Chu/Sở 楚 LÀ VIỆT 越... và là Văn-Lang
Phải! Sử Ký Tư Mã Thiên ghi rõ Sở và Việt đồng tông đồng tộc, ngày xưa là ngôn ngữ giống nhau, sau nầy thì còn giống nhau 1/2 (phân nửa), ngày nay tiếng Quan-Thoại đã chiếm lĩnh vùng đất Sở, nhưng vẫn còn nhiều từ ngữ cổ Việt được dùng, và đối chiếu với tiếng Việt bên Ngô-Việt và Mân-Việt là giống nhau, và dĩ nhiên có từ ngữ cũng giống như tiếng Việt-Nam.
Cổ sử Trung Hoa dùng chữ “người Kinh” để nói đến dân tộc Sở và một số dân tộc phía nam sông Hoàng Hà.
Văn Hóa Sở có thời xưng mình là Shan 商 -Thương, Ân Thương 殷商 Âu-Nhân 甌 人 (Âu-Nhân chỉ là phiên âm, Âu-Nhân 甌 人= Ân, tức là Ân Thương) rồi xưng là Sở 楚.
Sở là một quốc gia rộng lớn, văn hóa và ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ và văn minh Sở tiến bộ rất sớm, đã tồn tại và ảnh hưởng bao trùm nhiều nơi, "Sử Ký" chép rằng Vua Sở Chúc Hùng 楚鬻熊 là Thầy dạy học cho Châu Văn Vương Nhà CHU.
- Sở còn có nhiều tên gọi của Đất Sở, Nước Sở, Người Sở, do cách phiên âm khác nhau của chữ "Sở" thành ra nhiều chữ sở. Phiên âm là một hình thức dùng chữ đã có rồi để diễn đạt chữ chưa có của tiếng nói, ví dụ cụ thể là cho đến ngày nay thì rất nhiều tiếng Việt vùng Quảng-Đông và 20% tiếng Mân-Việt / Triều-châu còn chưa có chữ viết.
Sở còn gọi là Kinh, Kinh Sơ, Cửu Khuẩn, Kinh Man, và một số tên khác cũng trong phạm vi SỞ.
- Còn gọi là Si-Vưu, là Triều-Ca, Thương Ngô, Cứ Âu.
- Còn gọi là Phù Dung Quốc, Dương Việt.
- Còn gọi là Cộng Nhân, Quỉ Phương, Cổ Muội.
- Còn gọi là Việt-Khu.
- Phạm vi của Sở gồm phần đất ngày nay thuộc:
Các tỉnh 湖南Hồ Nam、湖北Hồ Bắc、重庆Trùng Khánh、河南Hà Nam、安徽 An Huy、江苏Giang Tô、江西 Giang Tây v. v... và các bộ tộc "Cửu-Lê 九黎".
***Giải mã Bí mật cổ sử Sở bằng tiếng Việt ***
- Sở 楚: Chữ xưa là tượng hình, chữ Sở gồm hai cây (Chữ Lâm 林 phía trên gồm hai chữ mộc 木) và phía dưới là dây leo quấn hai chân cây 疋 = Sơ (chữ Sơ 疋 bộ tẩu) phát âm theo Tiếng Quan Thoại (Mandarin) là Chsùa, tiếng Mân-Việt là chsó, tiếng Việt-Quảng-Châu, Phiên Ngung là chsỏ; đúng ra thì phải đọc phát âm là "Sở " theo chiếc tự của Sơ-Lâm, nhưng lại có một cách đọc phát âm là: "Trầu", và dấu tích của âm đọc là Trầu còn lưu lại quá nhiều...
Chữ Si-vưu chính là phiên âm của chữ Trầu: Si-Vưu = 蚩尤, bởi vì Si-Vưu vô nghĩa, Si-Vưu chỉ là phiên âm, và đánh vần phiên âm là ra chữ Trầu mới là "có nghĩa" và "đúng nghĩa" với chữ tượng hình đã thể hiện, nếu như phiên âm đánh vần là "Sưu" hoặc "Sừu" thì lại vô nghĩa, nhưng dân vùng Phiên Ngung ở Quảng Châu ngày nay vẫn đọc 蚩尤 là Chsia-Dầu, Chsia-ầu-Chsầu, tức là thật ra là "Trầu"
(Đọc theo tiếng Việt chuẩn là giọng nói của Miền Bắc thì TR phát âm như là CH, "Trầu" là "Chầu") và đã có một âm Sơ-Lâm là Sở thì mới đúng Chữ 楚 đã vẽ hình dây Trầu quấn trên cây, bởi vì xét về thực vật: dây trầu quấn cây cau là đúng nhất cho chữ Sở, và khi cổ sử nói về Si-Vưu / Chsia-Dầu là luôn nói về Si-Vưu ở vùng đất Sở.
CHƯA CÓ AI PHÂN TÍCH THEO KIỂU NẦY, VÌ:
Theo tài liệu sử thì Sở là Việt, cho nên tôi thử dùng các "phương ngôn: "Việt" để giải mã những điều khó hiểu, và đây là một lối suy luận hữu lý, chứ không có tài liệu sử sách để dẫn chứng, đúng hay sai? Thời gian và sự tiến bộ trong việc tập trung tài liệu của nhiều người nghiên cứu sẽ kiểm chứng lập luận của tôi và sẽ có câu trả lời...
- Vậy Si-Vưu theo cổ Việt - Nhã ngữ là Chsén-Dầu, đó là phiên âm Chs-ầu.
=> chsầu=Trầu; Si-Vưu = 蚩尤 = Trầu.
Tương tợ Chsầu, chsỏ, chsó, chsùa, tsù... viết là: 楚
... Sở là Việt, mà lại dính líu với chữ "Trầu"?
Đúng vậy! Người Việt Nam và người Đài Loan ngày nay vẫn còn rất nhiều người ăn Trầu, và là một đặc điểm hiếm hoi của nhân loại.
(Ngoài ra: Người Mèo 苗 tôn Si-Vưu là thần "Thái tổ", và gọi là "txiv -yawg"... đọc nhanh cũng đúng là một dạng của âm chữ TRẦU...
Đây là một đặc tính Bách Việt mà ngày nay người ta còn chưa hiểu hết. Nghĩa là ngày xưa Sở hay Việt -Trầu đã thống lãnh hàng trăm bộ tộc "Bách–Việt.").
- Theo Khảo cứu của tôi thì Si-Vưu.
Ở nước Sở và chính là Sở, vì bản thân chữ Si-Vưu đã là "Trầu" là "Sở" như phân tích... Nhưng có quá nhiều thuyết, nhiều đến mức kinh-hoàng cho những người khảo cứu đầy đủ, có thuyết tôn Si-Vưu và Viêm Đế là một, có thuyết: Si-Vưu và Viêm Đế là hai đế khác nhau, có thuyết Si-Vưu là Quan dưới quyền Viêm Đế v. v...
- Xin trích một đoạn chữ Cổ-Việt / Hoa nói về Si-Vưu có liên quan đến Cửu Lê: 蚩尤為首的九黎族 = Si vưu vi thủ đích Cửu Lê tộc, có quá nhiều truyền thuyết nói về Si-Vưu, có thuyết nói Si-Vưu ở tây, có thuyết nói ở đông, có thuyết nói ở nam với người Mèo / Hmong, có thuyết nói ở Bắc như người Korea có quyển sách 《Hằng Đàn Cổ ký - 桓檀古記》 -(환단고기)nói rằng Si-Vưu là Vua ở Bán Đảo Triều Tiên; nhưng, chú ý: Si-Vưu được tôn làm "Chiến Thần" nên nhiều người tranh dành... cũng phải!
Và quý vị thích nghiên cứu sử cần chú ý điều nầy: phiên-âm chữ "Cửu- lê" sẽ ra chữ "kỳ", phiên âm chữ "Giao-Chỉ" hay "cao-chỳ" sẽ ra chữ "kỳ", và đặc biệt là Cửu-Lê lại rất giống... gần như 100 phần trăm với "Cao-Lệ -高麗 - Korea", và cũng có tài liệu Korea liên quan đến Bách Việt, ngày nay các bạn trẻ người Việt khi học tiếng Hàn Quốc - Korea sẽ không lạ gì các chữ "Han kok" là Hàn Quốc, "huynhdai" là Hiện Đại, "yu Hạc senh" là Du học sinh, tên gọi "Kim Yang" là Kim - Anh, "Dong kun" là Đông Quân v. v...
