Wednesday, April 12, 2017

Thiên tài Quân Sự VNCH - Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/6/64/Hieu_wiki.jpg
Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu (1929 - 1975)

48 năm trước, Thiên Tài Quân Sự Việt Nam Nguyễn-văn-Hiếu đã từng đánh bại Tướng Võ-nguyên-Giáp trên chiến trường Pleime năm 1965. Khi đó ông (Thiên tài QSVN Nguyễn-văn-Hiếu) đang là đại tá Tham mưu trưởng Quân Đoàn II Quân Khu II Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ba bài viết bên dưới được tiết lộ bởi Thiếu tướng Nguyễn-văn-Hiếu, theo lời thuật lại của ông Nguyễn-văn-Tín (bào đệ của cố Thiếu tướng Nguyễn-văn-Hiếu) "...Mãi cho tới bây giờ anh tôi mới bật mí hoàn toàn về chiến dịch Pleime..." -ngưng trích email nhận được-

Trúc-Lâm Yên-Tử, Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu trang trọng giới thiệu đến quý chư độc giả bốn phương về tài dụng binh như thần của cố Thiếu Tướng Nguyễn-văn-Hiếu khiến cho các Tướng của Việt cộng từ Võ-nguyên-Giáp, Chu-huy-Mân tư lịnh mặt trận B3 phải chuốc lấy thảm bại.

Xin đốt một nén tâm hương kính dâng lên cố Thiếu Tướng Nguyễn-văn-Hiếu một Thiên Tài Quân-Sự Việt-Nam và cũng là một vị Anh-Hùng của dân tộc Việt-Nam. Đồng thời tưởng nhớ đến sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến Vệ Quốc An Dân chống giặc Tầu xâm lược (1954-1975)

***
Chiến Dịch Pleime/Chuprong Phá Hủy Căn Cứ Mặt Trận B3

1. Tình Báo
Qua trinh sát Radar và Hồng Ngoại Tuyến, Ban 2/MACV biết được một căn cứ lớn cỡ sư đoàn đã được thiết lập tại Chu Prong gồm nhiều kho tiếp liệu và trung tâm huấn luyện.

Ban 2/II Quân Đoàn II, biết được là vào tháng 7 năm 1965, Tướng Chu Huy Mân được phái từ Khu 5 Đà Nẵng lên vùng Cao Nguyên thành lập Mặt Trận B3 với nhiệm vụ tấn chiếm vùng Cao Nguyên. Lực lượng chính của Mặt Trận B3 sẽ gồm ba trung đoàn 32, 33 và 66. Trung Đoàn 32 đã hoạt động tại vùng Cao Nguyên từ đầu năm 1965. Trung Đoàn 33 được lệnh xuất quân vào Nam cuối tháng 7, Trung Đoàn 66 vào cuối tháng 8.

Vào đầu tháng 8 năm 1965, Bộ Tổng Tư Lệnh QĐND nhận được dự án kế hoạch tiến công Pleime-Pleiku do Mặt Trận B3 biên soạn. Ðầu tháng 10, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Tây Nguyên nhận được điện báo: Bộ Tổng Tư Lệnh QĐND thông qua kế hoạch chiến dịch Pleime, dự tính khởi động vào cuối năm 1965 hay đầu năm 1966.

2. Khái Niệm Hành Quân
Dựa vào các tin tức tình báo thu thập được, khởi sự tháng 9 năm 1965, Ban 3/Quân Đoàn II và Ban 3/MACV phối hợp điều nghiên kế hoạch phá hủy hậu cứ Chu Prong và triệt tiêu ba trung đoàn thuộc Mặt Trận B3 cùng một lúc bằng oanh tạc chiến lược B-52.

Vấn đề khó là làm sao mật độ kết tụ của ba trung đoàn nằm trong một vùng khoảng 1 cây số vuông, nghĩa là phải có thể chấm tọa độ trung tâm khối lực lượng nhắm bắn với độ chính xác ít ra là (XX’YY’) và bia nhắm phải bất động ít ra là 8 tiếng đồng hồ, vì đó là khoảng thời gian oanh tạc cơ B-52 cần có để bay từ đảo Guam sang Chu Prong của vùng Cao Nguyên.

Thời điểm lý tưởng nhất là khi ba trung đoàn kết tụ lại tại các trung tâm tập trung và nhất là quy tụ lại tại địa điểm xuất quân chuẩn bị cho một cuộc tấn công. Các trung đoàn sẽ bất động ở vùng tập trung để tập trận trong khoảng hai ba ngày, nhưng chỉ duy trì ở điểm xuất quân chừng 2,3 tiếng, nên phải có kế hoạch nghi binh khiến địch nán lại ở điểm xuất quân ít ra 8 tiếng thì B-52 mới tới kịp đánh phá mục tiêu oanh tạc.

Khi được tin Mặt Trận B3 sẽ dùng hậu cứ Chu Prong làm địa điểm tập trung và xuất quân chuẩn bị tấn công trại Pleime, Ban 3/Quân Đoàn II thấy là có thể dùng B-52 để phá hủy hậu cứ và lực lượng Mặt Trận B3 cùng một lúc. Vấn đề là phải theo dõi sát tình hình địch quân để xác định được cách chính xác khi cả ba trung đoàn tập trung lại, và rồi đánh lừa địch nán lại vùng xuất quân trong 8 tiếng đồng hồ.

3. Thực Hiện Hành Quân

Hành Quân Dân Thắng 21
Khi Mặt Trận B3 lấy quyết định khởi động chiến dịch Plâyme sớm hơn dự tính – thay vì tháng 12 năm 1965 – vào ngày 19 tháng 10 với hai trung đoàn – 33 vây trại Pleime và 32 phục kích chiến đoàn tiếp cứu, để tránh phải đụng lính Mỹ, Ban 3/Quân Đoàn II thấy chưa phải lúc dùng tới B-52 vì trung đoàn 66 chưa có mặt tại vùng Cao Nguyên. Ban 3/ Quân Đoàn II tính kế trì hoãn chiến chỉ nhằm không để địch thực hiện kế công đồn đả viện, bằng cách tăng cường trại với hai đại đội hỗn hợp LLĐB Mỹ-Việt và xuất phát một chiến đoàn thiết kỵ tiếp cứu. Hai lực lượng này vừa đủ mạnh để xua đuổi địch đồng thời không gây thiệt hại quá nặng cho địch để chúng còn đủ lực tính kế phục hận bằng cách tấn công trại Pleime lần thứ hai, lần này có đầy đủ cả ba trung đoàn 32, 33 và 66.

Hành Quân All the Way
Khởi sự ngày 27 tháng 10, sau khi giải tỏa trại Pleime, Ban 3/Quân Đoàn II giao cho Lữ Đoàn 1 Không Kỵ trách vụ lùa địch về hậu cứ Chu Prong với hành quân All the Way. Chủ đích của các cuộc xung kích trực thăng vận nhằm không cho phép các đội toán lẻ tẻ dừng chân tại các trạm trú quân trên đường rút quân từ Pleime đến Chu Prong, chứ không tấn kích bản doanh chỉ huy của hai trung đoàn 32 và 33. Ban 2/Quân Đoàn II có nhiệm vụ theo dõi hằng ngày tiến trình rút quân của các đội toán lẻ tẻ địch quân.

Vào cuối ngày 27/10, tin tình báo cho biết các đơn vị dẫn đầu của Trung Đoàn 33 tụ tập xong tới vùng tập trung tiền phương, làng Kro (ZA080030), trong khi tiểu đoàn bảo vệ đoạn hậu vừa mới đoạn tuyệt giao tranh tại trại DSCĐ Pleime.
  • Ngày 28/10, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 32 đã tới sát các căn cứ hậu cần tại mạn bắc của Ia Drang.
  • Ngày 29/10, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 33 nhắm rút về Làng Anta tại YA 940010.
  • Ngày 31/10, tin tình báo cho biết các đơn vị địch tiếp tục tan rã và phân tán thành từng nhóm nhỏ. Thêm vào đó, Trung Đoàn 33 bị thiếu hụt lương thực và thuộc men vì lẽ nhiều đơn vị không tới được các kho lẫm vì bị các toán không kỵ bất thần truy đuổi.
  • Ngày 01/11, tin tình báo cho biết Lữ Đoàn 1 Không Kỵ hủy diệt một bệnh xá cấp trung đoàn; trong khi đó có tin bản doanh Trung Đoàn 33 đã tới căn cứ tại Làng Anta, nhưng khối đông của trung đoàn thì còn bị rải rác dọc giữa đàng từ Pleime đến Chu Prong.
  • Ngày 2/11, tin tình báo cho biết Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 nhận được tin Trung đoàn 66 bắt đầu di chuyển vào các vùng tập trung trong vùng Chu Prong-Ia Drang.
  • Ngày 3/11, tin tình báo cho biết Lữ Đoàn 1 Không Kỵ phục kích Tiểu Đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66 mới vừa xâm nhập. Tin tình báo trong ngày cũng cho biết Trung Đoàn 33 vẫn đang tìm cách lôi cái đuôi bị thương tích và bầm dập tới mật khu Chu Prong.
  • Ngày 4/11, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 33 được lệnh ra khỏi căn cứ tại Đồi 732 và đi tới các sườn núi phía tây của Chu Prong gần YA922010 với các tiểu đoàn của trung đoàn khi những tiểu đoàn này tập trung xong thì di chuyển vị trí tời Đồi 732 xuống tới làng Anta (940010) cho tới mạn bắc bờ sông Ia Meur (980000); tin tình báo cũng cho biết các mảnh vụn của trung đoàn vẫn tìm đường về theo hướng tây, bám theo các lòng suối, và xử dụng mọi ẩn núp để tránh bị phát giác bởi các trực thăng Mỹ luôn hiện diện. Còn có một đơn vị vẫn còn tương đối trọn vẹn - tiểu đoàn dùng làm hậu vệ. Khởi sự lên đường sau và di chuyển chậm chạp hơn các đơn vị khác, tiểu đoàn vẫn còn ở phía tây của các vị trí Không Kỵ.
  • Ngày 05/11, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 66 tiếp tục qui tụ vào các vùng tập trung trong mật khu Chu Prong và Trung Đoàn 33 chờ đợi cho các lực lượng phân tán qui tụ về đơn vị mẹ. Trung Đoàn 32 và Mặt Trận Dã chiến, trong khi đó, còn nguyên vẹn và yên lành tại phía bắc Ia Drang và gần bên biên giới Căm Bốt.
  • Ngày 07/11, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 33 thưa thớt liếm vết thương và đợi cho các binh sĩ lê gót trở về căn cứ.
  • Ngày 08/11, tin tình báo cho biết Trung Đoàn 33 thu thập xong các đơn vị cơ hữu cuối cùng , và rút lui qua phía tây, đồng thời Trung Đoàn 32 đã thoát thân về phía đông sau cuộc phục kích.
  • Ngày 09/11, tin tình báo cho biết bản doanh Mặt Trận B3 nằm phía bắc Ia Drang.
  • Như vậy là Lữ Đoàn 1 Không Kỵ đã thành công lùa địch về hậu cứ Chu Prong. Nhưng các đơn vị địch còn trong tình trạng thế thủ trải rộng ra để khỏi bị Lữ Đoàn 1 Không Kỵ xung kích trực thăng vận.
Giai đoạn lùa địch đã xong. Bây giờ đến giai đoạn dụ địch tập trung quân xích lại nhau. Đó là nhiệm vụ Ban 3/Quân Đoàn II giao cho Lữ Đoàn 3 Không Kỵ thực hiện.

Hành Quân Silver Bayonet I
Ngày 9/11, qua lệnh Tướng Larsen, Tư Lệnh I Field Force Vietnam kiêm Cố Vấn cho Quân Đoàn II, Tướng Knowles, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Tiền Phương, thay thế Lữ Đoàn 1 Không Kỵ với Lữ Đoàn 3 Không Kỵ, đồng thời hoán chuyển hướng truy lùng địch quân của hành quân All the Way từ tây sang đông cho hành quân Silver Bayonet I của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ, nhằm khiến Mặt Trận B3 lầm tưởng quân Mỹ đánh mất tung tích đối phương và nghĩ là đến lúc chuyển từ thế thủ qua thế công để chuẩn bị tấn công trại Pleime lần thứ hai.

Ngày 10/11, tin tình báo cho biết Mặt Trận B3 sa vào thế nghi binh: sau khi thẩm định tình hình và khi thấy các đơn vị Mỹ coi bộ rút lui về phía đông Pleime, quyết định là cố gắng lấy lại thế thượng phong với một cuộc tấn công. Ngày N tấn công được ấn định là ngày 16 tháng 11 và ra lệnh cho ba trung đoàn tập trung lại để tái phối trí, tái trang bị và tập trận.

