Sở là vẽ hình dây Trầu quấn cây Cau, cho nên đáng lẽ phải đánh vần là "Sơ-Cau-sau", chữ "cau" ngày nay giọng Bắc và Nam vẫn đọc khác nhau, miền bắc đọc như cây "Câu" nhiều hơn, ngày xưa có thể là "Cơ" cho nên mợi có âm "Sơ-cơ-Sở". Nhưng Cây Cau còn có tên là "Tân檳-Lang榔" cho nên có âm "Sơ-Tân-Lang=Sang楚 hay Shan楚"; Bản thân của chử Shan楚(Sở) là câu chuyện sự tích trầu cau rồi.

- Văn-Lang Vượt qua phía Bắc của Shan 楚Sở, thì gọi là Shan商 mà còn gọi là triều Thương商. (và chỉ riêng phần đất phía Triều Thương nầy, sau nầy bị mất vào tay nhà Chu, rồi biến thành nhiều nước nhỏ trong thời gian gọi là Đông Chu liệt quốc), bởi vậy trong Sử có Triều Shan 商Thương ở vùng đất nầy, (vùng nầy khi Shan商Thương bắc tiến đã gập phải người da trắng đến từ Siberia, Hung-Nô, Nga, Tucky v. v... Shan商Thương chinh phục và đồng hóa người da trắng, các triều đại sau nầy thì lại càng có nhiều người da trắng xâm chiếm và di cư đến vùng nầy rồi lại bị đồng hóa trở thành "Hoa" hay "Hán" nhưng mà da rất trắng và thân cao to... điển hình là các cô gái phía bắc của vùng Sơn Đông hiện giờ cao một thước 70 là chuyện thường... chỉ xét riêng Triều Hán thì đã có cả chục triệu người "tây phương", "hung nô" đã qui phục và trở thành dân Hán, đến thời nhà Tấn, thì toàn thể vùng nầy bị người tây phương da trắng tràn ngập và lập ra nhiều quốc gia nhỏ mà sử gọi là thời kỳ Nam-Bắc Triều, ngày nay đại diện cho vùng nầy là người và tiếng Bắc kinh).

- Văn-Lang của người Việt Nam ngày nay thì dù ở trong nước hay khấp nơi trên thế giới, người Việt Nam đều thường hay lấy tên Văn-Lang đặt tên cho trường học, và Người Việt vẫn giữ phong tục có Trầu-Cau cho lễ thành hôn.

Phải là Cùng chung một quốc gia thì tên gọi mới giống nhau được! Văn Lang tiến từ Nam lên Bắc trong quá trình hàng ngàn năm mới có bờ cỏi mênh mông, chắc chắn là đâỳ bi hùng cho nên chữ Việt mới có đến hai cách Viết là Việt 粵 và Việt 越, và chữ "Việt 越 với bộ Tẩu và cái Qua" rõ ràng có ý nghĩa là Cầm vũ khí mà "Vượt" lên... Tên gọi từng vùng của Văn-Lang khác nhau về Phát âm vì yếu tố ngôn ngữ đã "địa phương hóa" bởi vì địa bàn qúa rộng thì chắc chắn có nhiều dân tộc khác bị Văn-Lang chinh phục và đồng hóa nhau, nhưng không thoát khỏi âm chính là đất nước của hàng vạn Voi, hàng Vạn cây Cau... "Van-Lang-Sang"; Văn-lang qúa rộng lớn nên mổi nơi đều có vua chúa của mình, có thể gọi đó là 1 liên bang to lớn cho nên tính chất địa phương đã làm chủ từng vùng, và cũng từ đó mà diễn biến trở thành Bách Việt, Sử của Văn Lang Bắt đầu từ bao giờ? ai mà chứng minh vẹn toàn được? đến bây giờ là 5 ngàn năm văn hiến ? Có thể ít hơn! có thể nhiều hơn gấp đôi thì sao? những con số không kiểm chứng được dù có viết ra thì cũng chỉ là tượng trưng mà thôi! nhưng cũng chỉ có lịch sử Văn-Lang là mới phù hợp và lý giải được tại sao Nhóm Việt-粵-越-Yue lại có mặt trên 1 địa bàn qúa rộng trong cổ sử.

Nhưng rồi Văn-Lang ở Phía Bắc trở thành nhập nhằn Hoa và Việt khi bắt đầu có nhà Chu周 rồi đến Xuân thu-Chiến quốc của thời Đông Chu..,Nếu Shan商 là Thương không mất vào tay Chu 周 thì thời Xuân thu-Chiến Quốc với các nước nhỏ là Ngụy -Hàn -Triệu -Yến - Lỗ- Tề -Tần vẫn là 1 phần của Văn-Lang là Shan商Thương, nhưng vì mất Triêù Thương và có Triêù "CHU" nên vùng đó trở thành :

1/- Chữ Viết không thay đổi, -nhưng đổi tên là Hoa Hạ tộc, dễ gây ngộ nhận.

2/- Ngôn ngữ có biến âm dần dần, - và sau nầy thay đổi nhiều hơn, dễ bị lầm lẫn là ngôn ngữ khác.

3/- Văn phạm thì đão ngược dần dần, -hơn 2000 năm sau thì trở thành gọi là Hoa ngữ, (biến âm và biến văn phạm).

4/- Ngụy tạo lịch sử và bôi nhọ Đế Tân của Văn-Lang phía bắc là Shan商 là TRƯ (Trụ Vương ) là mê Đĩ (Đắc-Kỷ hay Đán-Kỷ ) Chu kể tội "Trụ" Vương có 6 tội, sau nầy dần dần ...thành nhiều tội hơn! đễ mỵ dân làm cho dân ghét vua Cũ và không muốn phục quốc, - không viết đúng lịch Sử, Tách Shan 商 ra khỏi gốc của Shan 楚 Sở và đại thể Văn-Lang trở thành một nhóm, rồi xưng là Chu 周-Hoa華... trong khi Giáp cốt văn và kim Văn của Shan 商Thương và shan 楚sở mà Chu周-Hoa 華 dùng lại là được khai quật lên từ đất ở Shan 楚Sở và phù hợp với cách viết và cách đọc ở Shan楚 sở và phía nam, so với các ngôn ngữ phía bắc là tiếng Nga, Mông-Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Tạng, Mãn Châu v. v... là hoàn toàn khác biệt.

5/- Chu đã Dùng danh Từ "Hoa華" là qúi tộc thời xưa, nhập chung với chử "Hạ夏" để cho là chính thống theo tổ tiên thời nhà Hạ夏, -Và dành độc quyền ta là "Hoa" , Ta là "Hạ" , Trong khi Hạ là Triều đại xưa trước Shan, và Hoa là giai cấp qúi tộc xa xưa của thời vua NGhiêu, Thuấn , Hạ..., cách diễn giãi lịch sử độc quyền như vậy ...gạt hẵn văn hóa có sẵn của Văn-lang hay shan商 qua 1 bên, đưa tất cả gốc gác văn hóa trung nguyên theo tthuyết bắt nguồn từ phía tây là của Tibet (và cho đến nay thì tiếng "Hoa" ở Trung-Hoa được gọi là Hán-Tạng ngữ. Nghĩa là bắc nguồn từ Ti 狄 tức là Tibet hay còn gọi là Tây-Tạng)...trong khi đa số dân chúng và văn hóa của Chu 周là Dân chúng và văn hóa Shan商mà họ mới giành được!!!

Vì sao phải phải nói vậy khi khảo cứu lịch Sử?
Vì có một dòng lịch Sử viết theo cách tất cà là theo nhà Chu 周! tất cả "Văn Minh" là bắt nguồn từ nhà Chu周! và dèm pha "Trụ" Vương lạ lùng đến đỗi người ta phải bỏ thời giờ ra nghiên cứu. Có lẽ cái bóng của "Trụ" và Shan商-Văn Lang qúa lớn, anh Hùng của dân tộc nầy lại là kẻ thù của dân tộc kia ở bên đối phương. Nếu Không có Shan-"Trụ" Vương đánh Đông thì sau nầy dễ gì có nước Việt của Việt Vương Câu-Tiễn và nước Ngô! Nếu không có Shan -"Trụ" Vương lại Bắc Tiến thì dễ gì có Ngụy - Hàn - Triệu - Yến - Lỗ - Tề - Tần v. v... đễ mà nhà Chu phong Hầu phong tước cho họ?