- Vì theo những khảo cứu vừa được nêu trên thì chữ viết trong sử "Si-Vưu": chẳng qua chỉ là phiên âm chữ "Trầu", mà người ta đã lầm, không dùng tiếng Việt, phủ nhận gốc Việt, không biết hay không đọc là Trầu mà lại đi đọc là Si-Vưu cho nên vô nghĩa, và từ cái vô nghĩa, cái không hiểu nghĩa đã sinh ra ngộ nhận và cho là "Hán Tự - chữ Tàu", rồi thêu dệt truyền thuyết.
Truyền thuyết đã thêu dệt "Ông" Si-Vưu là lãnh tụ rất thiện chiến, khi ra trận biết phun lửa, chặt đầu nầy lại có đầu khác, rõ ràng đó là sự diễn tả Si-Vưu là một tập thể thiện chiến, giỏi trận pháp, dương đông kích tây, du kíck chiến, mai phục v v... và biết dùng hỏa công chứ không phải là một người! Chẳng qua vì sự ngộ nhận của các đời sau phủ nhận gốc Việt hay không hiểu tiếng Việt mà người ta dựng ra một nhân vật như thần tiên vậy!
Ở Trung-Quốc từ xưa và cho đến nay vìngười ta đã tôn thờ "ông" Si-Vưu là "chiến-thần", nên trước khi ra trận đánh giặc là làm lễ cúng bái "Chiến thần" là ông Si-Vưu.
Thật ra..."Chiến Thần" đó phải là nước Trầu và lại là lãnh đạo, là "Vua" của các bộ tộc Cửu - Lê 九黎 – Cửu lê lại vô nghĩa!!!
Theo truyền thuyết thì liên quan đến Cửu lê có đến hàng 100 bộ tộc, thuyết nói 9 bộ tộc là căn cứ theo chữ "Cửu 九", thuyết chánh yếu mà nhiều người tin và trích dẫn nói là có đến 81 bộ tộc- 81 lại là cách dùng 9 x 9 ... 81 hay hàng 100 bộ tộc thì không thể là "Cửu - 九".
"Cửu -Lê 九黎" chỉ là phiên âm để chỉ hàng trăm bộ tộc ở phía nam có tên gọi là "Kỳ", Sở trong Hoa sử có đất KINH, mà lại có "Trầu" lãnh đạo 九黎 Cửu-Lê là Kỳ.
Sử Việt thì gọi đất Việt là Đất Kinh và Đất Kỳ!
Nghiên cứu mới cho thấy rõ đường thiên di của nhân loại là từ Đông Nam Á tiến lên phía bắc v. v.... nếu đánh vần theo giọng Việt Quảng Đông, thì Cửu-Lê là "Cao-chìa" sẽ ra chữ "kỳ"... còn đọc theo "Cửu-Lê" sẽ ra âm "kê" hay "kề", đọc Cửu-Li sẽ ra âm "KY" hay "KỲ", tiếng phổ thông cũng đọc "li" chứ không đọc "lê", về sau thì xuất hiện chữ "Giao Chỉ " mà nếu đánh vần phiên âm cũng là "kỳ", dân thành phố Phiên Ngung ngày nay ở tỉnh Quảng Đông vẫn đọc Giao Chỉ là "Cao-Chĩa/ cao chìa", đối chiếu lại thì thấy rõ ràng "Cửu Lê " và "Giao Chỉ" chỉ là một tên có phát âm là "kỳ", và GIAO-CHỈ hay CỬU-LÊ là vô nghĩa, cho đến thế kỷ 21 mà khi tra cứu tự điển Bách Khoa và cổ thư v. v... thì thấy giải thích sở dĩ gọi là "Giao Chỉ" vì dân vùng đó có hai ngón cái của hai bàn chân chìa ra, khi đứng thì giao nhau, nên gọi là Giao Chỉ?
Và lại có cách giải thích khác là dân vùng đó... khi ngủ thì hai chân để chéo chữ thập, hai chân giao nhau nên gọi là giao chỉ.
Cách giải thích như viết truyện thần thoại hay làm phim "khoa học giả tưởng" như vậy mà đã tồn tại trong lịch sử mấy ngàn năm... thì rõ ràng là những người có tâm huyết ở thế kỷ 21 nầy nên phải bỏ công ra để viết lại lịch sử là một điều bắt buộc phải nên làm.
Âm Quảng Đông của "Cửu-Lê" lại có một phát âm là "Cẩu-lỳ", có lẽ chính vì âm "Cẩu" không tốt khi ĐỌC và NGHE, cho nên mới được người ta tránh mà sau nầy không còn dùng "Cửu-Lê" nữa, chỉ còn có âm Cao-Chỳ, Giao-Chỉ xuất hiện mà thôi, những tên xưa thường hay được dính líu và kéo dài để dùng đến tận ngày nay. Vùng Lạng-Sơn có sông Kỳ-Cùng và Phố Kỳ-Lừa là một thí dụ thú vị.
Chữ viết ngày xưa khác nhau từng vùng vì giao thông đâu có thuận tiện và tính thống nhất đâu có mạnh như bây giờ, cho nên sau nầy Tần Thủy Hoàng mới ra lịnh thống nhất chữ viết:
- Hàng 100 bộ tộc Cửu-Lê/ Kỳ có lãnh đạo là Si-Vưu / Trầu nhập lại... tính ra hẳn là bờ cõi phải mêng mông lắm và cổ thư còn ghi lại gọi là "Liệt-San thị": Thật ra "Liệt-San" đó chính là phiên âm chữ "Lang-sang" tức là Lang.
"Lang" là khi ngôn ngữ đó đã được đơn âm hóa, và "Lang-sang" hay "Van", "Lang-Sang" hay người Hoa viết sử gọi vắng tắt là Shan 商 "có nghĩa là "Vạn Tượng" chính là nước "VĂN-LANG"...
Quý vị nào hiểu nghĩa tiếng Thái, Lào, Choang ngày nay sẽ hiểu nghĩa nầy, "Van" là "Vạn" của một vạn, "Lang" là "lang-sang" là "Liệt -San" hay Shan 商, hay "Văn Lang".
Văn-Lang của người Việt cũng chỉ là một quốc gia duy nhất mà người ta đã viết và đọc theo nhiều cách, quý vị chú ý chữ Shan 商 dịch theo từ Hán-Việt là "Thương" hoàn toàn trùng hợp với tiếng Việt là "Tượng" tức là "Voi", "Tượng" ngày xưa đọc là "Tương" là lẽ thường tình!
Bởi vì Việt ngữ cổ đâu có A B C và dấu nặng!
Vùng "Sở", "Trầu" "Văn-lang" phải là rất rộng như truyền thuyết - Nước Văn-Lang bắc giáp Động-Đình Hồ, Đông Giáp biển và Nam giáp nước Hồ-Tôn, Hồ-Tôn là giọng Mân-Việt - Ô-sinh > Ying, giọng Quảng-Đông là Wùa hay Huà-siń > wiǹg, âm Wìng, hay Ying̃ / yin đều là chữ Vin / Vân của Vân-Nam là tỉnh Vân Nam bây giờ; còn âm của chữ viết là Liệt-San, yue-Lang, Văn Lang đều phát âm giống nhau, nghĩa là nước "VanLangshan" của người Việt.
"Văn-Lang" quá rộng vì các bộ tộc quá nhiều và có "đánh nhau" cũng là chuyện thường, điều đó càng làm cho Bách Việt Sử rối mù bởi "Tinh thần địa phương", truyền thuyết Phù-Đổng thiên vương chống giặc "Ân Thương" nếu xét cho kỹ lưỡng biết đâu là chuyện nội bộ?
Truyện Trụ-Vương mê Đắc-Kỷ, sa đọa và phung phí ở cung đình nên phải thu thuế tô địa nhiều, bắt lao công v. v... nên nhiều dân địa phương phải chống lại và tự lập lãnh địa "quốc" riêng là đúng thôi.
Ai chứng minh được Trụ Vương là Du Mục hay là Hung-Nô?
Chữ viết lưu lại là Trụ Vương tên Đế Tân, chữ Trụ chẳng qua là Chữ "Trư" là "Con heo" của tiếng Việt, "Đắc-Kỷ", "Na-tra", "Khương Tử-Nha", "Cơ Phát", "Cơ Xương" đều là tiếng Việt, một số những tên tiếng Việt đa-âm còn sót lại trong câu truyện tự nó sẽ làm rõ nguồn gốc Việt!
Những ai hiểu Hoa văn 100 phần trăm ngày nay có thể nào giải thích cho tôi nghe "Trụ" Vương và "Đắc-Kỷ" nghĩa là gì?