Ngày 12/11, cũng lại qua lệnh của Tướng Larsen, Tướng Knowles được lệnh chuẩn bị tung một tiểu đoàn – Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ - vào chân rặng núi cạnh nơi đóng quân của Trung Đoàn 66 một khi các đơn vị của ba trung đoàn được lệnh bắt đầu di chuyển đến các địa điểm xuất quân để cầm chân chúng tại chỗ cho B-52 có đủ thì giờ bay tới mục tiêu.

Ngày 14/11, khi tin tình báo cho biết Mặt Trận B3 ra lệnh các đơn vị xuất quân, Ban 3/MACV thông báo cho B-52 cất cánh để bay tới mục tiêu ấn định tại YA 8702 là tọa độ trung tâm khối của lực lượng Mặt Trận B3 và trút bom đợt đầu vào sau giờ ngọ ngày 15/11, đồng thời Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được đổ bộ tại LZ X-Ray để cầm chân các đơn vị tại chỗ thay vì di chuyển đi tấn công trại Pleime ngay. Tin tình báo cho biết một số đơn vị xung phong của Mặt Trận B3 đã trên đường đi đến Pleime trước bình minh ngày 14/11.

Vì chỉ nhằm mục đích gây chú ý và đánh lạc hướng, nên khi nhảy vào Chu Prong phải tránh làm sao tránh động mạnh vào ổ ong khiến đàn ong hoặc hoảng sợ chạy chốn tan biến mất hoặc đổ sô vào tấn công thẳng vào mối nguy cơ. Do đó tất cả mọi động tác phải chỉ vừa đủ để khiến các lực lượng Mặt Trận B3 không hoảng sợ tan hàng chạy trốn và không buộc phải đổ sô vào diệt trừ mối đe dọa to lớn mới xuất hiện. Do đó:
  • chỉ đổ bộ có một tiểu đoàn, và đổ bộ từ từ kéo dài 5 tiếng đồng hồ mới xong;
  • khi Mặt Trận B3 quyết định đình chỉ tấn công trại Pleime và chỉ cho hai tiểu đoàn – 7 và 9 - ra ứng chiến, phía Mỹ chỉ tăng cường thêm một tiểu đoàn – 2/7;
  • khi thấy như vậy vẫn chưa đủ vì không cứu nguy được cho một đại đội bị cô lập uy hiếp, phía Mỹ âm thầm tăng cường thêm Tiểu Đoàn 2/5 bằng cách trực thăng vận tới LZ Victor cách xa 5 cây số và lặng lẽ tiến tới lZ X-Ray bằng được bộ vào lúc 12 trưa ngày 15/11, khiến Mặt Trận B3 tưởng lực lượng tương quan vẫn là 2/2, chứ không là 3/2 và không thấy cần phải tung thêm quân vào chiến trường; do đó mục tiêu cho B-52 không bị tan biến.
Thế là các đơn vị của Trung Đoàn 32 và 33 vẫn án binh bất động khi B-52 bắt đằu đánh rập sau giờ ngọ.

Trưa ngày 16/11, để Mặt Trận B3 thấy tương quan lực lượng vẫn là 2/2 thay vì đã trở thành 3/2, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được bốc xuất ra khỏi LZ X-Ray bằng trực thăng vận.

Ngày 17/11, hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ được lệnh rời bỏ LZ X-Ray bằng đường bộ để nhường chỗ cho B-52 đánh rập ngay lên bãi đáp. Các toán quân địch còn ở lại trong vùng X-Ray thình lình chợt vỡ lẽ tại sao Không Kỵ rời bỏ đi khỏi nơi này khi oanh tạc B-52 đánh phủ lên đầu các vị trí cũ.

Ngày 18/11, Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ đụng độ mạnh với Tiểu Đoàn 8/Trung Đoàn 66 khi gần tới LZ Albany. Cuộc chiến tao ngộ ác liệt này kéo dài từ trưa đến 9 giờ tối.

Hành Quân Silver Bayonet II và Hành Quân Thần Phong 7
Ngày 19/11, Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ được trực thăng vận đến LZ Crooks vào khoảng 2 giờ trưa để cùng Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ giữ an ninh cho căn cứ pháo binh mới được thiết lập để yểm trợ cho cuộc hành quân Thần Phong 7 của quân Dù Việt Nam.

Tin tình báo trong ngày cho biết các quân lính sống sót của hai Trung Đoàn 33 và 66 bắt đầu di chuyển từng toán nhỏ về hướng biên giới Căm Bồ, dùng sông Ia Drang làm lá chắn che đậy.

Ngày 20/11, yểm trợ pháo binh tiếp tục nã đạn vào các vị trí của Trung Đoàn 32 phía bắc Ia Drang, trong khi các đơn vị khác gây áp lực tấn lên biên giới Căm Bốt. Các đơn vị pháo binh sư đoàn tại Golf và Crooks tiếp tục cung ứng yểm trợ hỏa lực cho các lực lượng Dù VNCH về hướng tây. Đặc biệt đáng ghi nhận là hỏa lực yểm trợ cho các tiểu đoàn 3 và 6 thuộc Lữ Đoàn Dù khi họ giao tranh với phỏng chừng một tiểu đoàn của Trung Đoàn 32 Bắc Quân.

Trận oanh tạc B-52 bắt đầu từ trưa ngày 15/11 tiếp tục trong 5 ngày kế tiếp cho tới ngày 11/20 (Why Pleime, chương VI):

Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 20 tháng 11, các phóng pháo cơ B-52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông - mỗi khu 20 dậm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. "Cửa hậu" vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.

4. Thành Quả của Chiến Dịch
Thành quả của Chiến Dịch Pleime (Pleime-Chuprong-Iadrang) là hậu cứ Chu Prong bị hoàn toàn phá hủy và toàn bộ lực lượng ba trung đoàn của Mặt Trận B3 bị triệt tiêu. Các thành phần sống sót của Mặt Trận B3 phải thoát thân sang hậu cứ nằm trong lãnh thổ Căm Bốt.

Bản báo cáo Ban 2/MACV nơi trang 67 ghi nhận:
Các phi vụ SLAR và IR bay trong mười ngày đầu trong tháng 12 cung ứng thêm chứng liệu Căm Bốt được xử dụng như một mật khu và hành lang xâm nhập của địch quân. Phân tích kết quả cho thấy một đường đạo xâm nhập chạy từ Phi Trường BO KM90 trong Căm Bốt đến khu vực giao tiếp của ranh giới Căm Bốt/Kontum và Pleiku. Không ảnh chụp ngày 19 tháng 11 tiết lộ một sinh hoạt quân sự dọc theo ranh giới Căm Bốt/NVN trong vùng Sông Prek Drang. Không ảnh cho thấy một vị trí nghỉ chân (với nhiều xe cộ rầm rộ qua lại) chứng tỏ là cuộc rút lui của các đơn vị đến vùng này đã được trù liệu trước.

***

Vai Trò của Không Lực Hoa Kỳ trong Chiến Dịch Pleime
Không Lực Hoa Kỳ đóng hai vai trò khác nhau trong Chiến Dịch Pleime:
- trong Giai Đoạn I, vai trò phụ thuộc yểm trợ cho bộ chiến đẩy lui cuộc tấn công của địch vào trại Pleime;
- trong Giai Đoạn II, vai trò chính tiêu hủy các lực lượng của Mặt Trận B3 tại hậu cứ Chu Prong.
Trại Pleime

Vào tháng 9 năm 1965, hai tháng trước khi Việt Cộng tấn công trại Pleime, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II kết hợp với Ban 3/MACV, đã hoạch định một kế hoạch tiêu diệt hậu cứ Chu Prong của Mặt Trận B3 và đang chờ đợi cho lực lượng chính gồm ba trung đoàn – 32, 33 và 66 – tụ tập lại nhằm chuẩn bị tấn công trại Pleime – dự trù vào cuối năm 1965 – tại hậu cứ này để có cơ hội tiêu diệt một chập hậu cứ và lực lượng với oanh tạc B-52.

Khi Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 quyết định tấn công trại Pleime ngày 19 tháng 10 năm 1965 – sớm hơn dự định – với chỉ duy hai trung đoàn – 32 và 33 – trong khi trung đoàn 66 còn rong rủi trên đường mòn Hồ Chí Minh chỉ tới chiến trường vào khoảng trung tuần tháng 11, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ hoạch định một cuộc phản công vừa đủ để đẩy lui các chiến binh tấn công, và chờ đợi đến lúc Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 tập hợp ba trung đoàn lại chuẩn bị cho một cuộc tấn công.

Chiến thuật trì hoãn chiến được thực hiện với cuộc hành quân Dân Thắng 21 với sự yểm trợ của hỏa lực dồi dào của Không Lực Hoa Kỳ.

Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ gom góp quân bộ chiến vừa đủ để ngăn ngừa các lực lượng tấn công địch tràn ngập trại Pleime án ngữ bởi 500 DSCĐ Thượng bằng một lực lượng tăng cường gồm hai đội toán 160 chiến binh Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ-Việt và ngăn ngừa địch khống chế chiến đoàn tiếp cứu gồm một đội ngũ 1.000 chiến binh. Hai toán quân này phải đối đầu mỗi bên với 2.000 chiến binh thuộc hai trung đoàn địch. Lực Lượng phản công chính được cung ứng bởi hỏa lực mạnh mẽ của Không Lực Hoa Kỳ. Điều này giải thích tại sao Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ yêu cầu được tăng cường bởi Ingram Task Force gồm một tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo binh và chống đối sự tham dự của toàn bộ một Lữ Đoàn Kỵ Binh Mỹ theo đề nghị của Tướng Kinnard. Điều này cũng giải thích tại sao Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II không xử dụng tới Chiến Đoàn Alpha TLQC và Chiến Đoàn Dù, hai lực lượng trừ bị của quân đoàn, như trong trường hợp địch vây hãm trại Đức Cơ vào tháng 8 năm 1965.

Công cuộc yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ được thẩm định trong bản Báo Cáo Project CHECO tựa đề The Siege of Pleime đề ngày 24 tháng 2 năm 1966.

- Không yểm tại trại Pleime:
Trong mười ngày kế tiếp ngày 19/10, hỏa lực không quân đóng vai trò then chốt trong việc bẻ gẫy cuộc tấn công. Trong 696 phi xuất ngày đêm, các phi cơ B-57, AIE, F-100, and F-8 trút 866,300 pounds bom GP, 250,380 pounds bom mảnh, 485,880 pounds bomnapalm, cộng thêm hỏa tiễn, CBU và hoả lực súng trực thăng võ trang vào các vị trí VC sát nách hàng rào trại khoảng cách 35 thước. Khi cuộc oanh kích chấm dứt, địch quân mất 326 chết đếm được xác, và quân trú phòng ước tính khoảng 700 tử thi được lôi đi. Đây là một cuộc hành quân không yểm tiếp cận lớn nhất trong cuộc chiến, và có lẽ hiệu nghiệm nhất.

- Không yểm tại ổ phục kích:
Các Không Trợ Viên Không Quân trên các phi cơ thả trái sáng điều khiển 74 phi xuất, bới các phóng pháo cơ xử dụng bom napalm, bom đa dụng, mảnh vụn, CBU, hỏa tiễn 2.75 và súng nòng 22 ly yểm trợ cho chiến đoàn tiếp cứu. Phi cơ AC-47 “Puff”, thả 25 trái sáng và bắn 4.000 viên đạn của hỏa lực súng nhỏ 7.62 ly chống quân tấn công. Vào lúc 030G, ngày 24 tháng 10, hỏa lực nhắm vào đoàn xe tiếp cứu giảm thiểu xuống các loại súng nhỏ, và vào lúc 1300G, VC đoạn giao chiến vì bị oanh kích.
Ngoài gây thương vong nặng cho các toán quân VC, các cuộc oanh kích của KLHK đã phá hủy hầu hết các súng phòng không và bích kích pháo, khiến cho địch quân không có các loại súng cộng đồng này trong trận chiến tại LZ X-Ray (Why Pleime, chương V):

Tỉ lệ 1/10 chứng tỏ tiểu đoàn 1/7 rất là may mắn vì thật bất ngờ là từ trên các đồi bao quát ngó xuống bãi đáp, địch đã không đặt các vũ khí cộng đồng để yểm trợ các cuộc tấn công. Tình trạng này chỉ có thể giải thích bởi các lý do địch đã mất gần hết các vũ khí cộng đồng trong đợt đầu.

Hậu cứ Chu Prong
Một khi hai trung đoàn VC bị đẩy lui khỏi trại Pleime, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tập trung chú ý vào việc xử dụng oanh tạc B-52 để triệt tiêu toàn bộ ba trung đoàn của lực lượng Mặt Trận B3 cùng một lúc.

