Hán tộc là nhánh chủng tộc du mục có gốc Thổ (Turk) và Mông Cổ (Mongolia),[1] xuất phát từ những thảo nguyên ở miền Trung Á và Siberia đến. Họ chỉ mới có mặt ở vùng trung lưu Hoàng Hà, sớm nhất là thời Hoàng Đế (theo truyền thuyết được Sử Ký Tư Mã Thiên đề cập), tức sau thời kỳ Phục Hy và Thần Nông.[2]
Sông Lạc cũng là nơi vua Đại Vũ nhà Hạ đã gặp rùa và nhận “Lạc thư” chỉ giáo về cách cai trị thiên hạ. Vua Đại Vũ là người Cối Kê - nay gọi là Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử.[3] mà vùng này trong thời kỳ ấy đang còn là đất của các tộc Bách Việt.
Chú thích/Endnotes [1]Hán tộc là giống lai giống giữa hai nhánh chủng tộc du mục gốc Thổ (Turk) và Mông Cổ (Monolia). Trên 3000 năm trước) không có nước Tàu. Chỉ sau thời Ðông Chu Liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong sáu nước cuối cùng, nên mới có nước Tàu.
[2]Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền - lễ tổ chức trước khi gieo trồng.
[3]Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử. Giang Tô (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông. [4]Vua Đại Vũ nhà Hạ là Tự Văn Mệnh (姒文命), ông là cháu 5 đời của Hiên Viên Hoàng Đế; ng ư ơ ờ icha Vũ là Cổn di chuyển người dân về phía đông Trung Nguyên. Vua Nghiêu phong cho Cổn làm người đứng đầu ở địa điểm thường được xác định là gần núi Tung Sơn. Đại Vũ cai trị nhà Hạ trong 45 năm và theo Việt Tuyệt Thư (越絕書), ông qua đời vì bệnh. Ông được tin là mất ở Cối Kê (會稽山) (hay Hội Kê) ở phía nam Thiệu Hưng hiện nay trong đi săn bắn và hội họp chư hầu ở Giang Nam. Theo giải thích của Sử ký, Cối (hay Hội) và Kê là việc hội họp chư hầu và khảo sát thành tích. Lăng Đại Vũ (大禹陵) ngày nay được biết đến là lần đầu tiên được xây dựng trong thế kỷ 6 vào thời Nam triều để vinh danh ông nằm cách thành phố Thiệu Hưng khoảng 4 km về phía đông nam. [5]Nông nghiệp Bách Việt có khắc trên Trống Đồng Ngọc Lũ. |
No comments:
Post a Comment