Nỗi oán hận của người dân thời đó theo tiếng Việt đã chửi "Đế Tân" là "Heo" vì dâm dục mê gái cho nên gọi là vua Heo - "Trư", "Đắc-Kỷ" là dấu tích tiếng Việt đa-âm, đa-âm "Đắc-Kỷ" là "Đĩ ", khi biến thành đơn âm, chỉ có tiếng Việt và người Việt mới hiểu nổi chứ còn ai vào đây được?
Theo tôi thì khi "Trụ" Vương tỏ tình với "Đắc-Kỷ" thì nói là "Anh yêu em" chứ không phải là giọng "Wò ái nìa" của Hung-Nô!
Ngày nay chúng ta vẫn còn dùng chữ đa âm nhiều, quá nhiều, ví dụ như: lang-thang, lôi-thôi, thẩn-thờ, lác-đác, ngoe-ngoẩy, kẽo-kẹt, lệch-lạc, lung-tung, liếng-thoắng, bạc-bẽo, tiu-nghỉu, mênh-mông, lung-linh, dịu-dàng v. v... nhiều kinh khủng lắm –
Xin quý vị đọc bài khảo cứu trước của tôi - là tiếng Việt sinh ra Hoa ngữ và Hoa ngữ chỉ là những bộ tộc khác học được một phần của tiếng Việt mà thôi! Và cũng chính vì vậy mà Hoa ngữ không thể phiên dịch được hết Việt ngữ, còn Việt ngữ có thể phiên dịch được hết Hoa ngữ một cách dễ dàng, có những sách và những người lập luận rằng Từ ngữ Hán-Việt được du nhập từ Trung Hoa sang Việt Nam vào thời nhà Đường.
Xin chân thành cảm ơn những sách và những người đó.
Lập luận đó tự thân nó đã khẳng định là từ xưa cho đến đời nhà Đường là bên Trung Hoa vẫn còn dùng tiếng Việt. Có một bài "Việt Nhân Ca" cổ đại đã hơn hai ngàn mấy trăm năm và nổi tiếng toàn thế giới, tiếng Hoa, tiếng Anh và tiếng Pháp v. v... đều đã "phiên dịch" bài nầy một cách... sai bét!
Tiếng Việt phiên dịch lại từ bản "Hoa - văn" nên cũng sai luôn!
Vì người ta không hiểu tiếng Việt... và người "Hoa" đã dùng bài nầy để chứng minh cổ sử của Trung quốc là "Hoa" chứ không phải Việt!
Với lập luận vì là "hoa" nên không hiểu được tiếng Việt của "Việt Nhân Ca", và chuyện bài hát "Việt Nhân ca" nầy xảy ra ở nước Sở, xin quý đọc giả đón đọc những bài khảo cứu sau thì tôi sẽ trình bài rõ ràng chung quanh bài "Việt Nhân Ca" ở nước Sở ngày xưa chính là một bằng chứng Sở là Việt.
Điều nầy là rất quang trọng: Có thể nói rằng đây là tâm điểm của sự nhập nhằng Việt và Hoa, bởi vì ông Lưu Bang và ông Hạng Võ đều là người Sở, và Lưu Bang đã lập nên nhà Hán, có thể nói rằng: - Chứng minh được Sở là Hoa thì nghĩa là Hoa đồng hóa Việt!
Và chứng minh được rằng Sở là Việt thì nghĩa là Việt đồng Hóa Hung-Nô thành Việt mà đổi tên là Hoa. Bài nầy đã chứng minh rõ ràng Sở là Việt để làm mất đi lớp bụi mờ của lịch sử.
Tuy nhiên, để cho rõ ràng và chi tiết thêm thì tôi sẽ viết thêm bài "Tự điển thuyết văn của Hứa Thận thời nhà "Hán" và "Việt nhân Ca".
Xin trở lại chủ đề:
- Đánh vần cổ ngữ "Liệt-San" > tức là Li(ệt)- (S)an =>Lan = Lang.
- Viêm Đế / Si-Vưu / Trầu / Kỳ / Văn Lang là thị tộc Việt "Hùng", chữ viết trong sử là "Hữu hùng Thị": đọc là "Dồ Hùng'', đó là một âm của Diệt Hùng, tức là Việt Hùng (xin xem bài khảo cứu Bách Việt Sử khác sắp đưa ra online) và Con cháu các đời vua sau luôn xưng là Hùng Vương như Hùng Tảo 熊蚤, Hùng LỆ 熊麗, HÙNG CUỒNG 熊狂, HÙNG Dịch 熊繹, HÙNG NGẢI 熊艾, HÙNG ĐẢN 熊䵣, HÙNG THẮNG 熊勝, Hùng Dương 熊楊, Hùng cừ 熊渠, Hùng Chí 熊摯, Hùng Diên 熊延, Hùng Dũng 熊勇, Hùng Nghiêm 熊嚴, Hùng Tương 熊霜, Hùng Tuân 熊徇, Hùng Ngạc 熊咢, Hùng Nghi 熊儀, Hùng Khảm 熊坎, Hùng Thông 熊通, Hùng Chất 熊貲, Hùng Giang 熊艱, Hùng Uẩn 熊惲, Hùng Thương -Thần 熊商臣, Hùng Lữ 熊侶, Hùng Thẩm 熊審, Hùng Chiêu 熊招, Hùng Viên 熊員 Hùng Vi, v. v...
Theo Truyền Thuyết: Hoàng Đế 黄帝
Có một người con là Xương Ý 昌意...- Xương Ý 昌意 là một trong 25 người con của Hoàng đế 黄帝, Xương-Ý cưới vợ là người của Thục Sơn thị 蜀山氏 tên là Xương Bộc 昌僕 có được một người con là Đoan - Hạn 颛顼. Hậu duệ của Đoan Hạn sinh ra Cổn 鯀, Cổn Sinh Ra Vũ 禹 (... Con của Vũ Là Khải lập ra triều Hạ).
- Đế Đoan-Hạn 颛顼 là Con của Xương-Ý.
- Ngô Hồi 吳回 là Cháu đời thứ 5 của đế Đoan Hạn 颛顼.
- Lục-Tung 陸終, hay Lộc-Tục do cách đọc khác nhau, là con của Ngô Hồi 吳回.
- Quý Liên 季連, về sau gọi là Chúc Hùng là con của của "Lộc Tung" hay Lộc Tục: có 6 người con, con út là Quý-Liên.
- Chúc Hùng là Cha của Hùng Tảo, Hùng Tảo là Cha của Hùng Lệ, Hùng Lệ là cha của Hùng Cuồng.
- Sở Hùng Dịch 楚熊繹 là con của Hùng Cuồng, là cháu chít của Quý Liên/Chúc Hùng và là Thầy của Châu Văn Vương của nhà Chu... và Sau đây là phần tên Vua được đưa vào Sách Sử... viết bằng cổ văn.
***Bảng tên hiệu Sở: Hùng Vương / Tên Họ / năm lên ngôi / năm thoái vị...
bằng Cổ Việt Văn: gồm tên các vua...
***
***
Sở Bá Vương 楚霸王_Hạng Võ 項羽 là con cháu đích tôn của Hùng Triều họ Mi 米 (Mi hay Mị, Mì, Mễ) vì tổ tiên được phong đất cho ở Đất Hạn, cho nên lập Tổ dòng họ Hạn; (cũng như Khuất Nguyên vậy, thời phong kiến thì dòng họ vua thường hay được phong cho đất để lập ấp, lập quốc nhỏ làm chúa nơi địa phương nhỏ và thường hay đổi họ theo đất mình được làm chúa nơi đó).
... Sở Bá vương Hạng Võ và Lưu Bang lãnh đạo dân Quân Sở - Việt lật đổ nhà Tần...
***Khảo cứu một số phong tục vùng Sở - (Trầu / Kỳ / Liệt San-yue Lang -Văn Lang- Việt Lang mà ngày xưa goị là "Sở") và ngay nay quý vị có thể tìm hiểu và tham khảo dễ dàng trên các web của các bloger hay trên trang web của tỉnh Hồ Nam hay Hồ Bắc của Tân Hoa Xã:
- Khách đến nhà khi đã mời ngồi rồi thì kỵ lau bàn hay quét nhà, vì như vậy là có ý đuổi khách.
- Khi mời khách ăn trứng gà thì không được đãi ăn số trứng lẽ 1 hay 3, nhưng kỵ nhất là đãi khách ăn hai trứng, vì "ăn hai" giống như tiếng chửi... "ăn hại" của tiếng Sở.