1st Air Cavalry Brigade được giao trách vụ lùa các toán quân tản mác của hai trung đoàn VC trên đường tháo lui về hậu cứ Chu Prong với hành quân All the Way từ ngày 27 tháng 10 đến 9 tháng 11.
3rd Air Cavalry Brigade được giao trách vụ khuyến dụ Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 tập họp lại ba trung đoàn để chuẩn bị một cuộc tấn công lần thứ hai vào trại Pleime với hành quân Silver Bayonet I bắt đầu từ ngày 10 tháng 11.

1/7 Air Cavalry Battalion, 2/7 Air Cavalry Battalion và 2/5 Air Cavalry Battalion được giao trách vụ ghim ba trung đoàn VC án binh bất động tại các vùng xuất quân từ ngày 14 đến 17 tháng 11.
Các pháo đài B-52 nhập cuộc oanh tạc vào chiều ngày 15 tháng 17 (chính xác vào lúc 1600G) và đánh rập toàn bộ vùng hậu cứ Chu Prong trong suốt năm ngày kế tiếp.

- Pleiku Campaing, trang 88:
Ngày 15/11 cũng được đánh dấu bởi việc xử dụng lần đầu tiên một vũ khí mới của lực lượng Mỹ và gây kinh hoàng cho quân lính địch kể cả những chiến binh gan lì nhất. Ngay sau giờ ngọ, một vùng rộng lớn quanh vị trí YA8702 thình lình nổ tung với hàng trăm tấn bom làm rung chuyển khắp cùng mặt đất như thể một tấm thảm đang được trải ra. Các phóng pháo cơ B-52 đã đánh rập. Trong năm ngày kế tiếp các phóng pháo cơ khổng lồ làm thịt một vùng rộng lớn của rặng núi Chu Prong.

- Why Pleime, chương VI :
Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông - mỗi khu 20 dậm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. "Cửa hậu" vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.

- G3/IFFV:
Ngày 15/11/65 lúc 10:30G: MAVC J3 (Gen DePuy) Gen DePuy gọi Col Barrow và hỏi Arc Light đã được thông qua với Tư Lệnh QĐ II chưa. Col Barrow trả lời rồi, Tư Lệnh QĐ II đã chấp thuận Arc Light. Đồng thời DePuy muốn biết nếu đơn vị của 1st Cav đã nhận giới hạn áp đặt lúc 151600G cấm không được vượt qua phía tây của lằn rang ô vuông YA chưa. Col Barrow thông báo Gen DePuy là 1st Cav đã đáo nhận giới hạn và sẽ tuân theo. Gen DePuy đích thân thay đổi đồ hình mục tiêu.
  • Ngày 16/11: Oanh tạc Arc light lúc 1602H-1632H, vùng YA 8607, 9007, 8600, 9000; tất cả phi cơ đúng mục tiêu ngoại trừ một số bom rớt trong vùng chung, YA 8015, 8215, 8212, 8412, đang điều tra nguyên do.
  • Ngày 17/11: Yêu cầu Arclight YV 932985, YV 936996, YA 898005, YA 898019. Thời điểm trên mục tiêu 171300G.
  • Ngày 18/11: Arc light cho 1300G trên mục tiêu. Ưu tiên 1. 9201-9401-9298-0408. Ưu tiên 2. 9099-9299-9096-9296. Ưu tiên 3. 8306-8506-8303-8503.
  • Thật ra thì B-52 tiếp tục oanh tạc quá ngày 20 tháng 11, theo như nhật ký G3/IFFV khi hành quân Thần Phong 7 đang tiến hành:
  • 21/11/65 lúc 22:00G: Quân Đoàn II Capt Neary và Capt Martin - (mật mã) Yêu cầu cho biết thời điểm cuộc tấn công của Lữ Đoàn Dù vào mục tiêu tại YA 810055. Lữ Đoàn Dù có hay biết gì đến Thả Bom B 52 (Arc Light) số 4 lúc 221210g không.
  • Lúc 22:50G: Quân Đoàn II Capt Neary - Về thư tín mật mã (sổ số 60). Yêu cầu này vê thông tin là để xác nhận là đối tượng Thả Bom B 52 (Arc Light) được phối hợp kỹ lưỡng. Cũng liên quan đến thư tín thứ hai của Quân Đoàn II, trích dẫn số 174, đề cập một số đề mục (thư tín về Thả Bom B 52 (Arc Light), ghi rõ lằn ranh phía nam của vùng hành quân nằm trong mục tiêu của Thả Bom B 52 (Arc Light). Thời điểm không được ghi cho sự di chuyển về hướng nam). Cần xác nhận về thời điểm di chuyển cũng như cần xác nhận là đối tưượng của thư tín mật mã Thả Bom B 52 (Arc Light) đã được phối hợp.
  • Lúc 14:50G: Ban 3 Không Lực (Capt Green) Oanh tại Thả Bom B 52 (Arc Light) không đúng giờ. Chưa có kết quả.
Thiệt hại máy bay trong Chiến Dịch Pleime
Căn cứ theo bản Báo Cáo Project CHECO:
- Ngày 20/10 lúc 0950G: một chiếc HUIB bị bắn hạ đang khi yểm trợ tái tiếp liệu. Bốn quân nhân Mỹ bị chết. Một chiếc B-57 bị bắn hạ, phi hành đoàn thoát nạn. Một chiếc B-57 khác bị buộc đáp xuống mặt đất tại Pleiku.
- Ngày 20/10 lúc 2330G: một chiếc C-123 bị trúng đạn từ mặt đất bắn lên – không nghiêm trọng. Một chiếc C-123 khác bị trúng 15 viên đạn cỡ 30. Bị hư hại nặng. Hai chiếc C-123 nữa cũng bị trúng đạn từ mặt đất bắn lên.
- Ngày 21/10 lúc 0950G: một chiếc HU1B đâm nhào xuống mặt đất tại 15 dậm phía nam Pleiku, đang khi bảo vệ công cuộc cứu thương. Bốn quân nhân Mỹ bị giết.
- Ngày 22/10 lúc 0135G: một chiếc A1E bị bắn hạ phía tây trại, phi công nhảy dù ra khỏi phi cơ. Phi công hạ cánh xuống mặt đất
- Ngày 21/10 lúc 1020G: một chiếc A1E bị bắn hạ phía nam trại. Phi công hạ cánh xuống mặt đất.
- Ngày 13/11: Hai chiếc UH1B bị hỏa lực mạnh từ mặt đất bắn hạ. Một chiếc A1E bị bắn hạ, phi công chết.
- Ngày 16/11: Hai chiếc UH1B bị bắn hạ, phi hành đoàn chiếc trực thăng thứ nhất thoát nạn, nhưng trực thăng thứ hai đâm nhào xuống mặt đất, tất cả bốn nhân viên phi hành đoàn bị chết.
Tổng cộng, trong Chiến Dịch Pleime, KLHK có 6 HUIB, 2 B-57, 3 AIE bị bắn hạ và 3 C-123 bị trúng đạn hư hỏng ít nhiều.
Nguyễn Văn Tín
Ngày 10 tháng 10 năm 2013

***

Duyệt Xét Bản Báo Cáo “Khía Cạnh Tình Báo của Pleime/Chuprong”
1. Không rõ bản báo cáo được thảo xong ngày tháng nào, chỉ biết là thư viện US Army War College nhận được một ấn bản ngày 22 tháng 8 năm 1966. Vì là một bản tường trình sau trận đánh – về khía cạnh tình báo - nên chỉ có thể đoan chắc là bản báo được thảo xong sau tháng 11 năm 1965 và trước ngày 22 tháng 8 năm 1966.

2. Bản báo cáo do Ban 2/MACV soạn thảo và có lời tựa với chữ ký của Chuẩn Tướng J.A. McChristian Trưởng Phòng Ban 2/MACV.

3. Bản báo cáo đề cập tới khía cạnh tình báo của chiến dịch Pleime/Chuprong từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 20 tháng 11 năm 1965. Như vậy nghĩa là chỉ nói tới giai đoạn I và giai đoạn II của toàn bộ chiến dịch Pleime gồm ba giai đoạn Pleime/Chuprong/Iadrang, từ ngày 20 tháng 10 đến 26 tháng 11 năm 1965.

4. Phần 07. Thi hành, chính yếu ghi tóm lược hành quân và tóm lược tình báo hằng ngày, từ ngày 23 tháng 10 đến 20 tháng 11, giống y hệt phần 07. Thi Hành, từ ngày 23 tháng 10 đến 20 tháng 11 của Chiến Dịch Pleiku do Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ soạn thảo. Ban 2/MACV chỉ thêm tóm lược hành quân và tình báo cho ngày 20-22 tháng 10 năm 1965.

5. Ngoài ra, phần Khái Niệm Hành Quân, và phần Rút kinh nghiệm của hai bản báo cáo Ban 2/MACV và BTL/SĐ1KK cũng giống y hệt nhau. Thêm nữa, phần Kết luận của Ban 2/MACV thì lại là một đoạn trích của phần Mở Đầu của BTL/SĐ1KK.

6. Vì bản của BTL/SĐ1KK được soạn thảo xong và trình Tướng Kinnard ký ngày 4 tháng 3 năm 1966 mà bản của Ban 2/MACV không biết được soạn thảo xong và trình Tướng Christian ký ngày nào, nên khó xác định được ai sao chép ai.

Có một tài liệu khả dĩ giúp làm sáng tỏ vấn đề này. Why Pleime nhắc tới bản báo cáo tình báo đề ngày 24 tháng 11 năm 1965 của Ban 2/SĐ1KK: “27. Intelligence Report, Hqs, 1st Air Cav Div, Office of the G-2, Dated 24 Nov 65, Subject: Ia Drang Valley (Silver Bayonet 1) YA 9104 14-19 Nov 65.” Như vậy xác suất Ban 2/MACV sao chép Pleiku Campaign của BTL/SĐ1KK phần mô tả hành quân từ ngày 20 tháng 10 đến 20 tháng 11 năm 1965 cao hơn là ngược lại.

7. Tuy nhiên dựa vào lời của Tướng Christian:
Khi nhận thức thấy rõ là trong chiến dịch Chu Prong một trận chiến tầm cỡ lớn đang hình thành, Phụ Tá Tham Mưu Trưởng/Ban 2, yêu cầu các lực lượng tại chiến trường phải ghi chép cách chính xác các thao tác hành quân vào sổ nhật ký để sau này sẽ được đưa vào một bản báo cáo sau trận đánh. Sau khi tiếp nhận được thông tin này một bản tường trình sau trận đánh đã được soạn thảo và cống hiến cho chỉ huy trưởng ở mọi tầng cấp tùy nghi xử dụng.

có thể suy diễn cấu trúc bản báo cáo hành quân từng ngày gồm hai phần tóm lược hành quân và tóm lược tình báo với dụng ý cho thấy mối liên hệ tương quan hậu quả và ảnh hưởng của hai khía cạnh khái niệm hành quân và tình báo, là sáng kiến của Tướng Christian, Trưởng Phòng Ban 2/MACV.

8. Điều đáng ghi nhận là bản báo Ban 2/MACV dè dặt hơn bản báo cáo BTL/SĐ1KK khi nêu lên phương pháp thu thập tình báo chỉ liệt kê có SLAR (radar), IR (hồng ngoại tuyến), không ảnh và hỏi cung tù binh, và bỏ qua không nói tới RR (radio research - kiểm thính phát sóng radio): “The DTOC received direct SLAR and infra-red (I-R) reports from the aerial surveillance and target acquisition platoon (OV-1 Mohawk) and USAF sources, plus reports and the Radio Research Unit.” (Pleiku Campaing, trang 128).