Có lẽ quân và dân mệt mỏi và đau khổ vì chiến tranh, theo Sử liệu thì khi quân Chu tiến Vào Triêù-Ca là kinh đô của nhà Thương thì quân số chỉ bằng 1 phần 10 cuả quân lính bên "Trụ" Vương, nhưng quân ở Triều-Ca khi đó đã quay giáo rước Giặc là nhà Chu vào Thành... Có lẽ đó là Trận chiến tranh Tâm lý chiến tuyên truyền đã thành công kinh hồn nhất trong lịch sử cổ đại, "đã khiến Trụ Vương phải tự Tử cho dân... sáng con mắt sau nầy!"Câu nầy là... của tôi... để diễn giãi nhà Chu bước vài thời kỳ Đông Chu Liệt Quốc, chia làm thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc... dân chúng... tha hồ đau khổ cho sáng mắt ra vì ngày xưa đã rước Chu周 về!

Shan商Thương Của "Trụ" vương Bắc tiến đã chiến thắng và đồng hóa người Da trắng mà Cổ thư gọi là Bạch-Địch hay Trung-Sơn Quốc, Chử "địch狄" tiếng Việt ngày nay là phiên dịch từ chử "Ti -狄 " trong khi Ti狄 lại là tiếng Việt ngày xưa phiên âm để gọi người TiBet da trắng, Sau nầy thì chính là nhóm Tibet đã bị đồng hóa nầy lại tài tình sử dụng tâm lý chiến là "Vua Trụ mê Đắc-Kỹ và ác dâm" diệt nhà Thương lập nên nhà Chu và xưng là "Hoa-Hạ tộc". ..Đọc Sử đã bị "cải biên" cứ ngỡ Shan商 cuả triêù Thương là không dính líu người Việt hay Văn-Lang vì gọi là "Thương"...!!! xin chú ý là chử viết để lại là các tiên đế của triêù Thương chỉ đơn giản có tên là ông Giáp 甲, Ất 乙, Bính丙, Đinh丁 V v..., Chữ Giáp Ất: 甲-乙 thì người Việt ngày nay ít có ai hiểu được! Vì Cứ cho nó là Chữ "Tàu", ...thường hay ghét "Tàu" không thích học chữ "Tàu"! Trong khi người "Tàu" thì làm sao hiểu và thân thiết với Giáp ất 甲乙 bằng người Việt Được! vì 甲,乙 là "Cả, Út", Bởi vì "Giáo ất" chính là "Cả-út" đi 1 vòng biến âm qua "Ca-ék" ( Triêù Châu), "Kap-ià" (Quảng Đông), "Jiẽ-iã" (Bắc Kinh) ...rồi người Việt lại nghĩ rằng Giáp ất là Hán Việt , là "Taù", hết biết Giáp Ất là Cả và Út! ...Hàng ngàn năm với nhìều Triệu anh Cả và anh Út người Việt đã chữi Giặc ÂN-thương_Giặc Tàu ...và đề cao 1 "Phù Đổng Thiên Vương" thần thoại mà nhiều dân tộc thiểu số khác cũng có câu chuyện nầy đễ chữi Vương Triềù Shan商 Thương với các Vua có tên là ông Cả , ông Út v v...!!! những "Cả" và "Út" sau chữi "Cả" và"Út" trước...không biết thì không có tội ? tàn nhẫn qúa! tôi thích khảo cứu sự thật và chia xẽ sự thật, nhưng cũng đã từng bị vu khống khi thử chia xẽ ý kiến..., cho nên đến nay tôi mới quyết định mạnh dạn công bố những phát hiện của mình.( Cám ơn "Nhóm đàn anh" của tôi, đã ủng hộ tinh thần để tôi công bố những bài khảo cứu).

Khi Viết bài nghiên cứu về lịch sử thì thường hay phải dẫn chứng bằng cổ thư và sách sử, Nhưng cổ thư và sách sử nói sai sự thật thì dần dần cái sai đó có thể biến thành "sự thật" và "Chân lý", thế nên mới nói là trên đời nầy không có gì là tuyệt đối cả, Chuyện Trụ Vương và Đắc-Kỹ là 1 ví dụ điển hình, Các học giả hàng ngàn năm trước đã phải thở dài ngao ngán! vì khi kiểm chứng lại cổ thư thì sách sau kể tội Trụ Vương nhiều tội hơn sách trước! Dù Trụ vương đã chết mà vẫn có tài năng gây thêm tội để sách sau và đời sau thêm vào!!! Bây giờ là thế kỷ 21, Ví dụ "dẫn chứng" Sử ký của Tư Mả Thiên kễ rằng: Nhà Chu diệt nhà Thương, vua "Trụ" tự tử trên lâu đài rực lữa khi thất trận v v..., và: Sở là 1 nước ở phương nam man, còn gọi là Kinh Sở, Kinh Man v v..., và, Các vua Việt tên Câu-Tiễn, Vô Dư, vô Cương v v...Có thể nói là Trật lất hết!!! Nhưng mà lại được dẫn chứng khi "đụng" tới sử ! và ai kiểm chứng được? Và nếu thật sự cố gắng kiểm chứng, thì sẽ phát giác rất nhiều cái sai trong Sử ký của Tư Mã Thiên và Trong chính Sử.

Tư Mã Thiên có tài viết sử, nhưng không phải là nhà thông thái đễ hiểu hết mọi nơi, thu thập tin tức và tài liệu để viết Sử thì lại bị lệ thuộc tài liệu là bắt buột bị phải như vậy rồi! Thời nhà Chu không có báo chí, điện thoại, toà án, máy bay, tàu hỏa,phim ảnh và Internet v v...như hiện giờ thì dễ sai..., và đã có Sử "giả dối" đến đổi các nhà nghiên cứu Sử thuộc các nước tây phương chuộng tinh thần khoa học đã không tin được là "có" 1 triêù đại "Tây Chu" trong chính Sử! Chuyện Chu tiêu diệt nhà Thương còn mập mờ không rõ ràng..., Triều Chu diễn biến thành thời Xuân-thu và Chiến quốc là thời kỳ "nở rộ" Cuả Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, mà cũng nở rộ luôn những cải biên và thêm thắt vào lịch sử ! Sau khi Tâǹ Thủy Hoàng lập nhà Tần chấm dứt thời chiến quốc thì đã đốt sách chôn nho 1 phần cũng là vì Sợ cái "Nho" của thời đó qúa rồi...,"bạo chúa -Tần Thủy Hoàng" xây nối liền Trường-Thành đễ tách biệt hẵn với du mục Hung-Nô và vẫn bị cho là Du mục và Hung-nô/ Tàu...cũng là một đề tài cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn..., Sau đó mới có khởi nghĩa của Hạng Võ và lưu Bang, Lưu Bang lập nên nhà Hán trước công nguyên 202 năm, và sau đó hơn 50 hay 60 năm sau thì Tư Mã Thiên mới ra đời, rồi thu thập "tài Liệu" cuả cái thời hỗn lọan Xuân-thu của Chu mà viết nên Sử ký! và Sử ký cuả Tư Mã Thiên là thường được dùng đễ dẫn chứng nhiều nhất khi viết về Sử! và thậm chí là dùng làm "chuẩn"..., nhưng mà cho đến nay ...người ta chưa biết rỏ được Tư Mã Thiên Sinh năm nào!...Nghiã là Xin hảy ghi Năm sinh của Tư Mả Thiên là "trước công nguyên khoảng chừng 145 hay là 135 năm" ! Xin thở dài...! Đó là sự thật của lịch sử, Các truyền thuyết Ông "Bàn-cổ", "Phục Hy" và "nữ-Oa", "Ngu Công dời núi", "Vua VỦ trị Thủy", "Lạc Long Quân lấy bà Âu-Cơ" "Vương Tử Cầu Tiên" "Lảo Tử cỡi Trâu Xanh về tây Thiên làm Thái Thượng Lảo quân" v v...nhiều lắm, điều là "sản phẩm" hay là thêm mắm muối cho ngon của thời Xuân Thu-chiến Quốc đời CHu! khi nhà Chu từ phía tây di chuyển về hướng đông vào Trung Nguyên và Xưng ta là "Hoa" là con cháu cuả "Hạ" là đã mở màng cho việc có 2 dòng Sử để nói về 1 quốc gia! 1 là của những người mới đến Trung Nguyên, 2 là của người củ ở Trung nguyên, Nếu triều Thương là Shan商không bị mất bởi Chu thì các quốc gia nhõ thời Đông Chu liệt quốc và Chu đâu có chuyện bôi nhọ "Trụ Vương" 1 cách khôi hài thành chuyện thần tiên và tìm cách diễn giãi lịch sử sao cho người ta thấy mình là chính thống và là "thế thiên hành đạo"? Càng về sau thì càng có nhiều người mới và 2 dòng sử nhập chung làm 1 vì bản thân nó là 1, nhưng đã bị những cải biên, và ngộ nhận, và sai lầm đến đỗi ngày nay trở thành là Nếu muốn biết cổ sử và nguồn gốc tổ tiên thì: -Nếu Quí vị là người Hoa... thì quý vị sẽ không hiểu hết sử Hoa khi không biết tiếng Việt! và nếu qúi vị là người Việt, thì quí vị sẽ không hiểu hết sử Việt khi không biết tiếng đã được gọi tên là tiếng Hoa và chử Hoa!