- Trước khi ăn, không được dùng đũa gõ chén, vì chỉ có ăn mày mới gõ chén ăn xin.
- Sau khi ăn, không được gác đũa lên chén, vì gác đũa lên chén là cúng cơm cho vong linh.
- Đầu của phái nam, và vùng eo của phái nữ là chỉ được nhìn, không được rờ, nếu bị tùy ý đụng chạm thì coi như là một điều bị sỉ nhục.
- Phải phơi quần áo phụ nữ nơi kín đáo, không được cầm sào phơi quần áo phụ nữ băng qua đường; đồ lót của phụ nữ khi phơi phải tìm ở chỗ người ta không nhìn thấy; khi phụ nữ có thai thì không được tham gia tiệc đám cưới; phụ nữ đang có kinh kỳ thì không được vào chùa, miếu; phụ nữ không được tham gia việc xây bếp hay dựng kèo cột trong xây cất.
- Kỵ những từ ngữ hung hiểm, ví dụ: không nói "Chết́" mà nói "Đi" rồi, hay "không còn nữa", quan tài thì nói "thọ tài", "thọ mộc"; ngày tết không được nói "thấy bà"," thấy quỷ", "đồ... quỷ sứ"... nói chung là kỵ từ ngữ hung hiểm hay xui xẻo.
- Cha mẹ qua đời thì con trai không cắt tóc trong thời gian 7 thất (tuần) để tỏ lòng hiếu thảo khi để tang.
- Kêu chuột bằng "ông", chuột rất khôn lanh, nên sợ chuột cắn phá quần áo v. v... nên tỏ ra tôn kính mà gọi là "ông" Tí.
- Con một của gia đình thì thường gọi là "Chó con", "Bé", "Nữ", "Nố", "Náo"... Vì sợ ma quỉ xâm hại, sợ khó nuôi.
Ngày nay thì Văn Hóa Sở đã biến thành đã biến thành văn hóa của tiếng Phổ thông / Quan Thoại, nhưng những nghiên cứu về từ ngữ cổ của lịch Sử còn sót lại mà người ta còn dùng và được biết ở các vùng thuộc đất Sở lại làm cho tôi giật mình:
- Dù đã bị tiếng phổ thông - quan-thoại thay đổi, nhưng nhiều vùng "Sở" ngày nay vẫn gọi con của mình là phái nam bằng "trai " như tiếng Việt, đó là vùng: Nam Xương 南昌/ đọc là "ʦai" như "Chai " Hay "Trai" 、đó là các vùng Đô Xương 都昌、An Nghĩa 安義、Tu Thủy 修水、Bình Giang 平江, Dương Tân 陽新, Tuyên Phong 宜豐、Tân DU 新喻 、v v...
Họ vẫn gọi con trai là "TSai".
và....
- Hai chân giang rộng ra gọi là: "Mở" và viết là chữ 摸 /Mạc - nhưng đọc là "mở".
- Con ngỗng gọi là Ngan, ngo.
- Lớn, gọi là "Đại", viết là 軚 / đọc là Đại.
- Cái rổ làm bằng bằng tre: gọi là Rổ, viết là 蘿 / đọc là Rổ; có nơi nay đọc lô hay lo, loa, lóa...
- "Hiểu", vùng Kiến-Ninh 建寧 ngày nay vẫn đọc "Hiểu'' 曉 như tiếng Việt.
- "Phan", vất đồ vật gọi là Phan, viết là 拌 / đọc là "Phan".
- Bất kể, bất cần mạng sống gọi là "Bán mạng", những vùng còn nói là "bán mạng" là:
(phát âm có khác nhau một chút giữa các vùng): Nam xương 南昌 / pʰɔn miaŋ、An Nghĩa 安義 / pʰɔn miaŋ、Cao An 高安 / pʰɛn miaŋ、Tân Du 新喻 / pʰɔn miaŋ、Bình Hương 萍鄉 / pʰɔ̃ miã、Lễ Lăng 醴陵 / pʰõŋ miaŋ、Kiến Ninh 建寧 / pʰɔn miaŋ、Thiệu Vũ 邵武 / pʰon miaŋ。
- Lá cây Trúc gọi là Lá, viết là 箬 / đọc là "lá".
- Thấy, viết là 睇 đọc là "Thấy".
- Vùng nước sâu gọi là "thầm" hay "Than", nghĩa là "Đầm" so với tiếng Việt.
Tất cả những phần khảo cứu tiếng nói và phong tục Sở nêu trên là vào trang nhà trên Internet của tỉnh Hồ Bắc thuộc Tân Hoa Xã là sẽ đọc thấy (trong hiện tại).
Từ những chứng cứ nêu trên, có thể thấy ngày xưa vùng Sở vừa đúng là "Trầu", vừa đúng là Nước Việt / Văn Lang rộng lớn với hàng trăm bộ tộc "kỳ - Cửu Lê" nói tiếng Việt. Nếu vậy thì nên đọc địa danh và tên người của cổ sử theo tiếng Việt...
- Khảo cứu một số tên Sở theo hướng "Việt-Ngữ" thì thấy là, ví dụ:
1/ CAN TƯƠNG: phiên âm Can-Tương > "Cương" hay "Cường" / vì chẳng có ai tên là Can -Tương, nếu Can-Tương đúng là tên một người thì trước đây đã có người dùng, sau nầy phải có người dùng, và bây giờ cũng phải có người dùng; suy ra, Can-Tương là "Cường".
2/ MẠC TÀ: ... chưa thấy có ai trong sử sách có tên là "Mà", "Tà" hay "Mạ" "tà", phiên âm nầy chỉ theo Mân Việt ngữ mới có nghĩa, đọc là "Bạc-ghé'' > "Bé", còn một cách đọc khác là "mo-ghé" ra âm "Moẽ"- (Moẽ là bé gái), ở đâu có người Triều-Châu và tiếng Mân-Việt thì có người gọi con gái là "Moẽ", ở đâu có người Việt là ở đó có người gọi con gái là "Bé"
*** Ghi chú: Tiếng Mân-Việt là Phước Kiến và Triều-Châu giữ được rất nhiều tiếng Việt Cổ Ngữ, khi phục chế ngôn ngữ Sở hay đối chiếu để rõ nghĩa thì các học giả bên Trung Quốc hay so sánh với Mân Ngữ mà tìm đáp số.
Ngày nay chúng ta đọc là Mạc-tà, nhưng theo phân tích kỹ lưỡng của tôi thì "bạc-chsé"> tức là "Bé" là tên đúng nhất của người vợ của Can-tương > Cường.
3/CỬU KHUẨN: ... Vần phiên âm "Cửu -khuân" > là "Quân" nầy độc đáo, dù đọc theo giọng Quảng Đông / Triều Châu / Phước Kiến hay Việt Nam đều có kết quả là "Quân", đất "Quân" (Đất Quân hay Quan, Âm thanh gần nhau là tên mộtvùng đất nơi... được gọi là: Sở, Vậy… không thể nào là "cửu-khuẩn" vì nó hoàn toàn vô nghĩa...
4/ TRIỀU CA: kinh đô của triều Thương / Trụ Vương là Triều Ca, phiên âm giọng Việt Quảng Đông là Chsiều -Co >Chso / chsò, chính là vùng đất "Trầu" hay "Sở", vậy không có "Triều - Ca " chỉ có "Trà" là phiên âm của Triều Ca và phát âm rất giống âm "Trầu", chỉ có chso, chsò, Trầu, Sở...
Bởi vậy cho nên không có ai tìm ra được kinh đô "Triều Ca" của Trụ Vương ở đâu.
Ngày nay người ta cho rằng Triều-Ca ở huyện Kỳ của tỉnh Hà Nam... và đó cũng là lý do tôi tin rằng Trụ Vương / nhà Thương là người Việt vì kinh đô Mang tên "Triều- ca" thì chính là Sở, và vua nhà Thương họ Chữ, là con cháu đế Nghiêu,và có chứng cứ tài liệu là họ biết nuôi voi thì càng đúng là "VanLangshan" tức là Văn-Lang, thần thánh "phong phú như truyện "phong Thần" là sản phẩm của văn minh nông nghiệp lúa nước đã định cư thì mới có được truyện như vậy v. v...
Và người Việt Nam không xa lạ với họ Chữ... qua truyện "Chữ Đồng Tử";
Triều-Ca là 楚 sở.
5/ THƯƠNG NGÔ: đọc theo phiên âm Quảng Đông là "CHSén-ngùa" > CHsùa = 楚 sở.