Chỉ có nguồn tình báo gặt hái được qua phương pháp kiểm thính mới có được thông tin thức thời về ý định, trù tính, bàn thảo tại Bộ Tư Lệnh B3. Tỉ như (kiểm thính thức thời trong ngày xảy ra):
  •  Ngày 1/11, ngay sau khi tới làng Anta, các cán bộ Trung Đoàn 33 mở một cuộc họp để tìm cách khám phá nguyên do nào khiến các lực lượng Mỹ liên tục pháo tập chính xác. Họ đi đến kết luận là phải có gián điệp nằm trong hàng ngũ mới có thể cung cấp vị trí và di chuyển của các đơn vi thuộc trung đoàn.
  • Ngày 2/11, Bộ Tư Lệnh B3 nhận được tin Trung đoàn 66 bắt đầu di chuyển vào các vùng tập trung trong vùng Chu Prong-Ia Drang
  • Ngày 4/11, Trung Đoàn 33 được lệnh ra khỏi căn cứ tại Đồi 732 là nơi ra vào bất tiện, và đi tới các sườn núi phía tây của Chu Prong gần YA922010 với các tiểu đoàn của trung đoàn khi những tiểu đoàn này tập trung xong thì di chuyển vị trí tời Đồi 732 xuống tới làng Anta (940010) cho tới mạn bắc bờ sông Ia Meur (980000);
  • Ngày 08/11 Trung Đoàn 33 thu thập xong các đơn vị cơ hữu cuối cùng và bắt đầu đếm đầu người. Nhiều binh sĩ khiếm diện. Trung đoàn ghi nhận các con số tổn thất sau đây:
Đơn Vị * Quân Sộ Trước Pleime Phần Trăm hay Con Số tổn Thất
  • Tiểu Đoàn 1: 500, 33% chết
  • Tiểu Đoàn 2: 500, 50% chết
  • Tiểu Đoàn 3: 500, 33% chết
  • Đại Đội Bích Kích Pháo Trung Đoàn: 120, 50% chết
  • Đại Đội Súng Phòng Không Trung Đoàn: 150, 60% chết
  • Đại Đội Truyền Tin Trung Đoàn: 120, 4 chết-16 mất tích
  • Đại Đội Vận Tải Trung Đoàn: 150, 50% chết
  • Đại Đội Quân Y Trung Đoàn: 40, 80% chết hay mất tích
  • Đại Đội Công Binh Trung Đoàn: 60, 15 chết hay mất tích
  • Đại Đội Trinh Sát Trung Đoàn: 50, 9 chết
Tổng cộng, đếm đầu người cho thấy 890 người của con số nguyên thủy 2200 bị giết, với hơn 100 mất tich và nhiều binh sĩ hứng chịu những vết thương hủy hoại thân thể. Các quân trang mất mát cũng nặng đối với đại đội súng phòng không trung đoàn mất 13 trong số 18 súng và đại đội bích kích pháo trung đoàn mất 5 trong số 9 ống súng. Thêm 6 ống súng bích kích pháo bị mất bởi các tiểu đoàn, cùng với hầu hết các súng không giựt. Đạn dược, thực phẩm và thuốc men mất đi cũng bộn.
  • Ngày 8/11, tại bản doanh Mặt Trận Dã Chiến phía bắc Ia Drang, ngày hôm nay là ngày kiểm điểm phân tích. Đính kèm số 15 mô tả bức ảnh tình báo trình cho các cấp chỉ huy ngày 9 tháng 11.
  • Ngày 11/11, Bộ Tư Lệnh trù tính tấn công trại Pleime lần thứ hai vào ngày 16/11.
  • Ngày 12/11, các đơn vị tiếp tục chuẩn bị và tập dượt cho cuộc tấn công dự tính trại Pleime.
  • Ngày 13/11, các lực lượng bắt đầu tụ tập trong vùng Chu Prong-Ia Drang để chuẩn bị di chuyển tới Pleime và tấn công dự tính ngày 16/11, một vài đơn vị trinh sát và vận chuyển đã lên đường.
  • Các phương pháp kia – radar, hồng ngoại tuyến, không ảnh, hỏi cung tù binh – quá lắm chỉ cung cấp vị trí của các đơn vị địch quân, chứ không thể biết được những gì bàn thảo ngay trong nội bộ BTL Mặt Trận B3.
9. Một điểm khác bản báo cáo Ban 2/MACV (trang 67) nhận xét là phía Việt Cộng không hay biết đến nguồn tình báo chính xác phía Mỹ xử dụng: “Các phương pháp thu thập có giá trị đặc biệt vì chúng trung thực và rất thức thời và địch hầu như không hay biết đến sinh hoạt của các phương pháp tình báo này,” và ngỡ tưởng là có gián điệp địch nằm trong hàng ngũ cán bộ:

Mức độ hết sức chính xác của các cuộc tấn kích khiến cho cấp lãnh đạo trung đoàn bực tức triệu tập một buổi họp nhằm khám phá điều gì đã cho phép các lực lượng Mỹ liên tiếp oanh kích chính xác như vậy. Họ đi đến kết luận là chỉ có thể gián điệp nằm trong hàng ngũ mới có thể cung cấp địa điểm và di chuyển của các đơn vị của trung đoàn.
(Chiến dịch Pleiku, ngày 1 tháng 11, trang 46)

10. Một thông tin cá biệt chỉ tìm thấy trong bản báo cáo Ban 2/MACV (nơi trang 6: mô tả tình hình trước cuộc hành quân) là kế hoạch đánh rập mật khu Chu Prong bằng B-52 được điều nghiên từ tháng 9 năm 1965, trước khi Việt Cộng khởi động chiến dịch Plâyme ngày 19 tháng 10 năm 1965:

Căn cứ Chu Prong được biết là đã được tạo lập lâu trước cuộc tấn công Pleime và Ban 2 MACV đã chấm lấy vùng này để nghiên cứu vào tháng 9 năm 1965 như là có thể làm mục tiêu cho B-52.
Điều này chứng tỏ cho thấy là chiến dịch Plâyme của Việt Cộng tạo cơ hội cho Quân Đoàn II phối hợp với Ban 3/MACV phụ trách Trung Tâm Hành Oanh Tạc Chiến Lược B-52 thực hiện kế hoạch phá hủy mật khu Chuprong/Iadrang đồng thời triệt tiêu toàn bộ lực lượng gồm ba trung đoàn của Mặt Trận B3 bằng B-52.

Nguyễn Văn Tín
31 tháng 8 năm 2013

***

Phê Bình Nhận Xét của Tướng Bùi Nam Hà về Chiến Dịch Plâyme
Trong cuốn sách, Chiến thắng Plây Me: ba mươi năm sau nhìn lại: tài liệu hội thảo khoa học(*), Thiếu Tướng Bùi Nam Hà lên tiếng góp ý với bài, Từ Plây Mê-Ia Đrăng đến Sa Thầy, Đắc Tô, Một Chặng Đường Phát Triển Đầy Sáng Tạo Trong Nghệ Thuật Đánh Mỹ Ở Chiến Trường Tây Nguyên.
Ông tuyên bố là một người trong cuộc, với cương vị Tham Mưu Trưởng mặt trận, góp một vài nhận xét về chiến dịch .

Xin nói ngay là bài có khá nhiều nhận xét sai lầm và nét nổi bật chung của toàn bài là nặng phần tuyên truyền cổ võ ba quân hơn là phân tách khách quan thuần túy quân sự.

Hành quân Long Breach
Ngay từ đầu bài, Tướng Nam Hà đã sai lầm trầm trọng khi gọi tên của cuộc hành quân Mỹ nhằm “tìm và diệt” đối phương là Long Breach. Đây không phải lỗi in ấn chính tả, vì vài đoạn văn sau, ông viết:
Sư đoàn kỵ binh bay số 1 (...) hình thành một binh đoàn chiến dịch binh quân chủng hợp thành với ý định mở cuộc hành quân Long Breach (tạm dịch: đốt phá) tìm diệt quân chủ lực ta.

Không hiểu sao mà Tướng Nam Hà lại có thể “tạm dịch Long Breach là đốt phá”? Tuy nhiên xin bỏ qua chuyện nhỏ này vì tên đúng của cuộc hành quân là Long Reach do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đặt tên cho cuộc hành quân khi giao cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ nhiệm vụ truy đuổi tàn quân địch sau trận vây lấn và phục kích tại trại Pleime. Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, viết trong cuốn, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, nơi trang 101:

Vì vậy quyết định phải tổ chức truy kích địch của Bộ Tư Lệnh Quân đoàn II, trong đó Sư đoàn I Không Kỵ làm nỗ lực chính và Liên Đoàn Nhảy dù VN làm trừ bị sẵn sàng tham dự khi tình hình tiến triển và đòi hỏi, được toàn thể chiến sĩ của Sư đoàn hân hoan nhận lãnh, vì đã mấy đơn vị được may mắn mở những trang sử đầu của mình với một cuộc trường chinh (Long Reach).

Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ thực hiện cuộc hành quân Long Reach với ba cuộc hành quân All the Way (27/10-9/11, Lữ Đoàn 1 Không Kỵ), Silver Bayonet I (9/11-17/11, Lữ Đoàn 3 Không Kỵ), và Silver Bayonet II (17/11-26/11, Lữ Đoàn 2 Không Kỵ). Khi thảo bản tường trình sau trận đánh, phía Mỹ cải danh xưng Long Reach thành Pleiku Campaign có lẽ với dụng ý xóa bỏ dấu vết lệ thuộc vào quyền lãnh đạo cuộc hành quân của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.

Chủ yếu chiến dịch Plây Me là quân Mỹ
Tướng Nam Hà nhận xét:
Quyết tâm chiến dịch và chiến đấu được khẳng định là dụ quân địch vào trận để vây diệt mà đối tượng là tổng dự bị chiến dịch – chiến lược Mỹ-ngụy, chủ yếu là quân Mỹ.

Tướng Nam Hà khẳng định như vậy là quá xa sự thật. Chủ đích nguyên thủy của chiến dịch Plây Me là triệt hủy toàn bộ lực lượng của Quân Đoàn II bằng thế “công đồn đả viện”. Chính vì muốn tránh đụng độ lớn với quân Mỹ mà thay vì phát động chiến dịch được dự tính vào cuối năm 1965 hay đầu năm 1966 thì lại khởi động tiến công sớm hơn ngày 19 tháng 10 năm 1965 cốt ý là hy vọng Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ mới đổ bộ lên bờ biển Qui Nhơn cuối tháng 9 và đang rục rịch khăn gói lên An Khê lập trại vào giữa tháng 10 chưa sẵn sàng ứng chiến, mặc dù Trung Đoàn 66 mãi đến đầu tháng 11 mới lê gót được đến mật khu Chu Prong.

Rồi khi cho lệnh hai Trung Đoàn 32 và 33 rút lui về mật khu Chuprong-Iadrang với chủ đích kết tụ với Trung Đoàn 66 tiến công trại Pleime lần thứ hai, và lần này sẽ đánh dứt điểm chứ không đánh viện. Quả thật vậy, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 đã không tổ chức đối đầu ứng chiến với Lữ Đoàn 1 Không Kỵ khi bị lùa về mật khu Chu Prong mà chỉ tập trung quân lại nhằm tấn công trại Pleime lần thứ hai khi nhầm tưởng Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thay thế cho Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đánh mất tung tích của các đơn vị mình nên Mặt Trận B3 liền cải đổi thế thủ qua thế công, để rồi bị quân Mỹ đột kích bất thần tại chân rặng núi Chu Prong đang khi các đơn vị chuẩn bị lên đường tiến công trại Pleime tại các địa điểm xuất quân. Thành thử Bộ Tư Lệnh B3 rút quân về Chu Prong không phải là dụ quân Mỹ vào để đánh mà là để chuẩn bị nỗ lực triệt tiêu trại Pleime trong một cuộc tiến công thứ hai.

Phi Pháo Mỹ
Tướng Nam Hà nhận xét:
Với địa hình có “rừng che bộ đội, rừng ngăn quân thù”, lại có tài ngụy trang khéo léo, ý thức giữ bí mật, kỷ luật cao, bộ đội ta đã hạn chế, vô hiệu hóa được một phần sức mạnh của không quân, pháo binh các loại của Mỹ - chỗ dựa chủ yếu cho sức mạnh của chúng.

Tướng Nam Hà quả thật không ngờ là phía Mỹ-ngụy đã chủ yếu đánh bại đối phương bằng oanh tạc B-52, chứ không phải bằng bộ chiến và pháo binh. Đại Tá Hiếu viết trong cuốn , Why Pleime, nơi chương VI:

Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông - mỗi khu 20 dậm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. "Cửa hậu" vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.

Nắm thắt lưng địch mà đánh
Tướng Nam Hà nhận xét:
Nhân tố thứ hai là phát huy sở trường về tiến công vận động của binh đoàn chủ lực cơ động mà nội dung cơ bản là đánh gần với khẩu hiệu: “Nắm thắt lưng địch mà đánh”. Theo nguyên tắc đó, từ Tư Lệnh chiến dịch đến từng chiến sĩ các đơn vị binh chủng theo chức trách, vị trí của mình mà cố gắng tiếp cận bám sát địch đến mức độ tối đa. Tất cả là nhằm bảo đảm đưa toàn bộ các tiểu đoàn đột kích vào các trận chiến đấu giáp lá cà. Đó là thể hiện tư tưởng tích cực tiến công tiêu diệt địch của quân đội ta, là cách đánh bảo đảm cho ta luôn nắm quyền chủ động, còn địch lúng túng bị động, phải đối phó với ta hết tình huống này đến tình huống khác, hết trận này đến trận khác.