- Bàn-Cổ 盤古là Bầu hay Bồ, Bùa là "Bàn-Cổ" chỉ là phiên âm của ngôn ngử xưa còn là đa âm. "hổn độn chi sơ, Bàn-cổ thủ xuất" nghĩa là... diễn giãi của con người về thuở ban sơ của vủ trụ khi tạo thiên lập địa là "Thời kỳ ban đầu, bầu trời xuất hiện..." vậy thôi! Câu văn không có nói đến Bàn-cổ là một ông hay một đấng tối cao nào cả!

Thêm một vài thí dụ cụ thể:

- Vua "Phù Sai夫差" là tên "Phái", là con của ông vua tên "Quí", Vì "闔閭Hạp Lư- hay-Khạp Lư- hay Cạp Lũy" là "Quí".

-- Vua có tên Câu-tiễn勾踐 là vua Kiên hay Kiện.

- Tây thi ...là người đẹp ở "Trử-la薴蘿" thôn, hay là "Tử-La" thôn, chỉ là cách nói đa -âm của tiếng Việt ngày xưa, chính là người đẹp ở thôn Tả( "Tả'': Tử-la<-->'Tả' Lư ) (Tử L a)hay là Thôn "trái", chắc chắn là kế bên thôn "trử-la" còn có 1 thôn gọi là thôn bên "hửu' hay thôn bên "phải" cho nên mới có thôn "Trử-La", có 1 nàng Đông Thi đễ so sánh với Tây Thi càng rỏ ràng có thôn Hưủ và Tả, Tây Thi ...tên là Thi Di-quan施夷光 ? không ! giọng đọc Việt cổ và Mân Việt ngày nay thì Di-Quan 夷光 đọc là ia-quang chỉ là chử đánh vần chử "Oanh", nghiã là người đẹp Thi Oanh ở bên thôn "Tả" , thôn "trái" hay là thôn 'Trả-Trử-la薴蘿'-của phát âm xưa" , vậy thôi ! không đọc được cái chử gọi là Hán Tự mà thật ra là chử cổ Việt trước khi dùng A B C thì không hiểu, mà đọc được Hán Tự hay Trung Văn mà không hiểu Việt ngữ theo tiếng Việt thì cũng phải chịu thua vì sẽ không hiểu được ý nghĩa là gì. Qui tắc nầy rất đơn giản, nhưng nếu không chấp nhận sự thật, thì ngay cã những sử gia lửng lẫy cũng vẫn sẽ đi vào bế tắc mà diễn giaĩ sai cổ sử của Bách Việt và "Việt" "Hoa".

SỬ nhà Chu周 không rỏ ràng! Chổ thì nói Chúc Hùng, Vương cuả Sở ( 楚鬻熊 ) là Thầy dạy học cho Châu Văn Vương cuả Nhà Chu, Nơi khác lại nói ngày xưa Lịnh doãn令尹 (Lịnh Doãn: tương tự cách gọi là Tể tướng-thủ tướng) cuả Nước Sở là Tử Văn子文 vào yết kiến nơi triều đình Chu, mà khi đó không ai hiểu tiếng Sở ! Sử nhà chu là Tiêu diệt nước Shan 商cuả Trụ Vương mà lập nên nhà Chu, trong khi ở kề bên bên nước Chu vẫn còn 1 nước Shan khác Bị gọi tên là Sở ! Dù phát âm như thế nào đi nữa thì tất cả mọi người sẽ dư sức hiểu được rằng chử Sở 楚 còn 1 âm đọc chính là Shan. chuyện dây trầu trồng quấn lên cây Tân-Lang ...là nhìn vào chử Sở 楚 là thấy liền! ghép chử sơ疋 với lâm林 là 2 chử mộc木 đại diện cho cây Tân-Lang , nghĩa là Sơ-Tân-Lang là Shan; Vậy mà Cổ sử và truyền thống đả chỉ đọc chử Shan商 nầy mới đọc là Shan! Còn Chử Shan楚 với Sơ-Tân-Lang đúng nghĩa và đúng chử 100% dây TRầu quấn 2 cây nầy thì bị đọc là Sở mà thôi -không đọc "Shan"! ...Cái gì đã được đa số nói, hay đã nói hàng ngàn năm nó ghê gớm và ảnh hưởng vô cùng...,Chu Diệt Shan??? "Trụ???" Vương chết rồi mà cứ có thêm tội hoài đễ người đời sau ngán ngẳm khi nghiên cứu sử!!! ...Bằng thực tế phân tích và suy xét, sẽ thấy rằng Shan vẫn tồn tại, và bị gọi là Sở! còn 1 Shan khác đã bị Chu lấy đất chĩ là 1 phần của Shan, và sợ rằng Shan còn tồn tại sẽ đòi đất, và cũng sợ dân chúng của Shan đã mất sẽ phục quốc cho nên phải phải thêu dệt tội ác cho vua tên "Thụ 受" còn gọi là Đế Tân.帝辛..trở thành 1 ông vua dâm ô ác độc, cứ sợ sệt vì Shan khác vẫn còn đó, và dân chúng của Shan củ thì ...đông qúa Chu không đồng hóa nổi mà còn bị đồng hóa ngược, cho nên phải dùng thủ đọan chính trị tuyên truyền đễ giữ triều Chu vậy..., và kết qủa là ...cứ lâu lâu thêm 1 thời gian ...thì "Trụ" vương lại có thêm 1 hình thức dâm ô ác độc đễ dân gian kể cho nhau nghe chơi... và lâu dần thì đủ đễ thành 1 truyện "phong Thần" rất hấp dẫn trong dân giang ...mà ngày nay chúng ta còn bị Mê hoặc đễ nghe kể chuyện và xem phim "Phong Thần-Trụ Vương say mê Chồn tinh Đắc-Kỹ"!!! Ngày nay chúng ta xem phim hay đọc truyện phong Thần và chuyện Sở bá Vương Hạng VỎ với Ngu Cơ, thì thấy là 2 vị anh hùng đó đều bị diễn giaĩ trở thành ác độc và mê gái!!! trong khi họ là anh hùng Văn Vỏ song toàn của Shan-Văn-Lang từng có chiến công lừng lẩy.

Khi nước Shan商 mất, Thì nước Shan楚 (Sở) vẫn còn, và từng xưng bá Trung nguyên trên cả quyền lực của vua Chu, Sau nầy Tần Thủy Hoàng Diệt luôn Shan楚 (Sở) và thống nhất Trung Nguyên lập nên nhà Tâǹ, sau đó đến đời nhà Hán thì có sứ giã Hán Triều là Đường Mông 唐蒙 đến nước "Dạ Lang夜郎" mà Vua Dạ lang Hỏi sứ Giã rằng "Nước Hán Lớn ? hay Nước Dạ-Lang lớn?" bỡi vì riêng "Dạ-Lang" đã qúa lớn và Văn-Lang qúa lớn. -Haỹ nhìn xem tên đông Đức và Tây Đức, Nam- Bắc Triều tiên, đông và tây Hồi, và Trung Hoa ngày nay 1 nước ở lục địa và 1 nước ở đảo Đài Loan đều cùng có tên Trung-Hoa, Các quốc gia trong Cổ Sử gồm Văn-Lang, lang-Sang, Dạ-Lang, Shan楚, và Shan商 tuy phát âm khác nhau do tùy theo địa phương và lại có địa lý nối liền nhau mà cùng mang 1 tên chung là "Van-Lang-Sang" hay là "Văn-Lang" thì nếu không phải là chung 1 quốc gia thì đâu có chuyện "hi hửu" mang chung tên như vậy xảy ra ? Bằng phân tích kỷ lưởng và hửu lý thì tất cả chi là 1 nước lớn là "Van-Lang-Sang" và đã từ nam mà Bắc tiến, nên đã nhiều lần di dời thủ đô như lịch sử đã ghi lại của Shan商 trong giáp cốt văn, và Có nhiều đời Hùng Vương ở Shan楚 mà sau nầy người ta thêm vào chử Sở trước chử Hùng Vương ( Thường hay nói là 18 đời Hùng Vương, nghĩa là "Tất cả vua Hùng" , người Xưa hay dùng 18 đễ chỉ "Tất Cả" , ví dụ...tinh thông thập bát môn vỏ nghệ , nghĩa là thông hầu hết tât́ cả binh khí của vỏ nghệ, nếu nghĩ 18 là chỉ có 18 vua Hùng là Trật lất với cách nói của người xưa rồi.).