6/ CỨ ÂU: đọc theo phiên âm Quảng Đông "Chsìa-Ngâu" > Chsầu = 楚 sở.
7/CỘNG NHÂN: Cộng -nhân> Cân; Cong-nan> Can, Cúng -dành> Cánh; Can, cân, cánh, đều là giọng Việt, mân, Quảng Đông để gọi đất "cống" (đất "Quang") là Vùng Sở.
8/ QUỈ PHƯƠNG: Quỉ - Hoang > Quang là giọng Mân Việt, Đất "Quang " là một tên khác của Đất sở có thể giọng "Quang" là Chính Thức vì rất phù hợp với tiếng Việt; và cũng chính là "Quang" là chủ ngữ đã sinh ra quá nhiều tên gọi theo sau: Cân / Can / Cánh, Cung, Cúng và trở thành Cống ngày nay.
9/ CỔ MUỘI: giọng phổ thông Cuà-Mi >ky hay "Kỳ".
10/ 昌意 Xương-Ý: giọng Việt Phiên-Ngung còn đọc là Chsen-ià > tức là phiên âm của Chsià 其, "Chsià" hay "Khỳ" hay "Kỳ"? "khỳ" hay "Kỳ" là tùy giọng nói của từng địa phương.
11/ 陸終 Lộc tục hay Lộc tung đều có phiên âm là > Lùn (tiếng Quảng Đông "Lùn" là Rồng), Long.
Xuyên qua những khảo cứu và đối chiếu phía trên đã đủ cho ta thấy "Bí Mật" sẽ được dần dần sáng tỏ.
|
Sách "Thuyết Văn" thời Hán là đọc theo Việt Ngữ lại là một minh chứng thêm.
Sở Là Việt, là Văn Lang, người Việt làm sao quên được Văn-Lang?
|
Vì có những ngộ nhận hay gian trá đánh tráo và hàng hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên bề dầy lịch sử Bách Việt... cho nên bài khảo cứu nầy được suy xét rất thận trọng để làm sáng tỏ...
Sở là Việt là Văn-Lang trải dài từ phương nam lên Động Đình Hồ với nhiều đời vua với phong hiệu là Hùng Vương.
Nhạn Nam Phi / Thanh Đỗ
* Ghi chú:
Can-Tương và Mạc - Tà là tên cây kiếm và cũng là tên của cặp vợ chồng nổi danh đúc kiếm.
__________________________
- Bài nầy có tham khảo một số web sites dưới đây:
• 楚國
• 贛語的歷史
• 贛語中的古百越語詞一覽
• 贛語中的古吳語詞一覽
Nguồn
Lời Giới Thiệu: Vì muốn tìm về cội nguồn của mình, và vì sự phát âm lơ lớ giống giống nhau của tiếng Việt và tiếng Hoa (Tàu) đã thúc đẩy tác giả Đỗ Thành đi nghiên cứu rất sâu rộng về ngôn ngữ để viết những bài này. Là người Việt gốc Triều Châu, nên may mắn biết và hiểu rành rọt hai thứ tiếng Việt và Hoa (Tàu) với những phát âm khác nhau của các tỉnh bên Tàu, đã tương đối giúp cho tác giả tìm lại được sự thật về nguồn gốc của mình.
Do đó, những bài này có tính chất khoa học khảo cổ nên khá xác thực, để cống hiến cho mỗi người sự tự do nhận định đúng hay sai về nguồn gốc của mình. Vì vậy xin bạn đừng có vội kết luận vớ vẩn là tác giả bênh Tàu cộng hay theo Việt cộng, nếu chưa thấu hiểu tận tường về vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ và văn hóa Việt-Hoa.
Nguyễn Sơn Hà
I
Hình 1 Chữ "Sở"
Chữ "Sở" hình bên trái, ban đầu viết bằng chữ nòng nọc của Việt tộc thời cổ, sau theo thời gian được cải đổi thêm thắt nhưng vẫn nhận ra gốc, chữ "Sở" hình bên phải.
Hình 2 - Chữ "Việt Vương" khắc trên thanh gươm /kiếm của Vua Việt Câu Tiễn
Kiểu chữ 'điểu trùng văn' chữ khoa đẩu của Vua Việt Câu Tiễn thời cổ.
II
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
III
Chữ Việt Cổ Ở Nam Dương Tử.
ĐỌC VÀ SUY GẪM KẾT LUẬN CỦA MỘT BÀI BÁO Ở ĐÀI LOAN
Nghiên cứu gene gần đây xác nhận rằng - Phúc Kiến, Quảng Đông, Khách Gia nhân (Hẹ) đều là hậu duệ của tộc Bách Việt. Trước tiên họ bị người Hán dùng vũ lực chinh phục, sau bị Hán hóa, rồi bị bắt phải nhận kẻ thù làm Tổ Tiên và tự nhận mình là người Hán khi người tộc Bắch Việt bị thua trận với người Hán. Họ chính là người Bách Việt mất nước, mất gốc trên chính quê hương của họ, bị dị tộc thực dân Hán thống trị hai ngàn năm mà không tự biết, ngay cả cho dù sự khác biệt về thể chất, vóc dáng và diện mạo nhìn thấy rõ ràng.
Người Hán đối với người phương Nam thực hiện chính sách Hán dân hóa (Hán nô hóa) trong lịch sử tội ác diệt chủng là một mô hình thành công nhất.
http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/chu-de/23954-ch%E1%BB%AF-vi%E1%BB%87t-c%E1%BB%95-%E1%BB%9F-nam-d%C6%B0%C6%A1ng-t%E1%BB%AD/
(基因研究已確認,福建、廣東、客家人都是百越民族的後代。他們先被漢人武力征服,然後漢化,再認敵人為祖,自認漢人。也就是百越人亡國又亡族,被異族殖 民統治兩千年而不自知,即使體質、面貌的差異清楚可見…但漢人對中國南方人的〝漢民化〞(漢奴化)則是史上滅族最成功的典範)。
福建人、廣東人、客家人都是漢化的百越族 基 因研究已確認,福建、廣東、客家人都是百越民族的後代。他們先被漢人武力征服,然後漢化,再認敵人為祖,自認漢人。也就是百越人亡國又亡族,被異族殖民統 治兩千年而不自知,即使體質、面貌的差異清楚可見(華北人仍有82%漢代漢人血統,且胡漢本同源)。日本人對台灣人的皇民化因時間不夠長而失敗了,但漢人 對中國南方人的〝漢民化〞(漢奴化)則是史上滅族最成功的典範。
myweb.ncku.edu.tw
(Genetic research has confirmed that Fujian, Guangdong and Hakka families are descendants of the hundred ethnic minorities.) They were first conquered by the Han, then the Chinese, and then the enemy as the ancestors, the Han nationality. That is, the hundred more people perish and the Dead clan, was alien colonial rule 2000 years without self-knowledge, even if the physique, the appearance of the difference is clearly visible...
But Han's "Han" (Han enslavement) to the south of China is the most successful model of genocide in history.
Fujian people, Guangdong people, Hakka families are Chinese hundred ethnic minorities Genetic research has confirmed that Fujian, Guangdong and Hakkas are descendants of the hundred ethnic minorities. They were first conquered by the Han, then the Chinese, and then the enemy as the ancestors, the Han nationality. That is, hundred people perish and the Dead clan, by the alien colonial rule 2000 years without self-knowledge, even if the physique, the appearance of the difference is clearly visible (North China still has 82% Han Chinese descent, and Huhan Ben homology).
The Japanese to the Taiwanese people because the time is not long enough to fail, but Han Chinese to the south of China's "Han" (Han enslavement) is the history of genocide the most successful model.