Có ba tình huống trong đó phía Mỹ-ngụy đã không một tị “lúng túng” hoá giải thế “Nắm thắt lưng địch mà đánh”:
- (1) Chiến thuật Việt Cộng xử dụng để triệt hạ thiết đoàn tiếp cứu ở địa điểm phục kích là đặt để các bộ đội thiết bị lưỡi lê và dao găm tiến sát tới cạnh các xe tăng và xe bọc sắt trực sẵn để giết hại các binh sĩ của thiết đoàn sẽ bấn loạn tinh thần tự nhiên chui ra khỏi lòng xe và nhảy xuống đất để ứng chiến quân phục kích. Trung Tá Nguyễn Trọng Luật biết vậy, nên đã ra lệnh các chiến binh không nhảy ra khỏi xe đồng thời thả cửa tung lựu đạn tay ra banh xác các chiến binh Việt Cộng. Đến khi cuộc phục kích kết thúc thì chỉ việc ung dung xuống xe đi đếm xác địch bị lựu đạn giết hại nằm ngổn ngang sát cạnh các xe tăng.

- (2) Với thế “kiềm vĩ kích thủ”, nắm đuôi với bộ binh đập đầu với oanh tạc B-52, cán binh Việt Cộng chịu bó tay chết thảm trong khi các toán quân Mỹ cẩn thận đứng xa vùng oanh tạc khoảng cách an toàn trên 3 cây số.

- (3) Đến khi lính dù Việt Nam nhảy vào vòng chiến trong giai đoạn chót của chiến dịch Pleime thì các cán binh Việt Cộng của hai Tiểu Đoàn Việt Cộng – 635 và 334 – sống sót chỉ tìm cách tránh nhé sợ đụng độ với quân dù, mặc dù vậy cũng bị quân dù phục kích hai lần, bị thiệt hại khoảng 200 tên.


http://ptlambao.blogspot.com/2015/01/thien-tai-quan-su-vnch-trung-tuong.html



Tuesday, April 11, 2017

Sơ Lược Về HẢI QUÂN HOA KỲ

 

Sơ Lược Về HẢI QUÂN HOA KỲ

Tác giả: Đỗ Hữu Long

I- Tổng Quát: Hải Quân Hoa Kỳ là một quân chủng của quân lực Mỹ có trách nhiệm thực hiện những cuộc hành quân trên biển. Quân số thường trực của Hải Quân Mỹ gồm 332.000 quân nhân hiện dịch và 124.000 trừ bị. Hải Quân điều hành 282 chiến hạm đang hoạt động và hơn 3.700 phi cơ.

 photo 100628-N-6720T-064_zpscd939ffc.jpg
PACIFIC OCEAN (June 28, 2010) The guided-missile destroyer
USS McCampbell (DDG 85), left, and the guided-missiledestroyer
USS Curtis Wilbur (DDG 54), right.

Hải Quân Hoa Kỳ bắt nguồn từ Hải Quân Lục Địa (Continental Navy) thành lập trong cuộc chiến tranh Cách Mạng (1775-1783). Trước tiên, Quốc Hội bàn cãi sôi nổi có nên chăng thành lập một đội hải quân. Phe bênh vực lập luận rằng Hải Quân sẽ bảo vệ tàu thuyền, phòng thủ duyên hải, khám phá những xâm nhập từ bên ngoài. Phía chống đối cho rằng làm như thế là khờ dại vì thách đố với Hải Quân Hoàng Gia Anh (British Royal Navy), một hải lực đệ nhất hùng mạnh. Ngay trong lúc nầy, Tổng Tư Lệnh George Washington điều khiển 7 chiến hạm và đánh thắng những tàu tiếp liệu của Anh Quốc và gởi thư báo cáo Quốc Hội. Lá thư được Quốc Hội tiếp nhận và đọc trong ngày 13 tháng 10 năm 1775, chấm dứt cuộc tranh luận. Từ đó, ngày 13 tháng 10 trở thành ngày sinh nhật của Hải Quân Hoa Kỳ.

Hiến pháp Hoa Kỳ trao Quốc Hội thẩm quyền “cung ứng và duy trì Hải Quân”. Quốc Hội thông qua Đạo Luật Hải Quân năm 1794 (Naval Act of 1794) ra lệnh chế tạo và cung cấp thủy thủ cho 6 khu trục hạm và đã thành công trong việc chống hải tặc cướp phá các thương thuyền Mỹ.

Lịch sử Hiệp Chủng Quốc cũng ghi nhận Hải Quân đã giữ một vai trò trong chính sách đối ngoại khi nhắc đến Thiếu Tướng Hải Quân Matthew Perry tiếp xúc với Nhật Bản và ký kết Hiệp Định Kanagawa năm 1854.

Hải Quân Mỹ có khả năng khiêm tốn trong Thế Chiến I, nhưng phát triển mạnh trong Thế Chiến II, nhất là sau cuộc tấn công bất ngờ của quân đội Nhật Bản vào Trân Châu Cảng năm 1941. Tại chiến trường Thái Bình Dương, Hải Quân Mỹ là thành phần chủ chốt của lực lượng đồng minh thành công trong chiến dịch tiến chiếm từng hải đảo. Hải quân Mỹ tham dự nhiều trận đánh vang dội như là: Trận đánh Đảo San Hô, trận đánh Midway, trận đánh trên biển Phi Luật Tân (Battle of the Philippine Sea), trận đánh Vịnh Leyte, trận đánh Okinawa. Sau cùng, Douglas MacArthur vị tướng năm sao, tư lệnh tối cao của lực lượng đồng minh (Supreme Commander for the Allied Powers) chấp nhận sự đầu hàng của Nhật, văn bản được ký kết trên chiến hạm USS Missouri ngày 2 tháng 9 (tức ngày 1/9 tại Mỹ) năm 1945.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Hải Quân Mỹ chịu trách nhiệm sẵn sàng đối phó với những cuộc khủng hoảng và chuẩn bị một trận thế chiến có thể bùng nổ với Liên Xô. Thập niên 1990, tầm vóc của Hải Quân Mỹ lớn nhất thế giới, hơn bảy lần tổng số Hải Quân của các cường quốc khác gộp lại.

Kể từ biến cố 9/11/2001, Hải Quân Mỹ cải tiến để đương đầu với những đe dọa mới bằng cách tân tạo hình thể và trang bị vũ khí các loại chiến hạm như là khu trục hạm loại Zumwalt (Zumwalt class destroyer) và loại tàu chiến ven biển (Littoral Combat Ship) để có đủ khả năng thi hành những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà không phải gia tăng số lượng.

Năm 2007, Hải Quân Mỹ tiếp nhận thêm binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (US Marine Corp) và Lực Lượng Duyên Phòng (US Coast Guard) tạo ra một chiến lược hải quân mới gọi là Chiến Lược Phối Hợp Hải Lực Thế Kỷ 21 (A Cooperative Strategy for 21st Century Seapower).

Chiến lược nhìn nhận những liên kết kinh tế của hệ thống toàn cầu và sự đổ vỡ của hệ thống nầy vì các khủng hoảng trong khu vực – do thiên nhiên hoặc con người tạo ra – có thể tác động bất lợi đến nền kinh tế và phẩm chất đời sống của Hoa Kỳ. Chiến lược mới nầy hoạch định một lộ đồ cho Hải Quân, Lực Lượng Duyên Phòng, Thủy Quân Lục Chiến kết hợp với nhau và với các đối tác quốc tế để ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng này xảy ra hoặc đối phó kịp thời khi cuộc khủng hoảng xuất hiện, nhằm tránh những tác động tiêu cực đối với Hoa Kỳ.

Trong thế kỷ 21, Hải Quân Mỹ vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện đúng tầm mức trên khắp thế giới, triển khai tại một số khu vực như là Đông Á, Địa Trung Hải, Trung Đông. Hải Quân Biển Xanh (Blue Water Navy) - với khả năng phóng ra những lực lượng vào những vùng ven biển, bám vào những khu vực tiền tiêu, đáp ứng kịp thời những khủng hoảng trong khu vực - giữ một vai trò tích cực cho chính sách quốc phòng và ngoại giao của Hiệp Chủng Quốc. Hải Quân Mỹ có số trọng tấn nặng nhất thế giới, kinh phí 127.3 tỉ đô la của tài khóa 2007. Hải Quân Mỹ cũng sở hữu những hàng không mẫu hạm lớn nhất, với 11 hàng không mẫu hạm đang xử dụng và một hàng không mẫu hạm đang chế tạo (2009).

Hải Quân được quản trị bởi Bộ Hải Quân mà Bộ Trưởng là dân sự. Bộ Hải Quân là phân bộ của Bộ Quốc Phòng. Chỉ Huy Trưởng Hành Quân Hải Lực (Chief of Naval Operation) là sĩ quan hải quân cao cấp nhất.

Không Quân của Hải Quân gồm các loại:

- Không chiến và oanh kích: F/A - 18A/B/C/D/E/F, F35C, S3.

- Chiến tranh điện toán: E-2C, EP-3E, E-6, EA-6B, EA-18G.

- Trực thăng: UH-1, SH-3, CH-53D, MH-53E, SH-60, MH-60, CH-60.

- Tuần tiễu: P-3, P-8.

- Quan sát: RQ-2.

- Nhiều phi cơ huấn luyện và phi cơ vận tải.

Lực lượng chính của Hải Quân Mỹ là các loại chiến hạm, bố trí khắp các vùng biển và đại dương nhằm bảo vệ chính quốc và quyền lợi của nước Mỹ trên toàn thế giới.

II- Các Hạm Đội

Hải Quân Mỹ điều hành sáu hạm đội, gồm có:

1) Đệ Nhị Hạm Đội (The 2nd Fleet): Đệ Nhị Hạm Đội chịu trách nhiệm huấn luyện những kỹ năng chiến tranh, phát triển và lượng định những chiến thuật hải quân tân kỳ và sẵn sàng ứng chiến.

Đệ Nhị Hạm Đội hoạt động trong Đại Tây Dương từ Bắc Cực đến Nam Cực, từ bờ biển Hiệp Chủng Quốc đến phía tây Âu Châu. Hạm đội cũng tuần tiễu dọc theo hai bên bờ biển Nam Mỹ và một phần bờ biển Trung Mỹ. Tóm lại, hạm đội nhận trách nhiệm một vùng biển 38 triệu hải lý vuông. Khả năng của hạm đội gồm có: hàng không mẫu hạm, chiến hạm, tiềm thủy đỉnh, phân bộ thám sát, lực lượng thủy bộ, Thủy Quân Lục Chiến và những đơn vị tiếp vận lưu động. Đệ Nhị Hạm Đội đặt bản doanh tại Norfolk, tiểu bang Virginia.

2) Đệ Tam Hạm Đội (The 3rd Fleet): Nhiệm vụ chính của Đệ Tam Hạm Đội là tuần tiễu và kiểm soát vùng biển Trung và Đông Thái Bình Dương. Trong thời bình, hạm đội không có lực lượng thủy bộ và hàng không mẫu hạm. Đệ Tam Hạm Đội được thành lập ngày 15/3/1943 như là một lực lượng chiến đấu, đặt bản doanh tại Trân Châu Cảng, tiểu bang Hạ Uy Di.

3) Đệ Tứ Hạm Đội (The 4th Fleet): Đệ Tứ Hạm Đội được thành lập năm 1943 và giải tán năm 1950. Hạm đội được tái lập ngày 24/4/2008 và Phó Đô Đốc Joseph D. Kernar được bổ nhiệm làm tư lệnh hạm đội. Đệ Tứ Hạm Đội gồm có nhiều chiến hạm, hàng không mẫu hạm, tiềm thủy đỉnh... phụ trách tuần hành vùng biển Caribbean, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hạm đội có nhiệm vụ phối hợp với hải quân các quốc gia bạn, chống bọn buôn lậu ma túy, giữ gìn an ninh khu vực, phản ứng quân sự hỗn hợp, huấn luyện song phương hoặc đa phương. Hạm đội đặt bản doanh tại Mayport, tiểu bang Florida.

4) Đệ Ngũ Hạm Đội (The 5th Fleet): Đệ Ngũ Hạm Đội duy trì một lực lượng hùng mạnh để ngăn chặn hoặc đánh trả những đe dọa từ vùng Vịnh Ba Tư.

Khởi đầu, Đệ Ngũ Hạm Đội được thành lập ngày 26/4/1944 từ lực lượng trung tâm Thái Bình Dương và giải tán vài năm sau thế chiến (1947). Tuy nhiên vào đầu thập niên 1980, nhiều tuần dương hạm, khu trục hạm, tàu vét mìn... được tăng viện đến vùng Trung Đông. Sau cuộc chiếm đóng Kuwait của Iraq năm 1990, một hạm đội lớn nhất kể từ Đại Thế Chiến thứ Hai được thành hình để yểm trợ cho cuộc hành quân Lá Chắn Sa Mạc (Operation Desert Shield) và tiếp theo là cuộc hành quân Bão Sa Mạc (Operation Desert Storm) 1991. Do nhu cầu chiến lược, tháng 7 năm 1995, Đệ Ngũ Hạm Đội sau 48 năm ngủ yên, được tái lập để đảm nhận công tác tuần hành trong vùng Vịnh gồm Hồng Hải, Biển Ả Rập và vịnh Ba Tư. Hạm đội đặt bản doanh tại Manama thủ đô Bahrain (ghi chú: Bahrain là một đảo quốc sa mạc bằng phẳng và cằn cỗi, sản xuất dầu hỏa, nằm trong vịnh Ba Tư giữa Qatar và Saudi Arabia. Tổng diện tích của quần đảo 665 km2, lớn hơn đảo Phú Quốc (Việt Nam) khoảng 100 km2, dân số năm 2007 là 1.046.814 người).