Diến biến Cuả Văn-Lang sau nầy trở thành Bách Việt, nên có nhiều quốc gia lấy tên Việt và chử viết thì giống nhau mà giọng nói đổi qua đổi lại tuy khác nhau nhưng lại cùng 1 gốc, mà khi hiểu được các ngôn ngữ khác nhau đó thì mới biết được là: à ! thì ra là vậy ! ví dụ như *Thiên Đình 天庭 là Then thỉn, thiến thìn, then thén , Thiên Đình...tất cả bây giờ đều mang tên khác nhau là Tiếng Bắc kinh, tiếng Quảng Đông , Tiếng Triều Châu, Tiếng Việt Nam ..., và thường là người ta nghe mà không hiểu nhau, đến khi đọc chậm, nghe kỹ, hoặc có người giãi thích thì mới thấy là :Ồ, giống nhau.

Bài khảo cứu nầy của tôi chỉ viết với dạng đại ý, nêu lên ý chính, nếu viết thêm chi tiết rỏ ràng khi liên quan đến phong tục, nhân chủng, khảo cổ, di tích, thư văn, gia phả v. v... thì trở thành nhiều trang như một quyển sách, chỉ khi có điều kiện đầy đủ thì mới làm như vậy được, cho nên trước mắt là đành viết ngắn gọn theo từng đề mục. Ba bài viết những lớp bụi mờ của lịch sở (1), (2) và (3) của tôi là nhận xét vô tư và can đảm theo một hướng suy nghĩ mới, viết ra đễ góp phần tìm hiểu cho đúng những gì mà lịch sử đã bị phai mờ hay ngộ nhận mà hiện giờ ở thế kỷ 21 nầy người ta sẽ có cơ hội đễ kiểm chứng bằng khoa học phân tích và chứng minh bằng nhiều cách khác... Bài khảo cứu chỉ là đóng góp cho sự thật nên được tìm hiểu, xin đọc giả luôn luôn có cái nhìn bao quát và đa phương diện, luôn luôn xét kỹ những ý kiến thuận nghịch... Xin trân trọng sự thật và mưu tìm hạnh phúc an lành cho tinh thần uống nước nhớ nguồn, tìm hiểu sử xưa đễ truyền cho thế hệ mai sau, tất cả mọi người điều nằm trong diễn biến lịch sử...

_____________________________

*Ghi chú: Phục chế cổ Hán ngữ ở Trung Quốc có kết quả: 天庭 là Then thỉn, thiến thìn, then thén có nguồn gốc từ âm đọc là "Thiên Đình".


 



2
Cognitive Strategies
Sample Essays
Sample #1

 

Talking on their cell phones instead of texting, which is bad.

The War of the Wall
by Toni Cade Bambara

Me and Lou had no time for courtesies. We were late for school. So we just flat out told the painter lady to quit messing with the wall. It was our wall, and she had no right coming into our neighborhood painting on it. Stirring in the paint bucket and not even looking at us, she mumbled something about Mr. Eubanks, the barber, giving her permission. That had nothing to do with it as far as we were concerned.

 





2
Cognitive Strategies
Sample Essays
Sample #1

 

Talking on their cell phones instead of texting, which is bad.

The War of the Wall
by Toni Cade Bambara

Me and Lou had no time for courtesies. We were late for school. So we just flat out told the painter lady to quit messing with the wall. It was our wall, and she had no right coming into our neighborhood painting on it. Stirring in the paint bucket and not even looking at us, she mumbled something about Mr. Eubanks, the barber, giving her permission. That had nothing to do with it as far as we were concerned.

 

div



HÀNH TRÌNH CỦA NHỮNG BÀI HÁT

Trần Minh Hiền

Âm nhạc là niềm đam mê của tôi và âm nhạc là cứu cánh của đời sống. Cũng như thể thao, âm nhạc không biên giới, vô bờ bến và chạm đến tất cả ngõ ngách sâu thẳm nhất của hồn người. Âm nhạc là ngôn ngữ kỳ diệu nhất, dễ hiểu và đại chúng. Điều mà không một sức mạnh, quyền uy nào làm được, chính trị, quân sự, tôn giáo... không làm được nhưng âm nhạc làm được, đó là kết nối những trái tim tâm hồn của loài người với nhau.



pháo

 

 photo explode_zps1srvxrl4.gif

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


HAI CÂU TRẢ LỜI THÂM THÚY NHẤT LỊCH SỬ



1 - Đuổi Mỹ về nước


Vào đầu thập niên 60, trong cuộc họp với các nhà lãnh đạo Châu Âu để thỏa hiệp sống chung hòa bình với các nước cộng sản Đông Âu. Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle muốn lấy lòng cộng sản nên đả đơn phương quyết định rút ra khỏi Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Ông ta nói với Ngoại trưởng Dean Rusk của Tổng Thống Kennedy là:

- "Ông muốn Quân Đội Hoa Kỳ PHẢI RÚT RA KHỎI NƯỚC PHÁP CÀNG SỚM CÀNG TỐT."

Ngoại Trưởng Rusk nhìn thẳng vào mặt Tổng Thống De Gaulle từ tốn hỏi:

- "Thưa Tổng Thống! lệnh này có bao gồm luôn cả các Quân Nhân Hoa Kỳ từng được chôn cất tại đây hay không????

- "(Chúng ta biết lính Mỹ tử trận nhiều nhất là trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandie cùng với quân Canada năm 1944 để Giải Phóng Nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc Xả trong Đệ Nhị Thế Chiến...) TT De Gaulle cứng họng không trả lời.

Tiếp theo là một sự yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe cả hơi thở người đối diện.

2 - TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH


Cụ già Người MỸ 84 tuổi, Robert Whiting tới Paris bằng phi cơ. Tại văn phòng Sở Di Trú phi trường. Vì già cả chậm lụt, nên cụ phải mất thời gian lục tìm sổ thông hành trong xách tay. Thấy cụ cứ lục lọi, nhân viên Sở Di Trú sẳng giọng với cụ:
- "Thưa Ông! Ông đả từng đến nước Pháp bao giờ chưa?

- "Cụ Whiting khai là trước đây cụ đã từng đến nước Pháp rồi. " Vậy ông có biết là ông Cần Phải Sẵn Sàng Để Xuất Trình Sổ Thông Hành không?

Cụ già Hoa Kỳ trả lời:

- "Trước đây khi tôi đến Pháp tôi không cần phải xuất trình Sổ Thông Hành gì hết cả.."

Nhân viên Di Trú nổi nóng:

- "Xin Ông nói chuyện cho đàng hoàng một chút. Chuyện vô lý! Người Mỹ bao giờ củng phải xuất trình Sổ Thông Hành khi tới Pháp.

Cụ Whiting đua mắt nhìn nhân viên Di Trú thật lâu rồi nhẹ nhàng giải thích:

- "Thật vậy sao! trước đây khi tôi đổ bộ lên bãi biển OMAHA nước Pháp trong ngày D day năm 1944 để giải phóng nước Pháp thoát khỏi sự thống trị của Đức Quốc Xã, tôi ĐẢ KHÔNG TÌM THẤY MỘT NGƯỜI PHÁP NÀO Ở ĐÓ ĐỂ MÀ TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH CẢ..."

Yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe làn gió thoảng nhẹ nhàng xuyên qua cửa sổ phi trường.

 

 

Tổ chức một đại lễ của QLVNCH

I - Các Chức vụ và các đơn vị của một đại lễ:

Chủ tọa buổi lễ - Chủ Tọa - là một quan chức chính quyền, hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Xướng ngôn viên - XNV - có thể là một dân sự hoặc một Sĩ quan QLVNCH.