Bản đồ nước sở
Bảng so sánh tài liệu âm thượng cổ Hán Ngữ của các chữ có thể là từ cổ Việt Hán
Chữ Hán |
Karlgren |
Vương Lực |
Baxter |
Cổ Việt Hán |
Hán Việt (Đường âm) |
pinyin |
Quảng Đông |
Mân Nam |
房 |
b’ɑŋ | baŋ | baŋ | buồng | phòng | fang2 | fong2 | pong5,pang5 |
縛 |
b’ɑg | bak | baks | buộc | phọc | fu4 | bok3 | pak8 |
符 |
b’i ̯u | bio | bjo | bùa | phù | fu2 | fu4 | pu2 |
凡 |
b’i ̯wa ̆m | biam | bjom | buồm | phàm | fan2 | faan4 | hoan7 |
晚 |
mi ̯wa ̆n | miuan | mjonʔ | muộn | vãn | wan3 | ||
放 |
pi ̯waŋ | piaŋ | pjaŋʔ | buông | phóng | fang4 | ||
飛 |
pi ̯wər | piəi | pjəj | bay | phi | fei1 | fei1 | hui1, pe1 |
為 |
gwia | ɣiuai | wjaj | bởi, vì | vị | wei2/4 |
| wai4 |
販 |
pi ̯wa ̆n | pian | pjans | buôn | phán | fan4 | faan3 | hoan5 |
伯 |
pa ̆k | peak | prak | bác | bá | ba4,bo2 | baa3,baak3 | peh4, pek4 |
剝 |
pu ̆k | peok | prok | bóc,róc | bác | bo1 | ||
斧 |
pi ̯wo | pia | pjaʔ | búa | phủ | fu3 | fu2 | pu2 |
瓢 |
b’i ̯og | biô | bjew | bầu | biều | piao4 | piu4 | phio5 |
橋 |
g’i ̯og | giô | grjaw | cầu | kiều | qiao2 | kiu4 | kiau5,kio5 |
間 |
ka ̆n | kean | kren | căn | gian | jian4 | gaan1 | kan1, kan2 |
角 |
ku ̆k | keok | krok | góc | giác | jue2 | gok3 | kak4 |
覺 |
kʊ̆g | keuk | kruks | cốc | giác | jue2 | gok3 | kak4 |
減 |
kam | keam | kromʔ | kém | giảm | jian3 | gaam2 | kiam2 |
江 |
ku ̆ŋ | keoŋ | kroŋ | sông | giang | jiang1 | gong1 | kang1 |
扛 |
ku ̆ŋ | keoŋ | kroŋ | gồng,cõng | giang | kang2,gang1 | gong1,kong1 | kng1 |
解 |
ke ̆g | ke | kreʔ | cởi | giải | jie3 | gaai3 | kai2 |
價 |
ka ̆d | keat | krets | cả | giá | jia4 | gaa3 | ka3 |
嫁 |
kɔ | kea | kras | gả | giá | jia4 | ||
膠 |
g’o ̆g | ɣeô | grew | keo | giao | jiao1 | gaau1 | ka1 |
郊 |
ko ̆g | keô | krew | kẻ, cổ | giao | jiao1 | gaau1 | kau1 |
古 |
ko | ka | kaʔ | cũ | cổ | |||
諫 |
kan | kean | krans | can | gián | jian4 | ||
旱 |
g’ɑn | ɣan | ganʔ | cạn/khan | hạn | han4 | ||
夾 |
ka ̆p | keap | krep | kép | giáp | jia1, ga2 | ||
騎 |
g’ia | giai | grjaj | cưỡi | kị | ji4 | ||
鋸 |
ki ̯o | kia | kjas | cưa , cứa | cứ | jiu4 | ||
除 |
d’i ̯o | dia | lrja | chừa | trừ | chu2 | ||
餘 |
di ̯o | ʎia | lja | thừa | dư | yu2 | ||
血 |
xiwet | xyuet | hwit | tiết | huyết | xue4 | ||
悉 |
si ̯e ̆t | siet | sjit | dứt | tất | xi1 | ||
桶 |
t’uŋ | thoŋ | hloŋʔ | thùng | dũng | tong3 | ||
巾 |
ki ̯æn | keən | krjən | khăn | cân | jin1 | gan1 | kin1 |
劫 |
ki ̯ap | kiap | kjap | cướp | kiếp | jie2 | gip3 | kiap4 |
割 |
kat | kat | kat | cắt,gọt | cát | ge | got3 | kat4 |
謹 |
ki ̯ən | kiən | kjənʔ | gìn? | cẩn | jin3 | gan2 | kin2 |
卦 |
kwe ̆g | koe | kʷres | quẻ | quái | gua4 | gwaa3 | koa3 |
近 |
g’i ̯ən | giən | gjənʔ | gần | cận | jin4 | gan6 | kin7 |
國 |
kwək | kuək | kʷək | quấc, quắc | quốc | guo2 | gwok3 | kok |
巫 |
mi ̯wo | mia | mja | mo | vu | wu | mou4 | bu5 |
務 |
mi ̯ug | miok | mjoks | mùa | vụ | wu4 | mou6 | bu7 |
舞 |
mi ̯wo | mia | mjaʔ | múa | vũ | wu3 | ||
雨 |
gi ̯wo | ɣiua | wjaʔ | mưa | vũ | yu3 | ||
霧 |
mi ̯ug | miok | mjoks | mù,móc, mồng |
vụ | wu4 | mou6 | bu7 |
雨 | gi ̯wo | ɣiua | wjaʔ | mưa | vũ | yu3 | ||
未 | mi ̯wəd | miət | mjəts | mùi | vị | wei4 | mei6 | boe7 |
味 | mi ̯wəd | miət | mjəts | mùi | vị | wei4 | mei6 | boe7 |
幔 |
mwɑn | muan | mons | mùng/màn | mạn | man2 | maan6 | ? |
墓 |
mɑg | mak | maks | mả | mộ | mu4 | mou6 | bong7 |
梅 |
məg | mə | mə | mơ | mai | mei2 | mui4 | boe5,m5,moai5,mui5 |
磨 |
mɑ | mai | maj | mài | ma | mo2 | ||
舵 |
d’ɑ | dai | lajʔ | lái | đà | duo4, tuo2 | ||
個 |
kɑ | kai | kajs | cái | cá | ge4 | ||
網 |
mi ̯waŋ | miaŋ | mjaŋʔ | mạng | võng | wang3 | mong5 | bong2, bang7 |
吻 |
mi ̯e ̆n | mien | mjinʔ | miệng | vẫn | wen3 | man5 | bun1,bun2 |
萌 |
ma ̆ŋ | meaŋ | mraŋ | măng | manh | meng2 | ||
聞 |
mi ̯wən | miən | mjun | mắng | văn | wen2 | man4 | bun5 |
林 |
li ̯əm | liəm | c-rjəm | (bụi) rậm/ chùm |
lâm | lin2 | ||
箸 |
ti ̯o | tia | trjas | đũa | trứ | zhu4 | zyu3,zyu6 | tu7 |
濁 |
d’u ̆k | deok | drok | đục | trọc | zhuo2 | zuk4 | tak8,tok8 |
燭 |
ȶi ̯uk | tɕiok | tjok | đuốc | chúc | zhu2 | ||
赭 |
ȶi ̯ɔ | tɕya | tjᴀʔ | đỏ | giả | zhe3 | ze2 | ? |
追 |
ti ̯wər | tiuəi | trjuj | đuổi | truy | zhui1,dui1 | zeoi1 | tui1 |
季 |
ki ̯wæd | kiuet | kʷjits | cuối | quý | ji4 | ||
歲 |
si ̯wa ̆d | siuat | swjats | tuổi | tuế | sui4 | seoi3 | soe3 |
丁 |
te ̆ŋ | teŋ | treŋ | đanh | đinh | ding1 | ding1 | teng1 |
打 |
te ̆ŋ | teŋ | treŋʔ | đánh | đả | da3 | daa1 | taN2 |
餅 |
pi ̯e ̆ŋ | pieŋ | pjeŋʔ | bánh | bính | bing3 | beng2 | pan2 |
性 |
si ̯e ̆ŋ | sieŋ | sjeŋs | tánh | tính | xing4 | sing3 | seng3 |
睇 |
t’iər | thyei | thij | thấy | thê | di2 | tai2 | ? |
淂 |
tək | tək | tək | đác (nước) | đắc | de2 | dak1 | ? |
度 |
d’ɑg | dak | daks | trạc/đo | đạc/độ | du4,duo4 | ||
似 |
dzi ̯əg | ziə | zjəʔ | tựa,dựa | tự | si4 | ci5 | ? |
尋 |