5) Đệ Lục Hạm Đội (The 6th Fleet): Đệ Lục Hạm Đội gồm khoảng 40 chiến hạm, 175 phi cơ và 21.000 quân nhân. Đệ Lục Hạm Đội là thành phần chủ chốt của Hải Quân Âu Châu. Lực lượng tấn công của hạm đội phải kể đến các phản lực cơ tối tân trên các hàng không mẫu hạm, tiềm thủy đỉnh, những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến với những tàu thủy bộ. Việc chỉ huy hạm đội là trách nhiệm của quốc gia Hoa Kỳ và của Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Bộ tư lệnh hạm đội đặt trên soái hạm USS Mount Whitney và bản doanh đồn trú tại Naples, Ý Đại Lợi.

Đệ Lục Hạm Đội tổ chức nhiều lực lượng đặc nhiệm có chức năng định sẵn:

- Đặc Nhiệm 60: Đây là lực lượng chiến trường của hạm đội gồm một hoặc nhiều hàng không mẫu hạm. Mỗi mẫu hạm được kèm theo 6 tuần dương hạm và khu trục hạm. Mỗi mẫu hạm mang từ 65 đến 85 phi cơ gồm các loại tấn công, không chiến, chống tiềm thủy đỉnh và quan sát. Các chiến hạm hộ tống mẫu hạm cũng dùng để tấn công, tự vệ chống không kích, chống chiến hạm và diệt tiềm thủy đỉnh địch.

- Đặc Nhiệm 61: Đặc nhiệm 61 là nhóm ứng chiến thủy bộ Địa Trung Hải (MARG Mediterranean Amphibious Ready Group). Đặc nhiệm nầy gồm có 3 chiến hạm với tàu đổ bộ. Từ những chiến hạm, thủy quân lục chiến Mỹ di chuyển vào bờ với nhiệm vụ xung kích khẩn cấp. Sau khi đổ bộ, các chiến hạm vẫn giữ vai trò yểm trợ cho đến khi mục tiêu được hoàn tất, đón các chiến binh Thủy Quân Lục Chiến trở về chiến hạm.

- Đặc Nhiệm 62: Là đơn vị Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) viễn chinh (MEU: Marine Expeditionary Unit) với quân số 1.800 người có trang bị thiết giáp, trọng pháo và trực thăng để thực hiện những cuộc hành quân ven bờ hoặc di tản nhân viên dân sự tại những khu vực rối loạn.

- Đặc Nhiệm 63: Là lực lượng tiếp liệu gồm những tàu dầu, tàu thực phẩm, tàu sửa chữa cho toàn hạm đội.

- Đặc Nhiệm 64: Gồm những tiềm thủy đỉnh trang bị hỏa tiễn liên lục địa. Trong thập niên 1970 các tiềm thủy đỉnh nầy có căn cứ tại Rota, Tây Ban Nha. Bộ tư lệnh hạm đội không có ảnh hưởng trong việc chọn lựa mục tiêu tấn công. Những mục tiêu tấn công được tuyển chọn hàng năm bởi Nhóm Kế Hoạch Mục Tiêu Nguyên Tử (Nuclear Target Planning Group) của Minh Ước Bắc Đại Tây Dương.

- Đặc Nhiệm 66/69: Đặc nhiệm 66/69 phụ trách kế hoạch hành quân tiềm thủy đỉnh và chống tiềm thủy đỉnh trong vùng Địa Trung Hải. Đặc biệt, Đặc Nhiệm 69 gồm các tiềm thủy đỉnh tấn công có khả năng tiêu diệt chiến hạm và tiềm thủy đỉnh của địch quân cũng như bảo vệ Đệ Lục Hạm Đội.

- Đặc Nhiệm 67: Gồm những phi cơ có căn cứ tại đất liền, phụ trách tuần tra khắp mặt biển Địa trung hải với nhiệm vụ chống tàu ngầm, trinh sát, giám sát và rải mìn.

6) Đệ Thất Hạm Đội (The 7th Fleet): Đệ Thất Hạm Đội, thành lập ngày 19 tháng 2 năm 1943 từ những lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương, là hạm đội lớn nhất với 50 - 60 chiến hạm, 350 phi cơ và 60.000 Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến. Đệ thất hạm đội hoạt động trong vùng Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và vùng Vịnh Ả Rập. Với sự yểm trợ của những Chỉ huy trưởng đặc nhiệm, Đệ Thất Hạm Đội thực hiện ba nhiệm vụ:

a/ Cứu trợ các thiên tai hoặc phối hợp hành quân.

b/ Chỉ huy các lực lượng hành quân trong khu vực.

c/ Chỉ huy các thành phần hải quân phối hợp để bảo vệ bán đảo Nam Hàn.

Trong tình trạng chiến tranh, các hải lực đồng minh trên chiến trường đều chịu dưới sự kiểm soát của Đệ Thất Hạm Đội. Bất cứ ngày tháng nào, 50% chiến hạm lênh đênh trên biển cả thuộc vùng trách nhiệm, trong đó khoảng 18 chiến hạm tuần hành từ Nhật Bản đến đảo Guam. Tư lệnh hạm đội hiện tại là Phó Đô Đốc John M. Bird và soái hạm là chiến hạm USS Blue Ridge trú đóng tại Yokosuka, Nhật Bản.

Các đơn vị đặc nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội gồm có:

- Đặc Nhiệm 70: Là nhóm đặc nhiệm chiến trường của Đệ Thất Hạm Đội.

- Đặc Nhiệm 71: Phụ trách kế hoạch và phối hợp các hoạt động của hạm đội.

- Đặc Nhiệm 72: Tuần tra và trinh sát.

- Đặc Nhiệm 73: Phụ trách tiếp liệu.

- Đặc Nhiệm 74: Chỉ huy các tiềm thủy đỉnh.

- Đặc Nhiệm 75: Chỉ huy các chiến hạm nổi.

- Đặc Nhiệm 76: chỉ huy các lực lượng ứng chiến thủy bộ và những tàu thủy bộ tăng phái trong vùng hành quân.

- Đặc Nhiệm 77: Là một phần của Đặc Nhiệm 70 và chỉ huy các mẫu hạm.

- Đặc Nhiệm 79: Là lực lượng đổ bộ được chuyển vận bằng phương tiện của Đặc Nhiệm 76.

III- Đệ Thất Hạm Đội và Vùng Tây Thái Bình Dương

Thái Bình Dương được các tài liệu địa dư quốc tế chính thức chia làm hai phần là Bắc Thái Bình Dương và Nam Thái Bình Dương tuy nhiên Hải Quân Mỹ do nhu cầu kỹ thuật, quy định đại dương rộng lớn nầy theo hướng Đông Tây. Tây Thái Bình Dương trải rộng từ khoảng kinh tuyến 180o đến eo biển Malacca tiếp giáp với Ấn Độ Dương và kéo dài từ Bắc đến Nam.

Sự hiện diện và ảnh hưởng quân sự của hải quân Mỹ trong khu vực Tây Thái Bình Dương được dự liệu như sau:

- Duy trì sự hiện diện thường trực của chiến hạm Mỹ trên khắp khu vực. Điều nầy liên quan đến số lượng chiến hạm, vị trí trú đóng ở Nhật, Guam, Hawaii và có lẽ cả Singapore, kéo dài thời gian luân chuyển thủy thủ đoàn.

- Thường xuyên ghé thăm các hải cảng trong khu vực.

- Tập trận với hải quân các quốc gia trong khu vực.

- Bảo đảm sự tương hợp hệ thống liên lạc giữa chiến hạm hải quân Mỹ và chiến hạm các quốc gia đồng minh hoặc thân hữu.

- Trao đổi nhân viên, sĩ quan, binh sĩ giữa Hải Quân Mỹ và Hải Quân các quốc gia trong vùng.

Thật sự, trong khu vực trách nhiệm của Đệ thất hạm đội vẫn âm ỉ những ngòi nổ dễ dàng bộc phát như là bán đảo Đại Hàn, eo biển Đài Loan, tứ giác Việt-Trung-Phi-Mã.

Eo biển Đài Loan và bán đảo Nam Hàn là nơi tập trung sự quan tâm của chính quyền và dư luận Mỹ thường được thảo luận một cách công khai. Bộ Quốc Phòng dự liệu những kế hoạch sẵn sàng can thiệp khi có những biến cố quan trọng, tuy nhiên nếu vì nguyên nhân chính trị những căn cứ quân sự tại Nam Hàn và Nhật không còn được xử dụng trong việc hành quân hoặc trường hợp các căn cứ đó kể cả căn cứ tại đảo Guam bị hỏa tiễn liên lục địa đánh phá, vai trò của hải quân Mỹ với các hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh trở nên vô cùng cần thiết...


 title=

Commander Hung Le of USS Lassen (DDG 82) of Seventh Fleet/Đệ Thất Hạm Đội

Tứ giác Việt-Trung-Phi-Mã là khu vực mới bộc phát những xáo trộn trong vài thập niên gần đây và phản ứng của các quốc gia Đông Nam Á và các cường quốc kinh tế vẫn còn dè dặt. Dù được che đậy bằng nhiều thủ đoạn, mưu đồ truyền thống của Hán tộc nhằm khống chế và chiếm lĩnh Vùng Đông Nam Á, bắt đầu từ bàn đạp Việt Nam tiến ra biển Đông hay là Nam Hải đều được thế giới theo dõi và kế hoạch quốc phòng của Mỹ luôn luôn đặt Trung Cộng vào đối tượng quan tâm ưu tiên cao nhất.

Bộ Quốc Phòng Mỹ đã lượng định đầy đủ về kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Trung Cộng tương quan với những cuộc chiến Iraq, Afghanistan và khủng bố. Mặc dù chiến trường Iraq và Afghanistan bắt buộc gia tăng nhu cầu Bộ Binh và Thủy Quân Lục Chiến nhưng Bộ Quốc Phòng cũng gia tăng ngân khoản cho Hải Quân và Không Quân.

Hiện nay Hải Quân Mỹ có tất cả 282 chiến hạm kể cả 11 Hàng Không Mẫu Hạm và dự định sẽ tăng lên 313 chiến hạm với 12 HKMH trong những năm sắp đến (2010). Trong những cuộc điều trần, Quốc Hội đã có những nhận định rõ ràng về số lượng chiến hạm có thể đương đầu với những thử thách do kế hoạch hiện đại hóa của hải quân Trung cộng, đồng thời vẫn khai triển được lực lượng ở vùng Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương và những cuộc hành quân bất ngờ trong phần còn lại của thế giới như là vùng Địa Trung Hải, Caribbean, Nam Mỹ Châu, Tây Phi Châu. Như vậy, đề nghị 313 chiến hạm bao gồm 12 hàng không mẫu hạm, có đủ khả năng chu toàn những nhiệm vụ trong thời bình cũng như trong chiến tranh đã được chuẩn thuận.

Những năm trước, hoạt động của Hải Quân Trung Cộng trên vùng Tây Thái Bình Dương có tính cách thăm dò, dè dặt nhưng thời gian gần đây chúng tiến xa hơn và tỏ thái độ thách thức. Tiêu biểu nhất là sự kiện ngày 8 tháng 3, 2009 tại biển Nam Hải (biển Đông) 5 chiếc tàu Trung Cộng quấy nhiễu tàu USNS Impeccable, và sau đó phát ngôn viên Ngũ Giác Đài Bryan Whitman tuyên bố rằng tàu Mỹ sẽ tiếp tục di chuyển trong hải phận quốc tế.

Bộ Quốc Phòng Mỹ và các quốc gia trong khu vực đều có sự quan tâm và giải pháp.

Mỹ tiếp tục gia tăng chiến hạm và nâng số tiềm thủy đỉnh tấn công trong khu vực Thái Bình Dương lên đến 31 tiềm thủy đỉnh vào cuối năm 2009, một sự xoay chiều nghịch đảo so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Ngày 22 tháng 4 năm 2009 vừa qua, một phái đoàn sĩ quan Cộng Sản Việt Nam được mời thăm viếng Hàng Không Mẫu Hạm John C. Stennis.