Sĩ quan Chỉ huy buổi lễ - SQCH - là một Sĩ Quan, với một tiểu đội danh dự TĐDD.

Toán Quốc Quân Kỳ - TQQK - gồm có Quốc Kỳ và Quân Kỳ - QQK - và Toán Hầu kỳ - Hầu Kỳ. QQK gồm có Quốc Kỳ VN, Quốc Kỳ Đồng minh, Quân kỳ QLVN - Quốc Kỳ luôn luôn ở vị thế thẳng đứng, Quân Kỳ và các lá cờ khác phải theo lệnh SQCH. Toán Hầu Kỳ gồm có it nhất 2 chiến sĩ quân phục đại lễ với súng trên vai trong suốt buổi lễ.

Ban Quân Nhạc - QNc - Vì hoàn cảnh khó khăn, ta dùng 1 CD Quân Nhạc thay thế ban Quân Nhạc. Nhưng phải có một chuyên viên xử dụng 1 hoặc 2 CD players thành thạo.

II - Các bài Kèn và Nhạc dùng trong đại lễ:

Kèn Nghiêm:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenNghiem.mp3

Kèn Thượng Nghinh:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenThuongNghinh.mp3

Kèn Thượng Kỳ

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenThuongKy.mp3

Kèn Khai Quân Hiệu và Bế Quân Hiệu:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenKhaiBeQuanHieu.mp3

Kèn Truy Điệu:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenTruyDieu.mp3

Nhạc Hồn Tử Sĩ

http://hoiquanphidung.com/nhac/NhacHonTuSi.mp3

Nhạc Quân Hành 1 - Nhạc Quân Hành 2 - Nhạc Quân Hành 3 - Việt Nam Việt Nam

Quốc Ca (có tiếng hát): VNCH

Quốc Thiều (nhạc hòa tấu): Hoa Kỳ - Australia - Canada - Pháp - Hòa Lan

III - Diễn tiến các chi tiết của đại lễ:

Một Đại lễ luôn luôn có nhiều nghi lễ. Mỗi nghi lễ được bắt đầu bằng: XNV tuyên bố lễ nghi, SQCH hô Nghiêm và QNc tấu Kèn Nghiêm...cuối cùng là SQCH hô Thao diễn nghỉ.

Sau đây là thứ tự những nghi lễ trong một đại lễ, và các chi tiết của nghi lễ, đã được đơn giản để dễ thực hiện và phù hợp với hoàn cảnh của dân quân ta, đang sống tạm dung, xa Tổ Quốc VN.

1-Lễ rước Quốc và Quân kỳ

a XNV tuyên bố: Lễ rước Quốc và Quân kỳ VNCH.

b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm

c SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD bắt súng chào - Hầu Kỳ súng lên vai - Cờ thẳng đứng.

d QNc tấu Nhạc Quân Hành

e QQK: di chuyển tới vị trí hành lễ - Khi TQQK tới địa điểm ấn định, QNc ngừng nhạc.

f SQCH hô: đem súng...xuống - TĐDD hạ súng - Hầu Kỳ giữ súng trên vai - Cờ thẳng đứng.

g SQCH hô: thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ luôn luôn ở vị thế nghiêm.

2-Lễ đón vị Chủ tọa

a XNV tuyên bố: (chức vị + tên họ) chủ tọa buổi lễ "...." đến...

b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu: Kèn Nghiêm

c SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD bắt súng chào - Hầu Kỳ súng trên vai - Cờ thẳng đứng.

d QNc tấu Nhạc Quân Hành

e Chủ Tọa đi về hướng Quốc Quân kỳ, trong lúc QNc đang tấu nhạc quân hành.

f Chủ Tọa đứng trước TQQK - Hầu Kỳ: bắt súng chào - Cờ xuống 45 độ.

g Chủ Tọa đưa tay chào Quốc Quân kỳ - QNc tấu Kèn Thượng Nghinh

h QNc dứt kèn: Chủ Tọa hạ tay xuống. QNc tấu Nhạc Quân Hành i SQCH tiến tới, đưa tay mời Chủ Tọa đi duyệt hàng quân. Chủ Tọa đi doc theo TĐDD, SQCH đi theo. k SQCH đưa vị Chủ Tọa tới ghế danh dư nơi khán đài rồi trở về đứng trước TĐDD. l SQCH hô: Đem súng...xuống - TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai - Cờ thẳng đứng. m SQCH hô: Thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ, Hầu Kỳ đứng thế nghiêm. 3a-Lễ Thượng Quốc kỳ VNCH (và Quốc gia Đồng Minh nếu có) a XNV tuyên bố: Lễ Thượng kỳ VNCH (và.....). b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm c SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào - Cờ xuống 45 độ. d XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ bắt đầu: e QNc tấu Kèn Thượng Kỳ - Trong khi kéo các lá cờ từ từ lên hết cột cờ. f XNV tuyên bố: Lễ Thượng Kỳ chấm dứt. g SQCH hô: Đem súng...xuống - TĐDD hạ súng - Hầu Kỳ đem súng về vai - Cờ thẳng đứng. h SQCH hô: Thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ - Hầu Kỳ đứng thế nghiêm. 3b-Lễ Chào Quốc kỳ VNCH, và Quốc gia Đồng Minh a XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ "Đồng Minh" và Quốc kỳ VNCH. b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm c SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào - Cờ xuống 45 độ. d XNV tuyên bố: Quốc thiều, hoặc Quốc ca "tên quốc gia" bắt đầu - Cờ xuống 90 độ. e QNc tấu Quốc thiều, hoặc Quốc Ca Quốc Gia Đồng Minh f XNV tuyên bố: Quốc ca VNCH bắt đầu - QNc tấu Quốc Ca VNCH g XNV tuyên bố: Lễ chào Quốc kỳ chấm dứt. h SQCH hô: Đem súng...xuống - TĐDD hạ súng, Hầu Kỳ đem súng về vai - Cờ thẳng đứng. i XNV tuyên bố: Lễ Mặc Niệm các chiến sĩ và đồng bào.....đã hy sinh ....bắt đầu. k SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm l SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD và Hầu Kỳ bắt súng chào - Cờ xuống 45 độ. m XNV đọc lời tưởng niệm, và tuyên bố: Phút Mặc Niệm bắt đầu - QNc tấu Nhạc Hồn Tử Sĩ n XNV tuyên bố: Phút Mặc Niệm chấm dứt. o SQCH hô: Đem súng...xuống - TĐDD hạ súng - Hầu Kỳ đem súng về vai - Cờ thẳng đứng. p SQCH hô: Thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ - Hầu Kỳ đứng thế nghiêm. 4-Lễ Tiễn Quốc và Quân Kỳ a XNV tuyên bố: Lễ tiễn Quốc và Quân kỳ VNCH. b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm c SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD bắt súng chào - Hầu kỳ vẫn súng trên vai - Cờ thẳng đứng. d QNc tấu Nhạc Quân Hành e TQQK: di chuyển rời vị trí hành lễ - Khi TQQK rời khỏi khuôn viên buổi lễ, QNc ngừng nhạc. f SQCH hô: đem súng...xuống - TĐDD: hạ súng. g SQCH hô: thao diễn...nghỉ. 5-Lễ Truy Điệu các vị Anh Hùng Có thể tổ chức lễ truy điệu này cho một chiến sĩ VNCH. a XNV tuyên bố: Lễ truy điệu các vị anh hùng...cấp bậc, tên họ, đơn vị, và các chiến công... b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm c XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí cử hành lễ Truy Điệu - Chủ Tọa đoàn tiến đến đứng trước bàn thờ. d SQCH hô: Khai Quân Hiệu - QNc tấu Kèn Khai Quân Hiệu e XNV đọc những lời truy điệu, Chủ Tọa và các thượng khách thắp nhang...xong, đứng nghiêm. f SQCH hô: Súng chào...bắt - TĐDD bắt súng chào - QNc tấu Kèn Truy Điệu g SQCH hô: Bế Quân Hiệu - QNc tấu Kèn Bế Quân Hiệu h XNV tuyên bố: Lễ Truy Điệu chấm dứt, mời Chủ Tọa và quan khách an tọa. i SQCH hô: Đem súng...xuống - TĐDD hạ súng xuống. k SQCH hô: Thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ. 6-Lễ Trao Huy Chương cho các chiến sĩ xuất sắc a XNV tuyên bố: Lễ trao Huy chương cho các chiến sĩ...(cấp bậc và tên họ....) b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm c XNV mời các .....tên họ....tiến lên vị trí hành lễ. d XNV mời Chủ Tọa tiến đến vị trí hành lễ - Chủ Tọa tiến đến và đứng trước các chiến sĩ xuất sắc. e SQCH hô: Khai Quân Hiệu: QNc tấu Kèn Khai Quân Hiệu f XNV đọc những lời khen, vị Chủ Tọa gắn huy chương....xong. g SQCH hô: Bế Quân Hiệu - QNc tấu Kèn Bế Quân Hiệu

k XNV tuyên bố: Lễ gắn huy chương chấm dứt.

l SQCH hô: Thao diễn...nghỉ - TĐDD nghỉ.