dzi ̯u ̆m | ziuəm | tìm | tầm | xun2, xin2 | cam4 | chhim5,sim7 | |
中 |
ti ̯ʊŋ | tiuəm | k-ljuŋ | đúng | trúng | zhong4 | zung3 | ? |
沈 |
ȶʻəm | tɕhy | thəmʔ | chìm | trầm | chen2 | cam4,sam2 | sim2,tiam5,tim5 |
點 |
tiam | tyam | chấm | điểm | dian3 | dim2 | tiam2 | |
瞻 |
ȶi ̯am | tɕiam | k-ljam | xem | chiêm | |||
稻 |
d’ʊg | du | luʔ | lúa/gạo | đạo | dao2 | dou6 | tiu7,to7 |
床 |
dʐʻi ̯aŋ | dʒiaŋ | dzrjaŋ | giường | sàng | chuang2 | cong4 | chhng5 |
選 |
si ̯wan | siuan | sjonʔ | chọn | tuyển | xuan3 | syun2 | soan2 |
贖 |
ȡʻi ̯uk | dʑiok | Ljok | chuộc | thục | shu2 | suk6 | siok8 |
種 |
d’i ̯ʊŋ | diuəm | g-ljuŋ | dòng/giống | chủng | zhong3 | zung2 | chiong2 |
紫 |
tsi ̯e ̆g | tsie | tsjeʔ | tía/tái | tử | zi3 | ||
子 |
tsi ̯əg | tsiə | tsjəʔ | đứa/trai | tử | zi3 | ||
字 |
dz’i ̯əg | dziə | dzjəs | chữ | tự | zi4 | ||
貯 |
ti ̯o | tia | trjaʔ | chứa | trữ | zhu3 | ||
御 |
ŋi ̯o | ŋia | ŋjaʔ | ngừa | ngự | yu4 | ||
皮 |
b’ia | biai | brjaj | bìa | bì | pi2 | ||
被 |
b’ia | biai | brjajʔ | phải | bị | bei4,bi1 | ||
碑 |
pi ̯e ̆g | pie | prje | bia | bi | bei1 | ||
支 |
ȶi ̯e ̆g | tɕie | kje | chia,chẻ | chi | zhi1 | ||
邊 |
pian | pyan | pen | bên | biên | bian1 | ||
濱 |
pi ̯e ̆n | pien | pjin | bến | tân | bin | ||
閉 |
pied | pyet | pits | bít | bế | bi4 | ||
離 |
liar | lyai | c-rejs | lìa,chẽ,rời | li | li2 | lei4 | li5 |
爐 |
lo | la | c-ra | lò, lửa | lô | lu2 | lou4 | loD5 |
穭 |
li ̯o | lia | c-rjaʔ | lúa | lữ | lyu3 | leoi5 | ? |
縷 |
li ̯u | lio | c-rjoʔ | lụa | lũ | lyu3 | ||
羅 |
lɑ | lai | c-raj | lưới chài |
la | lo2, luo2 | lo | lo5 |
臘 |
lɑp | lap | c-rap | chạp | lạp | la4 | ||
梁 |
li ̯aŋ | liaŋ | c-rjaŋ | rường | lương | liang2 | loeng4 | liang5 |
籠 |
luŋ | loŋ | c-roŋ b-roŋ |
lồng chuồng |
lung | long2 | ||
龍 |
li ̯uŋ | lioŋ | b-rjoŋ | rồng | long | long2 | lung4 | geng5,leng5 |
煉 |
lian | lyan | c-rens | rèn | luyện | lian4 | lin6 | lian7 |
鑄 |
ȶi ̯u | tɕio | tjos | đúc | chú | zhu4 | ||
咒 |
ȶi ̯ʊg | tɕiu | tjus | chúc | chú | zhou4 | ||
祝 |
ȶi ̯ʊg | tɕiuk | tjuks | chú | chúc | zhou4 | ||
力 |
li ̯ək | liək | c-rjək | sức | lực | li4 | lik5 | lat8 |
代 |
d’əg | dək | ləks | đời | đại | dai4 | ||
移 |
dia | dia | ljaj | rời | di | yi2 | ||
坭 |
ni ̯ær | niei | nrjij | nơi | ni | ni2 | ||
泥 |
niər | nyei | nij | lầy | nê | ni2 | ||
時 |
ȡi ̯əg | ʑiə | djə | giờ | thì | shi2 | si4 | si5 |
市 |
ȡi ̯əg | ʑiə | djəʔ | chợ | thị | shi4 | si5 | chhi7 |
賊 |
dz’ək | dzək | dzək | giặc | tặc | ze2 | caak6 | chek8,chhat8 |
北 |
pək | pək | pək | bấc | bắc | bei3 | ||
特 |
d’ək | dək | dək | đực | đặc | te4 | ||
日 |
ȵi ̯e ̆t | ȵiet | njit | nhựt/ngày | nhật | ri4 | jat6 | jit8 |
一 |
ʔi ̯e ̆t | iet | ʔjit | nhứt/nhất | nhất | yi1 | jat1 | ? |
號 |
g’og | ɣo^ | gaw | kêu/gọi | hào | hao2 | hou4 | ho7 |
疑 |
ŋi ̯əg | ŋiə | ŋjə | ngờ | nghi | yi2 | ji4 | gi5 |
外 |
ŋwɑd | ŋuat | ŋʷats | ngoài | ngoại | wai4 | ngoi6 | goa7 |
義 |
ŋia | ŋiai | ŋrjajs | ngãi | nghĩa | yi4 | ji6 | gi7 |
牙 |
ŋɔ | ŋea | ŋra | ngà | nha | ya1 | ngaa4 | ga5 |
蛾 | ŋɑ | ŋai | ŋaj | ngài | nga | e2 | ngai5 | |
瓦 |
ŋwa | ŋoai | ŋʷrajʔ | ngói | ngõa | wa3 | ngaa5 | hia7,oa2 |
含 |
g’əm | ɣyəm | gəm | gậm/ngậm | hàm | han2 | ham4 | ham5,kam5 |
寄 |
kia | kiai | krjajs | gởi | ký | ji4 | ||
蠶 |
dz’əm | dzəm | dzum | tằm | tàm | can2 | ||
籤 |
ts’i ̯am | tshia | tshjem | tăm | tiêm | qian2 | ||
師 |
ʂi ̯ær | ʃiei | srjij | thầy | sư | shi1 | ||
尸 |
ɕi ̯ær | ɕiei | hljij | thây | thi | shi1 | ||
平 |
b’i ̯an | bian | bjen | bằng | bình | ping2 | ||
主 |
ȶi ̯u | tɕio | tjoʔ | chúa | chủ | zhu3 | ||
初 |
tʂʻi ̯o | tʃhia | tshrja | xưa | sơ | chu1 | ||
疏 |
ʂi ̯o | ʃia | srja | thưa,sưa | sơ | shu1 | ||
須 |
si ̯u | sio | sjo | tua | tu | xu1 | ||
無 |
mo | ma | mô | vô | wu2 | mou4 | bo5,bu5 | |
萬 |
mi ̯wa ̆n | mian | muôn | vạn | wan4 | maan6 | ban7 | |
晚 |
mi ̯wa ̆n | miuan | mjonʔ | muộn | vãn | wan3 | ||
畫 |
g’we ̆g | ɣoek | gʷreks | gạch,vạch | họa,hoạch | hua4 | wa6,wak6 | hoa7 |
鑊 |
g’wɑk | ɣuak | wak | vạc | hoạch | hua4 | wok6 | ? |
禍 |
g’wɑ | ɣuai | vạ | họa | huo4 | wo5 | ho7 | |
猿 |
gi ̯wa ̆n | ɣiuan | wjan | vượn | viên | yuan2 | ||
腋 |
di ̯ag | ʎyak | ljᴀk | nách | dịch | ye4 | ||
核 |
g’wət | ɣuət | gut | hột, hạt | hạch | he2 | hat6 | hat8,hut8 |
播 |
pɑ | pai | pajs | vãi | bá | bo1,bo4 | ||
肺 |
p’i ̯wa ̆d | phiua | phjots | phổi | phế | fei4 | ||
地 |
d’ia | diai | djejs | đai (đất đai) |
địa | di4 | ||
池 |
d’ɑ | dai | daj | đìa | trì | chi2 | ci4 | ti5 |
斬 |
tsa ̆m | tʃeam | tsremʔ | chém | trảm | zhan3 | zaam2 | cham2 |
藍 |
lɑm | lam | g-ram | chàm | lam | lan2 | ||
開 |
k’ər | khyən | khəj | khơi/khui | khai | kai1 | hoi1 | khai1, khui1 |
起 |
k’i ̯əg | khiə | khjəʔ | khởi | khỉ | qi3 | ||
青 |
ts’ieŋ | tshye | sreŋ | xanh | thanh | qing1 | ceng1 | chheng1 |
臭 |
ȶʻi ̯ʊg | tɕhiu | thjus | thiu,thối | xú | chou4,xiu4 | cau3 | chhau3 |