Mới đây, một Bạch Thư của Bộ Quốc Phòng Úc Đại Lợi kêu gọi tăng ngân sách hải quân, đầu tư vào 12 tiềm thủy đỉnh và nhấn mạnh rằng: “Úc không xem Trung Cộng như là mối đe dọa mà là một yếu tố trong quá trình kế hoạch chiến lược”. Bạch Thư cũng đưa ra nhận xét: “Quan hệ giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh có tầm quan trọng đặc biệt cho sự ổn định chiến lược của Châu Á – Thái Bình Dương” và đánh giá rằng: “Hoa Kỳ vẫn sẽ là nước hùng mạnh nhất và ảnh hưởng nhất về mặt chiến lược trong giai đoạn từ nay tới 2030”.

IV- Hạm Đội Thái Bình Dương (US Pacific Fleet) và Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (US Pacific Command)

1/ Hạm đội Thái Bình Dương là một bộ máy chiến tranh của Hải Quân Mỹ lớn nhất thế giới, bao gồm Đệ Tam Hạm Đội, Đệ Thất Hạm Đội, Không Lực Hải Quân Thái Bình Dương, Lực Lượng Chiến Hạm Thái Bình Dương, Lực Lượng Tiềm Thủy Đỉnh Thái Bình Dương và những lực lượng khác, cấp số khoảng 180 chiến hạm, 1.500 phi cơ, 125.000 hải quân, thủy quân lục chiến và dân sự. Hạm Đội Thái Bỉnh Dương nhận trách nhiệm khoảng 100 triệu dặm vuông biển và đại dương, hơn 50% diện tích địa cầu, từ bờ biển phía Tây nước Mỹ đến bờ biển phía Đông Phi Châu, từ Bắc Cực xuống Nam Cực, bao gồm ba đại dương: Bắc Băng Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và sáu lục địa: Á Châu, Phi Châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Cực, Úc Châu. Những Bộ Chỉ huy Hải Lực tại Nam Hàn, Nhật Bản, quần đảo Marianas cũng trực thuộc thẩm quyền của Hạm Đội Thái Bình Dương.


Lê Bá Hùng USS Lassen US Navy Commander

Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương (US Pacific Fleet) hiện nay là Đô Đốc Robert F. Willard và tổng hành dinh đóng tại Trân Châu Cảng, tiểu bang Hạ Uy Di.

Theo tổ chức hiện hành và cơ cấu chỉ huy, Hạm Đội Thái Bình Dương báo cáo theo hệ thống hành chánh về Chỉ Huy Trưởng Hành Quân Hải Lực (Chief of Naval Operations) - Đô Đốc Gary Roughead - thuộc Bộ Hải Quân và theo hệ thống quân giai đến Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (US Pacific Command) - Đô Đốc Timothy J. Keating - tổng hành dinh đặt tại căn cứ H.M. Smith, tiểu bang Hạ Uy Di.

2/ Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command) viết tắt: USPACOM là Bộ Tư Lệnh tác chiến hợp nhất của Quân Lực Hoa Kỳ. Bộ Tư Lệnh nhận trách nhiệm phần lãnh thổ hơn phân nửa địa cầu, trải dài từ bờ biển phía Tây nước Mỹ đến biên giới phía Tây Ấn Độ và từ Nam Cực đến Bắc Cực. Đây là khu vực có sự khác biệt lẫn nhau về văn hóa, xã hội, kinh tế, địa lý và chính trị. Nơi đây cũng là quê hương của 36 quốc gia, chiếm hơn 50% dân số nhân loại với 3.000 ngôn ngữ, nhiều quân lực hùng mạnh của thế giới, năm quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ với những hiệp ước hổ tương quốc phòng. Trong khu vực cũng có hai cường quốc kinh tế trong số bốn cường quốc kinh tế (Mỹ, Nhật, Trung Cộng, Anh Quốc), những quốc gia đông dân nhất thế giới, quốc gia theo thể chế dân chủ lớn nhất, quốc gia đa số là tín đồ Hồi Giáo lớn nhất. Hơn một phần ba những quốc gia của khu vực Châu Á Thái Bình Dương là những quốc gia hải đảo nhỏ bé trong đó có Cộng Hòa bé nhất thế giới và quốc gia nhỏ nhất ở Á Châu.

Các quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương được liệt kê như sau: Úc Đại Lợi, Bangladesh, Bhutan, Brunei, Burma, Cam Bốt, Trung Cộng, Fiji, Ấn Độ, Nam Dương, Nhật Bản, Kiribati, Lào, Malaysia, Maldives, Marshall Islands, Micronesia, Mông Cổ, Nauru, Nepal, Tân Tây Lan, Bắc Hàn, Palau, Papua Guinea, Phi Luật Tân, Samoa, Tân Gia Ba, Solomon Islands, Nam Hàn, Sri Lanka, Thái Lan, Timor-Leste, Tonga, Tuvalu, Vanuatu, Việt Nam.


 title=
Những vùng trách nhiệm của Hạm Đội

Một cách tổng quát, Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương USPACOM cam kết sẽ là một đối tác tích cực và đáng tin cậy nhằm bảo đảm an ninh, ổn định và tự do làm nền tảng cho sự phồn vinh của khu vực Á Châu Thái Bình Dương và đề ra các tiêu lệnh:

Ưu Tiên Quân Sự

USPACOM trước tiên là Bộ Tư Lệnh Tác Chiến, cam kết duy trì ưu thế quân sự về nhiều phương cách hành quân. Chúng ta là một lực lượng sẵn sàng và hiện diện.

Tiếp Xúc Đa Phương Tiến Đến An Ninh

USPACOM nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của những giải pháp song phương và đa phương để vượt qua những thách thức về an ninh và duy trì sự ổn định trên toàn vùng. Chúng ta sẽ hành động phối hợp với những nước nào xem trọng sự hợp tác và cộng tác để đem lại an ninh và ổn định.

USPACOM trước tiên là Bộ Tư Lệnh Tác Chiến, cam kết duy trì ưu thế quân sự về nhiều phương cách hành quân. Chúng ta là một lực lượng sẵn sàng và hiện diện.

Di Chuyển Tự Do Và Tiếp Cận An Toàn

Di chuyển tự do và tiếp cận an toàn trên mọi lĩnh vực cho tất cả các quốc gia là điều tối cần thiết cho an ninh và thịnh vượng của toàn vùng. USPACOM không chấp nhận những điều kiện làm cản trở di chuyển và tiếp cận và cũng không tha thứ những hành vi làm gián đoạn những đường dây tiếp trợ toàn cầu hoặc những đe dọa đối với những tuyến đường giao thông và thương mại.

Nổ Lực Của Toàn Bộ Chính Phủ

Sự thành công trong hoạt động hỗ tương của USPACOM trong môi trường phức tạp của vùng Á Châu Thái Bình Dương đòi hỏi một sự hợp tác cao độ, đồng bộ và thống nhất bên trong Bộ Quốc Phòng Mỹ và các Bộ và các cơ quan khác cuả chính phủ. Sự vận dụng toàn bộ chính phủ nầy cho phép chúng ta xem như là một đòn bẫy hữu hiệu đối với các cơ quan thẩm quyền của quốc gia.

Di chuyển tự do và tiếp cận an toàn trên mọi lĩnh vực cho tất cả các quốc gia là điều tối cần thiết cho an ninh và thịnh vượng của toàn vùng. USPACOM không chấp nhận những điều kiện làm cản trở di chuyển và tiếp cận và cũng không tha thứ những hành vi làm gián đoạn những đường dây tiếp trợ toàn cầu hoặc những đe dọa đối với những tuyến đường giao thông và thương mại.

Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương cũng quy định rõ bảy nhiệm vụ như sau:

* Bảo vệ Tổ Quốc.

* Duy trì một khả năng quân sự hùng mạnh.

* Phát triển những thỏa hiệp hợp tác an ninh.

* Tăng cường và mở rộng sự quan hệ với đồng minh và các nước có sự hợp tác với Hoa Kỳ.

* Giảm thiểu tính nhạy cảm đối với chủ nghĩa cực đoan bạo lực.

* Ngăn chận gây hấn quân sự.

* Ngăn chận những kẻ thù địch sử dụng vũ khí giết người hàng loạt.

Trong tuần lễ đầu tháng 6/ 2009 vừa qua, một phái đoàn sĩ quan Cộng Sản Việt Nam đã đến Hạ Uy Di để quan sát cuộc diễn tập cứu nạn bão lụt Makani Pahili. Phái đoàn do Trung Tướng Việt Cộng Trần Quang Khuê, phó chủ tịch thường trực Ủy Ban Cứu Trợ hướng dẫn, đã được Đô Đốc Timothy Keating tiếp đón tại tổng hành dinh với lễ nghi quân cách và sau đó phái đoàn được mời viếng thăm các cơ sở và tiện nghi của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương.

V- Hàng Không Mẫu Hạm

Mỗi khi một cuộc khủng hoảng xảy ra trên thế giới, câu hỏi đầu tiên của người Mỹ là hàng không mẫu hạm đang nằm ở đâu. Hàng không mẫu hạm được bố trí tại những nơi xung yếu trên biển và đại dương để yểm trợ cho quyền lợi và sự cam kết của nước Mỹ. Hàng Không Mẫu Hạm là chiến hạm được chế tạo để chuyên chở phi cơ, có phi đạo để phi cơ xuất phát và hạ cánh. Kể từ 1922 đến nay, nước Mỹ sản xuất 66 hàng không mẫu hạm, đã giải nhiệm 53, hiện đang xử dụng 11 và dự định hoàn tất một hàng không mẫu hạm (USS Gerald R. Ford) năm 2015.


 photo uss-gw_zpsf482a855.jpg
Hàng Không Mẫu Hạm/Aircraft Carrier

Hàng không mẫu hạm kết hợp với các chiến hạm khác là một cơ cấu tác chiến quan trọng, nên các cường quốc cố gắng tạo lập các hàng không mẫu hạm để duy trì sức mạnh trên mặt biển. Sau đây là những dữ kiện đơn giản liên quan đến hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và của các quốc gia khác...

1/ Các Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ:

* 1.1/ USS Enterprise: 93,500 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng đầu tiên, nhận nhiệm vụ 25 tháng 11 năm 1961.

* 1.2/ USS Nimitz: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 3 tháng 5 năm 1975.

* 1.3/ USS Dwight D. Eisenhower: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 18 tháng 10 năm 1977.

* 1.4/ USS Carl Vinson: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 13 tháng 3 năm 1982.

* 1.5/ USS Theodore Roosevelt: 101,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 13 tháng 3 năm 1982.

* 1.6/ USS Abraham Lincoln: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 11 tháng 11 năm 1989.

* 1.7/ USS George Washington: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 4 tháng 7 năm 1992.

* 1.8/ USS John C. Stennis: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 9 tháng 12 năm 1995.

* 1.9/ USS Harry S. Truman: 102,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 25 tháng 7 năm 1998.

* 1.10/ USS Ronald Reagan: 104,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 12 tháng 7 năm 2003.

* 1.11/ USS George H.W. Bush: 104,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, nhận nhiệm vụ 10 tháng 1 năm 2009.

* 1.12/ USS Gerald R. Ford: đang kiến tạo, 100,000 tấn, siêu mẫu hạm vận hành bằng nguyên tử năng, dự định giao nhiệm vụ năm 2015.


2/ Hàng Không Mẫu Hạm của các quốc gia khác:

1. Ba Tây: Ba Tây đang điều hành Hàng Không Mẫu Hạm Nae São Paulo, 32,800 tấn, từ 15 tháng 11 năm 2000 sau khi mua lại của Pháp.

2. Pháp Quốc: Nước Pháp đang điều hành Hàng Không Mẫu Hạm Charles de Gaulle, 42,000 tấn, vận hành bằng nguyên tử năng kể từ 18/5/2001.

3. Ấn Độ: Ấn Độ sở hữu 3 hàng không mẫu hạm:

o Hàng Không Mẫu Hạm INS Viraat, 28.700 tấn, mua lại của Anh Quốc tháng 4 năm 1986 và nhận nhiệm vụ tháng 5 năm 1987.

o Hàng Không Mẫu Hạm INS Vikramaditya, 45,000 tấn, kiểu mẫu STOBAR (Short Take Off But Arrested Recovery), mua lại của Liên Bang Nga và đang tái tạo, dự định giao nhiệm vụ 2012.

o Hàng Không Mẫu Hạm INS Vikrant, 40,000 tấn, đang kiến tạo theo kiểu mẫu STOBAR, dự định giao nhiệm vụ năm 2014.


4. Ý Đại Lợi: Ý Đại Lợi đang điều hành 2 mẫu hạm:

o Hàng Không Mẫu Hạm Giuseppe Garibaldi, 14,400 tấn, kiểu mẫu STOVL (Short Take Off and Vertical Landing), nhận nhiệm vụ tháng 9 năm 1995.

o Hàng Không Mẫu Hạm Conte di Cavour, 27.000 tấn, kiểu mẫu STVOL, nhận nhiệm vụ năm 2008.