7-Lễ Diễn Binh

a XNV tuyên bố: Lễ Diễn Binh của các đơn vị....

b SQCH hô: Nghiêm - QNc tấu Kèn Nghiêm

c SQCH hô: Súng lên vai...bắt - QNc tấu Nhạc Quân Hành

d XNV giới thiệu từng đơn vị đi diễn hành ..v..v..v.

************************************************ *****************

Biên soạn:

Nhạc Trưởng Vũ Tắc Toản - www.quoctoan.com

(nguồn: http://www.quoctoan.com)

SVSQKQ

05-09-2013, 10:28 AM

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368095215.png



Kèn Nghiêm:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenNghiem.mp3





Kèn Thượng Nghinh:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenThuongNghinh.mp3





Kèn Thượng Kỳ

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenThuongKy.mp3



Kèn Khai Quân Hiệu và Bế Quân Hiệu:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenKhaiBeQuanHieu.mp3



Kèn Truy Điệu:

http://hoiquanphidung.com/nhac/KenTruyDieu.mp3



 

Nhạc Hồn Tử Sĩ

http://hoiquanphidung.com/nhac/NhacHonTuSi.mp3



 

Những chữ dùng trong quân đội của Quân Lực VNCH
Republic of Vietnam Military Terms:


Ban Quan Y = Medical Unit
Bao Chinh Doan = National Guard
Bao Toan va Tiep Lieu = Maintenance & Supply
Bat Chanh Qui Quan = Irregular Troops
Benh Xa = Dispensery (Medical)
Biet Cach Nhay Du = Airborne Rangers
Biet Doi = "Special Group" - temporary unit for a single mission
Biet Doi Thao Go (BDTG) = Special Team Defuse (explosives)
Biet Dong Quan (BDQ) = Ranger
Biet Hai Quan = Special Navy
Binh Bi = Military
Binh Doan = Regional Army Corps
Binh Nhat = Private First Class
Binh Nhat Phao Binh = Private First Class, Artillery
Binh Nhi = Private
Binh Nhi Bo Binh = Private, Infantry
Binh Si Nhay Du = Parachutist
Binh Chung Truyen Tin = Signal Corps
Bo Binh (BB) = Infantry
Bo Binh Co Van = Motorized Infantry
Bo Chi Huy (BCH) = Command Post / Fleet Command (Navy)
Bo Tu Lenh (BTL) = Headquarters
Bo Tu Lenh Ham Doi = Naval Fleet Headquarters
Buu Chinh = Postal Service
Buu Cuc = Post Office
Buu Dien = Registered Mail
Buu Phi = Postage
Buu Ta = Postman
Buu Tin = Mail
Buu Tin Vien = Mail Clerk
Buu Uy = Military Mailman or Courier, Usually Without the Authority of Buu Tin Vien (q.v.)
Can Cu (Cn) or (CC) = Base
Can Cu Hai Quan (CCHQ) = Naval Base
Canh Sat Quoc Gia = National Police or "White Mice"
Cao Xa = Anti-Aircraft Unit
Cap Tuong Khong Quan = General Grade Officer, Air Force
Cap Tuong Hai Quan = General Grade Officer, Navy
Cap Tuong Phong Khong = General Grade Officer, Air Defense
Chi Doi = Armored Squadron
Chi Huy Truong (CHT) = From the Commanding Officer
Chien Doan (CD) = Brigade or Task Force
Chien Si = Warrior
Chien Tranh Chanh Tri (CTCT) = Political Warfare Unit
Chien Tranh Tam Ly (CTTL) = Psychological Warfare Department
Chien Truong = Battlefield
Chieu Hoi Program = Open Arms Program, Sought to Encourage Communist Defectors
Chuan Tuong = Aspirant / Brigadier General
Chuan Uy (C/U,CH/U or CH/UY) = Warrant Officer (top of NCO rank / Aspirant) / Cadet - Air Force
Chuan Uy Quan Phap = Warrant Officer, Military Justice
Chuyen Nghiep (CN) = Specialist
Chuyen Phong = Border Defense
Chuyen Vien Pha Huy = Demolition Specialist
Chuyen Vien Tiep Te = Supply Specialist
Cong Binh (CB) = Engineers
Cong Chuc Quoc Phong = Civilian Working for Military Unit
Da Chin = Field as in Da Chien So 2 - 2d Field Division
Dai Bac = Cannon
Dai Doi (DD) = Company
Dai Doi Biet Hai (DDBH) = Special Navy Company
Dai Ta = Colonel / Senior Grade Officer
Dai Ta Bo Binh = Colonel, Infantry
Dai Tuong = Senior General (equivalent to US General)
Dai Uy = Captain
Dai Uy Thiet Giap = Captain, Armour
Dai Ta = Colonel ("Senior Grade Superior Officer")
Dai Uy = Captain ("Senior Grade Junior Officer")
Dia Phuong Quan (DPQ or DP) = Regional Forces
Dien Thoai Vien = Telephone Operator
Dinh Vu So (DVS) = Job Number
Doan = Squadron or Group, General Term for a Front, Division, Brigade, etc.
Doan Vu Ky (DVK) = Weapons Group
Don Trai = Camp
Don Vi = Unit
Du Bi = Preparatory / Temporary
Duyen Doan(DD15) = Coastal Division
Duyen Phong = Coastal Defense
Giang Canh (GC) = River Police
Giang Doan = River Group
Giang Doan Ngan Chan (GDNC) = River Interdiction Group
Giang Doan Thuy Bo (GDTB) = Amphibious River Group
Giang Doan Thuan Tham (GDTT) = River Patrol Group
Giang Doan Ho Tong = River Escort Group
Giang Doan Truc Loi = River Mine Group
Giang Doan Xuan Phong = River Assault Group
Ha Si = Corporal
Ha Si Quan (HSQ) = Non-Commissioned Officer (NCO)
Ha Si Quan Y = Corporal, Medical Unit
Hai Doi = Navy Group / Flotilla
Hai Luc = Sea Force
Hai Phao Ha Si Quan Chuyen Nghiep (HP HSQ/CN) = NCO War Ship Cannon Specialist
Hai Quan (HQ) = Navy
Hanh Quan (HQ) = In the Field / Operation
Hanh Quan Vuot Bien = Operation Outside Vietnam; Likely Cambodia or Laos
Hau Cu = Main Base / "In Vietnam" (For Out-of-Country Operations)
Hau Phuong = Rear Area
Hau Ve Quan = Rear Guard
Ho Tong Ham = Patrol Craft
Hoa Hoc = Chemical Branch
Hoa Van Ham (HVH) = Oil Transport Ship
Hoc Vien = NCO or Enlisted Man Attending Advanced Specialized Training
Hoc Vien Ha Si Quan Bo Binh Co Gioi = NCO Trainee, Armourer
Hoc Vien Hai Phao = Trainee War Ship Cannon Group
Ho Tong = Escort (Naval)
Ho Tong Ham (HTH) = Patrol Craft / Escort
Huan Luyen (HL) = Training
Huan Luyen Can Ban = Basic Training
Huan Luyen Cao Cap = Advanced Training
Huan Luyen Chien Thuat = Tactical Training
Huan Luyen Ky Thuat = Technical Training
Huan Luyen Vien = Instructor or Drill Master
Huong Dao Vien = Scout
Khinh Binh = Rifleman
Khoa = Class (e.g. Khoa 3/73 = 3d class 1973)
Khoa Sinh Ha Si Quan (KSHSQ) = NCO Trainee
Khong Doan = Tactical Wing
Khong Phan = Air Space
Khong Quan (KQ) = Air Force
Khong Quan Cua Hai Quan = Naval Aviation
Khong Soan = Wing (Air Force)
Khong Tap = Air Strike
Khong Tham = Air Reconnaisance
Khu Buu Chinh (KBC) = Military Postal Zone or Area
Khu Truc Ham (KTH) = Destroyer (Navy)
Kiem Tin = Censored
Ky Binh = Cavalry
Ky Su = Engineer
Lien Doan (LD) = Group
Lien Doi Nguoi Nhai (LDNN) = Frogman Group
Lien Lo Quan = Army Group
Linh Canh Tu = Prison Guard
Linh Chua Lua = Fireman
Linh Nhay Du = Paratrooper (Airborne)
Linh Phong Ve Duyen Hai = Coast Guard
Linh Thiet Giap = Tankman
Lo Quan = Army
Lu Doan = Brigade
Luc Quan = Ground Forces
Luc Luong Dac Biet (LLDB or LDB)= Special Forces
Luc Luong Dac Nhiem (LLDN or DNLL) = Special Mission Task Force
LLDN Duyen Phong 213 = Special Mission Task Force Coast Guard 213
LLDN Thuy Bo 211 = Special Mission Task Force Sea & Land 211
LLDN Tuan Tham 212 = Special Mission Task Force Patrol 212
LLDN Trung Uong (or Dong) 214 = Special Mission Task Force Central 214
LLDN Tuan Tham 212 = Special Mission Patrol Task Force 212
Luc Luong Duyen Phong (LLDP) = Coastal Defense Task Force
Luc Luong Giang Canh (LLGC) = River Police Force
Luc Luong Gioi Tuyen = Border Force (Special Forces)
Luc Luong Tinh Bao Dac Biet (LLTDB or DNLL) = Special Forces Intelligence
Luc Luong Tuan Tham 212 (LLTT) = Task Force 212
Luc Luong Thuy Bo (LLTB) = Special Naval Infantry (Amphibious) Task Force
Luc Quan = Army
Mat Ma Vien = Cryptologist
Mat Tran = Front
Mu Do = Red Beret (Vietnamese Airborne)
Ngan Chan = Interdiction
Nghia Quan (NQ) = Popular Forces
Nguoi Coi Vo Tuyen Dien = Radio Operator
Nguoi Di Quan Dich = Draftee
Nguoi Chua Vo Tuyen Dien = Radio Repairman
Nguoi Giai Phau = Surgeon Nguoi Lam Bep = Cook
Nguoi Lanh Dao = Leader
Nguoi Mac Day Dien Thoai = Telephone Line Repairman
Nguoi Nhai = Frogman
Nha = Corps
Nha Binh = Military
Nha Quan Cu = Ordnance Corps
Nha Quan Nhu = Quartermaster Corps
Nha Quan Y = Medical Corps
Nha Thuong = Hospital
Nhay Du (ND) = Airborne / Paratrooper