愁 |
dʐʻi ̯ʊg | dʒiu | dzrjiw | rầu/dàu | sầu | chou2 | ||
洒 |
slĕg | ʃeai | cCrejʔ | rưới | sái | sa3 | ||
絲 |
si ̯əg | siə | sjə | tơ, xơ,sợi | ti | si1 | si1 | si1 |
梭 |
swɑ | suai | soj | thoi | thoa,xoa | xuo1 | so1 | so1 |
簑 |
swɑ | suai | soj | tơi | toa, soa | suo1 | ||
吹 |
ȶʻwia | tɕhiuai | thjoj | thổi | xuy | chui1 | ceoi3 | chhui1 |
帚 |
ȶi ̯ʊg | tɕiu | tjuʔ | chổi | trửu | |||
扃 |
kiweŋ | kyueŋ | kʷeŋ | quanh | quynh | jiong1 | gwing1 | ? |
捲 |
g’i ̯wan | giuan | cuốn,cuộn | quyển | juan4,quan2 | gyun4 | kuan2 | |
往 |
gi ̯waŋ | ɣiuaŋ | wjaŋʔ | viếng | vãng | wang3 | ||
靈 |
lieŋ | lyeŋ | c-reŋ | liêng/ chành |
linh | ling2 | ||
敬 |
ki ̯e ̆ŋ | kieŋ | krjeŋs | kiêng | kính | jing4 | ||
井 |
tsi ̯e ̆ŋ | tsieŋ | tsjeŋʔ | giếng | tỉnh | jing3 | zeng2 | cheng2 |
正 |
ȶi ̯e ̆ŋ | tɕieŋ | tjeŋ | giêng | chính | zheng1 | ||
呈 |
d’i ̯e ̆ŋ | dieŋ | lrjeŋ | chiềng | trình | cheng2 | ||
鄰 |
li ̯e ̆n | lien | c-rjin | giềng | lân | lin2 | ||
聲 |
ɕi ̯e ̆ŋ | ɕieŋ | hjeŋ | tiếng | thanh | sheng1 | ||
里 |
li ̯əg | liə | c-rjəʔ | làng, chiềng |
lý | li3 | ||
惜 |
si ̯ag | syak | sjᴀk | tiếc | tích | xi2 | sik1 | sek4 |
隻 |
ȶi ̯e ̆k | tɕiek | tjek | chiếc | chích | zhi1 | ||
席 |
dzi ̯ag | zyak | zljᴀk | tiệc | tịch | xi2 | ||
碧 |
pi ̯ak | piak | pjak | biếc | bích | bi4 | bik1 | phek4 |
役 |
di ̯e ̆k | ʎiuek | wjek | việc | dịch | yi4 | jik6 | ek8 |
錫 |
siek | syek | slek | thiếc | tích | xi2 | ||
尺 |
ȶʻi ̯ag | tɕhya | thjᴀk | thước | xích | chi3 | ||
逆 |
ŋi ̯ak | ŋiak | ŋjak | ngược | nghịch | ni4 | ngaak6 | gek8 |
鏡 |
ki ̯a ̆ŋ | kyaŋ | krjaŋs | gương | kính | jing4 | geng3 | keng3,kiaN3 |
之 |
ȶi ̯əg | tɕiə | tjə | chưng | chi | zhi1 | ||
又 |
gi ̯ug | ɣiu | wjəs | cùng | hựu | you4 | ||
忌 |
g’i ̯əg | giə | gjəs | cúng/giỗ | kị | ji4 | ||
喜 |
xi ̯əg | xiə | xjəʔ | hửng,hởi | hỉ | xi3 | ||
已 |
di ̯əg | ʎiə | ljəʔ | thôi,rồi | dĩ | zi3 | ||
以 |
di ̯əg | ʎiə | ljəʔ | lấy | dĩ | yi3 | ||
矣 |
gi ̯əg | ɣiə | ɦjəʔ | hỡi | hĩ | yi3 | ||
趾 |
ȶi ̯əg | tɕiə | tjəʔ | chân, châng | chỉ | zhi3 | ||
眉 |
mi ̯ær | miei | mrjəj | mày | mi | mei2 | ||
似 |
dzi ̯əg | ziə | zjəʔ | dường, tựa | tự | si4 | ||
違 |
gi ̯wər | ɣiuəi | wjəj | vạy | vi | wei2 | ||
甲 |
kap | keap | krap | kép? | giáp | jia3 | ||
夾 |
ka ̆p | keap | krep | kép, cặp | giáp | jia2 | ||
狹 |
g’a ̆p | ɣeap | grep | hẹp | hiệp | xia2 | ||
棹 |
d’o ̆k | deôk | drewks | chèo | trạo | zhao4 | ||
豹 |
po ̆k | peôk | prewks | beo | báo | bao4 | ||
潮 |
d’i ̯og | diô | ɦtrjew | triều | trào | chao2 | ||
鐵 |
t’iet | thyet | hlit | sắt | thiết | tie3 | ||
得 |
tək | tək | tək | được | đắc | de2 | ||
源 |
ŋi ̯wa ̆n | ŋiuan | ŋjon | nguồn | nguyên | yuan2 | ||
巧 |
k’ʊ̆g | kheu | khruʔ | khéo | xảo | qiao3 | ||
藥 |
di ̯ok | ʎiôk | rjawk | thuốc | dược | yue4 | ||
骸 |
g’æg | ɣe | grə | xương | hài | hai2 | ||
異 |
di ̯əg | ʎiə | ljə | lạ | dị | yi4 | ||
已 |
di ̯əg | ʎiə | ljəʔ | rồi | dĩ | yi3 | ||
以 |
di ̯əg | ʎiə | ljəʔ | lấy | dĩ | yi3 | ||
滅 |
mi ̯at | miat | mjet | mất | diệt | mie4 | ||
戉 |
gi ̯wa ̆t | ɣiuat | wjat | vớt | việt | yue4 | ||
越 |
g’wɑt | ɣuat | wat | vượt | việt | yue4 | ||
底 |
tiər | tyei | tijʔ | đáy | để | di3 | ||
脫 |
t’wɑt | thuat | hlot | lọt | thoát | tuo1 | ||
弱 |
ȵi ̯ok | ȵiôk | njewk | nhọc | nhược | ruo4 | ||
冒 |
mʊg | muk | muks | mũ | mạo | mao4 | ||
戶 |
g’o, ɣuo | ɣa | gaʔ | cửa | hộ | hu4 | ||
左 |
tsɑ | tsai | tsajʔ | trái | tả | zuo3 | ||
右 |
gi ̯ug | ɣiu | wjəʔ | phải | hữu | yuo4 | ||
正 |
ȶi ̯e ̆ŋ | tɕieŋ | tjeŋ | thẳng | chính | zheng4 | ||
郎 |
lɑŋ | laŋ | c-raŋ | chàng | lang | lang2 | ||
娘 |
ni ̯aŋ | niaŋ | nrjaŋ | nàng | nương | niang2 | ||
亂 |
lwɑn | luan | c-rons | chộn,rộn | loạn | luan4 | ||
限 |
g’æn | ɣeən | grənʔ | hẹn | hạn | xian4 | ||
烈 |
li ̯at | liat | c-rjet | rét | liệt | lie4 | ||
漏 |
lu | lo | c-ros | rò | lậu | lou4 | ||
弩 |
no | na | naʔ | ná,nỏ | nỗ | nu3 | ||
染 |
ȵi ̯am | ȵiam | njomʔ | nhuộm | nhiễm | ran3 | ||
洒 |
slĕg | ʃeai | cCrejʔ | rây | sái | sa3 | ||
竇 |
d’ug | dok | loks | lỗ (hổng) | đậu | dou4 | ||
禽 |
g’i ̯əm | giəm | grjəm | chim | cầm | qin2 | ||
裂 |
li ̯at | liat | c-rjet | rách | liệt | lie3 | ||
茶 |
d’ɔ | dea | lra | chè | trà | cha2 | ||
遮 |
ȶi ̯ɔ | tɕya | tjᴀ | che | già | zhe5 | ||
烏 | ʔo | a | ʔa | ác | ô | wu1 | ||
徹 | thi ̯at | thiat | thrjet | suốt/tuốt | triệt | che4 | ||
豚 | d’wən | duən | lun | lợn | đồn | tun2 | ||
BỔ SUNG | (MỚI) | |||||||
毋 | mi ̯wo | mia | mja | mựa | vô | wu2 | ||
只 | ȶi ̯ær | tɕiei | tjij | chỉn | chỉ | zhi3 | ||
Blog: http://www.fanzung.com
Đọc thêm:
Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và Mân ngữ
https://nghiencuulichsu.com/2016/12/14/nuoc-viet-cua-viet-vuong-cau-tien-va-man-ngu/
Viết lại tên Bách Việt
http://www.nongsinh.com/TrinhToc_BachViet_LSViet.htm
Nguyễn Đại Việt 2