5. Nga: Nga đang điều hành một hàng không mẫu hạm danh hiệu Admiral Flota Sovetskovo Soyuza Kuznetsov, 67.500 tấn, kiểu mẫu STOBAR, hạ thủy năm 1985 tại Tbilisi, nhận nhiệm vụ năm 1991, hoạt động hoàn chỉnh năm 1995.

6. Tây Ban Nha: Tây Ban Nha sở hữu 2 mẫu hạm:

o Hàng Không Mẫu Hạm Principe de Asturias, 17.200 tấn, kiểu STOVL, nhận nhiệm vụ 30 tháng 5 năm 1988.

o Hàng Không Mẫu Hạm Juan Carlos, 27.079 tấn, đang kiến tạo theo kiểu mẫu STOVL, dự định giao nhiệm vụ năm 2011.

7. Anh Quốc: Anh sở hữu 4 hàng không mẫu hạm:
o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Illustrious, 21.000 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 20 tháng 6 năm 1982.

o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Ark Royal, 21.000 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 1 tháng 11 năm 1985.

o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Queen Elisabeth, 65.000 tấn, đang kiến tạo và dự định giao nhiệm vụ năm 2014.

o Hàng Không Mẫu Hạm HMS Prince of Wales, 65.000 tấn, đang kiến tạo và dự định giao nhiệm vụ năm 2016.

8. Thái Lan: Thái Lan đang sở hữu mẫu hạm HTMS Chakri Naruebet, 11.400 tấn, kiểu mẫu STOVL, nhận nhiệm vụ 10 tháng 8 năm 1997 nhưng hiện nay ngưng hoạt động vì thiếu hụt ngân khoản.

VI - Tiềm Thủy Đỉnh

Tiềm thủy đỉnh của Hải Quân Hoa Kỳ dùng vào chiến tranh tất cả đều vận hành bằng năng lượng nguyên tử và chia làm hai nhóm: Nhóm tiềm thủy đỉnh mang hỏa tiễn đạn đạo và nhóm tiềm thủy đỉnh tấn công.

1/ Tiềm thủy đỉnh trang bị hỏa tiễn đạn đạo đầu đạn nguyên tử thi hành một nhiệm vụ chiến lược duy nhất là đánh vào những mục tiêu chiến lược của đối phương: Các đô thị, các căn cứ hỏa tiễn.

Hải Quân Mỹ đang điều hành 18 tiềm thủy đỉnh loại nầy gọi là Ohio class submarines với những đặc tính như sau: Chiều dài 560 ft hoặc 170 m, chiều ngang 42 ft hoặc 13 m, hoạt động vô giới hạn ngoại trừ khi cần tiếp tế lương thực, trang bị 24 hỏa tiễn Trident II D5 SLBM (Submarine Launched Ballistic Missile).

Hỏa tiễn Trident D5 có tầm bắn tối đa 7.456 dặm hoặc 12.000 km, tương đương với tầm bắn của loại hỏa tiễn tàng trữ trong các hầm trên lục địa, mang theo từ 8 đến 12 đầu đạn (MIRV: Multiple, Independently, Targeted, Re-entry, Vehicle). Khi hỏa tiễn tiến đến gần vị trí, các đầu đạn của hỏa tiễn tách ra thành 8 hoặc 12 trái bom nguyên tử và được hệ thống điện toán điều khiển đến các mục tiêu khác nhau một cách chính xác. Theo ước tính của các chuyên viên, mỗi đầu đạn W88 có sức nổ 475 kT, so với quả bom ném xuống Hiroshima 12 kT đã giết hại 150.000 sinh mạng, thì một Tiềm thủy đỉnh chiến lược khai hỏa đủ 24 hỏa tiễn Trident tạo ra một sự kiện khủng khiếp: Hủy diệt hoàn toàn một quốc gia trên địa cầu! (Thỏa Ước START I, Strategic Arms Reduction Treaty giới hạn MIRV 8 đầu đạn).

Tiềm thủy đỉnh chiến lược là xương sống của lực lượng nguyên tử Hoa Kỳ, là một trong ba mũi tấn công bằng vũ khí nguyên tử (nuclear triad) bao gồm oanh tạc cơ chiến lược có căn cứ trên mẫu hạm hoặc trên mặt đất và hỏa tiễn liên lục địa bố trí tại nhiều nơi xung yếu. Tiềm thủy đỉnh mang hỏa tiễn Trident có nhiều ưu điểm vượt trội vì có thể khai pháo vào các mục tiêu thù địch ngay từ lãnh hải của nước Mỹ hoặc tại một nơi bí ẩn thuộc hải phận quốc tế hoặc ngay cả trong vùng biển của địch và chỉ cần khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút để đi đến đích, so với 30 phút nếu xử dụng hỏa tiễn liên lục địa từ các hầm chứa (silo).

Hiện nay, Hoa Kỳ, Nga, Trung Cộng là ba siêu cường có đủ ba mũi tấn công nguyên tử, các cường quốc quân sự khác như là Ấn Độ, Pháp, Anh, Do Thái, Pakistan có vũ khí nguyên tử nhưng thiếu một hoặc hai loại phương tiện chuyên chở nói trên.

Cũng có những dự kiến về những loại vũ khí đặt trên quỹ đạo (orbital weapons) hay trên phi thuyền (spacecraft), tuy nhiên điều nầy bị nghiêm cấm theo Thỏa Ước Ngoại Tầng Không Gian (Outer Space Treaty) và Thỏa Ước SALT II.

2/ Tiềm thủy đỉnh tấn công có nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt tiềm thủy đỉnh địch, chiến hạm địch, bắn hỏa tiễn Tomahawk, đổ bộ lực lượng đặc biệt, thu thập tin tức, giám sát, trinh sát, yểm trợ hàng không mẫu hạm, chống mìn.

Hải Quân Hoa Kỳ hiện đang điều hành 56 tiềm thủy đỉnh tấn công, gồm có:

* 49 tiềm thủy đỉnh loại Los Angeles với những đặc tính tổng quát: Chiều dài 360 feet (109,73 met), chiều rộng 33 feet (10,06 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk, thủy lôi loại MK48 với 4 ống phóng.

* 3 tiềm thủy đỉnh loại Seawolf với những đặc tính tổng quát: Chiều dài 353 feet (107,6 met), chiều rộng 40 feet (12,2 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk, thủy lôi loại MK48 với 8 ống phóng.

* 4 tiềm thủy đỉnh loại Virginia và đang chế tạo thêm 6 tiềm thủy đỉnh với những đặc tính: chiều dài 377 feet (114,8 met), chiều rộng 34 feet (10.4 met), trang bị hỏa tiễn Tomahawk với 12 ống phóng thẳng đứng (Vertical Launching System), thủy lôi MK48 với 4 ống phóng.

Tomahawk là loại hỏa tiễn dùng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất với nhiều loại đầu đạn, từ đầu đạn qui ước TLAM-C với 450 kg chất nổ, bom chùm TLAM-D (bomblet-dispensing) đến đầu đạn nguyên tử TLAM –A (200 kT) hoặc TLAM-N. Hiện nay, đầu đạn nguyên tử bị cấm do Thỏa Ước SALT. Tomahawk cũng là hỏa tiễn chống chiến hạm TASM (Tomahawk Anti-Ship Missile), chiều dài căn bản: 5,56 mét, đường kính: 0,52 mét, tốc độ 880 km/h, tầm xa: 2.500 km, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) tối tân hướng dẫn hỏa tiễn đánh trúng mục tiêu sai biệt khoảng 10 mét.

Hoa Kỳ là một siêu cường kinh tế và quân sự, diện tích hàng thứ ba thế giới (9.826.630 km2) nằm trên vùng ôn đới của lục địa Bắc Mỹ Châu. Lãnh thổ Hoa Kỳ ngăn cách với cựu lục địa (Á, Âu, Phi) nơi thường xảy ra những những xáo trộn, bằng hai đại dương: Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Tuy nhiên các giới chức chính trị, quân sự, kinh tế nước Mỹ đều nhận thức rõ rệt rằng gần ba phần tư địa cầu bị nước bao phủ, các đô thị đông đúc dân cư đều sống trong vòng vài trăm dặm kể từ bờ biển và nhất là 90% thương mại thế giới đều đi qua đường biển.

 title=
Máy bay ném bom tàng hình b2 Spirit

Trải qua kinh nghiệm của hai trận thế chiến, chiến tranh lạnh, chiến tranh khủng bố và dự liệu đến sự tồn tại và phát triển mai hậu trong khung cảnh thế giới ngày càng mở rộng, Hải Quân Hoa Kỳ được quan tâm và đầu tư đúng mức là một lực lượng bảo vệ đất nước, chiến thắng các cuộc chiến tranh phù hợp với việc ngăn chận chiến tranh. Quan niệm rằng sự an ninh, sự phồn vinh của nước Mỹ được gia tăng song hành với những quốc gia khác cũng trong những lĩnh vực nầy, Hải Quân Mỹ cam kết sẽ là lực lượng bảo vệ hữu hiệu những quyền lợi sinh tử của nước Mỹ ngay cả khi liên kết với quốc gia khác để gia tăng sự thịnh vượng chung trải khắp địa cầu.

Xuyên qua chiến lược của Hải Quân Hoa Kỳ phản ảnh phần lớn chính sách chung của Hiệp Chủng Quốc, các bạn trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới, nếu bỏ bớt thì giờ để ưu tư; các bạn sẽ suy nghĩ như thế nào và quyết tâm ra sao khi đối diện với tương lai của nòi giống, lãnh thổ và Biển Đông?

Đỗ Hữu Long
Tháng 12 năm 2011

**************
Để tưởng nhớ hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974

 

 

 

 

Monday, April 3, 2017





Cuộc chiến tranh năm 1979 của cộng sản Việt Nam giữa hai nước cộng sản Trung cộng và Miên cộng

Cuộc chiến tranh năm 1979 vốn dĩ không phải là một cuộc chiến giữa hai đất nước Việt Nam và Trung Quốc, mà thực tế đó là một cuộc chiến giữa hai đảng cầm quyền Tàu Cộng và Việt Cộng.

Tính cả cuộc chiến ở mặt trận tay nam đánh nhau với Đảng Cộng Sản Campuchia thì đó điều là một con TỐT THÍ trong bàn cờ lớn giữa các "ĐỒNG CHÍ ĐÀN ANH".

Nguyên nhân chính là: Sau khi Chiến Tranh Việt Nam kết thúc, Trung Cộng muốn soán ngôi Liên Xô để trở thành lãnh đạo số một của phe XHCN...

Từ đó xảy ra xung đột giữ hai cường quốc mạnh nhất trong thế giới cộng sản... những nước "ĐÀN EM" khác bắc buộc phải chọn lựa theo Tàu hay theo Nga... Việt Cộng quyết định theo Nga, còn Campuchia Khmer Đỏ đã quyết định theo Tàu, chỉ vì bắt buộc phải chọn một trong hai đảng đản anh, chứ không phải đảng cộng sản VN chống Tàu, nhưng đảng cộng sản Việt Nam dùng việc này dối người dân là đảng chống Tàu.

Vậy là cuộc chiến giữ các đồng chí anh em môi hở răng lạnh bắt đầu… năm 1979 Trung Cộng từ biên giới phía bắc đánh xuống, đồng thời Trung Cộng cũng ra sức viện trợ cho thằng đàn em Khmer Đỏ từ biên giới tay nam đánh lên, Liên Xô đứng bên ngoài ra sức viện trợ cho Việt Cộng phải đánh cả hai mặt trận cùng một lúc...

Cuộc chiến tranh kéo dài khoảng 10 năm trời cho đến khi Đông Âu và Liên Xô từ từ suy sụp và sụp đổ, phe XHCN dần dần tan rã, Khmer Đỏ bị tiêu diệt gần hết, Trung Cộng cũng kiệt quệ sắp sụp, Việt Nam bị Liên Xô cắt viện trợ rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, đói nghèo đến cực điểm.

Trước tình trạng tồi tệ đó Trung Cộng và Việt Cộng đã phải xuống thang; Trung Cộng phải cắt đứt viện trợ cho Khmer Đỏ, Việt Cộng phải rút hết quân ra khỏi Campuchia.

Rồi sau đó thì Việt cộng tuyên bố thà mất nước chứ không mất đảng (Nguyễn Văn Linh), Việt cộng cầu viện trung cộng và nhận sự bảo hộ của Trung cộng, ký cái HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990.





border-corner-shape: scoop;border-radius: 10% / 30p; width: 400px; height:300px;

 

https://i870.photobucket.com/albums/ab261/mayman11/olive_green_abstract_stone_pattern_tileable.jpg