Nui = Mountain
Oanh Tac Co = Bombardier
Pha Huy = Demolition
Phan Chi Khu (PCK) = District Police (Rural)
Phan Doi = Section (Company or sometimes Regiment)
Phao Binh (PB) = Artillery
Phao Binh Co Van = Motorized Artillery
Phao Binh Da Chien = Field Artillery
Phao Binh Duyen Hai = Coastal Artillery
Phao Binh Hang Nang = Heavy Artillery
Phao Binh Hang Nhe = Light Artillery
Phao Binh Hang Trung = Medium Artillery
Phao Binh Luu Dong = Mobile Artillery
Phao Binh Phong Khong = Anti- Aircraft Artillery
Phao Binh Su Doan = Divisional Artillery
Phao Binh Thiet Giap = Armored Artillery
Phao Dai = Bunker
Phao Doi Chi Huy = Artillery Battery Headquarters
Phao Doi Truong = Battery Commander
Phao Ham = Gun Boat
Phao Luy = Fort
Phao Thu = Cannoneer/ Artillery Man
Phao Thuyen = Gun Boat
Phi Co = Plane
Phi Co Huan Luye
n = Training Plane
Phi Co Khu Truc = Fighter Plane
Phi Co Len Thang = Helicopter
Phi Co Oanh Tac = Bomber
Phi Co Phan Luc = Jet Plane
Phi Co Tai Thuong = Air Ambulance
Phi Co Tuc Thang = Helicopter
Phi Co Van Tai = Transport Plane
Phi Cong = Pilot
Phi Doan = Flying Squadron
Phi Doi (PD) = Squadron
Phi Hanh = Flight
Phi Hanh Gia = Pilot
Phi Tac = Air Mission
Phi Truong = Airport
Phong Khong = Air Defense
Phong Thu = Defense
Phong Thu Hai Cang (PTHC) = Harbor Defense
Phong Ve Duyen Hai = Coast Guard
Quan Buu = Military Mail
Quan Buu Chinh = Military Mail Postage or Frank
Quan Buu Cuc = Military Post Office - Where "Quan Buu" Cancels Were Applied
Quan Cang = Military Port
Quan Canh (QC) = Military Police / Prison Guard
Quan Cu = Ordnance
Quan Dich = Military Service / Draft
Quan Dinh = Military Camp (no longer used – see Trai Linh)
Quan Doan = Strategic Army Corps
Quan Doi = Army Troops
Quan Doi Cach Mang = Revolutionary Army
Quan Doi Chanh Quy = Regular Army
Quan Hai = First Lieutenant (no longer used)*
Quan Ham = Warship
Quan Khu = Military Zone
Quan Linh = Soldiers, Troops
Quan Luc = Armed Forces
Quan Luc Viet Nam Cong Hoa = Army of the Republic of Vietnam
Quan Mot = Second Lieutenant (no longer used)*
Quan Nam = Colonel (no longer used)*
Quan Nhan = Soldier (Military Man)
Quan Nhu = Quartermaster Corps / Military Supplies Corps
Quan Sat Vien = Observer
Quan Si = Soldiers, Warriors
Quan Su = Military
Quan Thu (accent on "u") = Enemy
Quan Thu (QT) ("u" has “hook”) = Military Mail / Correspondence
Quan Tinh Nguyen = Volunteer
Quan Truong = Military School
Quan Tu = Major (no longer used)*
Quan Vu = Military Service
Quan Y / Binh Chung Quan Y / Cuc Quan Y= Medical Corps
Quan Y Vien = Military Hospital / Medical Corpsman
Ra Da = Radar Unit
Radar Dia Sat = Ground Radar
Rung = Forest
Rung Nui Sin Lay (RNSL) = Ranger Training Course at Duc My
Sat Cong = Kill VC (Motto of various units)
Si Quan = Commissioned Officer
Si Quan Coi Vo Tuyen Dien = Radio Officer
Si Quan Hai Quan = Naval Officer
Si Quan Hanh Quan = Operations Officer
Si Quan Phu Ta Xu Ly = Executive Officer
Si Quan Phu Trach = Officer in Charge
Si Quan Quan Buu = Postal Officer
Si Quan Quan Thue = Customs / Revenue Officer
Si Quan Quan Tri Va Nhan Vien = Human Resource Officer
Si Quan Tai Chanh = Finance Officer
Si Quan Thong Tin Cong Cong = Public Relations Officer
Si Quan Tiep Te = Supply Officer
Si Quan Tinh Bao = Intelligence Officer
Si Quan Tuyen Binh = Recruiting Officer
Si Tot = Soldiers
Sinh Vien Si Quan (SVSQ) = Officer Trainee Cadet
Sinh Vien Si Quan Bo Binh = Officer Trainee, Infantry
Sinh Vien Si Quan Tru Bi Thu Duc = Trainee Cadet at Thu Duc Reserved Infantry School
Sinh Vien Si Quan Vo Bi / Da Lat = Officer Cadet at National Military Academy in Dalat
So Quan (SQ) = Military Service Number
Su Doan (SD) = Division
Su Doan 2 Khong Quan (SD2KQ) = 2nd Air Division
Su Doan Khinh Chien (SDKC) = Light Division (e.g.12th Light Division)
Sung Phong Phao = Artillery
Tai Xe = Driver
Tem Thu (T handstamp) = Postage Due
Ten Lua = SAM Unit
Tham Bao = Recon Unit
Tham Kich = Recon Force
Tham Sat = Recon
Thien Xa = Sharpshooter
Thiet Giap = Calvary, Armor
Thieu Doi Truong = Squad Leader
Thieu Khu (TK) = Small Unit
Thieu Ta = Major ("Junior Grade Superior Officer")
Thieu Ta Ky Thuat = Major, Technical Sector
Thieu Tuong = Major ("Junior") General
Thieu Tuong Cong Binh = Major General, Engineers
Thieu Uy (TH/U) = Second Lieutenant
Tho May = Mechanic
Thong Tin Vien = Messenger
Thong Tuong = General
Thu = Letter
Thu Bin = Military Letter
Thu Ky (Quan Nhan) = Clerk
Thu Hanh Quan = “In the Field”
Thu Linh Hanh Quan = “Soldier's Letter in the Field”
Thuong Si = WOJG-1 or First Sergeant
Thuong Si Hoa Hoc = Master Sergeant, Chemical Branch
Thuong Si Nhat = Sergeant Major
Thuong Uy Bo Binh Co Gioi = Second Lieutenant, Armour
Thuong Uy Dac Cong = Captain, Sappers
Thuy Bo = Amphibious
Thuy Cong = Underwater Demolition Team
Thuy Quan = Navy
Thuy Quan Luc Chien (TQLC) = Marines Thuy Thu = Sailor
Thuy Xuong (Hai Quan) = Repair Facility (Naval) Tieu Doan (TD) = Battalion
Tieu Doan Chuyen Nghiep (TDCN) = Specialist Battalion
Tieu Doan Chien Thuat = Battalion Combat Team
Tieu Doan Kinh Quan (TDKQ) = Commando Battalion, short lived during French Period
Tien Doan Yem Tro Triep = Supply and Support (Naval Base)
Tieu Doi = Squad
Tieu Doi Truong = Squad Leader
Tieu Khu (TK) = Sector
Toan = Group or Team
Toan Quan Chien Dau = Combat Group
Tong Bo An Ninh = Central Committee Security - Military/Political Correctness Censor
Tong Y Vien (TYV) = Military Hospital
Trai Giam = Concentration Camp / Disciplinary Barracks
Trai Huan Luyen = Training Camp
Trai Linh = Military Camp
Trai Tap Trung = Concentration Camp
Trai Tu Binh = Prisoner of War Camp
Trang Giap Ham = Armoured Ship
Trinh Sat = Reconnaissance
Truc Loi = Mine
Truc Loi Dinh (TLD) = Motor Launch Mine Sweeper
Trung Doan = Regiment
Trung Doan Chien Thuat = Regimental Combat Team
Trung Doi (TRD) = Platoon
Trung Doi Truong = Platoon Leader
Trung Si (T/S) or TSI) = Sergeant
Trung Si Cong Binh = Sergeant, Engineers
Trung Si Nhat = Master Sergeant / Sergeant First Class
Trung Ta = Lieutenant Colonel
Trung Ta Phao Binh = Lieutenant Colonel, Artillery
Trung Tam = Center (i.e. Training Center)
Trung Tam Cai Huan = "Center to Teach Change" - Chieu Hoi Program Camp Marking
Trung Tam Huan Luyen Hai Quan (TTHL / HQ) = Naval Forces Training Center
Trung Tuong = Lieutenant General ("Intermediate General")
Trung Tuong Hau Can = Lieutenant General, Logistical/Supply Units (?)
Trung Uy = First Lieutenant ("Intermediate Grade Junior Officer")
Truong Bay = Airfield
Truong Ha Si Quan = NCO Academy
Truong Khong Quan = Flight School
Truong Ky Thuat = Tech Center
Truong Quan Bao = Military Intelligence School
Truong Quan Cu = Ordnance School
Truong Quan Nhu = Quartermaster School
Truong Quan Y = Army Medical School
Truong Sinh Ngu Qhan Doi = Armed Forces Language School
Truong Sinh Vien Si Quan = Officer Candidates School
Truong Thieu Sinh Quan = Junior Military School / "Children's Army School"
Truong Vo Bi Quoc Gia Viet Nam (TVB/QG/VN) = Vietnam National Military Acadamy
Tuan Tham = Patrol
Tuan Tieu Chien Dau = Combat Patrol
Tu Binh = Prisoner
Tu Lenh = Commander
Tu Tran = Killed in Action
Tuan Duong Ham (TDH) = Ocean Patrol Ship
Tuan Tham (TT) = Patrol
Van Chuyen = Transportation
Vi Chi Huy = Commander
Vien Tham = Long-Range Reconnaisance Patrol (LRRP)
Vo Tuyen = Radio Man
Vung = Zone
Vung (1-5) Duyen Hai = Coastal Zone (1-5)
Vung (3 or 4) Song Ngoi = 3rd/4th Riverine Zone
VBQG = National Military Acadamy
Xa Thu = Gunner
Xa Thu Lien Thanh = Machine Gunner
Xung Kich = Strike Force
Xung Phong = Assault
Republic of Viet-Nam Armed Forces Mottos, Slogans and Mascots:

ARVN Infantry:

Bac Long = White Dragon (3rd Battalion, 11th Infantry Regiment)
Hac Bao = Black Panther (1st Division)
Hac Long = Black dragon (11th Infantry Regiment Recon Company)
Hai Su = Sea Master (4th Battalion, 1st Infantry Regiment)
Kim Long = Yellow Dragon (2nd Battalion, 11th Infantry Regiment)
Manh Ho = Ferocious Tiger (1st Battalion, 3rd Infantry Regiment)
O Den = Black Black Eagle (1st Battalion, 1st Infantry Regiment)
Quyet Thang = Resolved to Win (12th Infantry Regiment)
Thanh Sa = Sacred Snake (3rd Infantry Division)
Xich Long = Red Dragon (2nd and 4th Battalion, 11th Infantry Regiment)

Marines:

Cam-Tu = Suicide (6th Battalion Slogan)
Danh-Du To Quoc = Honor & Country (TQLC motto, like "Semper Fi" in US Marine Corps)
Hac Long = Black Dragon (5th Battalion Mascot) photo
Hum Xam = Killer Tiger (7th Battalion Mascot)
Huu-Hien & Chian Thang = Efficiency & Victory (Transportation Battalion Motto)
Kinh Ngu = Killer Sharks (4th Battalion Mascot)
Loi-Hoa = Lightning Fire (1st Artillery Battalion Motto)
Manh-Ho = Strong Tiger (9th Battalion Mascot)
No-Than = Sacred Bo (3rd Artillery Battalion Motto)
O-Bien = Sea Hawk (8th Battalion Mascot)
Quan Dieu = Monster Bird (1st Battalion Mascot)
Soi Bien = Sea Wolf (3rd Battalion Mascot)
Than-Tien = Sacred Arrow (2nd Artillery Battalion Motto)
Than-Ung = Sacred Bird (6th Battalion Mascot)
Trau Dien = Crazy Buffalo (2nd Battalion Mascot)
Truyen Song = Tidal Wave (Signal Battalion)

Navy:

Hai Kich = Frogman Motto
Than Tien = Sacred Arrow (LSIL HQ331)
Thang Khong Kieu, Bai Khong Nan = "Not Arrogant When Winning, Not Discouraged When Losing" (River Mine Sweeper Group 93)
Vuot Song Ngan Thu = Across Waves to Stop Enemies (HQ613)

Special Forces:

Danh Du-Dung Cam = Honor and Gallantry (77th Special Forces Battalion)
Danh Du To Quoc = Honor Nation (Technical Directorate)
Loi Ho = Lightning Tiger (Recon Team Loi Ho)
Loi Vu = Lightning Force (81st Battalion)
Queyet Tu = Ready to Die (unknown unit)
Tham Tu = Suicide (Exploitation Force)
Than Ho = Sacred Tiger (81st Group Strike Company)
Xich Quy = Phantom (81st Group Intelligence Unit)

http://firebasenam.myfastforum.org/archive/various-arvn-images__o_t__t_104.html

ARVN news footage circa 1975

All these videos appear to be shot by British television newsmen in 1975 during the last days of South Vietnam. Lots of good film for reference.

Mac

http://www.youtube.com/watch?v=O656sHKWrEo&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=Lu79syEmLds&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=3AiyFF9qOls&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=CWG2XyKPwZM&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=7UdGZ-5VcZQ&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=ZW_YWs_VBe0&feature=channel_page

http://www.youtube.com/watch?v=Yk-WBJCbiW0&feature=channel_page

Various ARVN Images

http://firebasenam.myfastforum.org/archive/various-arvn-images__o_t__t_104.html

ARVN Officer & NCO Ranks Chart

RVN Military Academy Cadets

ARVN Ranks

http://firebasenam.myfastforum.org/archive/rvn-military-terms__o_t__t_873.html